Mới đó mà đã 20 năm ngày chúng ta chia tay cây đại thụ của nền nhạc
Việt: nhạc sỹ Văn Cao. Trong dòng cảm xúc đó, DongNhacXua.com xin giới thiệu một bài
viết của nhà báo - nhạc sỹ Thụy Kha.
VĂN CAO – 20 NĂM KHÔNG XA
(Nguồn: bài viết của nhà báo - nhạc sỹ Thụy Kha đăng trên báo Người Lao Động ngày 09.07.2015)
(Nguồn: bài viết của nhà báo - nhạc sỹ Thụy Kha đăng trên báo Người Lao Động ngày 09.07.2015)
Kể từ ngày ông vĩnh viễn ra đi, mỗi khi nghe Quốc ca là cảm thấy
ông vẫn ở đâu đây trong đời sống thường nhật của chúng ta
Đến bây giờ, tôi vẫn có cảm giác Văn Cao chưa hề xa. Ông vẫn ở
đâu đây trong đời sống thường nhật của chúng ta. Đấy là mỗi sớm đầu tuần, nghe
hát Quốc ca ở một nhiệm sở nào đó, dù ở Lạng Sơn hay ở Mũi Cà Mau. Đấy là những
trận đấu bóng đá, trước giờ khai cuộc, Quốc ca Việt Nam lại vang lên. Đấy là
khi các vận động viên Việt Nam đoạt huy chương vàng, ngay trong kỳ SEA Games mới
đây. Cảm thấy bài Quốc ca Việt Nam căng đầy trong cơ thể “kình ngư” Ánh Viên
khi cô khoác Quốc kỳ Việt Nam đứng trên bục cao nhất. Và quốc thiều Tổ quốc
ngân nga…
Nhớ mãi nụ cười nhẹ nhõm
Vẫn như còn nguyên cái ngày cuối cùng khi tôi đưa nhạc sĩ
Nguyễn Thiện Đạo đến thăm ông ở Bệnh viện Hữu Nghị – Hà Nội. Ông ngồi đấy, tóc
trắng, râu trắng, tường trắng, nụ cười trắng và hoa sen trắng chưa nở. Ông thầm
thì bên tai: “Đang còn một thằng “Giôn đen” nhưng nóng quá. Tuần sau sang mùa
mưa. Sẽ uống…”. Nhưng không bao giờ còn cái ngày đầu tuần mới, uống chai mới nữa.
Ngày thứ hai đầu tuần 10-7-1995 đã trở thành ngày ghi khắc mãi vào từng con tim
người Việt Nam. Ngày Văn Cao chuyển cõi.
Ngày cuối cùng của tác giả bên Văn Cao (3-7-1995)
Ảnh: Nguyễn
Đình Toán
Trước đó 10 năm, một ngày cuối đông buốt giá năm 1985, tôi
cùng Văn Cao thắp hương trước linh cữu Xuân Diệu, cũng đúng ở nơi ấy. Mười năm
sau, cũng nơi ấy, căn gác hai 51 Trần Hưng Đạo (Hà Nội), nơi một thời cố vấn
Vĩnh Thụy trải qua những ngày tháng độc lập đầu tiên của đất nước và nghe Quốc
ca Việt Nam vang lên, cũng là nơi đưa tiễn tác giả bản Quốc ca hùng thiêng này
về cõi xa xăm.
Từ trái sang phải: Bà Văn Cao – Nhà phê bình Ngô Thảo – Nhà
thơ Thu Bồn – Văn Cao – Nguyễn Thụy Kha – Nhạc sĩ Nghiêm Bá Hồng – trên căn gác
60 Hàng Bông Ảnh: Hà Tường
Tôi mãi mãi biết ơn giải thưởng thơ Báo Văn Nghệ năm 1982. Nhờ
nó, nhờ bài thơ “Những giọt mưa đồng hành” đoạt giải B, Văn Cao đã ngỏ ý thông
qua Đặng Đình Hưng muốn gặp tôi. Đấy là một hạnh ngộ mà cả đời tôi chẳng bao giờ
trả hết. Ra Hà Nội làm nghề văn học và âm nhạc từ năm 1978, tôi đâu dám bén mảng
tới chiếu rượu của ông. Tôi chỉ là một thằng bé con đang chập chững vào nghề.
Nhờ gặp ông, được ông nhận làm học trò, cho làm bạn vong niên cùng uống rượu. Hạnh
ngộ ấy đã cho tôi có cái tên hôm nay.
Từ sau lần đầu được ngồi uống rượu với ông và Đặng Đình Hưng,
tôi và ông hình như không lúc nào rời nhau. Cho cả đến bây giờ. Dù đã 20 năm
xa. Còn nhớ mãi nụ cười nhẹ nhõm của ông khi trở lại vị trí ủy viên chấp hành Hội
Nhạc sĩ Việt Nam mùa thu 1983. Đấy là một mùa thu thăng hoa, báo hiệu một điều
gì sẽ đổi thay của đất nước. Nhớ nhất là cái đêm ông cùng Trịnh Công Sơn, Trần
Long Ẩn, Thu Bồn uống rượu ở căn gác 60 Hàng Bông nhà tôi và sau đó là cuộc tổ
chức long trọng 60 năm ngày sinh của ông tại Hội Nhạc sĩ Việt Nam do Tổng Thư
ký Huy Du chủ trì. Huy Du nói với tôi: “Nhờ ông anh viết “Thiên Thai” mà mình mê
nên mới có sáng tác đầu tay “Sóng nước Ngọc Tuyền”. Ơ kìa! Mênh mông chèo khua
nước Ngọc Tuyền mà”. Hôm đó, cả Trịnh Công Sơn và Trần Long Ẩn đều hát say sưa
những sáng tác của các anh mừng thọ Văn Cao.
Từ đấy, ông và tôi cùng bạn bè có những tháng ngày lãng du
tuyệt vời. Cuối năm 1983, về Nhà máy Toa xe Hải Phòng. Chuyến ấy, ông viết
“Hành khúc công nhân toa xe”: “Một vùng trời vang sóng vỗ biển Đông/ một vùng
trời luôn thắp sáng ngàn sao/ vùng rộn ràng trong tiếng búa nhà máy/ dù giặc
thù bom đánh phá đêm ngày…”. Mùa thu 1984, trở lại trung du vùng núi Thắm. Lần
đó, ông viết “Tình ca trung du” – ca khúc cuối cùng của nghiệp âm nhạc: “Một
cánh tay sông Hồng/ một cánh tay sông Lô/ hai cánh tay như ôm trung du …”.
Một bản lĩnh thơ
Cuối xuân 1985, vào Quy Nhơn. Đấy là dịp ông viết bài thơ về
Quy Nhơn 3: “Từ trời xanh – rơi – vài giọt tháp Chàm…”. Cũng đợt ấy, Văn Cao đã
đi đến nơi xa nhất trong cuộc đời mình – TP Cần Thơ. Sau chuyến đi, lần đầu
tiên, thơ Văn Cao được in trở lại trên Báo Văn Nghệ. Đó là chùm ba bài thơ “Quy
Nhơn” sau 29 năm không in thơ ông trên tuần báo này, mà chỉ xuất hiện với những
hình minh họa ký chữ Văn. Giữa những chuyến đi cùng tôi ngày đó, Văn Cao có
chuyến đi riêng vào Huế và Đà Nẵng với lời mời của nhà văn Phan Tứ, khi ấy là
Chủ tịch Hội Văn nghệ Quảng Nam – Đà Nẵng. Cũng là một lần trở lại để có “Về Huế
xưa”, “Đêm phá Tam Giang”… những bài thơ cực ngắn, cực hay: “Lưới là cái cuối
cùng/ Hất tôi xuống biển”.
Năm 1986, hình như linh cảm điều đổi thay đất nước đã tới gần,
Văn Cao cùng tôi lần mò những bài thơ của ông làm trong các cuốn sổ tay đã hoen
màu thời gian từ năm 1956 đến lúc đó để tập hợp thành một tập thơ. Ông đặt tên
là “Lá”. Năm ấy, hầu như ngày nào tôi cũng ngồi làm biên tập cùng ông. Và tất
nhiên là cùng uống rượu. Tập thơ hòm hòm thì cũng là thời điểm Đại hội Đảng phất
cao ngọn cờ đổi mới. Ông yêu cầu tôi viết lời giới thiệu. Và bài “Văn Cao một bản
lĩnh thơ” đã được tôi hoàn thành để giao bản thảo cho Nhà Xuất bản Tác Phẩm Mới.
Năm 1988, cùng với việc diễn ra “Đêm nhạc Văn Cao”, từ đầu năm là tập thơ “Lá”
được ấn hành tuy không in lời giới thiệu của tôi. Nhưng bù lại, Nhà Xuất bản Trẻ
lại ấn hành tập thơ – nhạc – họa của ông mang tên “Thiên Thai”.
Đấy là những năm tháng thăng hoa trong sự phục sinh của Văn
Cao. Ông lại tiếp tục có những chuyến giao lưu ở TP HCM, ở các tỉnh miền Nam.
Buồn nhất là chuyến lên Tây Nguyên theo ước nguyện của ông nhưng không thành.
Tiền vé máy bay của anh em Tây Nguyên mời biến thành cái tủ mới ở nhà ông.
Tháng 3-1995, chuẩn bị Đại hội Hội Nhà văn Việt Nam, tôi phát
hiện ban chấp hành cũ mang Trại sáng tác Quảng Bá ra liên doanh với nước ngoài
xây khách sạn. Tôi đem chuyện buồn này kể với ông. Ông trầm giọng nói: “Sao lại
bậy bạ thế. Phải lên tiếng nhé. Đừng sợ. Sẽ có những người ủng hộ chân lý”. Nghe
lời ông, tôi đăng đàn giành lại mảnh đất thiêng liêng này và được đại hội ủng hộ.
Sau đại hội, tôi đến báo cáo kết quả. Ông cười mãn nguyện: “Đã đến lúc không phải
sợ gì nữa”. Bữa đó, ông “lì xì” tôi một chai Macallan.
Khi ấy, ông đã yếu nhiều. Chứng ung thư phổi bắt đầu có triệu
chứng tăng trưởng. Nhưng ông vẫn uống rượu và hút thuốc lào như thường. Chẳng
hiểu sao, sau đại hội Hội Nhạc sĩ Việt Nam, ông cho bà Bằng (vợ Văn Cao) đến gặp
Tổng Thư ký Trọng Bằng. Ông đã sớm dọn dẹp cho mình một cách đi bằng những lời
di nguyện. Ông đề nghị khi mất, Hội Nhạc sĩ Việt Nam chủ trì tang lễ. Còn điếu
văn thì tôi viết, anh Trọng Bằng đọc.
Văn Cao là người trung chính nên dù bị ung thư nhưng ra đi nhẹ
nhàng như một trích tiên. Mới thế mà đã 20 năm…
Hà Nội, ngày 9-7-2015.
Nguyễn Thụy Kha
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét