Trịnh Công Sơn: Nhiều năm
không hết lạ
Ca từ là một đề tài gần như
không cạn khi nói tới các bài hát của Trịnh Công Sơn. Từ thành phố Đà Lạt, nơi
gắn bó với một thời tuổi trẻ của nhạc sĩ họ Trịnh, một bạn đọc đã có những phát
hiện mới thú vị về điều tưởng như không còn mới này. Nhân 10 năm ngày mất nhạc
sĩ Trịnh Công Sơn, TT&VH Cuối tuần xin trân trọng giới thiệu bài
viết này.
Trên chặng đường phát triển
ngôn ngữ tiếng Việt, Trịnh Công Sơn như một nhà phù thủy của ngôn từ, ông khoác
vào ngôn ngữ mẹ đẻ một quầng ảo vọng, siêu thực mà theo tôi có lẽ nhiều năm sau
cũng khó có người Việt nào đạt đến trình độ điêu luyện ấy. Những sự vật tầm thường
nhưng khi được “chiếc đũa thần” của Trịnh gõ vào thì lập tức biến thành lạ thường.
“Nắng” thì ai chả thấy, nhưng chỉ có Trịnh Công Sơn mới thấy Nắng thủy
tinh. “Mưa” đương nhiên ai chả biết nhưngMưa hồng thì chỉ chàng trai họ Trịnh
mới hay! Hạ là hè. Mùa hạ tức mùa hè. Điều đó có gì lạ! Lạ chăng là bởi sau chữ
Hạ, Trịnh Công Sơn thêm chữ Trắng đầy diễm tuyệt trong ca khúc Hạ trắng.
“Mắt xanh xao” có lẽ đối với các nhà bệnh lý học thì đấy là triệu chứng của một
bệnh nào đấy, nhưng đối với Trịnh thì “mắt xanh xao” lại là điểm nhấn
cho một hình ảnh liêu trai, đài các: “Dài tay em mấy thuở mắt xanh xao” (Diễm
xưa).
Ở đây, tôi mạo muội làm cái
việc “động trời” là đụng đến Nguyễn Du - một bậc thầy về ngôn ngữ. Không có ý
so sánh, tôi chỉ muốn bàn về nghệ thuật sử dụng ngôn từ giữa hai con người tài
danh này mà thôi. Ở Nguyễn Du, tiếng Việt chỉ đẹp bởi sự chính xác, mang tính
triết lý cao, và xem ra cái “mỹ” ở đây chỉ là cái “mỹ” của hiện thực. Còn cái
“đẹp” của Trịnh Công Sơn lại là cái đẹp bảng lảng, sương khói của siêu thực, ấn
tượng, bởi vì ông có khả năng tạo nên độ bóng của ngôn từ. Sự vật nào được Trịnh
Công Sơn đụng đến cũng bớt thật đi, và được khoác lên một thứ ánh sáng mới, đủ
sức bước ra sân khấu của ngôn từ với vẻ mặt trang trọng.
Khác với Nguyễn Du tạo nên
nàng Kiều - một giai nhân toàn bích - nhưng cái đẹp toàn bích không làm Trịnh
Công Sơn rung động, giữa cái toàn bích ông chấm một nét hỏng và chính nét hỏng
đó làm say lòng người: Gió sẽ mừng vì tóc em bay/Cho mây hờn ngủ quên trên
vai/Vai em gầy guộc nhỏ/Như cánh vạc về chốn xa xôi (Như cánh vạc bay).
Cụ Nguyễn Tiên Điền có lúc
phải thốt lên một câu: “Yêu nhau lại hóa bằng mười phụ nhau”. Trịnh Công
Sơn thì sao? Chẳng sao cả! Ông bình thản trước mọi tráo trở của cuộc đời. Ông
tuyên bố: “Yêu em yêu thêm tình phụ/Yêu em lòng chợt từ bi bất ngờ”. Đây
là lời chú mở lối thiên thai, là tình yêu cứu rỗi, chung cùng, vượt qua ranh giới
thiện ác, vị kỷ của con người.
Cái đẹp và cái buồn của Trịnh
Công Sơn, có cái gì đó khác người. Như một nhà hiền triết phương Đông, ông nhận
ra cái tất yếu của cô đơn, cái hào hoa của thất bại, cái quyến rũ của triền dốc,
cái ma lực của chén đắng. Do đó bóng dáng cổ tích không hề xuất hiện trong các
ca khúc của Trịnh, tình yêu cũng siêu hình, nỗi đau cũng siêu hình, tức là ít
nhiều và tình yêu trở thành ý niệm.
Hình như máu lửa quê hương
và sự ám ảnh về cái chết đã làm cuộc hôn phối cho một thế giới vừa hư vừa thực
trong các ca khúc của Trịnh Công Sơn. Ông nhìn thấy cái “tan” ngay khi cái “hợp”
đang thành tựu, cái biến dịch ngay trong cái khởi nguyên. “Ngày nào vừa đến
đã xa muôn trùng”(Rồi như đá ngây ngô), “Từ lúc đưa em về là biết xa nghìn
trùng” (Như cánh vạc bay) hay “Có chút lệ nhòa trong phút hôn nhau” (Bay
đi lặng thầm), “Trong Xuân thì thấy bóng trăm năm” (Gần như niềm tuyệt
vọng), “Đã có nghìn trùng trên môi người tình/Đã dấu nụ tàn bên trong nụ hồng/Có
chớm lạnh lùng trên môi nồng nàn/Có thoáng gập ghềnh trên con đường mòn” (Như
một vết thương)... Dưới con mắt ông, thần chết không đáng sợ như ta tưởng, mà
thần chết cũng có cái gì đó rất duyên (!). Ông từng tâm sự: “Cuối cùng
không có gì khác hơn là sống và chết. Sống làm thế nào cho tràn đầy sự có mặt
và chết cho tràn ngập cõi hư không. Phải đi đến tận cùng của hai cõi sống chết
để làm tan biến những giấc mộng đời không thực”. Bởi mọi sự vật đều thường biến,
biến thiên theo những chu kỳ nhất định, không có cái gì trường cửu, kể cả tình
yêu. Vì vậy nghe ông, chúng ta thường bắt gặp một cái nhìn đầy ưu tư về thân phận.
Có lẽ Trịnh Công Sơn là “ma”
trong chốn riêng của mình. Chưa bao giờ ngôn ngữ mẹ đẻ lại có một bộ mặt liêu
trai, lạ lẫm đến như vậy: “Chợt hồn xanh buốt cho mình xót xa” (Diễm
xưa), “Vòng tay quen hơi băng giá” (Nghe những tàn phai), “Tay
rong rêu muộn màng” (Ru ta ngậm ngùi), “Ngủ đi em tay xanh ngà ngọc” (Em
hãy ngủ đi), “Bàn tay xanh xao đón ưu phiền” (Nắng thủy tinh)...
Hãy trở lại với cụ Nguyễn
Du, và xem cụ Nguyễn tả cảnh. Tôi xin trích ra đây hai câu thơ trong Kiều: “Cỏ
non xanh rợn chân trời/Cành lê trắng điểm một vài bông hoa” - một vẻ đẹp
toàn bích của hội họa tả thực. Còn Trịnh Công Sơn: “Ôi áo xưa lồng lồng đã
xô dạt trời chiều” (Tình nhớ), “Nghe tháng ngày chết trong thu vàng” (Nhìn
những mùa Thu đi) thì lại là đỉnh cao của ấn tượng, siêu thực.
Nhóm tâm trạng của Nguyễn
Du: “Từ nay góc bể chân trời/Nắng mưa thui thủi quê người một thân”. Trọng
âm nằm ở chữ “một” âm trắc, chữ “thân” âm bằng theo sau tạo thành âm hưởng buồn
như một cái kết tối đen của sự cô quạnh. Câu thơ đạt đến sự chuẩn mực của nền
văn học cổ điển. Cũng là một thân, cũng là sự cô đơn vô tận của kiếp người
trong cõi trần ai nhưng Trịnh Công Sơn lại dùng chữ “với” cực hay. “Đời như vô
tận/Một mình tôi về/Một mình tôi về, với tôi” (Lặng lẽ nơi này).
Dưới đôi cánh thi ca thiên
tài của mình, Trịnh Công Sơn một lần nữa đưa ngôn ngữ mẹ đẻ vỗ cánh bay lên.
Ông khái quát hóa sự vật thành biểu tượng, khi chúng ta nghĩ ngợi đến cùng đích
cộng với sự thăng hoa tình cảm thì lại gặp ông. Ngôn ngữ của ông có sức len lỏi
vào tận cùng người nghe, đánh thức trong họ sự bừng tỉnh, cộng hưởng và run rẩy
không thôi. Và ở một góc độ nào đó, Trịnh Công Sơn không chỉ dừng lại ở nhà phù
thủy của ngôn từ mà còn là nhà sáng tạo ngôn ngữ.
Trịnh Chu
Theo http://thethaovanhoa.vn/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét