Truyện ngắn Nam Cao 1
Cái chết của con Mực
Người ta định giết Mực đã lâu rồi. Mực là con già hơn trong
hai con chó của nhà. Nhưng cũng là con nhiều nết xấu. Nó tục ăn: đó là thường.
Nó nhiều vắt: cái ấy đủ khổ cho nó. Nó cắn càn ấy là cái khổ của bọn ăn mày.
Nhưng nó lại sủa như một con gà gáy: cái này thì không thể nào tha thứ được.
Thoạt tiên người ta định ngày chết cho nó vào dịp Thanh Minh. May cho nó hôm ấy
bà chủ nhà bị ốm.
Rồi thì là Tết tháng năm. Bỗng nhiên đứa con út của bà ươn
mình: bà phải kiêng để lấy sữa lành cho con bú. Sau cùng người ta nhất định thịt
nó vào rằm tháng bảy ai ốm mặc. Nhưng lần nầy Mực vẫn còn thoát nạn là vì nhờ
có Du. Người con cả xa xôi ấy vừa viết thư báo chẳng bao lâu sẽ về. Bà mẹ mừng
như tìm được một vật quý bị rơi và bà nhất định lùi ngày xử con Mực lại.
Bây giờ thì Du về rồi. Chiều hôm qua con người phóng đãng ấy
đã khệ nệ xách cái vali rất nặng bước vào sân, miệng mỉm cười và mặt đỏ. Cái
nhà tranh, mấy cây cau hình như vừa đúng thẳng hơn lên để chào chàng. Rồi đến
lũ em ầm ỹ đẩy mành chạy òa ra, và bà mẹ mừng quá cười và khóc. Nhưng kẻ lên tiếng
trước nhất là con Mực. Con chó già nua ấy rít lên cái thứ tiếng gà gáy của nó
và chạy lại Du. Bà mẹ thét lên và lũ em chửi những câu thô tục. Du bỡ ngỡ nhìn
mọi người.
- Hình như mẹ không được khoẻ, ồ các em đã lớn cả rồi: Thanh,
Tú, đứa nào đây? À, Thảo con chuột nhắt, trông Thảo xinh quá nhỉ? À! Con Mực, vẫn
con chó ngày ấy đấy à?... Trông nó già đi tệ!... Con chó đã nhận ra người chủ
cũ. Nó đứng lặng vẫy đuôi, đầu cúi xuống, hai mắt nhèm ương ướt nhìn đất như tủi
phận. Du thương hại: đó là người bạn lặng lẽ thui thủi bên chàng những năm xưa
khi đêm vắng, chàng ngồi nhìn trăng mà oơ mộng. Chàng muốn cúi xuống vuốt ve.
Nhưng nó bẩn ghê gớm quá, lông rụng từng mảng, thịt trắng lộ ra có nơi sần mụn
nữa. Dáng điệu thì già nua, có vẻ buồn và len lén như phòng bị một cách yếu ớt.
Không còn những cái vẫy đuôi mạnh dạn những cái nhìn rất bạn bè và những cái
hít chân vồ vập như khi một con chó đã vui và không ngờ vực. Du thấy lòng nằng
nặng. Chàng đưa chân chạm khẽ vào con chó để tỏ tình thương. Con chó vẫy đuôi mạnh
hơn nhưng len lén lánh ra: dáng điệu một kẻ sợ hãi cố cười với người nó sợ. Và
tức khắc nó vặn vẹo mình và rít lên một tiếng ngắn và to; đứa em tưởng anh đá hụt
trả thù cho anh bằng một cái đá mạnh vào sườn con vật. Nó lấm lét lảng dần cũng
không dám chạy một cách thẳng thắn để đi trốn nữa. Du trách em:
- Sao Tú ác thế?
- Cần gì, đến mai giết thịt cho anh ăn đấy.
Du thấy cái vui đoàn tụ giảm hẳn đi một nửa. Hình ảnh con chó
ghẻ với cái buồn mơ hồ cứ lảng vảng trong óc chàng mãi mãi. Sáng hôm sau lúc ăn
cơm chàng thoáng thấy nó đi qua, đầu cúi mắt nhìn nghiêng như những người giả
trá. Chàng muốn gọi nó vào kẹp nó vào giữa hai bàn chân và vừa ăn vừa vẩy cho
nó miếng cơm chung một bát. Nhưng mà không thể được: dịu dàng quá là yếu tâm hồn,
và ai hiểu được rằng mình lại có thể yêu thương một con chó bẩn ghê gớm như thế
được?
Bữa ăn xong, con Hoa cầm bát cơm ra: một tay nó xách cái
thúng như để rồi xếp bát. Thấy được ăn, tất cả thú tính của con Mực hoàn toàn nổi
dậy. Nó nhảy tới vẫy đuôi hếch mõm nhìn và đợi. Cơm vừa đổ xuống nó vội vàng
chúi mõm ăn ngay. Miếng chưa qua cổ thì cái thúng đã chụp quanh trên mình. Nó
rít lên, vùng mạnh; nhưng Hoa đã tì cả người lên cái thúng rồi, và con Mực bị
thu gọn ở trong vừa vặn đến nỗi không còn giẫy và kêu được. Lũ trẻ con réo ầm
lên. Người ta lấy sẵn dao thớt và dây để trói. Phần mở thúng đã đành phải về
Du: ông chủ đi vắng, cả nhà chỉ có chàng là đàn ông, mà không lẽ đi mượn hàng
xóm trói giùm một con chó đã úp gọn gàng chỉ việc hơi hé cạp thúng lên, hễ chó
thò đầu ra thì một đứa em đặt gậy lên cổ nó để chân chàng dận xuống. Nhưng tay
chàng thấy run run. Và khi con chó vừa thò đầu ra thì nó quẫy luôn một cái mạnh,
vùng ra được. Con Hoa tủm tỉm cười. Lũ em ngơ ngác nhìn theo con chó vừa ẳng ẳng
vừa chạy ở ngoài vườn. Còn Du thì mặt đỏ như gấc chín. Chàng thấy mình yếu tay
hơn cả con Hoa. Có lẽ nào chàng lại dịu lòng hơn cả một người con gái. Và tự
nhiên chàng giận con Mực. Người ta còn lo con Mực sợ hãi mà đi mất. Quả nhiên
suốt ngày hôm ấy nó không về. Nó vẩn vơ vườn hàng xóm, lẩn lút như một con chó
trước khi hóa dại.
Người ta tưởng đã mất toi. Nhưng tối hôm ấy nó lần vào gầm
giường rồi Du lại nghe thấy cái thứ tiếng gà gáy của nó rít lên ở phía ngõ.
Sáng hôm sau nó vẫn bỏ cơm. Trưa cũng thế. Và cứ thấy bóng
người lại cúp đuôi chạy mất. Du thương hại sai người đem cơm đổ ra vườn. Một
lúc sau Mực lại gần. Nó trông trước trông sau, đưa mõm rê trên những hạt cơm rồi
vô cớ giật mình chạy thẳng. Có lẽ cái kỷ niệm khủng khiếp vừa lóe ra và đập mạnh
vào thần kinh nó như luồng điện. Du thấy bồn chồn và vẩn vơ: thương, hối hận
hay là thẹn.
Sau cùng thì chàng bực mình: chàng nhận ra rằng một con chó
đã làm mất sự bình tĩnh của tâm hồn chàng. Và đột nhiên chàng muốn giết con Mực
lắm. Chàng muốn có đủ can đảm để giết người. Phải dám giết mà không run tay khi
cần phải giết. Còn làm được trò gì nữa nếu chỉ giết một con chó mà tim cũng đập?
Sự do dự đã hết rồi. Khi có một ý định thì ý định ấy chóng
thành mạnh mẽ. Du thấy lòng cứng cỏi. Ðã có lúc chàng tưởng đến cái thú dí con
dao vào súc thịt giẫy lên đành đạch để máu ấm phọt vào tay. Và chiều hôm ấy khi
thấy con chó ở vườn thì chàng gần như mừng rỡ. Con vật khốn nạn đói và sợ đã mệt
lử đi rồi. Nó hiện ngủ bên bờ giậu. Du cầm cái gậy to rón rén lại gần. Nhưng
giơ gậy lên chàng bỗng thấy tim run một cái. Chàng tưởng như ngạt thở và ngừng
lại một giây để nhìn con chó. Giấc ngủ của nó có lẽ đầy ác mộng vì thỉnh thoảng
khắp mình nó lại giật lên. Du thấy lòng quả quyết tiêu tán hết. Nhưng con chó bỗng
giật mình. Du hoảng hốt thẳng cánh vụt mạnh trên mình nó, bụng nó thót hẳn vào
rồi lại phình ra như một khối cao su. Nó rống lên gượng dậy loạng choạng mấy
vòng rồi chui bừa qua giậu trong khi Du vụt cuống cuồng theo xuống đất... Ðêm
đã khuya. Du lại nghe tiếng Mực rống lên. Chàng thấy toát mồ hôi và nhất định
không giết con chó nữa.
Nhưng trời gần sáng chàng còn đương mơ mộng, thì đã nghe tiếng
Hoa gọi cuống cuồng lên. Con vật khốn nạn không biết mỏi mệt thế nào mà ngủ
quên đi ngay ở giữa sân để đến nỗi bị Hoa úp được. Lần này thì người ta cẩn thận
hơn. Hai ba người nắm vào hai đầu gậy tre ngáng sẵn bên cạnh thúng rồi Hoa mới
hơi hé miệng thúng lên. Thấy sáng con Mực nhô ra ngoài cái mõm ướt phì phì. Hoa
nhích lên tí nữa nhưng một cái gối đã tì sẵn trên thúng. Mực lách cả cái đầu
ra. Cái gậy đè mạnh xuống. Con vật khốn nạn không còn kịp kêu.
- Ðè chặt, thật chặt, đừng buông nó ra nó cắn đấy!
Du kêu lên như thế nhưng tiếng chàng đã hơi run run. Con chó
phì một cái nữa: hơi thở mới thoát ra một nửa bị tắc. Cái gậy đè sát đất, mắt
nó trợn lên. Lòng đen ươn ướt cứ đờ dần rồi ngược lên lần một nửa vào mí trên.
Lòng trắng đã hơi đục. Lúc Hoa trói xong cả chân trước, chân sau và buộc mõm rồi
thì con chó đã mềm ra không còn cựa quậy nữa.
Du nghẹn ngào nén khóc...
Cái mặt không chơi được
Sáng hôm nay đang ngồi viết với nhau, chẳng biết cái ý nghĩ
lan man nào dã xui anh Sen đột ngột bảo tôi:
- Này! Tri ạ, cái mặt anh trông thế nào ấy. Quả thực không
chơi được!
Tôi ngửng đầu lên. Anh đang cười mủm nhìn tôi. Tôi cười gượng.
Và tự nhiên tôi buồn. Tôi nhớ đến cái lần đầu tiên tôi được gặp anh Đa. Sen giới
thiệu chúng tôi, chúng tôi bắt tay nhau. Câu chuyện rất chóng trở nên thân mật.
Bởi anh Đa và tôi là người đồng quận. Nhất là tôi đã được xem những bức vẽ của
anh ngay từ hồi tôi chưa ra khỏi trường.
Tôi mến anh ngay. Anh nói chuyện rất có duyên. Cũng như tất cả
những người đã chịu nhiều đau khổ quá, anh có tài làm cho người nghe chuyện anh
phải cười. Cười không nhịn được. Nhưng cười rồi mà ngao ngán lòng. Chẳng biết
những người khác được nghe chuyện anh Đa có thế không! Tôi thì tôi đã thấy buồn.
Tôi cứ nghĩ đến ba cái buồn của đời anh, cái buồn thứ nhất, làm thế nào mà nói
được ra đây? Mà có nói sợ người ta cũng chỉ cười anh Đa, hoặc cười tôi là thích
làm bộ điệu. Cái buồn thứ hai dễ nói hơn bởi người ta hiểu được hơn: ấy là cái
buồn cảnh nhà nghèo. Cái buồn thứ ba khi nhàm tai, ấy là một cái buồn mà người
ta phải nghe nói đến đã nhiều quá mất rồi: cái buồn nhân tình đi lấy chồng. Cái
buồn nhân tình đi lấy chồng! Tôi đã cười và có lẽ bây giờ tôi cũng còn cười, nếu
anh Đa, nếu anh Đa chỉ là một cậu học trò mới lớn lên. Đằng này anh đã ngoài
tam tuần. Mà không vợ không con. Chao ôi! Có thể rằng cái buồn kia âm ỷ ở trong
lòng anh những từ ngày anh chưa hai mươi tuổi. Một cái buồn dằng dặc. Và tôi thấy
tôi thương lắm: thương anh, thương tôi, thương cho đời hai ta. Tôi lại càng mến
anh thêm nữa. Mến như một tâm hồn khao khát gặp một tâm hồn khao khát. Nhưng có
bao giờ anh hiểu thế hỡi anh Đa mà đời có những ba mối buồn!...
Anh không hiểu thật. Cách đây ít lâu, một hôm đi chơi phố anh
Sen bảo tôi:
- Tôi vừa gặp anh Đa. Tôi rủ anh Đa đến chơi với anh. Nhưng
Đa từ chối. Anh ấy bảo tôi: anh ấy sợ Tri lắm. Trông cái mặt Tri... không chơi
được. Đa hỏi tôi mãi: Tri làm sao thế? Hay là Tri không thích đùa? Mặt hắn có một
cái gì khó tả!
Khó tả? Đó là một cách nói. Tôi thì tôi hiểu rồi. Tôi hiểu
anh muốn bảo: cái mặt tôi lạnh như nước đá và ngượng nghịu và vô duyên, và lố bịch
và đủ hết. Tôi cười gượng và tôi buồn... Chao ôi là buồn!
Hỡi Thượng đế mà người ta đồn là rất công bình và chỉ làm
toàn những điều nhân, sao Ngươi lại cho tôi một cái mặt tai hại cho tôi đến thế?
Một cái mặt... nó thế nào! Ai chỉ gặp tôi có một lần cũng phải có một cảm tưởng
khó chịu về tôi, mặc dù tôi gặp ai cũng cố làm mình không đến nỗi là một thằng
đáng ghét. Tôi lễ phép, tôi nhã nhặn, hay thân mật tùy từng trường hợp. Tôi lựa
ý mỗi người để chiều người. Thật công toi! Bởi rồi người ta cứ phải ghét tôi,
ghét tôi tuy không có cớ để mà ghét mới khổ cho tôi chứ. Tôi khinh khỉnh ư? Tôi
ngạo nghễ ư? Tôi lèo lá quá ư? Hay trái lại tôi khúm núm, tôi đê tiện quá. Hay
là tôi thô tục. Không, không, họ không nói thế. Họ biết tôi không có một tí gì
như thế. Nhưng, cái mặt tôi trông... làm sao ấy. Chao ôi, chao ôi thế thì tôi
còn biết làm sao bây giờ! Sinh ra cái mặt tôi là giời.
Hồi còn nhỏ tôi phải xa nhà từ khi mới bảy tám tuổi đầu. Tôi
ra tỉnh học. Tôi trọ tại một nhà bà dì. Cả một căn gác mông mênh chỉ có tôi và
Đức người con trai của dì tôi. Đức xấp xỉ tuổi tôi và học cùng một trường với
tôi. Thế mà chẳng bao giờ cùng đi học với tôi. Anh thích đi sớm hơn hoặc muộn
hơn. Và bao giờ anh cũng đi với Kình con ông đội Thảo bên hàng xóm. Dì tôi thấy
tôi cứ lủi thủi một mình, ý chừng nghĩ cũng thương. Một hôm dì gọi Đức vào mắng
Đức:
- Mày hư quá! Sao đi học không bảo em đi với? Nhà có hai anh
em cũng đứa đi trước, đứa đi sau. Từ mai còn thế rồi tao bảo! Rồi dì tôi dịu
dàng bảo tôi:
- Cháu cứ đi với nó. Nếu nó không chịu đi với cháu hay bắt nạt
cháu thì cháu cứ bảo dì. Dì trị cho nó biết.
Tôi cúi đầu. Tuy còn bé tôi đã hiểu rằng: dì tôi làm thế chẳng
ích gì. Mà lại có hại cho tôi là khác nữa. Sự yêu hay sự ghét cũng như những ý
nghĩ của người ta không thể dùng quyền mà ép buộc. Không thích đi với tôi thế
nào Đức chẳng sinh hờn oán tôi. Nghĩ thế nên khi chỉ có một mình tôi với Đức,
tôi phải bảo:
- Dì nói thế nhưng anh không muốn đi với tôi thì cứ đi một
mình. Dì chẳng biết đâu mà sợ.
Không biết nghĩ thế nào mà Đức bảo:
- Sợ thì tao không sợ. Nhưng từ mai tao cứ đi với mày cũng được.
Chúng ta gọi thằng Kình nữa. Cả ba thằng cùng đi.
Tôi rất mừng. Tôi mua kẹo về đãi Đức. Chúng tôi vừa nhai kẹo
vừa cười cười nói nói, vui như ngày tết mặc cái áo kép mới và cái quần trúc bâu
còn sột soạt chạy thi nhau trên đường để đến mừng tuổi ấy.
Sáng hôm sau chúng tôi dồn sách vở của cả hai vào một cái cặp.
Đức đi trước, tôi cắp cặp theo sau. Chúng tôi đi từ nhà trong ra. Dì tôi trông
chúng tôi mỉm cười. Mặt tôi hớn hở! Nhưng thú thật cũng có hơi ngường ngượng.
Thì cũng như một cô con gái mặc cái áo mới mình chưa quen. Chúng tôi sang nhà
bên cạnh gọi Kình. Kình còn đang ăn xôi, miệng phúm phím chạy ra. Chúng tôi mỉm
cười và gật đầu chào nhau. Kình hỏi:
- Cả Tri cũng đi đấy à?
Đức gật đầu. Kình có vẻ nghĩ ngợi một loáng. Rồi anh bảo:
- Thôi hai đứa chúng mày đi trước. Tớ ăn rồi đi sau. Tôi vội
bảo:
- Anh cứ ăn chúng tôi đứng đợi.
Anh xua tay và lắc đầu lia lịa:
- Không, không. Tớ ăn còn lâu lắm. Chúng mày cứ đi. Cứ đi đi
nhé.
Kình chạy tọt vào nhà trong. Đức bảo tôi:
- Mày đứng đợi đây một tý. Tao vào nhà xem sao.
Anh vào nhà. Hai anh nói chuyện với nhau đến hơn mười phút. Rồi
Đức chạy ra kéo tôi đi.
- Thôi kệ nó. Chúng mình đi đi.
- Anh ấy chưa ăn xong kia à?
- Xong rồi. Có một nắm xôi vừa bằng quả sung...
- Thế thì ta đợi anh ấy một lát.
- Không đợi. Nó bảo: chúng mình đi trước.
Đi được một quãng, Đức buột miệng bảo tôi:
- Nó không thích đi với mày.
Tôi sửng sốt:
- Vì sao vậy? Tôi xấu chơi đến thế?
- Không phải. Không phải.
- Hay là tôi vô ý mếch lòng anh ấy điều gì?
- Cũng không phải nốt. Nhưng nó bảo trông mày... làm sao ấy.
Nó không thích mày.
Một chục năm sau. Chỉ còn vài ba năm nữa là tôi đã hai mươi -
Đức cũng thế. Tôi thấy chúng tôi thay đổi. Tiếng nói khác đi. Mặt hơi trứng cá.
Đức thích loăng quăng đi chơi phố. Còn tôi đột nhiên sinh đãng trí và rất lắm
lúc thành vẩn vơ. Một người nữa cũng thay đổi như Đức và tôi ấy là cô Nhung.
Nhung con bà Thụy Thành, bạn của dì tôi. Nhà Nhung ở liền bên. Trước kia những
ngày nghỉ Nhung vẫn sang nhà dì tôi đánh ô hay đánh rải gianh với Đức. Tôi
không được rủ chơi bao giờ cả. Tôi chỉ lẳng lặng đứng nhìn họ chơi. Bây giờ
Nhung cũng nhớn vọt lên. Tóc bỏ rơi óng ánh như tơ và đã khá dài. Mắt long
lanh. Má ửng hồng. Tiếng nói mềm hơn cũng như quần áo đã sửa sang hơn trước.
Tuy vậy Nhung vẫn qua lại nhà dì tôi một cách tự nhiên như thường. Nhung qua lại
để nhờ Đức giảng cho một cái tính khó, hay giúp cho một vài ý để làm một bài luận
văn. Nhung nghĩ hàng buổi chưa ra câu nào. Tôi ngấm ngầm ghen với Đức. Và tôi
thầm mong cho có khi nào Nhung đem sách sang mà không gặp Đức để tôi được giúp
Nhung một lần. Nhưng không khi nào cả. Bởi Nhung có chắc chắn là có Đức ở nhà
thì mới sang.
May cho tôi, một lần Nhung sang thì Đức đang bận học bài thi.
Tôi thì học xong rồi, đang tập vẽ. Đức bảo Nhung:
- Tôi mải quá. Chú Tri ấy rỗi. Cô đưa sách chú ấy giảng cho
mà làm. Tôi thấy tim đập mau thon thót. ấy là tôi sung sướng. Tôi cố tươi cười,
ngừng bút vẽ ngửng đầu lên lóng đợi. Nhung ngập ngừng một chút. Rồi Nhung kêu
lên:
- À thôi em nghĩ ra được rồi. Em về làm đây.
Tôi toan mếu, tôi đau đớn lắm. Nhưng cũng chưa đau đớn bằng
hôm sau Đức vừa cuời hi hí vừa khoe với tôi.
- Cô ả Nhung hôm nay phải phạt. Cái tính đố hôm qua chưa làm.
Lúc bấy giờ kêu nghĩ ra rồi. Kỳ tình thì cô ả có nghĩ ra được cái năm kia. Nó
oán tôi ghê lắm nhé...
Tôi sầm mặt. Tôi còn đang tìm một cái gì để nói lảng cho đỡ
ngượng thì Đức bảo:
- Cho đáng kiếp. Ai bảo hỏi Tri không chịu hỏi. Rồi anh nhìn
tôi nói tiếp:
- Này Tri ạ. Không hiểu sao Nhung nó sợ Tri lắm nhé. Nó bảo
nó không dám hỏi Tri. Trông Tri... thế nào!
- Vâng, vâng! Tôi biết rồi!...
Năm sau tôi đỗ bằng tốt nghiệp thành chung. Nhà nghèo như nhà
tôi mà được học hành đến bậc ấy cũng là may lắm. Kể tốn kém có đến nửa cơ nghiệp
rồi. Tôi bỏ học. Tôi nghĩ đến Nhung, trái tim rơm rớm máu. Tôi nghĩ đến những
thiếu nữ khác đẹp hay xấu mà tôi đã gặp. Tôi nghĩ đến sự ơ hờ của bao người.
Lòng tôi buồn như một con chim lạc vào cái lúc chiều thẫm cho đất trời thành
mênh mông.
Nhưng ở những người trẻ tuổi nhà nghèo những cái buồn thường
phải sớm nhường chỗ cho những cái lo. Toàn là những cái lo tầm thường mà đến
làm ta bực mình. ấy là cái lo không có gạo ăn, không có tiền mua thuốc cho một
người mẹ ốm hay mua một bát canh để cúng cha, không có áo cho thằng em trai vào
vụ rét sắp tới này, hay không tìm được chỗ gả chồng cho một đứa em gái nhan sắc
kém lại không có vốn. Những cái lo nhỏ nhặt, tủn mủn hơn nữa thế nhưng vẫn là
phải lo.
Một hôm tôi xách một cái va li nhỏ và cũ kỹ đáp xe lửa một
mình vào Nam. Lần đầu tiên tôi được đi xe. Lòng tôi phấp phới bao nhiêu là hy vọng.
Tôi hy vọng kiếm được cơm ăn và kiếm được tiền. Tôi hy vọng được nhìn rộng biết
xa. Hy vọng có thể mua sách để học thêm, đọc báo chí cho thỏa thích, cọ xát cái
trí óc thô sơ của tôi với trí óc người thiên hạ. Cũng có cả cái hy vọng gặp mặt
một người đàn bà không thờ ơ với tôi. Người ta bảo vào Nam Kỳ, là đất bị ảnh hưởng
nhiều của Tây phương. Tình cảm ở đấy bồng bột, những cử chỉ bề ngoài ít khép
nép rụt rè; đàn ông đàn bà giao thiệp tự do hơn; những tâm hồn không thiếu sự nồng
nàn cũng như trời có nhiều mầu rực rỡ. Như thế thì những cuộc trao duyên phải dễ
dàng. Lo gì tôi không tìm được bạn?
Tôi sa vào một hiệu thợ may. Công việc của tôi rất linh tinh.
Tôi giữ sổ sách và viết thư từ. Tôi cắp cặp đến những nhà người Pháp, đến các
trại lính các tàu binh để nhận hàng và giới thiệu hàng. Tôi lại đạp máy hoặc
làm khuy. Tối đến tôi dạy mấy người thợ học để kiếm thêm một tháng vài chục bạc.
Hồi ấy tiền, tôi không thiếu thốn quá như trước nữa, nhưng mà tình...
Bao nhiêu lần thất bại, khiến bây giờ tôi sợ những thiếu nữ
đi đường. Những nữ sinh nhí nhảnh không còn hợp với lứa tuổi tôi và nghề nghiệp
của tôi. Và tôi rất trọng những tâm hồn trong trắng. Những cô bán hàng dành
riêng cho những kẻ mua hàng và những cậu có nhiều thì giờ để phất phơ. Gái giang
hồ thì bẩn thỉu. Tôi phải lánh xa tất cả những hạng người vừa mới kể. Tôi định
tìm những người gần gũi hơn, gần gũi tôi hơn. Tôi để ý đến những cô gái làm
khuy nút. Sau khi đã quan sát rõ tình hình xưởng thợ tôi tính với tôi như thế
này: Thợ gái có năm cô thì cô Tám đã có chồng. Còn lại bốn cô. Thợ trai có bảy
người nhưng may mắn cho tôi là đã có đến bốn người có vợ. Nếu còn những bốn người
chưa có vợ thì tôi đành là không có phần. Phúc mà lại còn thừa một cô thợ gái,
tôi sẽ cố chiếm lòng cô Tư Bình.
Giá tôi yêu tôi hơn chút nữa thì tôi phải tả Bình với một cái
dáng hình mộng thơ hơn. Nhưng tôi yêu sự thật thà. Mà muốn thật thà thì phải
nói là Bình không đẹp lắm. Bảo cô xấu cũng được. Mặt thiếu vẻ dịu dàng. Đôi mắt
xếch quá. Cái mũi lại to, còn cái miệng thì lại cứ dẩu ra đàng trước. Tai hại nữa
là cô lại có một chiếc răng bọc vàng. Đã thế người trông lại thưỡn thườn thườn.
Uốn éo chẳng ra uốn éo. Cứng nhắc chẳng ra cứng nhắc. Chính ra thì tôi muốn chữa
cái nọ bằng cái kia. Tôi an ủi tôi bằng cách bảo tôi rằng: bàn tay cô dáng thon
thon và tiếng nói của cô nghe rất ấm. Thế là được, cần gì đẹp, miễn là có
duyên. Vậy tôi nhất định cho là cô có duyên lắm lắm. Và tôi lợi dụng từng dịp để
có thể ngồi gần cô, chuyện trò cùng cô. Những lúc không bận đi đâu cũng không bận
coi hàng tôi thích làm khuy. Cô Bình dạy tôi làm. Tôi sướng run người mỗi khi
tôi có thể chạm tay tôi vào tay cô một cái. Trời đất ơi, một cái tay đàn bà. Những
buổi sáng thấy cô đến, tôi mỉm cười để chào cô. Những buổi chiều lúc cô về, tôi
cũng mỉm cười để chào cô. Những ngày cuối tháng được thay chủ phát lương tôi
hay bảo nhỏ với câu này:
- Cô Tư đấy hả? Tôi đã phải đếm sẵn để riêng cho cô trong túi
tôi đây rồi.
- Dẩy hả?
Và cô nhếch mép để hở ra cái răng bọc vàng. Tôi phải cố bảo
tôi rằng; đấy là một nụ cười. Rồi tôi mơ màng... Như thế được nửa năm, tôi sốt
ruột. Tôi thấy cần phải nói. Nhưng nói ra thế nào? Tôi ngập ngừng lâu lắm. Cứ
nhất định nói rồi lại nhất định để thủng thỉnh rồi hãy nói. Rồi lại nhất định
là phải nói. Mỗi lần tôi nhất định là một lần tim tôi nhảy chồm lên như một mụ
đàn bà ghen tuông. Nó mệt. Nó bị đau không biết chừng. Thôi thì tôi nói đi cho
nó rồi!...
Một buổi trưa tôi nghĩ thế. Tôi hồi hộp đi vào xưởng thợ. Bọn
thợ ăn cơm xong chạy sang hiệu cà-phê cả. Chỉ còn vài anh ngủ mệt, không đáng
ngại. Tôi rón rén lại gần cô Tư. Cô ngồi tựa lưng vào cái tủ đang cầm chiếc kéo
cắt móng tay. Tôi ngồi xuống trước mặt cô. Người tôi sốt rét lên. Có lúc tôi thấy
váng vất như đứng lơ lửng trên không khí. Một lúc lâu tôi mới run run gọi khẽ.
- Cô Tư à!
Cô vẫn nhìn cái kéo.
- Gì dậy anh?
Tôi không nói nữa. Tôi nhìn cô tròng trọc. Tôi có ý dùng cái
nhìn của tôi thay lời nói. Cô ngước mắt lên. Cô sửng sốt hiện ra nét mặt. Tôi
choáng váng người khi thấy cô kêu lên rằng:
- Trời ơi! Ăn Ba ngó gì mà kỳ dậy? Chà! Coi sợ góa! Rồi cô
lay Bảy Huế nằm ngủ ngay gần đấy:
Mặt tôi nóng rực. Tôi chạy trốn. Cô Tư cười rú lên... Ngay
chiều hôm ấy tôi đến nằm ở nhà một người bạn. Tôi sợ gặp cô Tư và bọn thợ nơi
tôi làm quá. Có lẽ bấy giờ họ vẫn còn bàn chuyện tôi mà cười. Tôi thẹn chết. Mười
giờ khuya hôm ấy tôi về thu xếp quần áo và xin với chủ cho tôi không làm nữa.
Sáng sớm hôm sau tôi khuân hòm ra đi.
Tôi đã tưởng suốt đời tôi chẳng gặp tình. Nhưng mà tôi đã gặp.
Và gặp một cách giản dị không ai ngờ.
Tôi về Bắc. Mẹ tôi bảo tôi nên lấy vợ. Tôi lấy vợ. Vợ tôi là
một cô gái nhà quê không đẹp, có lẽ xấu nhưng được cái cũng là đàn bà mà lại
thuộc cái hạng đặt đâu ngồi đấy. Hình như y cũng nhận thấy cái mặt tôi làm sao ấy.
Bởi mấy tháng đầu tôi thấy y buồn bã. Tôi cũng buồn. Nhưng rồi cũng quen đi.
Cái gì lâu mà lại chẳng quen? Kể cả một cái mặt không chơi được.
Một hôm tôi thấy y nhìn tôi mỉm cười. Tôi gần ngất đi. Tôi lảo
đảo. Thiếu một chút nữa tôi ngã lộn từ trên giường xuống đất. Y sợ hãi và đỡ lấy
đầu tôi.
- Ô hay! Làm sao thế, làm sao thế?
- Không, không...
- Thế sao đảo đồng đảo địa? Hay say rượu?
Tôi mỉm cười:
- Say em!
Và tôi nắm lấy bàn tay y lại. Y vội rụt bàn tay. Y đỏ mặt. Y
đập tay vào đầu tôi bảo:
- "Nợ" lắm!
Tôi muốn vừa chạy vừa kêu lên như nhà bác học:
- Tôi đã thấy! Tôi đã thấy, tôi đã thấy người tình của tôi
đây rồi.
Điếu văn
Thế là xong. Anh chết rồi đấy nhỉ? Không lẽ tôi lại vui khi
được một cái tin như thế. Nhưng thật tôi cũng không biết có nên buồn không đấy.
Có người bảo: "Sống khổ đến đâu, cũng còn hơn chết; cái tâm lý chung của
người đời như vậy".
Tuy vậy, tôi đã buồn. Buồn đến nỗi suốt một đêm không ngủ được.
Thật đấy, anh Phúc ạ. Người ta thường trách tôi vô tình cảm. Nhầm. Tôi chỉ gớm
ghét sự giả trá mà thôi. Mà bởi ghét giả trá quá, tôi lại thành ra giả trá. Có
điều tôi giả trá theo cách khác: tôi cố ý đóng cũi sắt tình cảm tôi. Thấy người
ta thương xót quá dễ dàng, tôi quá sợ lòng thương; thấy nhiều người khóc quá
tài tình, tôi bỗng xấu hổ mỗi khi chực khóc. Tôi có đến đưa ma anh cũng bằng thừa.
Đã có khối người thương tiếc anh. Đã có người vợ trẻ của anh quăn người lại như
một chiếc vỏ bào, và khóc nỉ non như một bản âm nhạc mới. có lẽ chỉ có hai đứa
con anh là chúng không làm thảm thiết quá thôi. Chúng không gào. Chúng không
lăn lộn trên đường như một con đỉa phải vôi. Chúng không chép miệng, ngoẹo đầu.
Chúng ngây ngây, giương đôi mắt ngẩn ngơ. Thỉnh thoảng, nước mắt chúng mới ứa
ra, thì chúng lại vội quệt ngang tay áo. Ấy thế mà chúng mới chính là những kẻ
thương anh nhất. Chúng biết đời anh là đời chúng. Anh chết đi, chúng chỉ còn một
cách, là đi ăn mày.
Anh Phúc ơi! Anh đã thấy chưa? Tôi không lẫn lộn vào trong bọn
người đi đưa đám ma anh, nhưng hồn tôi theo đám ma anh. Tôi giống như cô gái
ngây thơ mới bắt đầu yêu. Cô vờ không để ý, khi người yêu đi ngang qua cửa nhà
cô; nhưng lại len lén nhìn theo rất lâu khi chàng đi khỏi. Tôi cũng thế. Tôi cố
làm thinh khi người ta khóc đưa anh. Nhưng bây giờ đây, khi mọi người đã im rồi,
tôi đóng kín cửa phòng, ngồi một mình trước bàn viết của tôi, bùi ngùi đưa đám
ma anh trong tâm tưởng. Cái đám ma cũng đường trường lắm. Tôi theo dõi anh, từ
lúc chúng ta mới quen nhau cho đến tận lỗ huyệt người ta vừa vùi anh xuống. Như
vậy họa chăng mới có thể gọi là trọn nghĩa.
Tôi gần gũi anh, hồi còn nhỏ. Chúng ta sống cạnh nhau mấy năm
trời tại nhà một bà bác tôi. Anh ở thuê. Tôi nhờ vả. Chúng ta hiểu với nhau rằng:
hai chúng ta cùng khổ. Không, anh Phúc ạ! Chúng ta phải công bằng mới được. Bà
bác tôi không phải là người ác nghiệt đâu. Có điều bà khổ quá nhiều rồi. Khi
người ta phải rỏ từng giọt máu ra để kiếm đồng tiền, thì lẽ tự nhiên là người
ta phải quý tiền ngang với máu. Chồng bà mất sớm. Đã nhiều lần, bà toan bước đi
bước nữa, nhưng chỉ vì tiếc của, lại thôi. Anh thử nghĩ xem. Đối với một thiếu
phụ đương xuân, còn cái gì khổ hơn sự lẻ loi. Ấy thế mà bà cam phận lẻ loi để
khư khư giữ lấy tiền ở chính tay bà, không muốn để lọt tay ai. Bà mặc lòng bà
héo hắt đi. Bà đày đọa thân bà. Có phải bà cay nghiệt ngay từ với chính bà mà
trở đi không? Còn trách gì cái cách bà đối đãi với chúng ta! Bà keo cú và tham
việc lắm… Bà có mỗi một mống con thôi. Ai chả tưởng: quí hơn vàng. Có lẽ bà
cũng quí con. Nhưng không phải vì thế mà bà nới tay với con đâu. Mỗi bữa ăn bà
giao hẹn với con mỗi miếng đậu kho hay mỗi con tôm phải ăn hết một bát cơm.
Không đủ mặc thây. Nó cứ việc ăn cơm nhạt hoặc chan với cái thứ mắm tép mặn hơn
cá muối, mà cả nhà phải ăn quanh năm, suốt tháng. Con đẻ đứt ruột ra còn thế,
còn nói gì tới cháu và đứa ở! Chắc anh cực lắm đấy, anh Phúc nhỉ? Làm gì tôi chả
biết…
Hãy nói ngay rằng: bà bác tôi coi anh không bằng con trâu anh
thường dắt đi chăn. Con trâu là một món tiền to. Nó làm lợi rất nhiều. Nó chết,
người ta phải bỏ ngay ngót trăm đồng bạc tậu con khác về thay nó. Bởi vậy người
ta cần chăm chút nó. Còn anh, anh chỉ là một thằng hèn. Anh đi còng còng như một
ông lão tám mươi. Cái cổ anh thụt vào giữa hai cái vai rúm ró và xo. Đầu anh
ngoẹo về một bên để cái cằm nhọn hếch lên phía bên kia. Cả một cái thân hình ọp
ẹp của anh không đáng một đồng xu. Người ta có cảm tưởng như nuôi anh là một sự
làm phúc đó thôi. Anh chết đi, chẳng thiếu gì đứa nhanh nhẹn, cứng cát bằng vạn
anh. Anh chỉ là đồ ăn hại... Ôi chao! Anh ăn hại những gì? Sáng ngày ra, anh uống
nước lã cầm hơi. Bữa trưa, anh được ba lùm lùm bát cơm ngô hoặc cơm khoai. Bữa
tối, người ta lại cho anh vài nắm ngô rang hoặc vài củ khoai, củ ráy. Kể ra thì
bữa nào cũng thòm thèm cả. Chỉ có công việc và những lời chửi rủa thì bao giờ
cũng thừa bứa tứa tát. Xơi không kịp! Anh thức dậy trước gà và ngủ có lẽ còn
sau bọn tuần sương. Biết mình chậm chạp vụng về, lại yếu ớt quá không thể xốc
vác như người ta, anh chỉ chăm chăm chúi chúi làm suốt ngày, không một phút nào
dám nghỉ ngơi. Anh làm cả về đêm. Anh mong lấy sự cố gắng của chính anh để bù lại
sự kém cỏi tự trời sinh; là cốt lấy sự chăm chỉ, sự kiên nhẫn và nhẫn nại để gợi
lòng thương của chủ. Khổ thân anh quá! Tôi thương anh nhất vào những lúc trở trời
hay những tháng mùa đông. Bệnh hen của anh lại dấy lên. Anh thở cũng đã là một
việc khó nhọc lắm rồi. Thế mà anh vẫn dậy sớm, thức khuya, làm hết việc nhà đến
việc đồng, chỉ khác ngày thường một cái là thỉnh thoảng anh ngừng lại để ho sù
sụ, thở rít lên như tiếng bễ, gà gà mắt ra như người say thuốc lào. Trông anh
những lúc ấy chẳng khác gì một con cò chết rét. Có lần tôi ái ngại quá, bảo
anh:
- Ốm quá thế thì nằm nhà đắp chiếu mà nghỉ có hơn không? Mình
ốm, ai nỡ nói?
Anh lắc đầu, nói như người chực khóc:
- Đã đành, ốm thì chắc người ta cũng phải lo cho mình nghỉ.
Nhưng một lần, hai lần còn được, chứ nay ốm, mai ốm thì coi sao tiện? Người ta
thuê mình cho mình làm chứ không phải là để cho mình đắp chiếu nằm như bố già
người ta. Thiệt đến người ta thì người ta phải xót... Vả lại mình ăn cơm, lấy
công của người ta, thì mình phải nghĩ.
Tôi chỉ chép miệng, không còn biết nói sao. Ngừng lại một lát
để thở, rồi anh lại thong thả tiếp:
- Ấy, tôi đã phải nghĩ thế mà cũng không xong đấy. Tôi có dám
lười đâu? Thế mà lắm lúc bà ấy còn nói cho như là móc họng, đến gần phải mửa
cơm ra mà trả lại!
Thoáng thấy bóng bà chủ, anh lại vội vàng làm rất khỏe ra bộ
mình chẳng còn ốm đau gì cả Mấy năm sau, tuy chẳng bàn nhau mà chúng ta bỏ nhà
bà bác tôi cùng một độ. Tôi ra tỉnh học. Anh tự liệu không đủ sức để theo nghề
làm ruộng, đi học nghề thợ may. Tuy chẳng còn mấy khi được gặp anh, nhưng xa xa
tôi vẫn nhận được những tin tức về anh. Tôi biết đại khái tình cảnh anh cũng chẳng
hơn gì trước mấy. Thôi thì cũng phải vắt mũi đút miệng, được bữa hôm lo bữa
mai, nhưng cái kiếp chúng mình thì chỉ có thế thôi, mong hơn làm sao được? Một
năm kia, người ta bảo tôi rằng: anh mua lại được một cái máy khâu cũ sáu mươi đồng,
nhờ chút tiền dành dụm được từ khi cầm nổi cái kim và ba, bốc chục nợ lãi hay
tiền nợ non gì đấy. Cũng đáng mừng cho anh lắm! Từ đấy, hình như việc làm ăn của
anh có dễ chịu hơn lớp trước. Một hôm, có chút việc phải về quê, tôi gặp anh,
quấn áo trắng bông, đầu chải mượt, chân kéo lê đôi guốc sà gòong lộc cộc. Nghĩa
là anh "diện" lắm. Tôi lấy làm ngạc nhiên. Tôi tỏ sự ngạc nhiên ấy với
mấy người hàng xóm. Họ mỉm cười, bảo tôi:
- Ai? Phúc ấy à? ... Còn phải nói! Bây giờ cậu ấy tơ tuốt ghê
lắm nhé! Chết cái không tơ tuốt, lại sợ vợ nó chê, nó phải lòng thằng khác thì
hỏng cả.
Tôi sửng sốt:
- Anh ta cưới vợ rồi! Lấy ai?
- Cái Thửa, con nhà chú Thuận lùn ấy mà! ... Con bé tình ra
phết! Mà phải biết là đỏng đảnh. Lúc nào cũng cái áo cánh cát bá, cái yếm cổ
xây thật trắng, cái quần lụa buông chùng xuống tận gót chân, với chùm chìa khoá
lúc la lúc lắc... Nội bà lý, bà phó trong làng này cũng không ăn bận sang như
nó. Cô đầu cũng không ăn đứt.
- Thế mà nó chịu lấy anh ta?
- Thì còn lấy chó nào được mà chả lấy? Nó đĩ bỏ cha đi ấy!
Hai cái mắt thì lúc nào cũng tít đi, hai cái má thì đỏ tía tia, cái mồm thì toe
toét; động ai hơi nói đùa, nói bỡn một tí đã hơ hớ cười. Nó nhân tình nhân với
trăm thằng, bọn lý dịch chẳng anh nào không thậm thọt ra vào nhà nó.
Anh cu Phúc thì mê nó tợn, cho nó nào quần lụa, nào áo cánh
xát xi, nào yếm vải phin... lại cả tiền nữa ấy! Có thế nó mới lấy cu cậu vậy,
chứ không thì đời nào nó lấy. Trông anh chàng như con giun chết, không thương
được. Cu cậu hỏi năm, sáu đám, có đứa nào nó chịu lấy đâu? Mà toàn những đứa xấu
xí, vấy bờ tre bảy ngày không ai buồn nhặt. Ấy thế mà thánh nhân đãi khù khờ, tự
nhiên vớ ngay được một con thậy đẹp! ...
Họ nói câu cuối với một vẻ gì mỉa mai. Tôi buồn rầu, hỏi:
- Thế từ ngày lấy nhau đến giờ, chị vợ có chịu... làm ăn đứng
đắn hơn không?
- Làm? Làm gì? Nó thì chẳng bao giờ làm cả.
- Không! ... Tôi nói... Nghĩa là... chị ta có tu tỉnh lại, về
cái đường kia khác, hay là vẫn chứng nào tật ấy?
- À! Kể thì cũng đỡ... bởi vì anh chồng chiều tợn nó chẳng bắt
làm gì cả, chỉ nhong nhóng suốt ngày, cơm bưng nước rót đến tận mồm, lắm khi
cái quần cái áo thay ra cũng anh chồng giặt hộ.
Ôi thôi! Thế thì hỏng mất! Tôi đã gần buột miệng kêu lên thế.
Bởi vì tôi vốn biết anh là một người hay gắng gượng. Anh đã gắng gượng lấy sự
chăm chỉ, sự nhẫn nhục để bù lại cái sức yếu của anh để gợi lòng thương của bà
chủ ngày xưa, thì bây giờ anh lại gắng gượng lấy sự nuông chiều, sự hạ mình cố
bù lại sự kém cỏi về dung mạo của mình, để mong giữ được lòng yêu của cô vợ đẹp.
Gợi lòng thương của một người chủ tham lam còn khó lắm thay! Còn nói gì đến sự
gợi lòng yêu của một người đàn bà đẹp, lẳng lơ và nhẹ dạ? Hỡi ôi! Trời thật bất
công khi dựng ra cái đẹp và cái xấu. Loài người thích đẹp, ghét xấu đã phụ họa
vào sự bất công của trời! Trong lúc thương anh quá, tôi nghĩ vơ nghĩ vẩn, đến mất
cả lý trí và gần thành một thằng dở hơi...
Bẵng đi một dạo rất lâu, tôi không trở lại quê nhà, để bây giờ
lại về ở hẳn đây, như một người già cả. Tôi đã gần quên hẳn anh rồi. Nào có phải
là tôi là người chóng nhạt tình đâu, nhưng bây giờ tôi cũng đã có vợ, có con,
có cả một gia đình. Tôi có bao nhiêu cái khổ của tôi. Chúng hút tất cả ý nghĩ của
tôi, khiến tôi sống như kiểu một người ích kỷ. Óc tôi chẳng còn một phút nào được
rảnh rang để nhớ đến người bạn khổ sở hồi thơ ấu...
Bỗng đùng một cái, tôi nghe tin anh chết. Mà chết như thế
nào!... Anh ốm bốn tháng nay. Cái bệnh hen kinh niên lại phát ra, như thường lệ
mọi năm, nhưng lần này dữ dội hơn. Anh chỉ còn làm được một việc thở mà thôi.
Tiền dành dụm mòn dần, rồi hết hẳn. Rồi cái máy cũng phải bán đi. Người vợ đẹp
của anh, hai con rồi mà vẫn còn trẻ mau mảu, vẫn phải ăn, phải tiêu, phải mặc
áo yếm trắng bong và quần lụa chùng sát đất. Anh không thể cung cấp cho thị nữa,
thì đã có một anh thợ húi đầu cung cấp. Thị bỏ anh nằm chết khô, chết nỏ đi suốt
ngày đêm. Hai đứa con anh, ẻo lả như một cái lá úa và buồn như một tiếng thở
dài ngồi củ rủ nhìn anh bằng đôi mắt dại đi vì đói quá. Chúng ngáp luôn luôn.
Gian nhà tối ẩm, đầy mùi bệnh tật và bừa bộn rác rưởi, muỗi ruồi. Chỉ có những
con ruồi là còn có vẻ sống, có vẻ hoạt động và khỏe mạnh giữa cái thế giới ốm yếu
ấy, đã chìm một nửa vào cõi chết. Người ta nghe thấy những tiếng thở rốc lên,
những tiếng rên và những tiếng chép miệng liên hồi. Anh nhạt miệng hay chán nản
cho số kiếp? Thỉnh thoảng đôi mắt gà gà của anh lại cố mở to ra, lần lượt đưa về
phía hai đứa trẻ rồi đưa ra phía cửa. Bên ngoài trời rất đẹp. Nắng tưng bừng. Một
đàn sẻ chí choé cãi nhau như một lũ trẻ con tập làm người lớn: chúng xỉa xói,
chúng chanh chua, chúng cướp lời nhau một cách vui vẻ và ầm ỹ. Chim đực, chim
cái gọi nhau. Những con chim non cũng đua đòi. Một con ve lanh lảnh này trả lời
con ve lanh lảnh khác. Ôi chao! Đời vui quá! Muôn loài sống mạnh mẽ và sung sướng.
Không gian là một đám hội xôn xao và rực rỡ. Anh nằm trong đây, như một cái xác
chết trong mả lạnh, chua chát nghĩ rằng: mình không ăn nhập gì đến cảnh đùa vui
của người.... Đôi mắt anh chìm dần, chìm dần để mờ đi. Đôi mi tím nhạt đã căng
lên. Chúng che cảnh hiện tại đi để một cảnh khác tỏa ra. Anh mơ hồ nghe tiếng
trống chèo ở xa văng vẳng. Ấy là anh đang nằm nhớ lại những ngày làng vào đám.
Chung quanh đình tấp nập... Người vợ anh cười cợt giữa chỗ đông đảo ấy với những
anh trai làng chớt nhả bẻm mép... Còn anh thui thủi nằm nhà để quạt cho hai con
ngủ, để khàn khàn ru mỗi khi thằng bé giẫy, và để thỉnh thoảng thở dài khi hơi
thở nhẹ nhàng của nó lại trở nên đều đều.... Anh đã chịu đựng tất cả những nỗi
đau đớn âm thầm ấy, không một lần hé răng oán thán. Nhưng lúc này, cái lúc anh
gần chết mà vợ anh vẫn không đoái tưởng đến anh một chút, anh thấy nghẹn ngào,
uất tức. Cổ anh tắc lại. Hơi thở bị nghẽn một lúc rồi lại bật được ra, rốc lên
hơn trước. Ngực anh như có một phiến đá nặng đè lên. Chân tay anh lạnh toát đi.
Người anh bộn rộn bồi hồi. Mồ hôi lạnh dâm dấp trán. Đờm kéo lên sòng sọc trong
cuống họng. Anh chết mất! Anh chết mất! Anh không còn thở được!... Đôi mắt hoảng
hốt của anh chực mở ra. Nhưng mí mắt nặng lắm rồi: anh phải cố mới gạt được
chúng lên. Đôi mắt mất thần cuống quít tìm hai đứa trẻ. Mồm anh ú ớ... Giữa lúc
ấy thì cái phên liếp động. À! Vợ anh, người vợ đẹp của anh đã về. Anh lịm người
đi, chẳng biết vì sao. Đôi mắt anh nhắm lại. Anh không muốn nhìn mặt nó? Nhưng
kìa nó đã lại đầu giường anh với một vẻ buồn rầu giả dối. Cái thứ tiếng ngọt
như đường của nó lại gọi anh:
- Thầy em ơi!
Đôi mắt anh mở từ từ. Chúng trợn ngược lên để nhả tất cả nỗi
oán trách vào mắt nó. Trong lúc ấy nó nghĩ gì? Rồi không biết nó còn tìm đâu được
mấy giọt nước mắt để vãi ra. Nó đặt bàn tay lên ngực anh và mếu máo:
- Thầy em ơi! Thầy em ơi!...
Tiếng gọi thất thanh của nó làm anh thổn thức. Anh nức nở
trong ngực. Anh đã lại muốn tha thứ, tha thứ hết. Nước mắt anh ứa ra đầy mắt...
- Thầy em ơi! Thầy em làm sao thế?
Anh lắc đầu... Không phải là cái lắc đầu giận dỗi đâu. Đó là
cái lắc đầu thất vọng. Anh biết anh không còn sống nữa. Anh tiếc vợ. Anh tiếc đời...
Nhưng chút tình thương - thành thực hay giả trá - của con vợ đẹp đã làm anh sống
lại. Anh lại nói được, và anh nói:
- Tôi chết mất! Thế nào tôi cũng chết... Tôi chỉ còn thèm một
bát chè đỗ đen. Nếu có thì bu em cho tôi một bát để tôi ăn cho mát ruột rồi tôi
chết.
- Nhà không có đường. Mà nấu cũng không kịp. Để tôi đi xem
đâu có, mua cho thầy em một bát... Vừa nói nó vừa mải mốt đi lấy bát. Nó tong tả
chạy ra khỏi cửa. Anh nghe tiếng vạt áo nó bay soàn soạt và chân nó chạy bình bịch.
Chưa bao giờ nó tử tế với anh như vậy, nhưng anh đã quên tất cả, và cứ tưởng tượng
suốt đời nó toàn tử tế với anh như vậy. Anh càng thêm tiếc đời...
Chao ôi! Giá anh đã được ăn bát chè kia! Biết đâu anh đã chẳng
mát lòng, mát ruột mà sống được? Nhưng vợ anh đi lâu quá. Nó đã gặp gỡ một cái
gì ở trên đường làm nó lãng quên anh. Hay một kẻ nào đã ngăn cản nó làm bổn phận
cuối cùng đối với một người chồng đã hết lòng với nó? Anh không còn sức đợi.
Cái chết bị kìm lại trong một phút, lại bắt đầu chuyển động. Nó tiến dần, tiến
dần, từ chân lần tới đùi, rồi tới bụng, rồi tới ngực... Anh lại hoảng hốt. Đôi
mắt anh cố nhìn mãi... Nhưng anh đã chẳng còn nhìn rõ nữa. Ánh sáng lung linh,
lung linh. Không gian bập bềnh như một cái thuyền. Mắt anh loá ra. Chúng mờ đi.
Mọi vật xóa nhoà. Có lẽ nào như thế được? Anh uất ức. Anh ứ nghẹn. Anh cố kêu
lên một tiếng, nhưng không được. Anh u ú ằng ặc. Đờm đã bịt chặt ống khí quản rồi.
Anh ngạt thở. Anh cuống cuồng, anh sợ hãi, anh bứt rứt, anh choáng váng.... Ôi
thôi! Anh chết rồi!
Bây giờ thì sự im lặng bất tuyệt đã bịt chặt đôi tai anh, chán
nghe những lời mai mỉa của đời rồi. Bóng tối phủ kín đôi mắt anh, mở thao láo
nhiều đêm để nhìn trong bóng tối những cảnh nó làm anh nhục nhã. Anh đã có thể
dửng dưng đối với những chuyện của loài người. Vậy thì anh Phúc ơi! Anh hãy nghỉ
cho yên! Những chuyện đời này bây giờ chỉ còn là của chúng tôi. Chúng tôi, những
kẻ đã đau khổ, đã uất ức, đã ước ao, đã khát thèm, đã thất vọng và vẫn hy vọng
mãi và phải hy vọng mãi. Sự đời không thể cứ mù mịt mãi thế này đâu. Tương lai
phải sáng sủa hơn. Một rạng đông đã báo rồi. Một mặt trời mới sẽ mọc lên trên nấm
mồ anh và bên trên đầu hai đứa con côi anh để lại. Một bàn tay bè bạn sẽ nắm lấy
bàn tay chúng và dắt chúng cùng đi tới một cuộc đời đẹp hơn.
Một
chuyện Xuvơnia
Hàn là chàng trai 18 tuổi, sống bằng những cuốn tiểu thuyết
lãng mạn và ao ước một tình yêu mơ mộng. Rồi hắn ấp ủ những dự định táo bạo để
được sống với người yêu. Chỉ đến khi nhìn thấy cảnh háu đói của những cô thôn nữ
thiếu ăn và được biết người mình yêu đã bán cả chiếc khăn kỷ niệm có lẽ cũng chỉ
để ăn quà, Hàn mới vỡ mộng.
Những quân cướp, bao giờ muốn ăn cướp một nhà nào, bao giờ
cũng phải thăm đất trước. Hàn cũng vậy, hắn sắp làm một việc tương tự như ăn cướp.
Vậy phải đi xem kỹ tình hình đã.
Thoạt tiên, hắn hãy dắt cái xe đạp, vòng qua chỗ cửa đình.
Ðây là chỗ quan viên. Họ trải chiếu ngồi ngay xuống đất, vào một góc sân. Ông bố
đẻ Tơ có đây rồi. Ông bố chồng cũng ngồi kia. Cả người anh chồng nữa. Ðược rồi!
Hàn không thèm nhìn những ông kia. Hắn vờ xem thuyền giấy, voi, ngựa giấy bầy ở
giữa sân. Rồi hắn dắt cái xe đạp, thủng thỉnh đi ra phía ruộng. Ðây là chỗ thả
diều. Bọn trai làng thường tụ tập ở đây. Những người cầm đầu, những người cầm
dây, những người cuộn dây đang rối rít cả lên. áo cánh, quần ống thấp ống cao,
đầu không khăn hay là cái khăn xổ ra trật xuống vai, mặt đỏ bừng, mồ hôi đổ ướt
đầm, họ chạy ngược, chạy xuôi, múa chân tay, gân cổ lên gọi nhau, mắng nhau,
văng tục với nhau, giẫm cả lên chân người ta để chạy diều, làm ầm ĩ, chẳng kém
gì bọn phu trên một quãng đê vừa sạt. Những người xem chỉnh tề hơn. Họ khăn áo
hẳn hoi, tay quạt, tay ô, đứng nấp vào những bóng tre nhìn lên trời, bàn tán với
nhau. Trời xanh ngắt, nắng chang chang. Họ phải che quạt hoặc bàn tay lên mắt
cho đỡ chói. Những chiếc diều toàn trắng hoặc có một vệt đỏ to ở giữa, lên cao
tít đến nỗi phải cố nhìn mới thấy. Những cái diều đứng không động đậy, như chiếc
lá nằm trên mặt hồ vào lúc gió yên. Những cái khác lượn lờ ít chút thôi. Nhưng
cũng có một vài cái nghịch, chao bên nọ bên kia một cách rất hăng, và chốc chốc
lại toan bổ xuống. Những cái ấy không đời nào ăn giải được. Ðấy là diều của mấy
kẻ xấu chơi. Chúng tức vì năm ngoái các cụ định giải bất công, nên năm nay cố ý
buộc lèo cho diều của chúng đảo đồng để troàn vào dây diều khác. Thỉnh thoảng một
chiếc diều đứt dây. Người ta hò nhau đuổi như đuổi trộm... Sao lại có những kẻ
làm tội cái xác mình quá vậy? Hàn nghĩ thế - Những kẻ đi thi diều cũng như những
người đi xem thi diều đều dại như vích cả. Thằng thì chạy gần hộc máu mồm ra để
tranh một cái giải chẳng thấm tháp vào đâu với số tiền bỏ ra để làm diều, để
mua dây. Thằng thì phơi ra nắng những cái mặt nhăn nhó như mặt khỉ để xem những
cái diều chẳng ai còn lạ. Ðể mà làm gì vậy? Giá mà hắn, thì nắng nôi thế này, hắn
nằm khểnh ở nhà cho mát. Phải nợ gì mà xem với xét cho nhọc xác! Sở dĩ hắn chịu
nhọc xác thế này chẳng phải để xem gì cả, ấy là vì Tơ. Tơ là người yêu cũ của
Hàn. Vào kỳ nghỉ hè năm ngoái có một hôm Tơ đến nhà Hàn để mua dâu. Sự ấy thường:
Tơ vẫn mua dâu của nhà Hàn. Và sự này cũng lại thường: hôm ấy cả nhà Hàn đi vắng,
người đi chợ, người đi làm đồng, chỉ có mình Hàn nằm gác chân lên cuốn xem tiểu
thuyết. Những tiểu thuyết hồi ấy đua nhau tả những cuộc tình duyên của trai
thành thị với gái đồng quê. Vai chủ động đàn bà trong các chuyện ấy đều là những
cô thôn nữ rất đẹp, rất hiền, rất ngây thơ. Họ khiến Hàn ước ao như ước ao một
mớ rau tươi. Bởi vậy, khi Hàn ra đánh chó cho Tơ, hắn đã nhìn Tơ rất kỹ. Tình cờ
thế nào Tơ là một cô gái xinh xinh. Thị có đôi mắt bồ câu, cái miệng rất tươi,
và đôi má hây hây. Thị bẽn lẽn chào Hàn với một vẻ e lệ đáng yêu. Hàn có cảm
giác như hắn đột nhiên đổi khác đi. Hắn tự bảo: “Cuốn tiểu thuyết của đời ta đã
bắt đầu...”. Và hắn cố tìm một câu rất văn hoa để nói, nhưng đã quên mất cả. Hắn
chỉ lắp bắp miệng ra dáng chào Tơ. Thành ra, lại chính Tơ là người khơi chuyện
trước:
- Thưa cậu, bà Cửu có nhà không ạ?
- Thưa cô... Vâng! Mẹ tôi có nhà. Mời cô vào chơi.
Hàn nói dối rất trơn tru sau một thoáng ngập ngừng. Bởi vì hắn
tính lại rồi. Khi cái lưỡi cứng đờ của ta đã bật ra được một câu không đến nỗi
ngẩn ngơ thì nó trở nên dẻo dang. Hàn nhớ ra rằng: hắn là con nhà danh giá ở
làng này; hắn đi học, ở tỉnh về; quần áo hắn giặt là và chân hắn dận giày tây;
đầu hắn đẫm chất nhờn ở phía ngoài và văn chương ở phía trong... Nói tóm lại, hắn
có đủ điều kiện để tất cả các cô gái làng này phải ước mơ. Hắn không có lý do
gì để mà rụt rè quá thế. Bây giờ thì hắn nói hoạt bát lắm, tuy có hơi to quá sự
thường một chút, như một anh chàng chếnh choáng say...
- Mời cô cứ vào, tôi đánh chó... Mời cô đi trước, kẻo chó cắn.
- Cháu vô phép cậu...
- Vâng ạ, mời cô cứ đi.
Tơ vén áo, khép nép đi lên trước. Hàn mỉm cười nhìn cái cử chỉ
hay hay ấy. Rồi hắn đi sau cô gái, vuốt ve bằng mắt cái cổ nây nây của thị. Vào
đến sân, Tơ đứng lại đằng hắng. Những mành mành cửa buồng kín mít: thị làm thế
để bà Cửu trong nhà lên tiếng trước. Hàn hiểu ý. Hàn vờ nói vọng vào nhà:
- Thưa mẹ, có khách.
Cố nhiên là chẳng có mẹ nào đáp lại. Hàn bảo Tơ:
- Chắc mẹ tôi ra ao. Cô vào ngồi chơi một lát. Tôi đi gọi.
Tơ vội bảo:
- Thôi ạ, chả dám phiền cậu... Bà còn ở ngoài ao, vậy cháu cứ
đi hái dâu trước đã. Lúc nào bà về, cháu hãy thưa chuyện với bà.
Hàn mừng quá...
- Vâng! Thế thì cũng được... Vậy ra cô mua dâu?
- Vâng ạ.
- Thế thì mời cô ra vườn hái. Tôi đánh chó.
- Dạ... thôi ạ. Ðã vào nhà rồi chắc chó không cắn nữa.
- Ðược, cô cứ đi... để tôi trông chó. Phải một con hư lắm, nó
hay cắn trộm.
- Thế ạ. Thưa cậu, cô Hán đi đâu ạ.
Hàn hiểu ý Tơ ngỏ ý một cách kín đáo, muốn để em gái hắn ra
đánh chó. Hàn vội bảo:
- Thưa cô, em nó ra ruộng ạ.
- À vâng! Hèn nào mà không nghe thấy tiếng.
- Vâng! Nó ở nhà thì liến láu, mồm năm miệng mười luôn. Tôi mắng
nó luôn về cái tội lắm điều mà cũng không chừa.
Hai người đến rặng dâu. Tơ đặt cái thúng không xuống đất,
nhìn chung quanh rồi bảo:
- Chó không có đây, mời cậu về nhà cho mát.
- Cô cứ để mặc tôi. Tôi đứng xem cô hái dâu để học hái. Cô dạy
tôi hái nhé.
- Cháu không dám ạ. Cháu hái chậm lắm, có thành thạo gì đâu?
Vả lại hái dâu thì ai chả hái được, có cần gì phải học?
- Cô nói vậy, chứ thực ra thì cần học lắm. Ðã đành cứ rứt liều
thì ai mà không rứt được? Nhưng có biết hái thì trông mới đẹp. Cô hái đẹp lắm.
Tơ đưa chít dâu lên che miệng, cười tít mắt. Má thị càng đỏ
thêm, giọng thị càng thân mật hơn một chút:
- Rõ cậu chỉ khéo vẽ!
Hàn cũng cười và bảo:
- Thật! Cô hái dâu tay mềm mại lắm. Trông cô hái tôi chỉ muốn
làm cây dâu để...
Hàn ngừng lại. Hàn thấy Tơ đột nhiên nghiêm mặt. Thị giả tảng
muốn như không nghe thấy, và nói lảng:
- Lứa dâu này để quá có mấy ngày mà rậm quá.
Hàn im lặng. Sự ngượng nghịu hiện ra trên nét mặt. Có lẽ Tơ
nhận thấy và thương hại. Thị lại gợi cho Hàn nói:
- Cậu không hái dùm cho cháu đi, cho nó chóng. Mình cháu hái
thì đến trưa chửa hết.
Hàn mừng rỡ:
- À, quên đấy nhỉ! Nhưng tôi hái cho cô thì cô cũng phải nghĩ
thế nào chứ... nhỉ?
- Cháu trả công.
- Không. Tôi chả lấy công đâu. Nhưng cô không được xưng bằng
cháu với tôi thế, tôi thẹn chết! Tôi với cô chỉ bằng tuổi nhau thôi. Năm nay cô
bao nhiêu tuổi nhỉ?
- Cháu...
- Không có lệ xưng cháu.
Tơ gục mặt xuống cánh tay để giấu miệng đi, cười, nũng nịu.
- Thế xưng bằng gì được?
- Bằng tôi, hay là em thì càng... thú.
Hàn nói buông miệng, cười khanh khách để khỏi thẹn. Tơ đỏ mặt,
nhưng cũng cười, không cự lại. Hắn biết là cáu lắm. Hắn can đảm thêm chút nữa.
- Cô bao nhiêu tuổi nhỉ?
- Cậu đoán độ bao nhiêu?
- Mười tám phải không?
- Mười bảy.
- Thế thì tốt quá. Tôi mười tám. Gái hơn hai, trai hơn một,
cô nhỉ!
Hàn lại cười khanh khách. Tơ lườm:
- Rõ cậu!
Nhưng thị không nghiêm trang được. Thị bật cười. Ấy thế là
câu chuyện cứ dần dần đi đến sát nách, chẳng còn cần bóng gió, xa xôi nữa. Nó
đã tận cùng bằng một câu thế này của Tơ:
- Cái ấy còn phải tùy thầy mẹ em. Em biết đâu mà trả lời cậu?
Thế nghĩa là: em bằng lòng mê đi rồi. Hàn chẳng ngu ngốc gì
mà không hiểu. Và giá Hàn bảo phắt mẹ hỏi Tơ cho mình, thì có lẽ họ đã thành chồng,
thành vợ. Nhưng Hàn thẹn. Vả lại Hàn chưa đọc một cuốn tiểu thuyết nào kết thúc
một cách giản dị theo kiểu ấy. Cần gì phải nghĩ đến hôn nhân? Hàn chỉ xin mẹ
cho tiền mua một cái ống xì đồng. Hàn lấy đất sét viên những viên đạn con con,
rồi phơi, rồi nung, rồi nhét đầy túi, vác ống xì đồng đi suốt ngày để thổi
chim. Hàn hay đến thổi chim ở sau chùa. Chẳng ai ngờ, bởi vì sau chùa rất lắm
chim. Nhưng cạnh chùa lại có một ruộng dâu rất tốt mà cứ bốn năm ngày Tơ đến
hái. Thành thử cuốn tiểu thuyết của Hàn cứ thêm trang mãi. Và khi những tháng
hè đã hết, nó đã đến chỗ Hàn xuvơnia cho Tơ một cái mùi xoa thơm lựng bằng lụa
nõn, viền tím và thêu cành hoa con bướm với hai chữ HT gài với nhau. Ấy là một
cái khăn tay Hàn đã đặt làm ngoài tỉnh, rưới vào mấy giọt nước hoa rồi gói vào
một mảnh giấy bóng, đem về tặng Tơ...
Ở nhà quê, người ta tin rằng: những cặp trai gái chưa chi đã
thề bồi với nhau, chẳng bao giờ lấy được nhau. Ðiều ấy đúng chăng? Tháng hai vừa
rồi, Hàn được tin người yêu đi lấy chồng. Tơ lấy con trai ông nhì Gia, đỗ nhị
trường. Nhà ông nhì Gia nghèo rớt mùng tơi! Thằng con ông mười lăm, nhưng chỉ bằng
mười ba; nó cọc người. Mặt nó nhăn nhăn! Mặt dơi chẳng ra mặt dơi, mặt chuột chẳng
ra mặt chuột. Nói tóm lại, chẳng có mẽ gì. Nó lấy Tơ, thật đúng là con cú đậu
cành mai. Hàn tức lắm. Và chẳng cần phải hỏi Tơ, Hàn cũng biết Tơ bị cha mẹ ép.
Quả nhiên, ít lâu sau Hàn được tin Tơ chê chồng bỏ nhà đi. Người ta bắt được
Tơ. Ông bố đẻ xoắn tóc Tơ vào gốc cau đánh giập mấy cái roi mây, rồi cạo trọc đầu
Tơ, lấy vôi bôi, dọa sai mõ dong đi khắp làng cho dơ mặt, nếu Tơ nhất định
không về nhà chồng. Cái kế này diệu thật. Nhưng Tơ khóc gớm lắm. Hàn thương
quá. Hàn mong cho có dịp gì được nghỉ về quê bàn với mẹ trả của cho Tơ để lấy
Tơ. Nhưng mẹ Hàn nghe Hàn nói thì trố mắt lên, sợ hãi. Con gái làng này đã đến
đâu mà phải lấy tranh vợ người ta thế? Hàn năn nỉ. Hàn dọa sẽ đem Tơ đi trốn.
Bà trả lời lại bằng cách cưới vợ luôn cho Hàn.
Bài thuốc ấy có thể công hiệu, nếu người vợ cưới về đẹp và
ngoan ngoãn. Một người đàn bà rất dễ làm ta quên một người đàn bà khác. Nhưng vợ
Hàn rộng miệng và hôi nách. Bởi thế cho nên Hàn uất ức. Hàn không thèm nói nữa.
Hàn lẳng lặng ra tỉnh, như yên phận. Nhưng từ đấy, Hàn nghiền ngẫm một cái
chương trình rất hăng...
Hàn đã trông thấy cái thằng chồng của Tơ rồi. Nó đứng kia, loắt
choắt như con chuột lắt. Nó đứng xem hàng kẹo kéo. Mặt nó hếch lên, nhìn mồm
anh kẹo kéo hát những vần vèo mà cười bằng cả một cái mồm há hốc. Hàn nhìn nó,
một cái nhìn khinh bỉ. Mẹ kiếp! Thằng nào chứ thằng này, hắn chỉ đá một cái là
chết nghéo. Hắn dắt cái xe đạp, đi lên đường. Hắn dắt vòng lên chỗ gốc đa. Hắn
tựa cái xe đạp vào gốc đa, rồi đứng nghỉ, lấy vạt áo trắng dài làm quạt, quạt.
Người ta tưởng hắn đứng đấy cho mát. Thật ra thì hắn nhìn những đàn bà, con gái
đương ăn quà.
Họ khá đông. Những bà mẹ xồ xề với đứa con đầu mới cạo, nhẵn
thín như quả bưởi. Những bà già mặc áo mớ, to sù người. Những cô con gái lẫng cẫng
và gọn ghẽ. Tất cả đứng tụm năm tụm ba, chuyện trò ríu rít, hoặc ngồi xổm trước
những hàng bún, hàng bánh đúc gục đầu xuống ăn. Trông họ ăn mà ái ngại. Bởi họ
ăn ngon lành quá, hăm hở quá, mắt hùm hụp nhìn xuống bát, nhìn xuống chỗ bánh của
mình, nhìn chỗ bánh của người khác, của nhà hàng... Hình như họ tính thầm rằng
mình ăn hết chỗ này cũng chưa no... người kia ăn sung sướng hơn mình... giá
không tiếc tiền thì mình phải ăn thêm cái tấm kia, tấm kia... của bà hàng nữa...
Chỗ bánh vơi dần. Họ ăn chậm chạp hơn, như kiểu ăn dè. Và đến lúc chỉ còn trơ
cái lá không, họ đã buông đũa xuống rồi, còn nghĩ tiếc rẻ thế nào, bê bát nước
riêu thừa lên húp một vài húp nữa, rồi mới chống tay vào đầu gối để đứng lên,
sau khi đã nhìn cái mẹt của bà hàng với vẻ luyến tiếc... Hàn đứng nhìn họ ăn
hàng giờ như thế. Hắn quên cả cái mục đích của hắn khi đến đúng chỗ này. Bởi vì
hắn đến chỗ này có phải để nhìn thiên hạ ăn đâu? Hắn có ý tìm Tơ, hắn sẽ theo
Tơ đến một quãng đường vắng nào. Hắn sẽ nói điều dự định của mình ra. Và nếu Tơ
vẫn còn yêu mến, Tơ vẫn còn can đảm để yêu, hắn sẽ rước Tơ đi. Chúng tự do lập
gia đình, sống với nhau rồi mặc kệ! Cái dự định ấy, Hàn nghiền ngẫm đã ba tháng
trời nay. Hàn quả quyết thêm. Và tới lúc trông thấy cái mặt nghiêm trang của
cha mình và cái mặt đáng ghét của cha Tơ, hắn quả quyết thêm. Và đến lúc trông
thấy cái mặt khá bỉ của chồng Tơ, Hàn lại càng quả quyết. Hàn tưởng sự quả quyết
của hắn không còn thể nào lay chuyển được. Nhưng bây giờ...
Ôi chao! Nếu Tơ của Hàn có đi xem, tất thị cũng ngồi sụp xuống
trước một hàng bánh đúc kia. Thị sẽ bảo bà hàng thái cho ba xu bánh đúc và múc
một xu riêu. Thị sẽ và, sẽ húp kêu soàn soạt. Và đôi môi thị, đôi môi tròn và đỏ
tựa san hô sẽ sườn sượt, nước riêu cá diếc nó chảy xuống cả cái cằm xinh xinh của
thị, khiến thị phải lấy ống tay áo quệt... Hỡi ôi! Có cái gì là đẹp quá như Hàn
vẫn tưởng đâu? Hắn tự nhiên thấy mỏi mệt vô cùng. Hắn ngồi phệt xuống gốc đa. Hắn
buồn nôn. Lúc bấy giờ tâm trạng hắn ra sao, hắn không biết nữa. Ðó là một cảm
giác hỗn độn, nó sửa đường cho một cuộc đổi thay. Rất nhiều mộng mơ tan. Một
chút thẹn thùng. Một chút lòng thương. Nhưng tình yêu thì nhất định không còn nữa.
Mong manh thay tình yêu bồng bột của tuổi hai mươi! Người ta tưởng có thể chết
vì một người, rồi đột nhiên người ta thấy chẳng có nghĩa lý gì đối với lòng
mình nữa. Hắn uể oải đứng lên, toan về.
Bỗng Hàn để ý đến mấy cô gái đứng gần Hàn vừa nghe nói đến
tên Tơ. Hắn nhìn xem. Một cô đang giơ ra một cái khăn tay. Họ vừa xem vừa bàn
tán với nhau:
- Cái Tơ cũng nhặt được ở đâu đấy, chứ về nhà ấy làm gì dám
mua những của này?
- Chắc thế.
- Mấy hào đấy?
- Có hai hào.
- Rẻ đấy.
- Rẻ thì rẻ thật, nhưng giá tôi thì tôi cũng chả mua đâu. Hạng
chúng mình mua khăn tay thêu làm khỉ gì chứ?...
- Thì đã hẳn... Nhưng thấy rẻ, tôi tiếc nên máy tay mua đấy.
Tôi chả sợ. Thế nào tôi cũng gạ cô Luyến, bán cho cô ấy, để cô ấy hầu bóng. Cứ
gọi là ba hào là rẻ. Mình được lãi một hào ăn bánh đúc.
Ăn bánh đúc! Lại ăn bánh đúc!... Chao ôi! Thì ra những cô gái
quê rất đẹp, rất hiền, rất ngây thơ kia phần nhiều chỉ nghĩ đến ăn. Họ là những
kẻ không mấy ngày được thỏa cơm. Ðối với họ, cái ăn có lẽ còn cần hơn cả tình
yêu. Tơ đã bán cái xuvơnia của Hàn đi để ăn bánh đúc chăng?... Hàn đỏ mặt lên,
hắn thấy hắn đã làm một việc quá buồn cười. Nhưng mà hắn chẳng giận Tơ đâu. Hắn
cũng không khinh. Hắn chỉ sáng mắt ra thôi. Ðiên rồ thay là cái dự định dắt Tơ
đi! Bọn trẻ con tưởng rằng, người ta có thể sống bằng tình yêu mà chẳng cần ăn.
Hỡi những cô gái quê rất có thể đáng yêu nếu không đói cơm kia! Các cô đã dạy
khôn Hàn. Bây giờ Hàn mới biết rằng, trước khi nghĩ đến việc đặt những cái hôn
lên cái miệng hoa của người yêu, cũng nên nghĩ đến việc đổ cơm vào đấy đã. Cái
ý nghĩ có lẽ chẳng được thơ cho lắm, nhưng cuộc sống vốn không tha thứ những
cái gì quá thơ.
Mua nhà
Anh Kim.
Anh Kim.
Buổi tối hôm ấy, sau khi đưa các anh ra thuyền trở về Nam,
tôi bực tức vô cùng. Tôi bực tức với tôi. Tôi đay nghiến tôi trong một phút cao
hứng quá, đã mời các anh về nhà.
Anh đừng giận, anh Kim ạ. Tôi hiểu lắm. Chúng ta biết nhau
không phải vì một bộ quần áo may khéo, một đôi giày đúng kiểu, một cái xe hơi tốt
máy. Chúng ta biết nhau vì cái khác. Chúng ta mến nhau vì cái khác. Chúng ta
đánh giá nhau cũng ở chỗ khác đâu cũng phải ở cái chỗ nhà to hay bé. Cổ nhân
chê kẻ sĩ mà còn lấy sự cơm ăn không được ngon, áo mặc không được lành làm nhục.
Người quân tử có thể phải uống nước lã, khoanh tay dưới đầu làm gối mà không tủi.
Tôi cũng hiểu. Vậy mà tôi cứ hậm hực mãi với tôi vì cái lẽ đã để mấy người bạn
trông thấy cái cảnh bần bách của tôi như thế, chẳng hoá ra tôi là người nhỏ
nhen? Vâng thì tôi là người nhỏ nhen! Nhưng các anh phải xét cho tôi chỗ này. Đến
nhà các anh, tôi ngồi trên những cái ghế kiểu mới, có nệm êm, có vách tựa rất
cao, ngồi vào đấy, sự nghỉ ngơi của thân thể hoàn toàn lắm. Đến nhà anh Đề,
chúng ta ngồi trên những chiếc ghế Tàu nạm đá vân. Đến nhà anh Phùng, chúng ta
có những bàn ghế bằng gụ khảm xà cừ. Đến nhà anh Minh, chúng ta nằm nghỉ ngơi
trên những chiếc giường tây. Cùng lắm đến nhà bác Lý, chúng ta cũng có thể trải
chiếu hoa trên hè gạch để trông trăng. Nhưng đến nhà tôi, các anh phải cúi lom
khom người để chui vào một cái lều tối om om. Nền nhà bằng đất nên âm ẩm dưới
chân. Một mùi mốc khăng khẳng làm các anh nhăn mũi. Đứa con lớn của tôi, đau bụng
thổ từ đêm, nằm trên cái võng nhuộm màu nâu căng từ đầu nhà nọ đến đầu nhà kia,
chắn cả lối đi. Nó mặc một cái quần, một cái áo bằng thứ vải mà con sen nhà các
anh cũng không thèm mặc. Dưới nó là một vũng bùn to tướng. Mặt tôi đã đỏ bừng.
Và khi anh lại gần con tôi, cúi xuống để hỏi han, thì chỉ thiếu một chút nữa là
khóc. Không, anh Kim ạ… Anh tốt lắm. Tay anh nắm lấy tay con tôi không một chút
rụt rè. Anh đã khen: cháu trông ngoan. Anh đã hỏi bằng những câu rất dịu dàng.
Lòng trắc ẩn đối với một người bạn khổ đã giúp anh có những cử chỉ rất tự
nhiên. Nhưng nghề nghiệp của chúng ta đã luyện chúng ta thành những người nhận
xét rất tinh. Dù chỉ một cái run nhẹ của hàng mi, một chút ngập ngừng rất
thoáng nhanh trên một ngón tay, một gợn nhỏ trên nét mặt vô cùng bình tĩnh thì
con mắt thấu suốt của chúng ta cũng không bỏ sót. Anh đừng chối, anh Kim ạ.
Chúng ta phải là những người bạo nói. Tôi biết lắm. Tôi biết sau khi anh nắm
bàn tay cháu, anh thầm ước một chậu nước sạch và một miếng xà phòng để rửa tay.
Giá anh cứ nói ra thì cũng được. Tôi sẽ cho sự ấy là tự nhiên lắm lắm. Nhưng
anh cố nhịn. Anh nhìn gian nhà mà bảo tôi:
- Cái nhà này còn tốt đấy chứ… Nhà có bốn, năm người ở thế
này rộng chán!
Tôi biết trả lời anh sao được? Tôi chỉ cười. Tôi còn đang bận
thu xếp chỗ, vợ tôi còn phải ẵm con bế cháu sang nằm nhờ hàng xóm. Tôi vắt cái
màn ở giường ngủ lên. Bốn người trong chúng ta ngồi. Còn hai người nữa thì đứng
cho mát, bởi chẳng còn biết ngồi vào đâu cho hết.
Cũng may, trời tạnh ráo. Lúc ăn cơm, chúng ta có thể ra sân,
trải chiếu trên mặt đất. Các anh tháo giày ra, cởi quần tây, để ngồi xếp bằng.
“Có làm quái gì cái vật ấy! Chúng ta ăn vẫn ngon là được!…” Sự cố gắng ấy do
lòng quý bạn. Các anh muốn cho tôi nghĩ thế. Tôi cũng bắt tôi nghĩ thế, Nhưng
không được. Suốt đêm ấy tôi đã thức để mà hành tội tôi…
Tôi còn phải khổ với tôi lâu lắm. Bởi biết đến bao giờ tôi mới
có thể làm một cái nhà khác, rộng rãi và sạch sẽ hơn một chút! Tôi làm việc ghê
gớm lắm. Tôi giết dần tôi đi để kiếm tiền. Nhưng sức người ta chỉ có chừng. Mà
giá tre gỗ bây giờ thì tăng lên vô hạn. Nó tăng từ tháng này qua tháng khác.
Cái đích của tôi thành cứ lùi xa mãi. Tôi dự định độ hai trăm đã không đủ nữa.
Phải ba trăm là ít. Vay nợ lại thì tôi không dám. Đời tôi, đã nhiều phen vay nợ
lãi… Ngay bây giờ, tháng tháng lãi nợ cũng còn ngốn mất quá nửa số tiền tôi kiếm
được. Nợ nó đẻ ra mau chóng lắm. Vay liều thì chết.
Nhưng một tai nạn đã xảy ra. Ấy là trận bão, tận lúc đã sang
tháng chín. Nó xảy ra bất ngờ. Vợ chồng chúng tôi phải xông pha mưa gió, bế con
đi. Chúng tôi đưa các cháu đi tìm chỗ ẩn. Lưng tôi cõng đứa con lớn, vừa ốm dậy.
Tay tôi cầm một con dao. Nhà tôi ẵm đứa con nhỏ theo sau. Gió thổi xiêu người.
Mưa như những cái roi quất xuống đầu, xuống mặt chúng tôi túi bụi. Tôi phải
chém những cành tre ngã xuống đường để phá một lối đi. Gai ở dưới chân, gai ở
hai bên. Gai từ trên chĩa xuống. Chúng tôi phải nhắm mắt lại mà đi phứa. Người
lạnh giá. Chân tay tê dại. Gai cắm vào chân, gai cào rách vai, rách má, chúng
tôi cũng không còn biết nữa. Chúng tôi đi quên chết. Nhà tôi chúi người đi năm,
sáu lượt. Đến nhà ông nhạc tôi, thì chúng tôi kiệt sức. Con gái tôi xám ngắt.
Nhà tôi không còn nói được nữa. Tôi cũng thế, cũng may mà sẵn lửa. Chúng tôi ngồi
sưởi. Trong khi ấy, hai ông bà ngoại ủ ấp và hơ cho hai cháu. Một lúc lâu,
chúng tôi sưởi hoàn hồn. Chúng tôi phải trú lại nhà ông nhạc tôi một ngày một
đêm.
Sáng hôm sau, gió ngớt. Gửi hai cháu lại, vợ chồng tôi về
nhà. Cái nhà bị ụp rồi. Nó nằm ụp xuống, như một người già khuỵu gối. Khó lòng
mà còn bắt nó đứng lên được nữa. Sức nhà tre, mấy nả? Cái này đã lão. Nó đã qua
tay ba chủ. Tôi là bốn. Chỉ có gió to, nó đã có quyền đổ lắm huống hồ gặp bão.
nó trung thành với tôi được đến bây giờ, kể cũng đã là tận tâm tận lực. Tôi
không nên ép nữa. Tôi biết thế. Nhưng biết làm sao được? Có những ông bố, những
bà mẹ lụ khụ, chỉ vì thương con nghèo quá không chạy được tiền chôn cất mà
không nỡ chết. Cái nhà của tôi sao nó không nghĩ thế? Nó sụp đổ vào lúc này, thật
đã làm khổ tôi. Vợ tôi phát khóc. Tôi cũng ứa nước mắt. Tôi thương tiếc cái nhà
của tôi như người ta thương tiếc một người vợ bị lâu ngày hắt hủi. Ấy là nói
cho văn vẻ. Thật ra tôi chỉ thương tôi. Tôi bỗng nhiên thành ra không nhà.
Không những thế, vườn của tôi bị tàn phá hết. Bao nhiêu tiền của, bao nhiêu mồ
hôi nước mắt đổ ra chăm chút cho giàn trầu, bụi mía thôi thế là mất toi.
Không có cái khổ nào vô ích hẳn. Sau mấy ngày ngao ngán, tôi
lại phải an ủi nhau như vậy. Bởi đằng nào tôi cũng còn phải sống. Đằng nào tôi
cũng còn cần có phải nhà để ở. Vậy thì tôi không thể dằn dỗi với ông giời được.
Ông giời không sợ ai dằn dỗi. Tôi gượng cười. Tôi bảo vợ tôi thế này: - “Thôi
mình ạ! Cái nhà của ta đổ đi cũng phải. Nếu không đổ, bao giờ ta mới làm nhà
khác? Ta đã do dự mãi. Bây giờ ta không còn phải so kè nữa…”
Lẽ đương nhiên mà như vậy. Không làm nhà không được. Vậy thì
chẳng còn phải nghĩ. Chúng tôi tính việc mua tre, mua nứa và thuê thợ. Không có
tiền thì vay nợ lãi. Không vay không được, thì vay cũng không ân hận. Rồi tôi cố
làm việc hơn trước nữa. Tôi sẽ giết tôi nhanh hơn trước nữa. Trước sau thì cũng
chết. Ai cũng chết. Mà ai cũng chỉ chết một lần mà thôi. Sống sẻn so làm gì?
Tôi nghĩ liều. Nhưng sau một trận bão, không thiếu gì người
phải nghĩ liều như tôi. Cũng vì thế mà tôi đã mua được một cái nhà rẻ quá, anh
Kim ạ. Một cái nhà gỗ, có ba trăm bạc. Giá phải, thì năm trăm. May cho tôi lắm.
Thì tôi tính: làm nhà tre bây giờ cũng tốn hai trăm đồng.
Kẻ bán nhà là một kẻ nhiều công nợ. Anh ta goá vợ. Anh ta phải
nuôi hai đứa con thơ dại. Anh ta lại mới thua xóc đĩa ba, bốn canh mất tất cả đến
hai trăm đồng bạc. Nợ người ta đòi rát quá. Trông vào mấy sào mía để bán đi
trang trải thì mía đã bị bão làm tong cả. Anh ta tìm tôi và bảo tôi thế này:
- Tôi nghe nói: chú định làm nhà. Làm nhà tre bây giờ cũng phải
hai trăm đồng bạc. Chú cố gắng lên chút nữa, tôi để cái nhà gỗ nhà tôi cho.
- Bao nhiêu thì bác bán?
- Ba trăm, đúng.
Cái giá này hời lắm. Thấy bảo hắn thật thà, tôi ái ngại. Tôi
hỏi hắn:
- Bác bán đi làm gì?
- Chẳng làm gì sốt. Tôi trót thua cay quá, chết thì chết, tôi
cũng còn phải gỡ. Trường vốn thì dễ gỡ. Tôi bán cái nhà, lấy vài trăm đồng để gỡ
vài canh, xem thế nào.
À! Nếu vậy thì tôi chưa lấy chi làm liều. Vay nợ lãi mà mua
nhà là một cái liều bắt buộc. Bán nhà để gỡ bạc mới là một cái liều thục mạng.
Đã liều thì phải chết. Chẳng chết vì tay tôi thì chết vì tay người khác. Dù vậy,
tôi cũng chưa nỡ cầm dao đâm hắn. Thành thực hay giả trá? Tôi đã can kẻ liều
lĩnh kia:
- Tôi tưởng bác không muốn ở nhà, hoặc cần tiền buôn bán thì
mới bán nhà, chứ nếu chỉ bán để đi đánh bạc thôi thì tôi can bác. Vào chiếu bạc,
khó mà biết trước, tôi chỉ sợ gỡ ra chẳng được, bác lại bậm mãi vào thì sao?
- Không có lý nào như vậy. Trước tôi thua, chỉ vì ít vốn,
không dám đuổi. Trường vốn, không đời nào thua. Chú lấy giùm được là phần nhất,
bởi vì tôi biết tiền chú sẵn, có thể xếp cho tôi chóng vánh. Nếu như không muốn
lấy thì tôi để cho người khác.
Tôi ngẫm nghĩ: hắn đã muốn chết thì cho hắn chết. Tôi có quyền
gì mà cấm hắn? Hắn không bán cho tôi thì bán cho người khác. Tôi để lỡ một dịp
tốt là tôi ngu. Vậy thì tôi mua cái nhà.
Tôi chạy ngược chạy xuôi. Chỗ thì lãi năm phân. Chỗ thì lãi
sáu phân. Cùng quá, tám phân cũng lấy liều. Chỉ hôm sau là tôi đã có đủ ba trăm
bạc. Đôi bên làm giấy má xong xuôi. Tôi trao tiền cho hắn. Vợ tôi đi mượn thợ để
ngày mai dỡ nhà.
Chưa có thợ. Sau ngày bão, thợ làm nhà bận lắm. Cái nhà ba bốn
hôm sau vẫn chưa dỡ được. Một người bà con với tôi, một buổi tối đến nhà ông nhạc
tôi mà bảo tôi:
- Anh nên liệu dỡ phắt về. Ba trăm bạc của anh, nó nướng hết
cả rồi. Vừa ở nhà ra chúng nó biết nó có một số tiền to, chúng nó đã thịt cu cậu
hơn trăm bạc. Cu cậu còn nhiều nợ lắm. Vườn cũng cố mất rồi. Nếu anh không dỡ
nhà ngay, nó thua quá, đi đâu mất sợ lôi thôi cho mình.
Có thể. Nếu tôi chậm dỡ, sợ người khác hớt tay trên. Đã đành
rằng mình mua bán có làm văn tự. Nhưng tiền tôi đã cạn. Không lẽ lúc ấy còn kiện
nhau. Vậy tôi phải cố thuê cho được thợ. Chỉ ngày mai là dỡ luôn.
Ngày hôm sau. Chúng tôi đến nhà hắn thì thấy hắn đang nằm thườn
trên một cái giường tre, chiếu rách và bẩn thỉu. Đứa bé ngồi ngay dưới đất ôm lấy
cái chân giường, rên. Nó đau bụng từ sáng sớm. Đứa con lớn vừa cạu nhạu vừa đấm
lưng em thùm thụp. Tôi chào hắn. Hắn khẽ hé môi đáp lại chúng tôi nhìn nhau ngượng
nghịu như hai kẻ thù nhìn nhau. Sao lại thế? Tôi không dám nhìn lâu hai đứa con
của hắn. Hình như tôi thẹn với lòng tôi thế nào….
Tôi nhìn xuống đất mà bảo hắn:
- Bác làm ơn cho tôi dọn đồ đạc để cho người ta dỡ….
Hắn cười chua chát:
- Đồ đạc thì có gì mà dọn? Chỉ có một cái giường này. Cứ
quăng bố nó ra ngoài kia cho tôi, rồi dỡ đi.
Hắn đứng dậy mà bảo con:
- Chúng mày cũng đứng lên. Sang nhà bác Vi nằm nhờ.
Con chị phải quát, gắt gỏng với em một lúc, hai đứa mới lếch
thếch cõng được nhau sang nhà bác Vi. Vẫn một đứa lạu bà lạu bạu, một đứa oằn oại
rên la. Thợ trèo lên mái, dỡ gianh quăng xuống. Tôi ngồi ở sân, trông họ…
Một lúc sau, chẳng biết đã gửi em cho ai được, đứa con gái
lân la gần tôi, xem dỡ nhà. Tôi có dịp trông gần nó. Nó gầy ốm quá. Cổ tay, cổ
chân chỉ con con. Mặt chau chau. Quần áo rách lượt thượt. Răng của nó cứ nhe ra
một cách thương hại lắm. Tự nhiên tôi ngán ngẩm. Tôi thở dài một tiếng. Rồi tôi
buột mồm hỏi nó:
- Từ sáng tới giờ, em đã có gì ăn chưa?
Nó không đáp, chỉ lắc đầu uể oải. Hình như nó đang bận nghĩ
ngợi điều gì. Mắt nó nheo lại. Cái mặt nó cứ cau cau. Có lẽ chỉ vì nắng quáng.
Nhưng tôi thấy nó có vẻ thù ghét tôi lắm. Tôi nhắc thầm trong trí: ta không mua
thì người khác …
Những mè, rui đã xong rồi. Người thợ mộc bắt đầu tháo gỗ. Tiếng
dùi đục kêu chan chát. Những tiếng rắn chắc vang lên, lộng óc. Tôi thấy con bé
bừng mắt. Nó không nhe răng ra nữa. Đôi môi nó bụm lại. Hai má nó phình ra một
chút. Cứ thế, nó chẳng nói chẳng rằng, chạy bình bịch sang nhà hàng xóm. Nó định
làm gì vậy? Lòng tôi thắc mắc nỗi lo không rõ rệt. Bỗng tôi nghe một tiếng trẻ
con khóc nức nở và hờ:
- Mẹ ơi!…
Tim tôi động một cái giống như bước hụt. Rồi nó đập loạng choạng.
Tôi hơi lảo đảo. Bây giờ thì tôi không lẩn trốn những ý nghĩ của tôi được nữa.
Tôi ác quá! Tôi ác quá! Tôi phải thú với tôi nhiều rồi…
Phải, tôi ác quá, anh Kim nhỉ. Rồi đây, hối hận sẽ toả một
bóng đen vào trong cái nhà mới của tôi, rộng rãi và sạch sẽ hơn cái trước. Những
chiều đông lạnh lẽo, một con thạch sùng nấp trên một cái xà ngang, sẽ tặc lưỡi
nhắc cho tôi biết: Tôi ác quá! Tôi ác quá!… Nhưng mà thôi anh Kim ạ! Nghĩ ngợi
làm gì nữa? Ở cảnh chúng ta lúc này, hạnh phúc cũng chỉ là một cái chăn hẹp.
Người này co thì người kia bị hở. Đâu phải tôi muốn tệ? Nhưng biết làm sao được?
Ai bảo đời cứ khắt khe vậy? Giá người ta vẫn có thể nghĩ đến mình mà chẳng thiệt
gì đến ai!…
Từ ngày mẹ chết
Hôm nay mưa rét. Mỗi khi trời mưa rét Ninh lại nhớ đến bu. Hồi bu còn sống, những ngày mưa rét, không ra vườn hái trầu, bóc mía hay làm cỏ được, bu hay mang cái bị giẻ và một ôm quần áo rách vào ổ rơm ngồi vá. Bu Ninh khéo vá lắm. Những miếng vá đặt rất phẳng phiu, không răn rúm. Những mũi kim nhỏ, đều đặn và thẳng tắp. Người vô ý trông không biết là áo vá. Mà bu Ninh vá thật không biết gì là sốt ruột. Ai đâu mà ngồi đến tê cả mông, mờ cả mắt cũng không thôi. Những lúc đau lưng quá, bu Ninh chỉ ngừng kim một lát, vươn vai hoặc bẻ lưng vào cái cạnh giường kêu răng rắc, rồi lại cúi đầu xuống vá, vá hết cái này sang cái khác. Bao nhiêu là quần áo rách! Những cái quần trắng, áo cánh trắng của thầy, đầy nhựa chuối. Những cái váy bạc phếch của bu. Những cái váy bằng vải to nhuộm sồng với nhuộm bùn, dày cồm cộp. Trông cái váy, người ta tưởng như nó bền đến thiên niên vạn đạị ấy thế mà cũng rách. Tội nghiệp, thì ra nó đẫm nhiều nước tiểu của thằng Đật quá. Về mùa rét, cậu Đật ta đêm nằm cứ tuồn hai chân vào lòng mẹ. Chả thế thì nó ấm mà! Nhưng tính cậu ta lại đái dầm, càng rét càng khỏe đái. Ấy thế là cứ mỗi đêm ba bốn lần, cậu rót tồ tồ vào váy mẹ. Chẳng sáng nào, mẹ không phải thay váy đem ra ao giặt. Còn gì mà chẳng mục? Không mục có họa là bằng gỗ lim!... Nhưng nhiều nhất là những quần áo của Ninh, của Đật. Cái nhuộm son, cái giãi nâu, cái để trắng. Nhưng chẳng cái nào còn giữ trọn vẹn được cái mầu của nó. Bởi vì cái thì mốc xanh, cái thì mốc vàng, cái thì lấm tấm hoa bèo, cái thì trạt những nhựa chuối, những tương, những mắm, mũi dãi cùng đất cát. Vò đến sái tay cũng không còn sạch được. Mà cái thì mất cúc, cái thì xoạc nách, cái thì xoạc túi, cái thì rách lưng, cái thì rách vai, cái thì rách ống tay. Chỉ tại nó nghịch quá. Không thể chưa đến nỗi. Nhiều cái vải còn dai lắm, xé kêu xoàn xoạt. Chúng nó mặc hại quần áo lắm. Cứ gọi là vừa mặc vừa xé áo. Bu Ninh tay vá, miệng chửi cho không còn tai nào mà nghe...
Hôm nay mưa rét. Mỗi khi trời mưa rét Ninh lại nhớ đến bu. Hồi bu còn sống, những ngày mưa rét, không ra vườn hái trầu, bóc mía hay làm cỏ được, bu hay mang cái bị giẻ và một ôm quần áo rách vào ổ rơm ngồi vá. Bu Ninh khéo vá lắm. Những miếng vá đặt rất phẳng phiu, không răn rúm. Những mũi kim nhỏ, đều đặn và thẳng tắp. Người vô ý trông không biết là áo vá. Mà bu Ninh vá thật không biết gì là sốt ruột. Ai đâu mà ngồi đến tê cả mông, mờ cả mắt cũng không thôi. Những lúc đau lưng quá, bu Ninh chỉ ngừng kim một lát, vươn vai hoặc bẻ lưng vào cái cạnh giường kêu răng rắc, rồi lại cúi đầu xuống vá, vá hết cái này sang cái khác. Bao nhiêu là quần áo rách! Những cái quần trắng, áo cánh trắng của thầy, đầy nhựa chuối. Những cái váy bạc phếch của bu. Những cái váy bằng vải to nhuộm sồng với nhuộm bùn, dày cồm cộp. Trông cái váy, người ta tưởng như nó bền đến thiên niên vạn đạị ấy thế mà cũng rách. Tội nghiệp, thì ra nó đẫm nhiều nước tiểu của thằng Đật quá. Về mùa rét, cậu Đật ta đêm nằm cứ tuồn hai chân vào lòng mẹ. Chả thế thì nó ấm mà! Nhưng tính cậu ta lại đái dầm, càng rét càng khỏe đái. Ấy thế là cứ mỗi đêm ba bốn lần, cậu rót tồ tồ vào váy mẹ. Chẳng sáng nào, mẹ không phải thay váy đem ra ao giặt. Còn gì mà chẳng mục? Không mục có họa là bằng gỗ lim!... Nhưng nhiều nhất là những quần áo của Ninh, của Đật. Cái nhuộm son, cái giãi nâu, cái để trắng. Nhưng chẳng cái nào còn giữ trọn vẹn được cái mầu của nó. Bởi vì cái thì mốc xanh, cái thì mốc vàng, cái thì lấm tấm hoa bèo, cái thì trạt những nhựa chuối, những tương, những mắm, mũi dãi cùng đất cát. Vò đến sái tay cũng không còn sạch được. Mà cái thì mất cúc, cái thì xoạc nách, cái thì xoạc túi, cái thì rách lưng, cái thì rách vai, cái thì rách ống tay. Chỉ tại nó nghịch quá. Không thể chưa đến nỗi. Nhiều cái vải còn dai lắm, xé kêu xoàn xoạt. Chúng nó mặc hại quần áo lắm. Cứ gọi là vừa mặc vừa xé áo. Bu Ninh tay vá, miệng chửi cho không còn tai nào mà nghe...
Đật và Ninh chiếm mỗi đứa một bên cạnh mẹ. Chúng nó nằm phục
vị, đều chúi vào đít mẹ, Ninh kêu bên Ninh ấm, Đật cãi bên Đật ấm, hai đứa cãi
nhau chí chóe. Mẹ đùa con, bảo:
- Có im, không thì tao đánh cho một cái... tha hồ ấm.
Chị em cười khành khạch rồi cãi nhau bô bô. Ninh mồm mép quá,
Đật không nói kịp. Đật òa khóc. Mẹ ngừng kim, cốc vào đầu con gái. Ninh rụt cổ
lại, ôm đầu cười hí hí. Mẹ Ninh bật cười. Ấy thế là Ninh sằng sặc cười thật to,
khiến Đật đang khóc cũng khanh khách cười... Chao ôi! những ngày mưa rét hồi ấy
vui quá nhỉ?
Bu chết đã ngót ba năm. Thầy bảo thế. Thì ra ba năm cũng dài
lắm nhỉ. Ninh cứ tưởng bu Ninh chết đã lâu lắm. Nhưng trách gì!... Xưa kia, những
ngày bu đi chợ tỉnh, độ gần tối chưa về Ninh đã thấy mong. Ấy là mới vắng bu có
một ngày. Mà nào đã hết cả ngày. Bây giờ vắng bu bằn bặt những ba năm. Bao
nhiêu ngày tháng! Ninh thấy lâu là phải. Biết bao giờ mẹ lại về với con? Ninh
bâng khuâng cả người. Y như là nằm mợ ấy là Ninh đã nguôi nguôi đấy. Hồi mẹ
Ninh mới chết, cứ nghĩ đến mẹ là Ninh khóc. Ninh khóc ằng ặc như người nuốt phải
ngụm gì đắng quá, nó quánh vào cổ họng. Khóc đến lặng hẳn người đi, không còn
ra tiếng nữa. Chẳng ngày nào không thế. Mỗi ngày hai, ba lần.
Bây giờ thì Ninh không khóc nữa. Nhưng Ninh vẫn còn buồn lắm.
Buồn rũ rĩ. Ninh ngơ ngẩn như mất vía. Có lúc Ninh làm gì mà cũng không biết nữa.
Ninh vừa cất con dao hay cái chổi, giá thầy Ninh có hỏi, Ninh đã lại chẳng biết
đâu mà lấy. Thầy Ninh cũng hiểu Ninh nhớ mẹ, nên không nỡ mắng. Thầy rân rấn nước
mắt. Bố nhìn con, con nhìn bố. Hai bố con cùng cúi đầu lẳng lặng. Bố thở dài và
con thở dài...
Mẹ Ninh chết sau ngày giỗ ông nội Ninh có hai ngày. Ninh nhớ
rõ thế, bởi vì ngày giỗ ông năm ấy, hai mẹ con đã khóc lóc với nhau từ non trưa
cho đến tối. Sáng dậy thầy Ninh hâm thuốc cho bu Ninh uống rồi thầy quét nhà,
quét sân, giặt quần áo cho bu. Rồi lại còn phải lấy gạo thổi một niêu cơm để đấy
cho Ninh nữa. Xong đâu đấy thầy cõng Đật đi ăn giỗ. Ninh phải ở nhà coi mẹ. Thầy
Ninh bảo: "Con chịu khó ở nhà với bu kẻo bu buồn, thầy cho em đi một lát,
lúc về thầy lấy phần cho một nắm xôi, vài miếng thịt, tính con thịt mỡ chỉ ba
miếng là chán ứ. Đi, con cũng chả ăn được mấy, mà ở nhà thì thầy cũng đem về
cho con. Đằng nào con cũng được ăn, nhưng bu con ốm thế, để bu ở nhà một mình
thì thầy lo lắm". "Con ở nhà với bu...". Việc gì mà thầy phải
nói nhiều đến thế? Ninh có đòi đi đâu? Thịt mỡ thì Ninh không thích thật. Nhưng
dù có thích, Ninh cũng không đi cơ mà! Đi cũng khó mà nuốt được. Ninh thương bu
lắm. Ninh thích ở nhà với bu. Thầy Ninh còn phải cúng ông, thì thầy Ninh phải
đi. Thằng Đật còn bé, dở người, không cho nó đi thì nó khóc. Chẳng lẽ Ninh to đầu
rồi mà cũng bắt chước em? Có mà đồ hư? Không, Ninh không đi đâu, thầy ạ. Ninh
không muốn đi đâu, thầy ạ! Thầy cứ cõng thằng Đật đi kẻo muộn. Ninh ở nhà thích
lắm. Thầy đừng thương Ninh...
Nhưng thấy Ninh cứ nhìn theo thầy cõng thằng Đật đi ra ngõ,
bu Ninh lại tưởng Ninh muốn đi ăn giỗ lắm, nhưng sợ bố mà không dám đòi đi. Bu
Ninh thương hại. Bu gọi Ninh vào mà bảo:
- Con muốn đi thì cứ đi cũng được. Hôm nay bu dễ chịu.
Ôi! Không!... không!... Ninh không muốn... Ninh lắc đầu hăng
hái:
- Không! Con ở nhà.
- Sao thế?
- Chẳng sao cả, nhưng con không thích...
- Nhưng ngộ bà không thấy con, bà lại hỏi...
Hỏi gì! Bà biết thừa là bu ốm nặng. Ninh phải ở nhà để bu sai
vặt chứ!... Ninh nghĩ thầm như vậy, nhưng không nói. Ninh chỉ hơi lắc đầu. Nhưng
có lẽ bu cũng hiểu. Bu nhìn Ninh âu yếu. Mắt bu ầng ậc nước. Bu chửi yêu Ninh:
- Bố mày!
Rồi bu lại bảo Ninh:
- Không đi thì ngồi xuống đây... Bóp tay cho bu một lúc. Tay
bu buồn lắm.
Ninh nắm lấy cái bàn tay bu, chỉ còn rặt những xương, mà lạnh
giá. Nó lỏng la, lỏng lẻo. Những ngón trông rõ từng đốt, từng đốt một. Những đường
gân xanh nổi thày lày lên. Ninh bóp tay bu nhẹ nhẹ. Ý hẳn bu thích lắm. Mắt bu
lim dim và đôi môi nhợt nhạt của bu hé mở như chực cười. Rồi tay bu nắm lấy tay
Ninh chứ không phải Ninh bóp tay cho bu nữa. Bu vừa bóp vừa hỏi:
- Sao lớp này con gầy thế?
Ninh không đáp được. Bu Ninh soi tay Ninh lên trước mặt nhìn
rồi bảo:
- Chết thôi, con ạ! Tay mày đầy những mụn. Không khéo ghẻ...
Ninh cúi mặt. Bu căng từng kẽ tay Ninh ra xem, rồi kêu lên:
- Bỏ bố mày! Đích thị mày ghẻ rồi, con ơi! Yên, tao xem nào.
Bu ngồi hẳn lên. Mắt bu tỏ ra vẻ sợ hãi. Bu vén ống tay áo
Ninh lên. Cổ tay Ninh sây sứt. Bu lắc đầu:
- Bố con! Con bẩn quá! Cái cổ tay gồ lên những ghét... Hèn
nào mà chả ghẻ?
Bu bắt Ninh đi múc nước. Bu rửa cho Ninh lâu lắm. Vừa rửa bu
vừa bảo:
- Sẩy mẹ ra một cái là khổ ngay, con ạ. Ấy là mới rời tao ra
hơn một tháng... Chúng mày đã gầy giơ xương, mình mẩy, chân tay thì ghẻ gún. Ngộ
tao chết thì có lẽ chúng mày rã xương ra được. Này, cái cổ tay... có khác gì
cái cẳng gà hay không?
Ngừng một lát, bu lại thở dài mà bảo:
- Mẹ mà chết thì các con đi ăn mày mất! Đàn ông chả mấy người
biết thương con cái. Cha chết thì ăn cơm với cá, mẹ chết liếm lá dọc đàng. Mẹ
mà chết đi thì... con ơi!...
Ấy thế là nước mắt bu chảy ra ròng ròng. Ninh cũng khóc. Hai
mẹ con cứ ngồi trông nhau mà khóc đến tận lúc thầy Ninh với Đật đi ăn giỗ về.
Thầy đem về một nắm xôi đỗ con với một cái đùi gà toàn những thịt. Bà thương
Ninh nên bảo chặt để lại cho Ninh đấy. Nhưng Ninh thương bu quá, ăn cũng chả
còn biết gì là ngon...
Ồ! Ninh cứ bảo: bây giờ nghĩ đến bu, Ninh không khóc nữa...
Không khóc mà lại có nước mắt, nước mũi Ninh đang chảy ra đây này... Đật! Đật
ơi! Ô hay! cái thằng Đật chạy đi đâu rồi?
Đàn ông chả mấy người biết thương con cái... Thật thế ư?
Không có lẽ. Thầy Ninh thương chị em Ninh lắm chứ!... Hồi bu mới chết, thằng Đật
khóc suốt ngày. Nó gào bu. Nó đã hiểu là thế nào đâu. Nó cứ đòi gọi bu về với
nó. Thầy phải cõng nó ra chợ mua bánh. Thầy mua cho nó nhiều bánh lắm. Thầy mua
cả cho Ninh nữa. Thầy với Ninh bày cỗ chơi với Đật. Thầy làm cho Đật những con
quay bằng những quả bưởi con, những cái giường, những cái ghế tràng kỷ bằng cây
chót. Trông thích lắm. Nhờ vậy Đật mới không khóc nữa.
Đêm, Đật và Ninh ngủ với thầy. Ninh nằm trong cùng. Đật nằm
giữa. Thầy nằm ngoài. Thầy bảo Đật luồn chân vào lòng thầy cho thầy ủ. Khi nó
đã ngủ mệt rồi, thầy vươn tay qua người nó để sờ Ninh. Thầy kéo Ninh nằm sát
vào với Đật. Thầy co chăn, co chiếu về phía Ninh thật nhiều, sợ Ninh giãy, trật
ra ngoài, bị rét. Mùa bức thì thầy đặt hai đứa nằm cách nhau xa cho mát. Thầy
ngồi quạt. Quạt cho đến tận lúc nào con ngủ mệt, thầy mới chịu ngả lưng xuống
giường. Nhưng nằm thì nằm, thầy có ngủ đâu. Ninh thấy thầy quạt rất khuya. Có
đêm, ngủ được một giấc dài, tỉnh dậy, Ninh vẫn còn nghe phành phạch. Thầy thở
dài luôn ấy. Có khi sụt sịt. Thì ra đêm đêm thầy vẫn khóc. Thầy nhớ bu...
Ấy, cái hồi bu mới chết thì thế đấy. Nhưng ít lâu nay, hình
như thầy đổi tính. Thầy vẫn thương Ninh và Đật. Thỉnh thoảng thầy vẫn cho mỗi đứa
vài xu ăn quà. Nhưng thầy vắng nhà luôn. Thầy phải gửi gạo bên nhà bác Vụ để thổi
cơm cho Ninh và Đật. Bởi thầy đi từ sáng cho đến tối. Có khi tối cũng không về.
Có khi đi luôn hai, ba ngày. Chị em Ninh phải ăn nhờ, ngủ nhờ nhà bác Vụ. Đi
đâu vậy? Nào ai biết! Bác Vụ bảo thầy đến nhà cô Miện, thầy phải lòng cô ấy.
Nhưng chắc là chả phải. Nếu phải, sao cô Miện lại đi lấy lẽ ông ký Bản? Đám cưới
vừa đi qua đây hôm nọ. Ninh cõng Đật ra tận đường, đứng xem. Từ hôm ấy thầy lại
càng khỏe đi. Đi suốt ngày suốt đêm. Mưa rét thế này, chả biết thầy đi làm gì
cho khổ? Chả biết có được ăn gì hay không? Hay là nhịn đói luôn ba, bốn ngày...
Lại còn cái ông Đật nữa! Đi đâu mà mãi thế này? Ý dáng lại lẩn
sang nhà bác Vụ. Còn sang làm gì? Gạo của thầy gửi đã hết từ đời nào. Bác ấy phải
cho ăn lận nhà bác ấy năm, sáu bữa. Nhà bác ấy cũng túng. Chồng chết đi, để lại
đẫy bốn con. Bốn đứa cũng lúc nhúc như Ninh và Đật. Bác ấy nuôi được chúng nó
cũng đến điều vất vả. Còn lấy gì mà nuôi cả Ninh và Đật nữa? Bác ấy đã phải bảo
Ninh: "Cháu về mà đi tìm thầy, nhà bác cũng hết gạo rồi, nếu thầy không
đưa thêm cho bác thì bác lấy gì thổi cho chúng mày? Các anh cũng đói...".
Thế là Ninh đủ hiểu. Bác ấy muốn bảo: "Chúng mày liệu sao thì liệu, đừng
ăn rình nhà tao mãi!". Ninh đưa em về. Tìm thầy, thì biết đâu mà tìm được?
Ninh chẳng tìm. Không có ăn thì nhịn! Ninh nhịn từ bữa chiều hôm qua. Đật khóc,
Ninh đi moi được một củ dong về nướng. Đật một nửa. Ninh một nửa. Ninh bảo Đật
ăn cho đỡ đói thôi, còn cố nhịn, đợi thầy về, ăn nữa. Nhưng Đật không nhịn được.
Đật chạy sang nhà bác Vụ. Bác ấy phải lấy trộm nắm cơm tối của thằng cu Chúc
nhà bác ấy, đưa cho Đật, Đật mới ăn được một miếng thì Chúc biết. Chúc chạy vào
nhà tìm nắm cơm của nó. Thấy mất, nó biết là nắm cơm của nó đương ở trong tay Đật.
Nó chạy theo, giằng lại. Đật mất ăn, mếu xệch mồm đi, chạy về. Ninh đứng ở hè
bên này, trông rõ cả. Ninh tức lắm. Chẳng biết tức Chúc hay tức Đật. Chỉ biết
Ninh nghẹn ngào cả cổ. Vừa thấy Đật, Ninh nhảy xổ lại, tát đen đét vào má Đật.
Đật òa lên khóc. Ninh òa khóc theo.
Một lát sau, Ninh nghĩ thương em quá, Ninh lại đi tìm dong,
nhưng hết. Ninh moi luôn một củ ráy. Ráy nước, ăn ngứa lắm. Nhưng đói còn biết
gì là ngứa? Ninh đem về nướng. Ninh gọi Đật về, lau nước mắt cho nó, rồi chị em
ăn ráy nước. Đật ăn tợn lắm, chẳng thấy kêu ca gì cả. Ninh rơi nước mắt. Ninh dặn
em: "Từ giờ đừng ăn cơm nhà thằng Chúc nữa". Đật gật đầu. Thế mà hôm
nay nó lại lần sang nhà bác Vụ. Có bực mình hay không?
Ninh reo lên:
- A bà! Đấy là bà ngoại Ninh. Bà ở xa xôi lắm. Hôm nay, tiện
ra mạn này lấy thuốc, bà tạt vào chơi với cháu.
Bà đưa cho cháu một đùm xôi lạc.
- Bố mày đi đâu?
- Con không biết.
- Đi từ bao giờ mà mày không biết?
- Đi lâu lâu là rồi.
Bà ngồi xuống ngưỡng cửa, mặt hầm hầm như giận dữ. Ninh hơi
ngượng. Bà chíp chíp mồm luôn ba, bốn cái rồi bảo cháu:
- Có phải bố mày bán nhà rồi không?
- Con không biết.
- Bán rồi! Thua xóc đĩa... Thua đâu những ngót ba trăm bạc...
Đật chạy về. Nó vồ lấy bà, nhưng trông thấy đùm xôi ở tay
Ninh, lại bỏ bà ra để vồ lấy đùm xôi. Ninh hất tay nó ra, mắng:
- Làm gì thế?
Nhưng bà bảo:
- Cởi ra, chị em ăn với nhau. Để làm gì?
Đật giằng lấy đưa cho bà cởi. Bà chia cho mỗi đứa một nửa.
Hai cháu ăn. Đật ngồm ngoàm. Ninh thong thả. Bà nhìn cháu mà ái ngại. Bà chép
miệng:
- Đến chết đói thôi, các cháu ạ! Bố chúng mày không ra giống
người...
Một tiếng thở dài tiếp theo...
... Buổi sáng hôm ấy trời ấm áp. Có nắng hanh. Nắng luôn mấy
hôm rồi, nên vườn khô ráo... Đật và Ninh đã chạy tung tăng được...
Bỗng một bọn năm, sáu người, kẻ cầm lạt, kẻ cầm dùi đục, tuốn
vào đầy sân. Mồm họ nhai trầu. Họ nói chuyện toang toang như một bọn đồ tể đi bắt
lợn. Mấy người trèo lên nóc nhà nhà Ninh. Họ dỡ tranh quẳng xuống sân rào rào.
Ninh chạy về...
- Ô hay! Sao các ông phá nhà tôi?
Một người chít khăn mỏ rìu, nhe những cái răng cải mả ra cười
mà bảo:
- A! Thầy mày thuê chúng tao phá đi để làm nhà tây đấy mà.
Một người nữa cười ìn ịt như con lợn, bảo:
- Chả cái này bé quá!... Và người nữa:
- Thầy mày thích làm nhà tây kia... Làm nhà bên Tây - Trúc ấy
mà, mày biết không?
Cả bọn cười ầm lên. Trông người nào cũng dữ. Họ nói như quát
vậy. Ninh sợ hãị Ninh chạy bình bịch sang nhà bác Vụ. Ninh định cầu cứu bác. Vừa
bước vào nhà bác. Ninh sửng sốt. Thầy Ninh ở đấy. Thầy Ninh nằm thườn thượt
trên một cái giường, hai tay chít lại bên dưới gáy. Ninh mếu máo:
- Thầy ơi! Thầy…
Rồi Ninh nghẹn ngào, không nói được nữa. Nước mắt ứa ra. Thầy
Ninh ngồi dậy, bảo:
- Việc gì mà khóc? Thầy bán cho người ta đấy. Bán lấy tiền
mua vài phiến lim về xẻ. Chuyến sau, ta làm một cái nhà toàn lim!
Thầy nhếch mép ra cười. Cái cười vạch hai nét nhăn trên đôi
má hõm. Thầy cười thế, trông già sọm. Có lý nào thầy chóng già đi quá thế? Ninh
trố mắt lên nhìn thầy...
Bỗng từ bên nhà đưa sang những tiếng dùi đục kêu chan chát.
Nghe ghê rợn lắm. Ninh đã được nghe những tiếng dùi đục ấy một lần rồi, vào cái
ngày mẹ chết: người ta đóng cả chiếc săng của mẹ... Vết nhăn trên má thầy Ninh
sâu thêm, rộng thêm ra. Trông như thầy Ninh mếu. Ninh òa lên khóc...
- Bu ơi là bu ơi!...
Chí Phèo
Hắn vừa đi vừa chửi. Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi. Bắt đầu chửi trời, có hề gì? Trời có của riêng nhà nào? Rồi hắn chửi đời. Thế cũng chẳng sao: Đời là tất cả nhưng cũng chẳng là ai. Tức mình hắn chửi ngay tất cả làng Vũ Đại. Nhưng cả làng Vũ Đại ai cũng nhủ: “Chắc nó trừ mình ra!”. Không ai lên tiếng cả. Tức thật! Ồ thế này thì tức thật! Tức chết đi được mất! Đã thế, hắn phải chửi cha đứa nào không chửi nhau với hắn. Nhưng cũng không ai ra điều. Mẹ kiếp! Thế thì có phí rượu không? Thế thì có khổ hắn không? Không biết đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn cho hắn khổ đến nông nỗi này! A ha! Phải đấy hắn cứ thế mà chửi, hắn chửi đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn, đẻ ra cái thằng Chí Phèo? Mà có trời biết! Hắn không biết, cả làng Vũ Đại cũng không ai biết.
Hắn vừa đi vừa chửi. Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi. Bắt đầu chửi trời, có hề gì? Trời có của riêng nhà nào? Rồi hắn chửi đời. Thế cũng chẳng sao: Đời là tất cả nhưng cũng chẳng là ai. Tức mình hắn chửi ngay tất cả làng Vũ Đại. Nhưng cả làng Vũ Đại ai cũng nhủ: “Chắc nó trừ mình ra!”. Không ai lên tiếng cả. Tức thật! Ồ thế này thì tức thật! Tức chết đi được mất! Đã thế, hắn phải chửi cha đứa nào không chửi nhau với hắn. Nhưng cũng không ai ra điều. Mẹ kiếp! Thế thì có phí rượu không? Thế thì có khổ hắn không? Không biết đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn cho hắn khổ đến nông nỗi này! A ha! Phải đấy hắn cứ thế mà chửi, hắn chửi đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn, đẻ ra cái thằng Chí Phèo? Mà có trời biết! Hắn không biết, cả làng Vũ Đại cũng không ai biết.
Một anh đi thả ống lươn, một buổi sáng tinh sương đã thấy hắn
trần truồng và xám ngắt trong cái váy đụp để bên một lò gạch bỏ không, anh ta
rước lấy và đem cho một người đàn bà góa mù. Người đàn bà góa mù này bán hắn
cho một bác phó cối không con và khi bác phó cối này chết thì hắn bơ vơ, hết đi
ở cho nhà này lại đi ở cho nhà nọ. Năm hai mươi tuổi, hắn làm canh điền cho ông
lý Kiến, bây giờ cụ bá Kiến, ăn tiên chỉ làng. Hình như, có mấy lần bà ba nhà
ông lý, trẻ lắm mà lại hay ốm lửng, bắt hắn bóp chân, hay xoa bụng, đấm lưng gì
đấy. Người ta bảo ông lý ra đình thì hách dịch, cả làng phải sợ, mà về nhà phải
sợ cái bà ba còn trẻ này. Người bà ấy phốp pháp, má bà ấy hây hây, mà ông lý
thì hay đau lưng lắm; người có bệnh đau lưng thì hay sợ vợ mà chúa đời là khoẻ
ghen. Có người bảo ông lý ghen anh canh điền khoẻ mạnh mà sợ bà ba không dám
nói. Có người thì bảo anh canh điền ấy được bà ba quyền thu quyền bổ trong nhà
tin cẩn nên lấy trộm tiền trộm thóc nhiều. Mỗi người nói một cách. Chẳng biết
đâu mà lần. Chỉ biết một hôm Chí bị giải huyện rồi nghe đâu phải đi tù. Không
biết tù mấy năm, nhưng hắn đi biệt tăm bảy, tám năm, rồi một hôm, hắn lại lù lù
ở đâu lần về. Hắn về lần này trông khác hẳn, mới đầu chẳng ai biết hắn là ai.
Trông đặc như thằng sắng cá! Cái đầu thì trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái
mặt thì đen mà rất cơng cơng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết! Hắn mặc quần áo
nái đen với cái áo tây vàng. Cái ngực phanh đầy những nét chạm trổ rồng, phượng
với một ông tướng cầm chùy, cả hai cánh tay cũng thế. Trông gớm chết!
Hắn về hôm trước, hôm sau đã thấy ngồi ở chợ uống rượu với thịt
chó suốt từ trưa đến xế chiều. Rồi say khướt, hắn xách một cái vỏ chai đến cổng
nhà bá Kiến, gọi tận tên tục ra mà chửi. Cụ bá không có nhà. Thấy điệu bộ hung
hăng của hắn, bà cả đùn bà hai, bà hai thúc bà ba, bà ba gọi bà tư, nhưng kết cục
chẳng bà nào dám ra nói với hắn một vài lời phải chăng. Mắc cái phải cái thằng
liều lĩnh quá, nó lại say rượu, tay nó lại lăm lăm cầm một cái vỏ chai, mà nhà
lúc ấy toàn đàn bà cả... Thôi thì cứ đóng cái cổng cho thật chặt, rồi mặc thây
cha nó, nó chửi thì tai liền miệng đấy, chửi thì lại nghe! Thành thử chỉ có ba
con chó dữ với một thằng say rượu!... Thật là ầm ỹ! Hàng xóm phải một bữa điếc
tai, nhưng có lẽ trong bụng thì họ hả: xưa nay họ mới chỉ được nghe bà cả, bà
hai, bà ba, bà tư nhà cụ bá chửi người ta, bây giờ họ mới thấy người ta chửi lại
cả nhà cụ bá. Mà chửi mới sướng miệng làm sao! Mới ngoa ngắt làm sao. Họ bảo
nhau: Phen này cha con thằng bá Kiến đố còn dám vác mặt đi đâu nữa! Mồ mả tổ
tiên đến lộn lên mất. Cũng có người hiền lành hơn bảo: “Phúc đời nhà nó, chắc
ông lý không có nhà...”. Ông lý đây là ông lý Cường, con giai cụ Bá nổi tiếng
là hách dịch, coi người như rơm rác. Phải ông lý Cường thử có nhà xem nào! Quả
nhiên họ nói có sai đâu! Đấy, có tiếng người sang sảng quát: “Mày muốn lôi thôi
gì?... Cái thằng không cha không mẹ này! Mày muốn lôi thôi gì?...” Đã bảo mà!
Cái tiếng quát tháo kia là tiếng lý Cường. Lý Cường đã về! Lý Cường đã về! Phải
biết... A ha! Một cái tát rất kêu. Ôi! Cái gì thế này? Tiếng đấm tiếng đá nhau
bình bịch. Thôi, cứ gọi là tan xương! Bỗng “choang” một cái, thôi phải rồi, hẳn
đập cái chai vào cột cổng... ồ hắn kêu! Hắn vừa chửi vừa kêu làng như bị người
ta cắt họng. Ồ hắn kêu!
- Ối làng nước ơi! Cứu tôi với... Ối làng nước ôi! Bố con thằng
bá Kiến nó đâm chết tôi! Thằng lý Cường nó đâm chết tôi rồi, làng nước ôi!...
Và họ thấy Chí Phèo lăn lộn dưới đất, vừa kêu vừa lấy mảnh
chai cào vào mặt. Máu ra loe loét trông gớm quá! Mấy con chó xông vào quanh hắn,
sủa rất hăng. Lý Cường hơi tái mặt, đứng nhìn mà cười nhạt, cười khinh bỉ. Hừ!
Ngỡ là gì, chẳng hoá ra nằm ăn vạ! Thì ra hắn định đến đây nằm vạ!
Người ta tuôn đến xem. Mấy cái ngõ tối xung quanh đùn ra biết
bao nhiêu là người! Thật ồn ào như chợ. Bà cả, bà hai, bà ba, bà tư nhà cụ bá
cũng vững dạ vì có anh lý, cũng xưng xỉa ra chửi góp. Thật ra, các bà muốn xem
Chí Phèo ra làm sao? Không khéo nó có ý gieo vạ cho cụ ông phen này...
Nhưng kìa cụ ông đã về. Cụ cất tiếng rất sang hỏi: “Cái gì mà
đông như thế này?”. Chỗ này “lạy cụ”, chỗ kia “lạy cụ”, người ta kính cẩn giãn
ra, và Chí Phèo bỗng nằm dài, không nhúc nhích rên khe khẽ như gần chết.
Thoáng nhìn qua, đã hiểu cơ sự rồi. Làm lý trưởng rồi chánh tổng,
bây giờ lại đến lượt con cụ làm lý trưởng, những việc như thế này cụ không lạ
gì. Cụ hãy quát mấy bà vợ đang xưng xỉa chực tâng công với chồng:
- Các bà đi vào nhà: đàn bà chỉ lôi thôi, biết gì?
Rồi quay lại bọn người làng, cụ dịu giọng hơn một chút:
- Cả các ông, các bà nữa, về đi thôi chứ! Có gì mà xúm lại như
thế này?
Không ai nói gì, người ta dần dần tản đi. Vì nể cụ bá cũng
có, nhưng vì nghĩ đến sự yên ổn của mình cũng có: người nhà quê vốn ghét lôi
thôi. Ai dại gì đứng ỳ ra đấy, có làm sao họ triệu mình đi làm chứng. Sau còn
trơ lại Chí Phèo và cha con cụ bá. Bây giờ cụ mới lại gần hắn, khẽ lay và gọi:
- Anh Chí ơi! Sao anh lại làm ra thế ?
Chí Phèo lim dim mắt, rên lên:
- Tao chỉ liều chết với bố con nhà mầy đấy thôi. Nhưng tao mà
chết thì có thằng sạt nghiệp, mà còn rũ tù chưa biết chừng.
Cụ bá cười nhạt, nhưng tiếng cười giòn giã lắm: người ta bảo
cụ hơn người cũng chỉ bởi cái cười.
- Cái anh này nói mới hay! Ai làm gì mà anh phải chết? Đời
người chứ có phải con ngoé đâu? Lại say rồi phải không?
Rồi đổi giọng, cụ thân mật hỏi:
- Về bao giờ thế? Sao không vào tôi chơi? Đi vào nhà uống nước.
Thấy Chí Phèo không nhúc nhích, cụ tiếp luôn:
- Nào đứng lên đi. Cứ vào đây uống nước đã. Có cái gì ta nói
chuyện tử tế với nhau, cần gì mà phải làm thanh động lên như thế, người ngoài
biết, mang tiếng cả.
Rồi vừa xốc Chí Phèo, cụ vừa phàn nàn:
- Khổ quá! Giá có tôi ở nhà thì đâu đến nỗi. Ta nói chuyện với
nhau, thế nào cũng xong. Người lớn cả, chỉ một câu chuyện với nhau là đủ. Chỉ tại
thằng lý Cường nóng tính không biết nghĩ trước nghĩ sau. Ai, chứ anh với nó còn
có họ kia đấy.
Chí Phèo chẳng biết họ hàng ra làm sao, nhưng cũng thấy lòng
nguôi nguôi. Hắn cố làm ra vẻ nặng nề, ngồi lên. Cụ bá biết rằng mình đã thắng,
đưa mắt nháy con một cái, cụ quát:
- Lý Cường đâu! Tội mày đáng chết. Không bảo người ta đun nước,
mau lên!
Cụ dắt Chí Phèo đứng dậy, giục thêm vài tiếng nữa, và Chí
Phèo chịu đi: hắn chỉ cố khập khiễng cái chân như bị què. Là vì lúc ấy trong
người hắn rượu đã hơi nhạt rồi, không còn kêu gào chửi bới, hắn thấy hình như
không còn hăng hái nữa. Sự ngọt ngào làm mềm nhũn, vả lại những người đứng xem
về cả rồi, hắn thấy hình như trơ trọi. Cái sợ cố hữu trong lòng thức dậy, cái sợ
xa xôi thuở ngày xưa, hắn thấy quả là táo bạo. Không táo bạo mà dám gây sự với
cha con bá Kiến, bốn đời làm tổng lý. Và nghĩ thế, hắn thấy hắn cũng oai. Hắn
làm cái ông gì ở làng này? Không vây cánh, không họ hàng thân thích; anh em
không có, đến bố mẹ cũng không... Ờ thế mà cũng dám độc lực chọi nhau với lý
trưởng, chánh tổng, bá hộ tiên chỉ làng Vũ Đại, Chánh Hội đồng kỳ hào, huyện
hào, Bắc kỳ nhân dân đại biểu, khét tiếng đến cả trong hàng huyện. Thử hỏi đã
có mặt nào trong cái làng hơn hai nghìn suất đinh này làm được thế? Kể làm rồi
có chết cũng là cam tâm. Vậy mà không: cái cụ bá thét ra lửa ấy lại xử nhũn, mời
hắn vào nhà xơi nước. Thôi cũng hả, đã xử nhũn thì hắn vào. Nhưng bỗng hắn lại
hơi ngần ngại; biết đâu cái lão cáo già này nó lại chả lừa hắn vào nhà rồi lôi
thôi? Ồ mà thật có thể như thế lắm! Này nó hãy lôi ngay mấy cái mâm cái nồi hay
đồ vàng đồ bạc ra khoác vào cổ hắn, rồi cho vợ ra kêu làng lên, rồi cột cổ hắn
vào, chần cho một trận om xương, rồi vu cho là ăn cướp thì sao? Cái thằng bá Kiến
này, già đời đục khoét, còn đớn cái nước gì mà chịu lép như trấu thế? Thôi dại
gì mà vào miệng cọp, hắn cứ đứng đây này, cứ lăn ra đây này, lại kêu toáng lên
xem nào. Nhưng nghĩ ngợi một tí, hắn có lăn ra kêu nữa, liệu có còn ai ra? Vả lại
bây giờ rượu nhạt rồi, nếu lại phải rạch mặt mấy nhát nữa thì cũng đau. Thôi cứ
vào! Vào thì vào, cần quái gì. Muốn đập đầu thì vào ngay nhà nó mà đập đầu còn
hơn ở ngoài. Cùng lắm, nó có giở quẻ, hắn cũng chỉ đến đi ở tù. Ở tù thì hắn
coi là thường. Thôi cứ vào.
Vào rồi, hắn mới biết những cái hắn sợ là hão cả. Bá Kiến quả
có ý muốn dàn xếp cùng hắn thật. Không phải cụ đớn, chính thật cụ khôn róc đời,
thứ nhất sợ kẻ anh hùng, thứ hai sợ kẻ cố cùng liều thân. Chí Phèo không là anh
hùng, nhưng nó là cái thằng liều lĩnh. Liều lĩnh thì ai thèm chấp! Thế nào là mềm
nắn rắn buông? Cái nghề làm việc quan, nếu nhất nhất cái gì cũng đè đầu ấn cổ
thì lại bán nhà đi cho sớm. Cụ vẫn bảo lý Cường như thế đấy. Vũ dũng như hắn mà
làm lý trưởng là nhờ có cụ. Cụ mà chết đi rồi, “chúng nó” lại không cho ăn bùn.
Tiếng vậy, làm tổng lý không phải việc dễ. Ở cái làng này,
dân quá hai nghìn, xa phủ xa tỉnh, kể ăn thì cũng dễ ăn nhưng không phải hễ mà
làm lý trưởng thì cứ việc ngồi mà khoét. Hồi năm nọ, một thầy địa lý qua đây có
bảo đất làng này vào cái thế “quần ngư tranh thực”, vì thế mà bọn đàn anh chỉ
là một đàn cá tranh mồi. Mồi thì ngon đấy, nhưng mà năm bè bảy mối, bè nào cũng
muốn ăn. Ngoài mặt tử tế với nhau, nhưng thật ra trong bụng lúc nào cũng muốn
cho nhau lụn bại để cưỡi lên đầu lên cổ. Ngay thằng Chí Phèo này đến đây sinh sự
biết đâu lại không có thằng nào ẩy đến? Nếu cụ không chịu nhịn, làm cho to chuyện
có khi tốn tiền. Cái nghề quan bám thằng có tóc ai bám thằng trọc đầu? Bỏ tù nó
thì dễ rồi; nhưng bỏ tù nó cũng có ngày nó được ra, liệu lúc ấy nó có để mình
yên không chứ? Cụ phải cái vụ thằng năm Thọ, mãi đến giờ vẫn chưa quên.
Năm Thọ vốn là một thằng đầu bò đầu bướu. Hồi ấy, bá Kiến mới
ra làm lý trưởng, nó hình như kình nhau với lão ra mặt; lý Kiến muốn trị nhưng
chưa có dịp. Được ít lâu, hắn can dự vào một vụ cướp bị bắt giam; lý Kiến ngấm
ngầm vận động cho vào tù. Vẫn tưởng một người vai vế như năm Thọ mà thất cơ lỡ
vận đến nỗi tội tù làm gì còn dám vác mặt mo về làng? Lý Kiến mừng thầm rằng đã
nhổ được cây đinh trước mắt. Nào ngờ một buổi tối lý Kiến đang ngồi một mình soạn
giấy má thì năm Thọ vác dao xộc vào. Nó đứng chặn lấy cửa và bảo: nếu kêu lên một
tiếng thì đâm chết liền. Thì ra nó vượt ngục và về đây nhờ ông lý một cái thẻ
mang tên một người lương thiện và một trăm đồng bạc để trốn đi. Nó lại bảo:
nghe nó thì nó đi biệt, mà không nghe thì nó đâm chết, rồi muốn ra sao thì ra;
còn muốn sống với vợ con thì nghe nó.
Lẽ tất nhiên là lý Kiến nghe, năm Thọ đi phen ấy là mất tăm,
cũng không bao giờ về nữa thật. Nhưng thói đời, tre già măng mọc, có bao giờ hết
những thằng du côn? Năm Thọ vừa đi, lại có binh Chức ở đâu lần về. Mà thằng này
lúc nó còn ở nhà, nào nó có ngạo ngược gì cho cam! Người ta đã phải gọi hắn là
cục đất. Ai bảo làm sao thì ư hữ làm vậy, mới quát một tiếng thì đã đái cả ra
quần, thuế bổ một đồng thì đóng quá hai, đến nỗi có con vợ hay hay mắt, bị người
ta ghẹo cũng chỉ im im rồi về nhà hành vợ chứ chẳng dám ho he gì, thế đấy: cái
nghề đời hiền quá cũng hoá ngu, ở đâu chứ ở đất này đã ngu, đã nhịn thì chúng
nó ấn cho đến không còn ngóc đầu lên được. Hắn làm thì làm cật lực mà quanh năm
vẫn nghèo rớt mồng tơi; chỉ vì một miếng cũng không giữ được mà ăn; đứa nào nó
vớ nó cũng xoay, mà đứa nào xoay thì cũng chịu. Sau cùng bực quá, hắn ra đi
lính. Lại càng thêm tội! Không bực còn được vợ, tuy rằng thỉnh thoảng có bị sấy
sớt ra ngoài, những vẫn là vợ mình. Bực thì hoá ra mất vợ. Bởi vì chị vợ ở nhà
còn trẻ, mới hai con, cái mắt sắc như dao lại hồng hồng đôi má, bỗng nhiên sinh
ra vắng chồng, của ngon trờ trờ ngay trước mắt, ai mà chịu được?
Nhà chị Binh ở gần đường. Ông phó đi đánh bạc ban đêm về cũng
tạt vào; anh trương tuần đi tuần cũng tạt vào; anh hàng xóm cũng mò sang, thậm
chí đến cái thằng hương Điền, đầu hai thứ tóc, già đời làm đầy tớ cho các ông
lý trưởng, cũng mon men vào gạ gẫm. Vợ binh Chức đã nghiễm nhiên thành một con
nhà thổ không phải trả tiền để bọn lý dịch trong làng chuyên đổi. Chính ngay lý
Kiến, tuy hồi ấy đã có đến ba vợ, cũng không nỡ bỏ hoài cái của không dưng được
trời cho; và không bỏ hoài, ông còn được lợi. Mỗi lần chị Binh đi lĩnh lương
hay lĩnh măng đa của chồng, phải mượn ông lý đi nhận thực. Không ông lý nào vác
của nhà đi ăn mà nhận thực cho người ta, điều ấy là cố nhiên. Nhưng với lý Kiến
thì không những cơm rượu tiền túi, còn phải cho ngồi xe chung và còn ở lại tỉnh
nữa.
Thế là mấy đồng bạc lương đi đời; mấy đứa con của chị ngày
mai chỉ được mấy cái kẹo đạn mút, hay hậu hĩnh ra thì được mấy cặp bánh giầy
giò ăn. Thành thử công lao anh Binh, rút lại chỉ cho chị Binh mỗi tháng một lần
hưởng những cuộc vui với ông lý nhà.
Chẳng hiểu anh ta cũng biết thế mà chán cảnh nhà hay sao mà
mãn hạn ba năm cũng không thấy trở về. Rồi ít lâu sau, có trát về làng tróc nã
và áp giải tên Trần Văn Chức. Lý Kiến khai tên ấy thuộc hạng dân lưu tán không
về làng. Nhưng khai hôm trước thì hôm sau hắn về. Lý Kiến sai đầy tớ đem trát đến
nhà đòi hắn. Hắn đến ngay, nhưng lại dẫn theo cả vợ và hai con. Không đợi ông
lý nói một câu, hắn rút con dao chọc tiết lợn ra, nhăm nhăm cầm ở tay mà bảo rằng:
“Chẳng nói giấu gì ông, tôi can án giết người. Nếu ông không thương, mà bắt giải
thì vợ con tôi chết đói. Thôi thì đằng nào chúng nó cũng chết, tôi đâm chúng nó
chết ở đây rồi ông bắt đi ở tù luôn thể”. Mắt hắn đỏ ngầu; lưỡi dao hắn hoa lên
loang loáng, chỉ trông cũng lạnh gáy. Hắn có thể giết người được lắm, mà không
chỉ giết có vợ và con thôi, khi hắn có gan đâm chết vợ con thì hắn có kiêng gì
cái cổ của người khác nữa? Lý Kiến nghĩ ngợi một lúc rồi bảo cứ về rồi ông liệu.
Ông liệu nghĩa là ông che đậy cái án của hắn cho không ai biết và mỗi lần có
trát về nhắc, ông lại khai rằng: vẫn chưa có tên Chức về. Thế là hắn nghiễm
nhiên sống ở ngay chính giữa quê hương hắn. Và bây giờ người ta thấy vợ hắn rất
chính chuyên mà lại trung thành, chị chăm chỉ làm ăn để nuôi hắn. Những ông trưởng,
ông phó tự nhiên nghĩ bụng rằng: người ta có chồng rồi mà còn chàng màng thì phải
tội; ai cũng sinh ra tử tế cả chỉ trừ anh Binh, bởi vì Chức bây giờ lại rất mực
ngang ngược. Hắn ăn vườn đấy, nhưng chẳng nộp thuế cho ai. Thúc hắn thì hắn chửi,
cắm vườn hắn thì hắn chém, sinh chuyện với hắn thì chính lý trưởng làng có lỗi
bởi vì cố ý ẩn lậu hắn là một tên can phạm. Ấy thế mà hắn cũng chưa vừa lòng
đâu. Một hôm, không hiểu nghĩ ngợi thế nào, hắn vác dao đến bảo thẳng vào mặt
lý Kiến rằng:
- Hồi tôi còn tại ngũ, tôi gửi về nhà có trăm. Không biết vợ
tôi nó tiêu pha gì hay cho trai mà không còn một đồng nào cả. Tôi hỏi nó thì nó
bảo: ở nhà đàn bà con gái một mình, không dám giữ tiền, được đồng nào mang gửi
ông lý cả. Tôi sợ nó bịa ra nên đã trói sẵn nó ở nhà. Bây giờ tôi đến thưa với
ông, tính toán xem được bao nhiêu cho đem về nuôi cháu. Thiếu một đồng thì tôi
không để yên cho chúng nó.
Lý Kiến hiểu rằng: “chúng nó” đây có thể gồm cả ông. Ông cười
nhạt bảo rằng:
- Thế này này, anh Binh ạ: chị ấy gửi tôi thì quả là không
có...
Hắn trợn mắt lên quát:
- Thế thì thằng nào ăn đi?
Lý Kiến vội nói lấp ngay:
- Thế nhưng mà anh có thiếu tiền thì cứ bảo tôi một tiếng. Chị
ấy trót tiêu đi rồi thì có giết cũng chẳng ra. Lôi thôi làm gì sinh tội.
Ông mở tráp ra quăng hắn 5 đồng bạc. Hắn cầm lấy, “lạy ông” tử
tế, rồi xách dao ra về. Từ hôm ấy hắn thành tử tế với lý Kiến, nhận là chỗ đầy
tớ chân tay, nhưng lý Kiến thỉnh thoảng vẫn phải cho hắn tiền. Cho mãi đến năm
ngoái đây, hắn chết...
Thì năm nay lại nảy ra Chí Phèo, một thằng hiền lành như đất
- tội nghiệp cho hắn, có lần lý Kiến thấy hắn vừa bóp đùi cho bà ba, vừa run
run! Bỗng nhiên vùng dậy giở toàn những giọng uống máu người không tanh. Thì ra
già néo đứt dây. Cụ tiên chỉ làng Vũ Ðại nhận ra rằng: đè nén con em đến nỗi nó
không chịu được phải bỏ làng đi là dại. Mười thằng đã đi ra thì chín thằng trở
về với cái vẻ hung đồ, cái tính ương ngạnh học được từ phương xa. Một người
khôn ngoan chỉ bóp đến nửa chừng. Hãy ngấm ngầm đẩy người ta xuống sông, nhưng
rồi dắt nó lên để nó đền ơn. Hãy đập bàn đập ghế đòi cho được năm đồng, nhưng
được rồi thì lại vất trả lại năm hào “vì thương anh túng quá”! Và cũng phải tùy
mặt nữa: những thằng có máu mặt, vợ đẹp, con đàn chính là những thằng dễ bóp;
trái lại những thằng tứ cố vô thân, giết chúng thì dễ, nhưng giết được, chỉ còn
có xương; mà gây với chúng là mở một dịp tốt để cho các phe nghịch xoay lại
mình. Làng nào cũng có nhiều cánh, mỗi cánh kết bè kết đảng chung quanh một người:
cánh cụ bá Kiến, cánh ông đội Tảo, cánh ông Tư Ðạm, cánh ông Bát Tùng... Bằng ấy
cánh du lại với nhau để bóc lột con em, nhưng ngấm ngầm chia rẽ, nhè từng chỗ hở
để mà trị nhau. Cụ lại nhận ra rằng: ở cái đất nhà quê, bọn dân hiền lành chỉ è
cổ làm nuôi bọn hào lý, nhưng chính bọn hào lý, nhiều khi lại phải ngậm miệng
cung cấp cho những thằng cùng hơn cả dân cùng liều lĩnh, lúc nào cũng có thể cầm
dao đâm người hay đâm mình.
Nhưng cụ không phải là một người ưa than thở. Than thở chẳng
ích gì cho ai, cái bọn dân đinh suốt đời bị đè nén sở dĩ bị đè nén suốt đời chỉ
vì khi bị đè nén chúng chỉ biết than thở chứ không biết làm gì khác. Cụ bá Kiến
không cần than thở: trị không lợi thì cụ dùng. Cụ nghĩ bụng cũng phải có những
thằng đầu bò chứ? Không có những thằng đầu bò thì lấy ai mà trị những thằng đầu
bò? Thế lực của cụ sở dĩ lấn át được những vây cánh khác, một phần lớn cũng bởi
cụ biết mềm biết cứng, biết thu dụng những thằng bạt mạng không sợ chết và
không sợ đi tù. Những thằng ấy chính là những thằng được việc. Khi cần đến, chỉ
cho nó dăm hào uống rượu, là có thể sai nó tác hại bất cứ anh nào không nghe
mình. Gặp người bướng bỉnh, đanh thép thì nó lừa đốt nhà hay cho mấy lát dao; gặp
người non mặt, thì nó quăng vào chai rượu lậu, hay gây sự rồi lăn ra kêu làng.
Có chúng nó sinh chuyện thì mới có dịp mà ăn, nếu không thì giữa đám dân hiền
lành và yên phận này, khéo lắm chỉ bóp nặn được vào vụ thuế. Thuế một năm có một
lần nếu chỉ trông vào đấy thì bán cha đi cũng không đủ để bù vào chỗ ba, bốn
nghìn bạc chạy chọt để tranh triện đồng.
Vì thế, đêm hôm ấy, ở nhà bá Kiến ra về, Chí Phèo vô cùng hả
hê! Bá Kiến đã không vu vạ gì cho hắn, lại còn giết gà mua rượu cho hắn uống,
xong lại đãi thêm đồng bạc để về uống thuốc. Ðồng bạc, làm gì đến thế? Hắn loạng
choạng vừa đi vừa cười; hắn chẳng cần đến ba xu. Lúc ngồi tù hắn có học mót được
mấy bài thuốc giấu: chỉ vài nắm lá, là mặt hắn lại đâu vào đấy ngay. Còn đồng bạc
lại để đi uống rượu...
Hắn uống được có ba hôm, hôm thứ tư thì hắn trợn mắt lên, bảo
con mẹ hàng rượu rằng:
- Hôm nay ông không có tiền; nhà mày bán chịu cho ông một
chai. Tối ông mang tiền đến trả.
Mụ bán hàng rượu hơi ngần ngừ. Thế là hắn rút bao diêm đánh
cái xòe, châm diêm lên mái nhà mụ. Mụ hoảng hốt kêu la om xòm vội dập tắt ngọn
lửa vừa mới cháy. Rồi khóc khóc mếu mếu, mụ đưa chai rượu. Hắn hầm hầm, chĩa
vào mặt mụ bảo rằng:
- Cái giống nhà mày không ưa nhẹ! Ông mua chứ ông có xin nhà
mày đâu! Mày tưởng ông quỵt hở? Mày thử hỏi cả làng xem ông có quỵt của đứa nào
bao giờ không? Ông không thiếu tiền! Ông còn gửi đằng cụ bá, chiều này ông đi lấy
về ông trả.
Mụ vừa kéo áo lên quẹt nước mũi, vừa bảo:
- Chúng cháu không dám chắc lép nhưng quả là ít vốn.
Hắn quát lên:
- Ít vốn thì tối nay ông trả. Nhà mày đã chết ngay bây giờ
hay sao?
Rồi hắn xách chai ra về. Hắn về cái miếu con ở bờ sông, vì vốn
từ trước đến nay không có nhà. Lúc đi đường, hắn đã vặn được ở nhà nào đó bốn
quả chuối xanh, và bốc của cô hàng xén một dúm con muối trắng. Bây giờ hắn uống
rượu với chuối xanh chấm muối trắng và thấy rằng cũng ngon. Hắn uống rượu với
cái gì cũng ngon.
Uống xong hắn chùi miệng, rồi ngật ngà ngật ngưỡng đến nhà bá
Kiến. Gặp ai hắn cũng bảo: hắn đến nhà cụ bá Kiến đòi nợ đây! Mới trông thấy hắn
vào đến sân, bá Kiến đã biết hắn đến sinh sự rồi. Cái mắt thì ngầu lên, hai
chân thì đi lảo đảo, cái môi bầm lại mà run bần bật. Cũng may, hắn không cầm vỏ
chai, bá Kiến cũng dõng dạc hỏi:
- Anh Chí đi đâu đấy?
Hắn chào to:
- Lạy cụ ạ. Bẩm cụ... Con đến cửa cụ để kêu cụ một việc ạ.
Giọng hắn lè nhè và tiếng đã gần như méo mó. Nhưng bộ điệu
thì lại như hiền lành; hắn vừa gãi đầu gãi tai, vừa lải nhải:
- Bẩm cụ, từ ngày cụ bắt đi ở tù, con lại sinh ra thích đi ở
tù, bẩm có thế, con có nói gian thì trời tru đất diệt, bẩm quả là đi tù sướng
quá. Ði ở tù còn có cơm để mà ăn, bây giờ về làng về nước, một thước đất cắm
dùi không có, chả làm gì nên ăn. Bẩm cụ, con lại đến kêu cụ, cụ lại cho con đi
tù...
Cụ bá quát, bắt đầu bao giờ cụ cũng quát để thử dây thần kinh
của người.
- Anh này lại say khướt rồi!
Hắn xông lại gần, đảo ngược mắt, giơ tay lên nửa chừng:
- Bẩm không ạ, bẩm thật là không say. Con đến xin cụ cho con
đi tù mà nếu không được thì... thì... thưa cụ...
Hắn móc đủ mọi túi, để tìm một cái gì, hắn giơ ra: đó là một
con dao nhỏ, nhưng rất sắc. Hắn nghiến răng nói tiếp:
- Vâng, bẩm cụ không được thì con phải đâm chết dăm ba thằng,
rồi cụ bắt con giải huyện.
Rồi hắn cúi xuống, tần mần gọt cạnh cái bàn lim. Cụ bá cười
khanh khách. Cụ vẫn tự phụ hơn đời cái cười Tào Tháo ấy. Cụ đứng lên vỗ vai hắn
mà bảo rằng:
- Anh bứa lắm. Nhưng này, anh Chí ạ, anh muốn đâm người cũng
không khó gì. Ðội Tảo nó còn nợ tôi năm mươi đồng đấy, anh chịu khó đến đòi cho
tôi, đòi được tự nhiên có vườn.
Ðội Tảo là một tay vai vế trong làng. Vây cánh ông ta mạnh, vẫn
kình nhau với nhà cụ bá mà cụ bá thường phải chịu bởi hắn là cựu binh, lương
hưu trí nhiều, quen thuộc nhiều, lại ăn nói giỏi. Hắn vay cụ bá năm mươi đồng
đã từ lâu, bây giờ đột nhiên trở mặt vỗ tuột, lấy cớ rằng số tiền ấy tính vào
món tiền chè lý Cường ra làm lý trưởng chưa tạ hắn. Cụ bá tức như chọc họng,
nhưng chưa biết làm thế nào, bởi vì thằng binh Chức, đầy tớ chân tay của cụ, khả
dĩ đương đầu với hắn được, chết năm ngoái rồi. Bây giờ cụ mới lại gặp được Chí
Phèo, có thể thay cho binh Chức. Cụ thử nói khích xem sao. Nếu nó trị được đội
Tảo thì tốt lắm. Nếu nó bị đội Tảo trị thì cụ cũng chẳng thiệt gì, đằng nào
cũng có lợi cho cụ cả.
Chí Phèo nhận ngay! Hắn tức khắc đến nhà đội Tảo, và cất tiếng
chửi ngay từ đầu ngõ. Giá gặp phải hôm khác, thì có án mạng lắm: đội Tảo cũng
có thể đâm chém được, chưa bao giờ chịu hàng trước cuộc giao tranh. Nhưng phúc
đời cho hắn, hay là cho Chí Phèo, hôm ấy hắn ốm liệt giường, không sao nhắc
mình dậy được, có lẽ hắn cũng không biết Chí Phèo chửi hắn. Vợ hắn, thấy Chí
Phèo thở ra mùi rượu, và biết rõ đầu đuôi món nợ, lấy năm mươi đồng giấu chồng
đưa cho người nhà đi theo Chí Phèo. Đàn bà vốn chuộng hoà bình; họ muốn yên
chuyện thì thôi, gai ngạnh làm gì cho sinh sự. Vả lại, bà đội cũng nghĩ rằng:
chồng mình đang ốm... chồng mình có nợ người ta hẳn hoi... Và năm chục đồng bạc
đối với nhà mình là mấy, lôi thôi lại chả tốn đến ba lần năm chục đồng!
Vì thế, Chí Phèo mới được vênh vênh ra về; hắn thấy hắn oai
thêm bậc nữa. Hắn tự đắc: “anh hùng làng này cóc có thằng nào bằng ta!”. Cụ bá
thấy mình thắng bên địch mà không cần đến hội đồng làm biên bản xem chừng thích
chí. Cụ đưa luôn cho anh đầy tớ chân tay mới luôn năm đồng.
- Anh Chí ạ, cả năm chục đồng này phần anh. nNưng nếu anh lấy
cả thì chỉ ba hôm là tan hết. Vậy anh cầm lấy chỗ này uống rượu còn để tôi bán
cho anh mảnh vườn; không có vườn đất thì làm ăn gì?
Chí Phèo “vâng dạ” ra về. Mấy hôm sau, cụ bá bảo lý Cường cho
hắn năm sào vườn ở bãi sông cắm thuế của một người làng hôm nọ. Chí Phèo bỗng
thành ra có nhà. Hồi ấy hắn mới đâu hăm bảy hay hăm tám...
Bây giờ thì hắn đã thành người không tuổi rồi. Ba mươi tám
hay ba mươi chín? Bốn mươi hay ngoài bốn mươi? Cái mặt hắn không trẻ cũng không
già; nó không còn phải là mặt người; nó là mặt của con vật lạ, nhìn mặt những
con vật có bao giờ biết tuổi? Cái mặt hắn vàng vàng mà lại muốn xạm màu gio; nó
vằn dọc vằn ngang, không thứ tự, biết bao nhiêu là sẹo. Vết những mảnh chai của
bao nhiêu lần ăn vạ kêu làng, bao nhiêu lần, hắn nhớ làm sao nổi? Bao nhiêu việc
ức hiếp, phá phách, đâm chém, mưu hại, người ta giao cho hắn làm! Những việc ấy
chính là cuộc đời của hắn; cuộc đời mà hắn cũng chả biết đã dài bao nhiêu năm rồi.
Bởi vì ngay đến cái thẻ có biên tuổi hắn cũng không có, trong sổ làng người ta
vẫn khai hắn là dân lưu tán, lâu năm không về làng. Hắn nhớ mang máng rằng có lần
hắn hai mươi tuổi, rồi hắn đi ở tù, rồi hình như hắn hăm nhăm không biết có đúng
không? Bởi từ đấy thì đối với hắn không còn ngày tháng nữa. Bởi vì từ đấy hắn
bao giờ cũng say. Nhưng cơn say của hắn tràn cơn này qua cơn khác, thành một
cơn dài, mênh mông, hắn ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say, thức dậy vẫn còn
say, đập đầu rạch mặt chửi bới, dọa nạt trong lúc say, uống rượu trong lúc say,
để rồi say nữa, say vô tận. Chưa bao giờ hắn tỉnh và có lẽ hắn chưa bao giờ tỉnh
táo, để nhớ rằng có hắn ở đời. Có lẽ hắn cũng không biết rằng hắn là con quỷ dữ
của làng Vũ Ðại, để tác quái cho bao nhiêu dân làng. Hắn biết đâu hắn đã phá
bao nhiêu cơ nghiệp, đập nát bao nhiêu cảnh yên vui, đạp đổ bao nhiêu hạnh
phúc, làm chảy máu và nước mắt của bao nhiêu người lương thiện. Hắn đâu biết vì
hắn làm tất cả những việc ấy trong khi người hắn say; hắn say thì hắn làm bất cứ
cái gì người ta sai hắn làm. Tất cả dân làng đều sợ hắn và tránh mặt hắn mỗi
khi hắn qua.
Vì thế cho nên hắn chửi hay là chẳng vì cái gì hắn cũng chửi,
cứ rượu xong là hắn chửi. Hắn chửi như những người say rượu hát. Giá hắn biết
hát thì có lẽ hắn không cần chửi. Khổ cho hắn và khổ cho người hắn lại không biết
hát. Thì hắn chửi, cũng như chiều nay hắn chửi...
Hắn chửi trời và đời. Hắn chửi cả làng Vũ Ðại. Hắn chửi tất cả
những đứa nào không chửi nhau với hắn. Nhưng cũng mặc, ai mà hoài hơi, tức mình
hắn chửi đứa nào đẻ ra chính hắn, lại càng không ai cần! Và hắn lấy thế làm ức
lắm; bởi vì người ta không thể chửi nhau một mình; chửi nhau một mình thì còn
văn vẻ gì! Thế là chắc chắn đã có một cớ để tức tối, một cớ rất chính đáng để hắn
có thể hùng hổ đi báo thù. Phải, hắn phải báo thù, báo thù vào bất cứ ai. Hắn
phải vào nhà nào mới được, bất cứ nhà nào. Hắn sẽ rẽ vào bất cứ ngõ nào hắn gặp
để đập phá đốt nhà hay lăn ra kêu làng nước. Phải đấy, hắn sẽ rẽ vào bất cứ ngõ
nào hắn gặp... Á, đâu kia rồi mau mau...
Nhưng mà mặt trăng lên, mặt trăng rằm vành vạnh. Và ánh trăng
chảy trên đường trắng tinh. Ồ, cái gì đây, đen và méo mó trên đường trăng nhễ
nhại? Nó xệch xạc về bên trái, thu gọn vào rồi lại dài loang ra, xé rách vài chỗ.
Nó cứ quần quật dưới chân Chí Phèo. Chí Phèo đứng lại và nhìn
nó và hắn bỗng nghiêng ngả cười. Hắn cười ngặt nghẽo, cười rũ rượi. Giá hắn cứ chửi
lại còn dễ nghe! Cái vật xệch xạc trên đường chính là bóng hắn. Thế là hắn cười,
và hắn quên báo thù: hắn đi qua cái ngõ đầu tiên kia rồi. Bây giờ thì đến ngõ
nhà tự Lãng, một anh thầy cúng có một bộ râu lờ phờ. Chí phèo bỗng nảy ra một
ý: tạt vào đây và đập cái bàn chầu văn của lão tự nửa mùa này ra. Bởi vì lão tự
này vừa làm thầy cúng lại vừa làm nghề hoạn lợn. Cái đàn của lão lừng phừng
nghe còn chối tai hơn là lợn kêu. Nhưng lúc vào thì lão tự lại đang uống rượu;
lão uống rượu ngay ở sân, vừa uống vừa vuốt râu, vừa rung rung cái đầu. Chí
Phèo đứng lại nhìn, thấy lão cũng hay hay. Hắn thấy tất cả những người uống rượu
đều hay hay. Rồi đột nhiên hắn khát, trời ơi sao mà khát! Khát đến cháy cổ họng...
Không do dự, hắn lại bên lão tự, nhắc lấy chai rượu ngửa cổ dốc vào mồm tu. Lão
tự duỗi cái cổ gà vặt lông ra, trố mắt lên, nhưng không nói gì. Lưỡi lão ríu lại
rồi, còn nói làm sao được? Lão đã uống hết hai phần chai. Còn một phần thì Chí
Phèo tu nốt. Hắn tu có một hơi, rồi khà một cái, chép cái miệng như còn thèm. Rồi
hắn nắm lấy mấy cái râu lờ phờ của lão tự, nâng soi lên trăng mà cười. Lão tự
cũng cười. Hai thằng say rượu ngả vào nhau mà cười, như một đôi tri kỷ cuồng. Rồi
tự Lãng vào nhà xách hai chai rượu nữa; lão còn đúng hai chai nữa, lão mời Chí
Phèo uống nữa, uống thật say, không cần gì. Cứ việc uống, đừng có lo ngại gì đấy!
Vợ lão chết đến bảy tám năm nay rồi, con gái lão chửa hoang bỏ lão đi, lão chỉ
có một mình, không còn vợ con nào mè nheo cả, lão muốn uống đến bao giờ thì uống.
Cứ uống! Cứ uống, cứ uống đi ông bạn lạc đường từ cung trăng xuống ạ! Uống thật
tợn, uống đến đái ra rượu thì mới thích. Nhịn uống để làm gì? Có giàu có sang,
có làm nên ông cả bà lớn nữa, chết cũng không ai gọi là “cụ lớn mả”! Lão sống
có đến hơn năm mươi rồi mà chưa thấy một cụ lớn mả nào sống sót! Chỉ có cái mả,
cái mả đất. Ai chết cũng thành cái mả, say sưa chết cũng thành cái mả, lo gì? Cứ
say.
Chưa bao giờ Chí Phèo được thỏa thê đến thế! Hắn lấy làm lạ
sao mãi đến hôm nay mới ngồi uống rượu với thằng cha tự này. Chúng uống với
nhau rất là nhiều. Và rất là nhiều. Người ta tưởng như cả làng Vũ Ðại phải nhịn
uống để đủ rượu cho chúng uống.
Ðến lúc hết cả hai chai thì tự Lãng đã bò ra sân. Lão bò như
cua và hỏi Chí Phèo rằng: người ta đứng lên bằng cái gì? Chí Phèo vần ngửa lão
ra, vuốt cái râu lờ phờ của lão mấy cái, rồi để mặc lão thế, hắn lảo đảo ra về.
Hắn vừa đi vừa phanh ngực ra mà gãi. Hắn gãi ngực rồi gãi lên
cổ, gãi mang tai và gãi lên cả đầu. Có lúc hắn phải đứng lại giữa đường mà gãi,
ghệch chân lên mà gãi, hắn bứt rứt quá, ngứa ngáy quá, và chợt nghĩ ngay đến
cái bờ sông gần nhà. Bởi vì cái vườn của hắn ở gần một con sông con, nước lặng
và trong, khắp bãi trồng toàn dâu, gió đưa đẩy những thân mềm oặt ẹo, cuộn theo
nhau thành làn. Duy có vườn nhà hắn trồng toàn chuối, ở một góc vườn có túp lều
con. Những đêm trăng như đêm nay, cái vườn phẳng ngổn ngang những bóng chuối
đen như những cái áo nhuộm vắt tung trên bãi. Và những tàu chuối nằm ngửa, ưỡn
cong cong lên hứng lấy trăng xanh rời rợi như là ướt nước, thỉnh thoảng bị gió
lay lại giẫy lên đành đạch như là hứng tình.
Chí Phèo vừa tò mò nhìn những tàu lá chuối vừa đi xuống vườn.
Nhưng hắn không vào cái túp lều úp xúp mà ra thẳng bờ sông. Hắn định sẽ nhảy xuống
tắm cho khỏi ngứa ngáy rồi lăn ngay ra vườn mà ngủ. Tội gì chui vào lều, bức đến
không còn thở được. Một thằng như hắn, đập đầu không chết, huống hồ là gió
sương... Ðến bờ sông hắn dừng lại, vì hình như có người. Có người thật, và hắn
ngây ra nhìn.
Hắn nhìn giữa hai lọ nước và tựa lưng vào gốc chuối, một người
đàn bà ngồi tênh hênh. Chính là người đàn bà, hắn biết vậy là nhờ mái tóc dài
buông xõa xuống vai trần và ngực... Hai tay trần của mụ buông xuôi, cái mồm của
mụ há hốc lên trăng mà ngủ, hay là chết. Đôi chân thì duỗi thẳng ra trước mặt,
cái váy đen xộc xệch... Bên kia, có lẽ vì mụ giẫy cái yếm xẹo xọ để trật ra cái
sườn nây nây. Tất cả những cái ấy phơi ra trăng, rười rượi những trăng làm trắng
những cái đó có lẽ ban ngày không trắng; trăng làm đẹp lên. Chí Phèo tự nhiên
thấy ứ đầy miệng bao nhiêu là nước dãi, mà cổ thì lại khô, hắn nuốt ừng ực, hắn
thấy cái gì rộn rạo ran khắp người. Bỗng nhiên hắn run run. Ồ tại sao như thế
được? Ðáng nhẽ chính người đàn bà khốn nạn kia phải run mới phải, cái người đàn
bà dại dột đã nằm ềnh ệch mà ngủ ngay gần nhà hắn này.
Nhưng người đàn bà ấy lại chính là thị Nở, một người ngẩn ngơ
như những người đần trong cổ tích và xấu ma chê quỷ hờn. Cái mặt của thị đích
thực là một sự mỉa mai của hóa công: nó ngắn đến nỗi người ta có thể tưởng bề
ngang lớn hơn bề dài, thế mà hai má nó lại hóp vào mới thật là tai hại, nếu má
nó phinh phính thì mặt thị lại còn được hao hao như mặt lợn, là thứ mặt vốn nhiều
hơn người ta tưởng, trên cổ người. Cái mũi thì vừa ngắn, vừa to, vừa đỏ, vừa sần
sùi như vỏ cam sành, bành bạnh muốn chen lẫn nhau với những cái môi cũng cố to
cho không thua cái mũi: có lẽ vì cố quá cho nên chúng nứt nở như rạn ra. Ðã thế
thị lại ăn trầu thuốc, hai môi dày được bồi cho dày thêm, cũng may quyết trầu
sánh lại, che được cái màu thịt trâu xám ngoách. Ðã thế những cái răng rất to lại
chìa ra: ý hẳn chúng nghĩ sự cân đối chữa được một vài phần cho sự xấu. Ðã thế
thị lại dở hơi; đó là một ân huệ đặc biệt của Thượng đế chí công; nếu sáng suốt
thì người đàn bà ấy sẽ khổ sở ngay từ khi mua cái gương thứ nhất. Và thị lại
nghèo nếu trái lại, ít nhất đã có một đàn ông khổ sở. Và thị lại là dòng giống
của một nhà có mả hủi: cái này khiến không một chàng trai nào phải phân vân.
Người ta tránh thị như tránh một con vật rất tởm. Ngoài ba mươi tuổi, thị vẫn
chưa có chồng. Ở cái làng Vũ Ðại này người ta kết bạn từ khi lên tám, và có khi
có con từ lúc mười lăm; không ai đợi đến năm hai mươi đẻ đứa con thứ nhất. Cứ
nhìn tình hình ấy thì ta nói quách: thị Nở không có chồng. Mà thị cũng không
còn ai thân thích, trừ một người cô đã có thể gọi được là già, và đã không chồng
như thị. Số trời định thế, để không ai phải trơ trọi trên đời này. Người cô làm
thuê cho người đàn bà buôn chuối và trầu không xếp tàu đi Hải Phòng, có khi đi
tận Hòn Gai, Cẩm Phả. Còn thị sống bằng những nghề lặt vặt ở làng. Hai cô cháu
sống trong một cái nhà tre cách vườn của Chí Phèo bởi một con đê; hắn ở ngoài
bãi, hai người ở trong xóm. Có lẽ chính vì thế mà thị Nở không sợ cái thằng mà
cả làng sợ. Gần gũi lâu cũng sinh quen, mà quen thì ít khi còn sợ. Những người
trông coi vườn bách thú thường bảo rằng hổ báo hiền y như mèo. Vả lại có lý nào
để thị sợ hắn đâu? Người ta không ai sợ kẻ khác phạm đến cái xấu, cái nghèo,
cái ngẩn ngơ của mình, mà thị lại chỉ có ba cái ấy... Một phần nữa cũng bởi Chí
Phèo ít khi ở nhà, mà ở nhà thì hắn lại hiền lành, ai có thể ác trong khi ngủ?
Hắn chỉ về nhà để ngủ.
Ngày nào thị Nở cũng phải qua vườn nhà hắn hai ba lần, là vì
qua vườn nhà hắn có một lối nhỏ đi ra sông; trước kia, cả xóm vẫn dùng cái ngõ ấy
để ra sông tắm giặt hay kín nước. Nhưng từ khi hắn đến người ta thôi dần, tìm một
lối khác đi xa hơn. Trừ thị Nở: thì đã bảo thị là người dở hơi, thị không thích
làm như kẻ khác. Quá tin ở người, quá tin ở mình liều lĩnh, bướng bỉnh hay có lẽ
chỉ không chịu rời thói quen. Nhưng hãy biết thị cứ đi ngõ ấy và vẫn chẳng làm
sao cả. Thế rồi quen đi. Có lần trong lúc Chí Phèo ngủ, thị vào cả nhà hắn để rọi
nhờ lửa nữa, có lần thị xin của hắn một ít rượu về để bóp chân; hắn mải ngủ càu
nhàu bảo thị rằng: ở xó nhà ấy, muốn rót bao nhiêu thì rót, để yên cho hắn ngủ.
Và lắm lúc thị ngạc nhiên: sao người ta ghê hắn thế?
Chiều hôm ấy thị Nở cũng ra sông kín nước như mọi chiều.
Nhưng chiều hôm ấy, trăng lại sáng hơn mọi chiều, trăng tỏa trên sông và sông gợn
biết bao nhiêu gợn vàng. Những vàng ấy rung rinh mới trông thì đẹp, nhưng trông
lâu mỏi mắt. Gió lại mát như quạt hầu. Thị Nở thấy muốn ngáp mà mí mắt thì nặng
dần, toan díp lại. Thị vốn có một tật không sao chữa được: có lúc đột nhiên muốn
ngủ, bất cứ ở đâu hay đang làm gì. Bà cô thị bảo thị là một người vô tâm. Ngáp
một cái, thị nghĩ bụng: khoan hãy kín nước, hãy để lọ xuống ngồi nghỉ đây. Bởi
vì thị đã luật quật đập đất từ trưa tới giờ. Mà mấy khi được một nơi mát thế,
mát rợn da rợn thịt, sung sướng quá! Mát y như quạt hầu. Thị cởi áo ra ngồi tựa
vào gốc chuối, dáng ngồi không kín đáo, nhưng không bao giờ thị biết thế nào là
lả lơi. Con người vô tâm, không hay nghĩ xa xôi mà. Vả lại ở đây chẳng có ai.
Chí Phèo đã về đâu, mà hắn có về thì cũng say khướt đã ngủ từ nửa đường và tới
nhà tức khắc chúi đầu vào ngủ nốt. Hắn ra làm gì đây, cho có ra nữa thì đã sao?
Thị không thể sợ hắn có thể phạm đến thị bởi lẽ rất giản dị là thị chưa thấy ai
phạm đến thị bao giờ. Thật ra thì thị cũng chẳng nghĩ ngợi nhiều đến thế. Trong
óc thị đã có một bóng đen lan rồi. Thị không ngồi thì không chịu được.
Ngồi một lúc thị thấy rằng: nếu cứ ngồi mãi thì ngủ mất.
Nhưng thị đã ngủ đến hai phần rồi. Và thị nghĩ: thì ngủ, ngủ thì đã làm sao! Về
nhà thì cũng chỉ ngủ, ngủ ngay đây cũng vậy. Bà cô đi theo hàng ít ra cũng dăm
hôm mới về. Thị cứ ngồi đây cho mát. Và thị ngủ. Thị ngủ ngon lành và say sưa.
Chí Phèo vẫn say say nhìn và run run. Bỗng nhiên hắn rón rén
lại gần thị Nở: lần đầu tiên hắn rón rén, từ khi về làng. Thoạt tiên, hắn xách
cái lọ để ra xa, rồi hắn lẳng lặng ngồi xuống bên sườn thị.
Và thị Nở giật mình. Thị Nở mới kịp giật mình thì thằng đàn
ông đã bám víu lấy thị.... Thị vùng vẫy đẩy ra, thị mở mắt, thị tỉnh hẳn, thị
nhận ra Chí Phèo. Thị vừa thở, vừa vật nhau với hắn vừa hổn hển: “Ô hay...
Buông ra... Tôi kêu... Tôi kêu làng... Buông ra. Tôi kêu làng lên bây giờ!” Thằng
đàn ông phì cười. Sao thị lại kêu làng nhỉ? Hắn vẫn tưởng chỉ có hắn mới kêu
làng thôi; người ta lại kêu tranh của hắn, bỗng nhiên hắn la lên kêu làng.
Hắn kêu như một kẻ bị đâm, vừa kêu vừa dằn người đàn bà xuống.
Thị Nở trố mắt ngây ra nhìn. Thị Nở kinh ngạc: sao hắn lại kêu làng nhỉ? Mà hắn
vẫn chưa chịu thôi kêu làng. Cũng may người quanh đây không có ai lạ gì tiếng hắn,
mà khi hắn kêu làng thì không ai cần động dạng: họ lạu bạu chửi rồi lại ngủ; hắn
kêu làng cũng như người khác buồn, hát ngao. Đáp lại hắn chỉ có lũ chó cắn xao
lên trong xóm.
Thị Nở bỗng nhiên bật cười. Thị Nở vừa rủa vừa đập tay lên
lưng hắn. Nhưng đó là cái đập yêu, bởi vì đập xong, cái tay ấy lại giúi lưng hắn
xuống. Và chúng cười với nhau...
Bây giờ thì chúng ngủ bên nhau... Đứa bé bú no thì ngủ. Người
ta ngủ say sau khi làm việc yêu. Chúng ngủ như chưa bao giờ được ngủ... Trăng vẫn
thức, vẫn trong trẻo... Trăng rắc bụi trên sông, và sông gợn biết bao nhiêu
vàng. Nhưng đến gần sáng, bỗng nhiên Chí Phèo chống một tay xuống đất, ngồi lên
một nửa. Hắn thấy nôn nao, chân tay bủn rủn, như đến hai ba ngày nhịn đói. Thế
mà bụng lại phinh phính đầy, hình như bụng hơi đau. Còn hình như gì nữa, thôi
đúng đau bụng rồi. Đau thật, đau mỗi lúc một dữ! Nó cứ cuồn cuộn lên. À mà trời
lành lạnh. Hễ có gió thì kinh kinh. Mỗi lần gió, hắn rươn rướn người. Hắn muốn
đứng lên. Sao đầu nặng quá mà chân thì bẩy rẩy. Mắt hắn hoa lên. Bụng quặn lại,
đau gò ngườI. Hắn oẹ. Hắn oẹ ba bốn cái. Oẹ mãi. Giá mửa ra được thì dễ chịu. Hắn
cho một ngón tay vào móc họng. Hắn oẹ ra một cái to hơn, ruột hình như lộn lên.
Nhưng cũng chỉ nhổ ra toàn nước dãi. Hắn nghỉ một tí rồi lại cho tay vào mồm. Lần
này thì mửa được. Trời ơi! Mửa thốc mửa tháo, mửa ồng ộc, mửa đến cả ruột. Đến
nỗi người đàn bà phải dậy. Thị ngồi nhỏm dậy và ngơ ngác nhìn. Cái óc nặng nề ấy
phải lâu mới nhớ ra và lâu mới hiểu.
Bây giờ thì Chí Phèo đã mửa xong. Hắn mệt quá, lại vật người
ra đất. Hắn đờ hai con mắt khẽ rên: hắn chỉ còn đủ sức để rên khe khẽ. Từ đống
mửa bay lại một mùi gì thoảng như mùi rượu, hắn bỗng nhiên rùng mình.
Thị Nở lại. Đặt một tay lên ngực hắn (thị suy nghĩ đến bây giờ
mới xong), thị hỏi hắn:
- Vừa thổ hả?
Mắt hắn đảo lên nhìn thị, nhìn một thoáng rồi lại đờ ra ngay.
- Ði vào nhà nhé?
Hắn làm như gật đầu. Nhưng cái đầu không động đậy, chỉ có cái
mí mắt là nhích thôi.
- Thì đứng lên.
Nhưng hắn đứng lên làm sao được. Thị quàng tay vào nách hắn,
đỡ cho hắn gượng ngồi. Rồi thị kéo hắn đứng lên. Hắn đu vào cổ thị, hai người lảo
đảo đi về lều.
Không có giường, chỉ có một cái chõng tre. Thị để hắn nằm lên
và đi nhặt nhạnh tất cả những manh chiếu rách đắp lên cho hắn. Hắn hết rên.
Hình như hắn ngủ. Thị cũng lim dim chực ngủ. Nhưng trong nhà nhiều muỗi quá. Muỗi
nhắc cho thị cái áo quên ngoài vườn. Thị ra vườn. Đôi lọ nhắc cho thị việc đi
kín nước, thị mải mốt mặc áo, kín nước, rồi xách đôi lọ nước đi về nhà.
Trăng chưa lặn, không chừng trời còn khuya. Thị lên giường định
ngủ. Nhưng nhớ lại việc lạ lùng tối qua. Thị cười. Thị thấy không buồn ngủ, và
thị cứ lăn ra lăn vào.
Khi Chí Phèo mở mắt thì trời đã sáng lâu. Mặt trời chắc đã
cao, và nắng bên ngoài chắc là rực rỡ. Cứ nghe chim ríu rít bên ngoài là đủ biết.
Nhưng trong cái lều ẩm thấp vẫn chỉ hơi tờ mờ. Ở đây người ta thấy chiều lúc xế
trưa và gặp đêm thì bên ngoài trời vẫn sáng. Chưa bao giờ Chí Phèo nhận thấy thế
bởi chưa bao giờ hết say.
Nhưng bây giờ thì hắn tỉnh. Hắn bâng khuâng như tỉnh dậy, hắn
thấy miệng đắng, lòng mơ hồ buồn. Người thì bủn rủn, chân tay không buồn nhấc,
hay là đói rượu, hắn hơi rùng mình. Ruột gan lại nôn nao lên một tý. Hắn sợ rượu
cũng như những người ốm sợ cơm. Tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá! Có tiếng
cườu nói của những người đi chợ. Anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá.
Những tiếng quen thuộc ấy hôm nào chả có. Nhưng hôm nay hắn mới
nghe thấy... Chao ôi là buồn!
- Vải hôm nay bán mấy?
- Kém ba xu dì ạ.
- Thế thì còn ăn thua gì!
- Thật thế đấy. Nhưng chẳng lẽ rằng lại chơi.
Chí Phèo đoán một người đàn bà hỏi một người đàn bà khác đi
bán vải ở Nam Ðịnh về. Hắn nôn nao buồn, là vì mẩu chuyện ấy nhắc cho hắn một
cái gì rất xa xôi. Hình như có một thời hắn đã ao ước có một gia đình nho nhỏ.
Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải, chúng lại bỏ một con lợn nuôi để làm vốn
liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm.
Tỉnh dậy hắn thấy già mà vẫn còn cô độc. Buồn thay cho đời!
Có lý nào như thế được? Hắn đã già rồi hay sao? Ngoài bốn mươi tuổi đầu... Dẫu
sao, đó không phải tuổi mà người ta mới bắt đầu sửa soạn. Hắn đã tới cái dốc
bên kia của đời. Ở những người như hắn, chịu đựng biết bao nhiêu là chất độc, đầy
đọa cực nhọc mà chưa bao giờ ốm, một trận ốm có thể gọi là dấu hiệu báo rằng cơ
thể đã hư hỏng nhiều. Nó là một cơn mưa gió cuối thu cho biết trời gió rét, nay
mùa đông đã đến. Chí Phèo hình như đã trông thấy trước tuổi già của hắn, đói
rét và ốm đau, và cô độc, cái này còn đáng sợ hơn đói rét và ốm đau.
Cũng may Thị Nở vào. Nếu thị không vào, cứ để hắn vẩn vơ mãi,
thì đến khóc được mất. Thị vào cắp một cái rổ, trong có một nồi gì đậy vung. Đó
là một nồi cháo hành còn nóng nguyên. Là vì lúc còn đêm, thị trằn trọc một lát,
thị bỗng nhiên nghĩ rằng: cái thằng liều lĩnh ấy kể ra thì đáng thương, còn gì
đáng thương bằng đau ốm mà nằm còng queo một mình. Giá thử đêm qua không có thị
thì hắn chết. Thị kiêu ngạo vì đã cứu sống một người. Thị thấy như yêu hắn: đó
là một cái lòng yêu của một người làm ơn. Nhưng cũng có cả lòng yêu của một người
chịu ơn. Một người như thị Nở càng không thể quên được. Cho nên thị nghĩ: mình
bỏ hắn lúc này thì cũng bạc. Dẫu sao cũng đã ăn nằm với nhau! Ăn nằm với nhau
như “vợ chồng”. Tiếng “vợ chồng”, thấy ngường ngượng mà thinh thích. Đó vẫn là
điều mong muốn âm thầm của con người khốn nạn ấy chăng. Hay sự khoái lạc của
xác thịt đã làm nổi dậy những tính tình mà thị chưa bao giờ biết?
Chỉ biết rằng thị muốn gặp Chí Phèo, gặp hắn mà nhắc lại chuyện
đêm qua thì chắc buồn cười lắm. Gớm! Sao lại có thứ người đâu mà lì quá thế?
Người ta ngồi đấy mà dám xán lăn ngay vào, nó chả ngang ngược mà người ta kêu
bé, nó lại làm to hơn. Mà kể thì cũng ngù ngờ. Cái thằng trời đánh không chết ấy,
nó còn sợ ai mà hòng kêu. Nhưng mà đáng kiếp. Thổ trận ấy thật là phải biết. Cứ
gọi là hôm nay nhọc đừ. Phải cho hắn ăn tí gì mới được. Đang ốm thế thì chỉ ăn
cháo hành. Ra được mồ hôi thì là nhẹ nhõm người ngay đó mà... Thế là vừa sáng
thì đã chạy đi tìm gạo. Hành thì nhà thị may lại còn.
Thị nấu bỏ vào cái rổ, mang ra cho Chí Phèo.
Thằng này rất ngạc nhiên. Hết ngạc nhiên thì hắn thấy mắt
mình hình như ươn ướt. Bởi vì lần này là lần thứ nhất hắn được một người đàn bà
cho. Xưa nay, nào hắn có thấy ai tự nhiên cho cái gì. Hắn vẫn phải doạ nạt hay
giật cướp. Hắn phải làm cho người ta sợ. Hắn nhìn bát cháo bốc khói mà bâng
khuâng. Thị Nở thì chỉ nhìn trộm hắn, rồi lại toe toét cười. Trông thị thế mà
có duyên. Tình yêu làm cho có duyên. Hắn thấy vừa vui lại vừa buồn. Và một cái
gì nữa, giống như là ăn năn. Cũng có thể như thế lắm. Người ta hay ăn năn hối hận
về tội ác khi không đủ sức để ác nữa. Thị Nở giục hắn ăn nóng. Hắn cầm lấy bát
cháo đưa lên mồm. Trời ơi cháo mới thơm làm sao! Chỉ khói xông vào mũi cũng đủ
làm người nhẹ nhõm. Hắn húp một húp và nhận ra rằng: những người suốt đời không
ăn cháo hành không biết rằng cháo rất ngon. Nhưng sao lại mãi đến bây giờ hắn mới
nếm vị mùi cháo?
Hắn tự hỏi rồi lại tự trả lời: vì có ai nấu cho ăn đâu? Mà
còn ai nấu cho mà ăn nữa! Ðời hắn chưa bao giờ được săn sóc bởi một tay “đàn
bà”. Hắn nhớ đến “bà ta”, cái con quỷ cái hay bắt hắn bóp chân mà lại kêu bóp
lên trên, trên nữa, nó chỉ nghĩ đến sao cho thỏa nó chứ có yêu hắn đâu. Hồi ấy
hắn hai mươi. Hai mươi tuổi, người ta không là đá, nhưng cũng không toàn là xác
thịt. Người ta không thích cái gì người ta khinh. Vả lại bị một con đàn bà gọi
đến nhà mà bóp chân! Hắn thấy nhục hơn là thích, huống hồi lại sợ. Quả thật, từ
khi biết rằng con vợ chủ sai hắn làm một việc không chính đáng, hắn vừa làm vừa
run. Không làm thì không được: mọi việc trong nhà, quyền đàn bà. Chứ hắn, hắn
có lòng nào đâu! Ðến nỗi người đàn bà phát cáu. Bà thấy xa xôi không được, phải
làm đến nơi. Bà bảo hắn rằng: “Mày thực thà quá! Con trai gì hai mươi tuổi mà
đã như ông già”. Hắn vẫn giả vờ không hiểu. Bà lẳng lơ bảo: “Chả nhẽ tao gọi
mày vào chỉ để bóp chân thế này thôi ư?...” và thấy hắn dùng dằng, bà mắng xơi
xơi vào mặt. Hắn chỉ thấy nhục chứ yêu đương gì. Không, hắn chưa được một người
đàn bà nào yêu cả. Vì thế mà bát cháo hành của thị Nở làm hắn suy nghĩ nhiều. Hắn
có thể tìm bạn được, sao lại chỉ gây kẻ thù?
Bát cháo húp xong rồi, thị Nở đỡ lấy bát cháo và múc thêm bát
nữa. Hắn thấy mình vã bao nhiêu mồ hôi. Mồ hôi chảy ra trên đầu, trên mặt, những
giọt to như giọt nước. Hắn đưa tay áo quệt ngang một cái, quệt mũi cười rồi lại
ăn. Hắn càng ăn, mồ hôi lại càng nhiều. Thị Nở nhìn hắn, lắc đầu thương hại. Hắn
thấy lòng thành trẻ con. Hắn muốn làm nũng với thị như với mẹ. Ôi sao mà hắn hiền,
ai dám bảo đó là thằng Chí Phèo vẫn đập đầu, rạch mặt mà đâm chém người? Ðó là
cái bản tính của hắn, ngày thường bị lấp đi. Hay trận ốm thay đổi hẳn về sinh
lý, cũng thay đổi cả tâm lý nữa? Những người yếu đuối vẫn hay hiền lành. Muốn
ác, phải là kẻ mạnh. Hắn đâu còn mạnh nữa. Và có lúc hắn ngẫm mình mà lo. Xưa
nay hắn chỉ sống bằng giật cướp và dọa nạt. Nếu không còn sức mà giật cướp, dọa
nạt nữa thì sao? Ðã đành, hắn chỉ mạnh vì liều. Nhưng hắn mơ hồ thấy rằng sẽ có
một lúc mà người ta không thể liều lĩnh được nữa. Bấy giờ mới nguy! Trời ơi! Hắn
thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao! Thị Nở sẽ mở đường
cho hắn. Thị có thể sống yên ổn với hắn thì sao người khác lại không thể được.
Họ sẽ nhận lại hắn vào cái xã hội bằng phẳng, thân thiện của những người lương
thiện... Hắn băn khoăn nhìn thị Nở, như thăm dò. Thị vẫn im lặng, cười tin cẩn,
hắn thấy tự nhiên nhẹ người. Hắn bảo thị:
- Giá cứ thế này mãi thì thích nhỉ?
Thị không đáp, nhưng cái mũi đỏ của thị như càng bạnh ra. Hắn
thấy thế cũng không có gì là xấu. Bằng một cái giọng nói và một vẻ mặt rất
phong tình theo ý hắn, hắn bảo thị:
- Hay mình sang đây ở với tớ một nhà cho vui.
Thị lườm hắn. Một người thật xấu khi yêu cũng lườm. Hắn thích
chí khanh khách cười. Lúc tỉnh táo, hắn cười nghe thật hiền. Thị Nở lấy làm bằng
lòng lắm. Bấy giờ mấy bát cháo ý chừng đã ngấm. Hắn thấy lòng rất vui. Hắn bẹo
thị Nở một cái làm thị nẩy hẳn người lên. Và hắn cười, hắn lại bảo:
- Ðằng ấy còn nhớ gì hôm qua không?
Thị phát khẽ hắn một cái, làm vẻ không ưa đùa. Sao mà e lệ thế.
Xấu mà e lệ thì cũng đáng yêu. Hắn cười ngất, và muốn làm thị thẹn thùng hơn nữa,
hắn véo thị một cái thật đau vào đùi. Lần này thì không những thị nẩy người. Thị
kêu lên choe choé. Thị nắm cổ hắn mà giúi xuống. Chúng tỏ tình với nhau, không
cần đến những cái hôn. Ai lại hôn, khi có những cái môi nứt nẻ như bờ ruộng vào
kỳ đại hạn và cái mặt rạch ngang dọc như mặt thớt. Vả lại, có những cách âu yếm
bình dân hơn, chúng cấu véo hoặc phát nhau... thiết thực biết mấy...
Chúng sẽ làm thành một cặp rất xứng đôi. Chúng cũng nhận thấy
thế, và nhất định là lấy nhau. Như thế năm ngày chẵn, thị ở nhà hắn cả ngày lẫn
đêm, trừ những lúc đi kiếm tiền. Hắn không còn kinh rượu nhưng cố uống cho thật
ít. Ðể cho khỏi tốn tiền, nhưng nhất là để tỉnh táo để yêu nhau. Ðàn bà không
men như rượu nhưng cũng làm người say. Và hắn say thị lắm. Nhưng thị lại là người
dở hơi. Ðến hôm thứ sáu thì thị bỗng nhớ rằng thị có một người cô ở đời. Người
cô ấy nội ngày nay sẽ về. Thị nghĩ bụng: hãy đừng yêu để hỏi cô thị đã.
Thấy thị hỏi, bà già kia bật cười. Bà tưởng cháu bà nói đùa.
Nhưng chợt nhớ rằng cháu bà vốn dở hơi. Bà bỗng trở nên hoảng hốt. Bà nhục cho
ông cha nhà bà. Cũng có lẽ bà tủi thân bà. Bà nghĩ đến cái đời dằng dặc của bà,
không có chồng. Bà thấy chua xót lắm. Bà uất ức, uất ức với ai không biết.
Nhưng rồi đổ cái uất ức ngay lên cháu bà! Người đàn bà đức hạnh ấy thấy cháu bà
sao mà đĩ thế! Thật đốn mạt. Ngoài ba mươi tuổi, mà chưa trót đời. Ngoài ba
mươi... ai lại còn đi lấy chồng. Ai đời lại còn đi lấy chồng! Ừ! Mà có lấy thì
lấy ai chứ?... Ðàn ông chết hết cả rồi sao, mà lại đâm đầu đi lấy một thằng
không cha. Ai lại đi lấy thằng chỉ có một nghề là đi rạch mặt ra ăn vạ. Trời
ơi! Nhục nhã ơi là nhục nhã! Hỡi ông cha nhà bà! Bà gào lên như con mẹ dại. Bà
xỉa xói vào mặt cái con cháu ba mươi tuổi mà chưa trót đời. Bà bảo phắt nó:
- Ðã nhịn được đến bằng này tuổi thì nhịn hẳn; ai lại đi lấy
thằng Chí Phèo!
Thị nghe thấy thế mà lộn ruột. Nhưng thị biết cãi bà làm sao?
Con người ấy có quyền nói thế, bởi con người ấy năm mươi tuổi rồi còn ai lấy chồng.
Thị biết cãi làm sao. Mà không cãi được thì giận dữ nổi lên đùng đùng. Thị tức
lắm! Thị tức lắm! Thị cần đổ cái tức ấy lên một người. Thị lon ton chạy sang
nhà nhân ngãi. Thị thấy hắn đang uống rượu, và vừa uống vừa lầm bầm chửi thị về
nhà lâu. Hắn không quen đợi; bởi phải đợi, hắn lại lôi rượu mà uống cho đỡ buồn.
Uống vào thì phải chửi, quen mồm rồi! Nhưng thị làm gì mà hắn chửi? Mà hắn có
quyền gì chửi thị? Ồ, thị điên lên mất! Thị dẫm chân xuống đất, rồi lại nhảy cẫng
lên như thượng đồng. Hắn thú vị quá, lắc lư cái đầu cười. Lại còn cười! Nó nhạo
thị, trời ơi! Thị điên lên mất, trời ơi là trời! Thị chống hai tay vào háng,
vênh vênh cái mặt, và tớn cái môi vĩ đại lên, trút vào mặt hắn tất cả những lời
bà cô. Hắn nghĩ ngợi một tí rồi hình như hiểu. Hắn bỗng nhiên ngẩn người.
Thoáng một cái, hắn lại như hít hít thấy cái hơi cháo hành. Hắn cứ ngồi ngẩn mặt
không nói gì. Thị trút giận xong rồi. Cái mũi đỏ dị xuống rồi lại bạnh ra. Thị
hả hê lắm lắm. Thị ngoay ngoáy cái mông đít ra về. Hắn sửng sốt đứng lên gọi lại.
Ai mà thèm lại! Còn muốn lôi thôi cái gì? Hắn đuổi theo thị, nắm lấy tay thị.
Thị gạt ra, lại giúi thêm cho một cái. Hắn lăn khèo xuống sân. Ðã lăn ra thì hắn
phải kêu: bao giờ chả thế. Hắn nhặt một hòn gạch toan đập đầu. Nhưng hình như hắn
chưa thật say. Vì hắn nghĩ đập đầu ở đây chỉ thiệt; đập đầu ở đây để mà ăn vạ
ai? Hắn phải tự đến cái nhà con đĩ Nở kia. Ðến để đâm chết cả nhà nó, đâm chết
cái con khọm già nhà nó. Nếu không đâm được, lúc ấy hãy đập đầu kêu làng. Muốn
đập đầu, phải uống thật say. Không có rượu, lấy gì làm cho máu nó chảy? Phải uống
thêm chai nữa. Và hắn uống. Nhưng tức quá, càng uống càng tỉnh ra. Tỉnh ra,
chao ơi, buồn! Hơi rượu không sặc sụa. Hắn cứ thoang thoảng thấy hơi cháo hành.
Hắn ôm mặt khóc rưng rức. Rồi lại uống. Hắn ra đi với một con dao ở thắt lưng.
Hắn lảm nhảm: “Tao phải đâm chết nó!”. Nhưng hắn lại cứ thẳng đường mà đi. Cái
gì đã làm hắn quên rẽ vào nhà thị Nở? Những thằng điên và những thằng say rượu
không bao giờ làm những cái mà lúc ra đi chúng định làm.
Trời nắng lắm, nên đường vắng. Hắn cứ đi, cứ chửi, cứ dọa giết
“nó”, và cứ đi. Bây giờ đến ngõ nhà cụ Bá. Hắn xông xông đi vào. Cả nhà đi làm
đồng vắng, chỉ có mình cụ Bá đang nằm nghỉ trưa. Nghe tiếng hắn, cụ thấy sao bực
mình quá! Chính thật thì cụ cũng đang bực mình. Bởi vì cụ thấy đầu hơi nhức. Cụ
đang muốn có một bàn tay man mát xoa cái đầu. Cũng có lẽ, cụ chỉ muốn bà Tư đừng
đi lâu quá thế. Đi lâu thế, không biết rằng đi đâu? Sao bà ấy còn trẻ quá! Gần
bốn mươi rồi mà trông còn phây phây. Còn phây phây quá đi nữa! Cụ năm nay đã
ngoài sáu mươi. Già yếu quá, nghĩ mà chua xót. Già thế thì bà ấy chỉ cũng già
đi cho xong. Bà ấy lại cứ trẻ, cứ phây phây, cứ đẹp như mới ngoài hai mươi tuổi,
mà sao đa tình. Nhìn thì thích nhưng tưng tức lạ. Khác gì nhai miếng thịt bò lựt
sựt khi rụng gần hết răng. Mắt bà, miệng bà có duyên, nhưng trông đĩ lắm. Hơi một
tí là cười toe toét, tít cả mắt lại, cái má thì hây hây. Mà thấy ghét những thằng
trai trẻ, giá làm con bà không đáng, mà thấy đâu cũng đùa. Chúng đùa nhạt như
nước ốc, chỉ được cái thô tục, mà gặp ai đâu cũng cười! Chẳng nghĩ đến địa vị cả,
người đâu mà vô tâm! Tức lạ! Cụ chỉ muốn cho tất cả những thằng trai trẻ đi
tù... Những lúc như thế, thì một người dẫu khôn ngoan cũng không bình tĩnh được.
Nhất là khi trông thấy một thằng chỉ đến vòi tiền uống rượu như Chí Phèo. Tuy vậy,
cụ cũng móc sẵn năm hào. Thà móc sẵn để tống nó đi cho chóng. Nhưng móc rồi, cụ
cũng phải quát một câu cho nhẹ người:
- Chí Phèo đấy hở ? Lè bè vừa thôi chứ, tôi không phải
là cái kho.
Rồi ném bẹt năm hào xuống đất, cụ bảo hắn:
- Cầm lấy mà cút đi cho rảnh. Rồi làm mà ăn chứ cứ báo người
ta mãi à?
Hắn trợn mắt chỉ tay vào mặt cụ:
- Tao không đến đây xin năm hào.
Thấy hắn toan làm dữ cụ đành dịu giọng:
- Thôi, cầm lấy vậy, tôi không còn hơn.
Hắn vênh cái mặt lên, rất kiêu ngạo:
- Tao đã bảo là tao không đòi tiền.
- Giỏi! Hôm nay mới thấy anh không đòi tiền. Thế anh cần gì?
Hắn dõng dạc:
- Tao muốn làm người lương thiện!
Bá Kiến cười ha hả:
- Ồ tưởng gì! Tôi chỉ cần anh lương thiện cho thiên hạ nhờ.
Hắn lắc đầu:
- Không được! Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào cho mất được
những vết mảnh chai trên mặt này? Tao không thể là người lương thiện nữa. Biết
không? Chỉ có một cách... biết không! Chỉ có một cách là... cái này biết không?
Hắn rút dao ra xông vào. Bá Kiến ngồi nhỏm dậy, Chí Phèo đã
văng dao tới rồi. Bá Kiến chỉ kịp kêu một tiếng. Chí Phèo vừa chém túi bụi vừa
kêu làng thật to. Hắn kêu làng, không bao giờ người ta vội đến. Bởi thế khi người
ta đến thì hắn cũng đang giẫy đành đạch ở giữa bao nhiêu là máu tươi. Mắt hắn
trợn ngược. Mồm hắn ngáp ngáp, muốn nói, nhưng không ra tiếng. Ở cổ hắn, thỉnh
thoảng máu vẫn còn ứ ra.
Cả làng Vũ Ðại nhao lên. Họ bàn tán rất nhiều về vụ án không
ngờ ấy. Có nhiều kẻ mừng thầm. Không thiếu kẻ mừng ra mặt. Có người nói xa xôi:
“Trời có mắt đấy, anh em ạ!”. Người khác thì nói toạc ra: “Thằng nào chứ hai thằng
ấy chết thì không ai tiếc! Rõ thật bọn chúng nó giết nhau, nào có phải cần đến
tay người khác đâu”. Mừng nhất là bọn hào lý ở trong làng. Họ tuôn đến hỏi
thăm, nhưng chính là để nhìn lý Cường bằng những con mắt thỏa mãn và khiêu
khích. Ðội Tảo, không cần kín đáo, nói toang toang ngay ngoài chợ, trước mặt
bao người: “Thằng bố chết, thằng con lớp này không khỏi người ta cho ăn bùn”.
Ai chả hiểu “người ta” đó là chính ông. Bọn đàn em thì bàn nhỏ: “Thằng mọt già ấy
chết, anh mình nên ăn mừng”. Những người biết điều thì hay ngờ vực, họ chép miệng
nói: “Tre già măng mọc, thằng ấy chết, còn thằng khác, chúng mình cũng chẳng lợi
tí gì đâu...”.
Bà cô thị Nở chỉ vào tận mặt cháu mà đay nghiến:
- Phúc đời nhà mày, con nhé. Chả ôm lấy ông Chí Phèo.
Thị cười và nói lảng:
- Hôm qua làm biên bản, lý Cường nghe đâu tốn gần một trăm.
Thiệt người lại tốn của.
Nhưng thị lại nghĩ thầm:
- Sao có lúc nó hiền như đất.
Và nhớ lại những lúc ăn nằm với hắn, thị nhìn trộm bà cô, rồi
nhìn nhanh xuống bụng:
- Nói dại, nếu mình chửa, bây giờ hắn chết rồi, thì làm ăn thế
nào?
Ðột nhiên thị thấy thoáng hiện ra một cái lò gạch cũ bỏ
không, xa nhà cửa và vắng người qua lại...
Tháng 2 - 1941
Dì Hảo
Dì Hảo là con nuôi của bà tôi. Bố đẻ của dì chết đã lâu. Mẹ đẻ
dì là bà xã Vận, một người đàn bà bán bánh đúc xay, ngon có tiếng khắp làng Vũ
Đại. Tôi biết bà là vì hồi còn bé tôi rất ưa ăn bánh đúc. Có lẽ lúc sinh tôi
ra, ông trời đã định sẵn cho tôi một cái kiếp chẳng giàu sang, nên phú sẵn cho
tôi cái tính thích những món ăn rẻ tiền của những người nghèo túng. Lúc có tôi
thì nhà tôi chẳng còn nghèo. Thế mà tôi cứ thấy ăn cơm gạo đỏ, thổi khô khô, với
rau muống luộc chấm tương ngon hơn cơm tám với thịt đông; mà cái bánh đúc xay nấu
khéo còn đậm vị gấp nghìn lần cái bún tuy trắng, tuy mềm nhưng nhạt bép. Mỗi
sáng, tôi cầm hai xu mẹ phát cho, theo con ở đi ra hàng. Hàng là một cái chợ nhỏ
của làng tôi, họp ngay ở mặt đường, mỗi sáng chỉ họp độ một giờ là đã tan. Từ đằng
xa tôi đã thấy những người đàn bà váy bạc phếch xúm xít quanh mẹt bánh đúc của
bà xã Vận. Bà thái không kịp bán. Tuy vậy mới nhìn thấy tôi bà đã ngừng dao, nhặt
bốn tấm bánh gói gọn ghẽ vào lá chuối, tươi cười đưa cho. Không phải bà thấy
tôi ngộ nghĩnh đáng yêu. Nhưng bà không thể quên rằng bà còn nợ bà tôi mấy chục
bạc. Cháu ngoại của một người chủ nợ kể cũng đáng cho người ta quý trọng. Tôi
đưa hai xu, ôm bốn tấm bánh về[1]. Bà bán đúng một trinh một tấm, mua nhiều hay
ít cũng thế. Tấm bánh chẳng lấy gì làm to, so với bánh người khác có phần hơi đắt.
Nhưng mà ngon hơn. Cái bột xay rất nhuyễn, vôi bỏ vừa, mịn chắc đấy, nhưng
không nồng một tí nào, bẻ ra ăn với cá bống kho ráo nước cho đến cong lên, dầm
vào một tí tương cua thì thật tuyệt! Về sau, ngọn gió đời đưa đẩy tôi trải qua
rất nhiều cảnh huống: vất vả nhiều, nhưng cũng có lúc phong lưu, có lúc tôi có
thể thừa cách mà hưởng tất cả các cao lương mĩ vị, nhưng chưa bao giờ tôi gặp một
món ăn không thể làm tôi quên được cái hương vị thanh đạm mà vẫn đậm đà của
bánh đúc ăn với cá bống dầm tương, nghĩ đến bây giờ mà tôi vẫn còn muốn nuốt nước
bọt.
Mà cứ nghĩ đến bánh đúc là phải nghĩ đến bà xã Vận. Chồng bà
chết đi để lại cho bà một trai một gái, con chị hơn thằng em ba bốn tuổi. Như
thế chị có thể dắt em đi chơi để mẹ kiếm gạo. Nhưng một hôm bà xã nhận thấy rằng
thằng cu đã có thể đi chơi một mình; hơn nữa nó có thể tha thẩn ngoài sân với
con chó để coi nhà được. Con chị hoá ra thừa. Cũng phải cho nó đi ăn, đi ở với
người ta để kiếm manh quần tấm áo. Chả gì cũng bớt miệng ăn. Phần cơm của nó, để
em nó ăn thêm; như thế em nó được no thêm một ít nữa. Bà đã để ý nghe ngóng xem
nhà nào có cần nuôi đứa ở bế em chăng. Chưa ai buồn hỏi đến, thì một hôm bà lại
nghĩ về người chồng đã chết. Khốn nạn! Khi ông đã nằm xuống đấy thì bà chẳng
còn một đồng nào. Bà chạy ngược chạy xuôi van lạy hết người nọ đến người kia, mới
vay được non chục bạc. Non chục bạc thì chỉ nộp lệ làng, may cho con mỗi đứa một
cái áo tang và cho bà một cái mấn, rồi biện miếng trầu, bát nước cho hàng xóm
cũng đã không đủ rồi. Thành thừ bà chỉ dám mua cho ông cỗ áo quan có non ba đồng.
Rõ nghĩ mà thương! Nó vừa mỏng, vừa mọt, mộng trẽo trà trẽo trẹt, giá chỉ bóp mạnh
cũng răng rắc được. Của ấy được mấy nỗi mà nát? Bấm đốt ngón tay đã được sáu
năm trời rồi. Cũng phải cố biện bát cơm, bát canh để thay cho ông ấy cái áo mới,
chứ để thế thì tội nghiệp. Nhưng làm sao bây giờ?
Bà dẫn Hảo đến cho bà ngoại tôi. Bà ngoại tôi, ngoan đạo như
những người vừa biết Chúa, thích nuôi trẻ ngoại đạo, rửa tội rồi nuôi làm con
nuôi. Đó cũng là một cách để con cái đức Chúa lời ngày một thêm đông. Bà xã bằng
lòng cho con gái bà đi đạo.
Bà tôi còn nhân đức, giả đăn đắt để trừ nợ năm sáu đồng.
Thành ra bà xã chỉ còn được lấy có bảy đồng bạc thôi, nhưng hơn chục đồng còn nợ
lại, từ đấy bà cứ lần khân mãi, có gặp bà tôi cũng chỉ van lạy khất, chứ không
chịu trả. Bà tôi có bực mình cũng chỉ mắng té tát mấy câu, chứ không chửi bới
tàn tệ hay bắt bớ, ấy cũng bởi bà tôi là một người đi vay.
Những khi vui chuyện, người thường kể lại với chúng tôi rằng:
ngày xưa, khi ông thua bạc bỏ nhà đi, người còn phải trả trăm đồng bạc nợ. Người
làm lụng vất vả, chiều hôm ban mai, một nắng hai sương, quanh năm chẳng có phút
nghỉ ngơi, mà không bao giờ đủ tiền nộp lãi. Vì thế, hơi bước ra khỏi nhà là lủi
trốn, giá có cái áo hơi lành hay nắm gạo ăn cũng sợ người ta bắt mất. Có lần
người đong được một hào gạo dúm vào vạt áo và mua cho mẹ tôi – hồi ấy mới lên
ba – một nắm xôi, đã cố lẩn lút, mà thế nào cũng bị một chủ nợ tinh mắt trông
thấy, con mẹ ấy có tiếng là khe khắt. Bà tôi sụp ngay xuống lạy và khóc xin khất
nó. Nó chẳng rằng, chẳng nói, giằng lấy dúm gạo, nắm xôi, đổ vào trong nón rồi
ngoắt đi. Chẳng may người phu quét chợ trông thấy thế, nghĩ tức lây, bảo nó rằng:
- Bà có bắt của người ta nắm gạo là cùng lắm. Còn xu xôi người
ta mua cho con người ta thì phải để cho con người ta chứ? Con người ta chịu
đói, khóc có bong bóng mũi ra, từ sáng tới giờ, mà bà bắt của người ta thì nó
chết. Bà cũng có con mà bà nỡ đang tâm làm thế à?
Con mẹ kia ngoa ngoắt, tớn môi lên:
- Ai khiến nhà bác chõ mồm vào đấy thế? Ró khéo con tiều! Bác
thương nó thì mua cho nó.
Người quét phu chợ bực mình quăng ngay cho bà tôi hai hào:
- Đây này! Tôi cho nhà chị vay bao giờ kiếm được thì trả tôi;
chúng nó giàu mà coi đồng xu bằng cái mẹt!
Vì thế người ta đồn rằng người quét phu chợ phải lòng bà tôi.
Nhưng bà tôi quả quyết với chúng tôi rằng: Từ hôm cho bà tôi vay tiền, có gặp
bà tôi ông ta chỉ lẳng đi như không trông thấy, nhưng chỉ mấy hôm bà tôi cũng cố
tìm tiền đem trả cho ông phân minh tử tế; hai người chẳng bao giờ nói với nhau
những lời có thể gọi là trai lơ. Vè sau, khi bà tôi sạch nợ, và có chút ít tiền,
mà ông tôi vẫn biệt tăm, có nhiều đám muốn hỏi bà tôi làm vợ, toàn những đám
danh giá cả nhưng bà tôi từ chối hết. Bà tôi bảo “Nếu tôi không nhất định chờ
chồng, làm lụng nuôi con, thì tôi lấy người phu quét chợ ngày xưa rồi”.
Một người đã khổ sở vì tiền, tất phải quý đồng tiền. Nhưng
không phải vì thế mà bà tôi nỡ bắt những con nợ của người phải chịu những nỗi khốn
nạn mà trước kia người đã phải chịu. Đối với bà xã Vận, người tỏ ra dễ dàng.
Nhưng sự dễ dàng ấy, một phần nữa, cũng do có cô Hảo, người
được nhận làm con nuôi.
Mới đầu, dì Hảo khóc lóc đến mười hôm: dù có được ăn no, mặc
lành đi chăng nữa, người ta cũng không thể phút chốc mà quên cái lều hôi hám là
nơi mình đói rách, khổ sở với em và mẹ. Nhưng rồi dì cũng khuây dần. Dì theo mẹ
tôi đi nhà thờ học kinh và “các lễ” cầu cho được rỗi các linh hồn. Dì thấy đi đạo
cũng vui. Dần dần người ta dạy cho dì biết có một đức Chúa lời dựng nên trời đất,
muôn vật và loài người ta, đức Chúa lời có ba ngôi và ngôi thứ hai ra đời lấy
tên là Giê-su; đức Chúa Giê-su chịu đóng đanh trên cây thánh giá để chuộc tội
cho thiên hạ… Ai tin những điều ấy thì được rỗi linh hồn, bằng ai chẳng tin,
thì phải xuống địa ngục đầy lửa sinh, lửa diêm, có tiếng khóc lóc và nghiến
răng. Tiếng khóc lóc và nghiến răng ken két, thì dì không sợ lắm. Hồi còn ở
nhà, em dì khóc nhè nhè suốt ngày; những hôm nó nóng đầu, thì đêm ngủ nó nghiến
răng ken két; quen đi thì cũng không sợ gì, nhưng dì sợ lửa sinh, lửa diêm nó
thiêu đốt người ta đời đời kiếp kiếp. Có là thánh cũng không chịu nổi! Nghe nói
đến địa ngục là dì lừ lưỡi ra. Và dì tin. Dì trở nên rất ngoan đạo nữa. Dì với
tôi đọc kinh và hát vãn với nhau suốt ngày.
Dì bắt đầu muốn xa lánh hẳn cái lều tối tăm đầy những ma cùng
quỷ; thực tình, dì rất ít khi muốn về thăm mẹ ở nhà, và mỗi lần có phải về thăm
mẹ, dì thấy hơi rờn rợn khi đến gần cái bàn thờ lúc nào cũng âm u như che đậy
bao nhiêu là bí mật. Và đây mới thật là cái buồn não nuột: dì thấy ghê ghê ngay
mẹ dì. Bà xã Vận bỗng thành người đồng bóng; những ngày rằm, mồng một, bà thường
khăn chầu, áo ngự, đến điện nhà cô đồng Ốc để hầu. Dì dùng những lờì rất khinh
bỉ để nhạo báng bà, bà nhạo lại dì, mẹ con dần dần chẳng muốn nhìn mặt nhau làm
gì cho thêm bực. Dì nghẹo đầu đi, mặt đỏ bừng, nước mũi chảy ra, lệch xệch vác
tôi đi. Thế mà tôi có đòi đứng xuống dì cũng nhất định không chịu đấy!
Sự tận tâm của dì cảm động lòng tôi. Mãi đến lúc tôi đã đi học,
dì đã ngồi trên khung cửi, chúng tôi còn quyến luyến nhau. Tôi học bài bên cạnh
khung cửi dì. Dì thúc giục tôi. Nghe những bài học lủng củng như “ếch kêu, chó
cắn”, – tôi đã học sang vần trắc – dì khen tôi giỏi quá, khó như thế mà nhớ được!
Rồi tưởng những tiếng âm vô nghĩa ấy là những câu thần chú gọi cái không của
loài người, dì cố nhẩm theo, và lâu dần thuộc lòng tất cả các bài tôi học; có
lúc tôi ấp úng dì nhắc cho tôi đọc nữa; lại đến lượt tôi phục dì! Khi bài tôi
đã thuộc, tấm vải của dì được ra rồi dì giũ váy mấy cái cho lông vải bay hết, rồi
lại ôm tôi vào lòng mà vuốt hai cái trái đào của tôi. Những lúc ấy, tôi thấy êm
ái chẳng khác gì nằm trong lòng mẹ.
Dì Hảo ơi! Tôi hãy còn nhớ cái ngày dì bỏ tôi đi lấy chồng.
Đó là một buổi chiều có sương bay. Người ta đã đến đón dì vào lúc tờ mờ tối.
Cũng chẳng lấy gì làm đông lắm, bên nhà trai đâu lẻ tẻ mươi người. Về đằng nhà
gái, bà tôi chỉ có dăm ba người chị em đưa đi, chính tôi cũng chẳng được đi. Mẹ
tôi bảo: “Không có cỗ đâu: nhà người ta có trở, chỉ biện cơi trầu, bát nước”.
Nhưng nào tôi có đòi đi để được ăn cỗ! Tôi chỉ theo dì Hảo của tôi: từ trước đến
nay, có bao giờ dì đi đâu mà để tôi ở nhà? Người ta giữ tôi lại. Tôi tức, khóc
oà lên, tôi tức bà tôi, tôi tức thầy tôi, tôi tức cả dì Hảo nữa! Tôi tự hỏi sao
dì cứ phải đi lấy chồng? Và ngay bây giờ nữa, dì Hảo hỡi! Có lúc tôi vẫn ân hận
vì dì đã đi lấy chồng. Nếu dì cứ ở nhà, nếu dì cứ là một người dì của tôi mãi
mãi, thì có lẽ khỏi khổ, ít ra, dì cũng đỡ khổ hơn bây giờ.
Nhưng mà sự thật ấy đã không thể đừng được. Dì Hảo đã đi lấy
chồng, mang theo cho người ấy tất cả lòng yêu vẫn để cho tôi. Và người ấy đã nhận
tấm lòng yêu ấy, nhận lấy mà chẳng làm gì cho đáng nhận.
Người ấy không yêu dì. Thật mà! Người ấy chẳng yêu dì Hảo
đâu. Mà lại còn khinh dì là khác nữa. Hắn khinh dì là đứa con nuôi, còn hắn là
con dòng cháu giống. Và tuy rằng nghèo xác, hắn nhất định không làm gì. Hắn lấy
vợ để cho vợ nó nuôi. Dì Hảo cũng nghĩ đúng như thế ấy; dì làm mà nuôi hắn. Người
vợ đảm đang ấy kiếm mỗi ngày được hai hào, dì ăn có năm xu. Còn một hào thì hắn
dùng mà uống rượu. Và dì Hảo sung sướng lắm. Và gia đình vui vẻ lắm. Nhưng sự
tai ác của ông trời bắt dì đẻ một đứa con.
Đứa con chết, mà dì thì tê liệt. Mỗi ngày ngồi là một ngày
không có hai hào. Người chồng muốn đó là cái lỗi của người vợ vô phúc ấy.
Nhưng mới đầu hắn chỉ nghĩ thế thôi. Là vì nhờ ít tiền dành dụm.
người ta vẫn có thể đủ cả cơm lẫn rượu. Nhưng rồi rượu phải bớt đi. Đến cả cơm
cũng thế. Đến lúc ấy thì hắn không nhịn được nữa. Hắn chửi bâng quơ. Hắn chửi
những nhà giàu, hắn chửi số kiếp hắn, và sau cùng thì chửi vợ. Ô! Hắn chửi nhiều
lắm lắm, một bữa đói rượu rồi tình cờ có một bữa rượu say.
Dì Hảo chẳng nói năng gì. Dì nghiến chặt răng để cho khỏi
khóc nhưng mà dì cứ khóc. Chao ôi! Dì Hảo khóc. Dì khóc nức nở, khóc nấc lên,
khóc như người ta thổ. Dì thổ ra nước mắt. Nhưng đã vội phí nước mắt làm gì nhiều
đến thế. Vì dì còn phải khóc hơn thế nhiều, khi hắn chán chửi, bỏ nhà mà đi, bỏ
đi bơ vơ, đau ốm, để tìm cơm rượu. Trách làm gì hắn, cái con người bắt buộc phải
tàn nhẫn ấy? Hắn phải ăn, phải uống, phải vui thú, đó là đời của hắn. Dì Hảo
què liệt không còn những cái ấy để mà cho. Không, dì có trách chi con người tàn
nhẫn ấy. Cũng như dì đã không trách bà tôi đã làm ngơ không cấp đỡ cho dì. Bà
tôi có còn giàu như trước nữa đâu? Người đã già, đã ốm yếu, và khổ cực thay! Đã
nghèo như lúc còn hăm hai. Cái cơ nghiệp người gây dựng thầy tôi buôn bán thua
lỗ, chúng tôi học hành tổn phí nhiều, đã tan tác đi theo gió bốn phương. Người
chỉ có thể đem đến cho dì Hảo mỗi ngày một xu quà, và rất nhiều nước mắt. Và rất
nhiều lời than thở.
Nhưng rồi bệnh dì cũng qua đi. Nó qua như một thằng quái ác
chán không muốn hành hạ một kẻ kiên nhẫn quá. Dì Hảo lại đi làm, lại có tiền, lại
muốn có chồng để mỗi ngày ăn năm xu và hắn dùng một hào còn lại đi uống rượu.
Thì quả nhiên hắn về. Hắn về với một cái quần đen, một cái áo tây vàng, túi xóc
xách tiền và một người vợ theo trơ tráo. Thoạt đầu thì người vợ chính ngạc
nhiên. Rồi thì tức tối. Sau cùng thì dì nhẫn nại; phải, nhẫn nại là hơn; nếu hắn
không về thì cũng thế.
Nhưng mà hắn đã về, hắn lại làm chủ cái lều và ba sào vườn của
ông cha để lại. Hắn tưởng có quyền chẳng làm gì mà chỉ uống rượu ăn cơm. Và uống
rồi, ăn rồi, nó cười sặc sụa.
Cái con vợ bé ấy trơ tráo lạ. Nó chẳng biết làm gì cả. Nó hát
những câu tục tằn. Nó uống rượu tựa đàn ông, hút thuốc tựa đàn ông, búi tóc ngược,
mặc quần áo trắng tựa đàn ông. Nó sẽ lôi chồng dì vào đáy sâu địa ngục thôi!
Cheo leo thay cho cái linh hồn của chồng dì.
Thế mà chồng dì say mê nó lắm. Chồng dì gọi nó là “mợ mình”,
và mua cho những hộp sữa bò sáu hào bảy khi nó ốm hay làm ra vẻ ốm.
Còn dì, dì biết phận dì. Dì cố nhắm mắt để khỏi trông thấy
chúng. Dì chẳng hé răng nói nửa lời, nhưng dì khóc ngấm ngầm khi chúng cười
vui, dì nhịn quắt ruột khi chúng ăn phung phí. Dì héo hắt đi, dì còm cõi. đúng
như một con mèo đói. Nhưng nếu dì còn được như thế mãi!
Một buổi sáng, chừng như chúng nó đã cạn tiền và cạn cả lòng
yêu. Dì đoán thế vì luôn hai, ba hôm, dì không thấy chúng uống rượu và cười sặc
sụa. Con vợ bé vừa nhổ bọt vừa nói cằn nhằn. Anh đàn ông hõm má vào và lõ mũi
ra. Hắn vừa khoặm mắt vừa văng tục. Con kia mặt sưng lên, cứ nói một câu lại
choai người lên một cái và vỗ đùi đồm độp. Chúng nó nhảy xổ vào nhau. Rồi đấm
đá, cắn cấu với những tiếng gào thét ầm ĩ quá. Chẳng biết làm sao, để mặc
chúng, dì bỏ đi làm. Cũng như dì đã mặc những phút mặn nồng của chúng.
Chiều hôm ấy, nhà có vẻ đám ma. Dì không thấy con vợ bé đâu.
Cả chồng dì cũng thế. Nhà cửa, đồ đạc thì bừa bộn. Mấy cái nồi đất và đôi lọ
xách nước tan ra từng mảnh. Lấy tiền đâu mà sắm sửa lại bây giờ. Trời ơi! Nhưng
kia hắn đã về. Hắn về có một mình, một chai rượu trong tay và những tia giận bừng
bừng trong mắt. Hắn uống, rồi lại uống, uống lẳng lặng như chưa bao giờ hắn uống.
Hắn uống cả chai. Rồi hắn đập chai ra, và chửi. Hắn chửi bâng quơ. Hắn chửi số
kiếp hắn. Hắn chửi đàn bà. Hắn chửi con vợ bé. Dì Hảo cắn chặt răng để cho khỏi
khóc. Nhưng cứ khóc. Hôm sau hắn ra đi, không biết đi đâu. Dì Hảo ngạc nhiên. Rồi
tức tối. Sau cùng thì dì nhẫn nại. Phải nhẫn nại là hơn: nếu hắn cứ ở nhà thì
cũng thế.
Tháng 9 - 1941
Con mèo
Đầu đuôi tại con mèo. Nhưng cũng tại trời bức nữa. Bức không chịu được.
Đầu đuôi tại con mèo. Nhưng cũng tại trời bức nữa. Bức không chịu được.
Chị cu vừa ở khung cửi xuống. Anh cu vừa ở ruộng về. Hai người
cùng mỏi mệt. Hai người cùng bứt rứt. Một người ngồi quạt phành phạch. Một người
ngồi gãi cái đầu tổ quạ đến mấy tháng nay chưa gội. Chẳng ai buồn ăn cơm. Nhưng
cái Viển thì lại muốn chóng xong việc để còn đi tắm. Nó lừa thằng cu ngủ. Nó
bưng mâm cơm ra hè, đặt đấy. Rồi nó chạy vào mắc, rút một cái quần, một cái yếm
vắt lên vai, mải mốt đi ra ngoài cầu ao. Nóng nực thế này thì ăn không bằng tắm.
Cứ để cho vợ chồng người ta ăn trước. Tí nữa về, có còn thì nó ăn, hết thì
thôi. Cái bữa tối hoạ hoằn mới có. Ấy là khi nào cơm trưa ăn hết, còn thừa lại.
Đủ chia, thì mỗi người làm một vực. Chẳng đủ chia thì nhịn. Cũng chẳng chết gì.
Lúc ấy chú mèo mới ở đâu lò dò đến. Chú lại gần mâm. Chú kêu
meo meo. Chú lượn vòng quanh mâm một lát. Rồi chú trèo lên mâm. Anh cu trông thấy,
quát:
- Mèo! Đuổi nó đi! Con mèo!
Anh vừa quát vừa vỗ tay xuống hè bèn bẹt. Thằng cu giật mình,
thét lên. Chị cu bực mình quá, quay ra trị chồng:
- Gớm mồm với chả miệng gì mà toang toang như ngỗng đực. Làm
thằng bé dậy.
- Không thế để nó ăn hết, hả?
- Có mốc gì mà nó ăn? Không trách được!…
Chị chạy vào, rước thằng cu dậy. Trong nhà nực quá. Chị ẵm nó
ra ngoài hè. Nó chúi đầu vào ngực chị, mấp lấy đầu vú, day. Day mãi. Trời này
mà cứ phải ngồi ôm lấy nó thì có bực mình không chứ? Chị thấy ngứa lung tung,
khắp người. Chị lẩm bẩm trách chồng:
- Cái giống người gì hơi một tí là oang oang như mõ ấy! Thằng
bé đang ngủ mệt mà cũng làm nó dậy. Chỉ chết người ta thôi.
Anh tức lắm. Chỉ có thế mà chị lỉa rỉa đay nghiến anh được
mãi. Có thứ người gì lại lắm điều đến thế? Cái đầu anh càng ngứa dữ. Anh rứt từng
mảng tóc đi… Giữa lúc ấy thì chú mèo thấy tình hình đã yên ổn lại, lại lò dò đến,
trèo lên mâm. Anh cu cười đắc chí. Anh bảo vợ:
- Kia kìa! Nó lại trèo lên “đầu lâu” kia kìa… Không muốn duổi
nó đi thì cứ để nó ăn cả đầu lâu, hoa cái nhà mày đi.
Chị cu to tiếng:
- Ăn nói như cái đồ lục súc. Được rồi, không khiến đuổi. Để
xem nó ăn gì nào?
- Thì để đấy.
Anh nhìn con mèo. Nhưng cáu thật, con mèo không ăn gì thật.
Thì có gì mà nó ăn? Cả mâm có một bát muối vừng. Nó ngửi một chút rồi vội lảng.
Mèo không ưa muối vừng. Anh thầm mong cho nó đút đầu vào niêu cơm nguội. Nhưng
niêu cơm nguội còn đậy vung. Mèo thất vọng, meo meo một lúc, rồi buồn rầu lảng
đi… Anh bẽ lắm. Anh nhìn trộm vợ. Chị không thèm nói nữa, nhưng vác cái mặt
lên, khinh bỉ chồng. Trông đã ghét. Anh muốn tát vào cái mặt cong cớn của vợ
anh vài cái. Nhưng lấy cớ gì mà tát nó? Nó đã câm họng rồi. Anh quả quyết lại
mâm cơm. Anh hất con mèo một cái, nảy ra tận đằng xa. Ròi anh xúc cơm, rắc muối
vừng, ăn. Anh cúi đầu ăn, mặt hầm hầm. Bởi vì anh còn tức lắm. Nhưng càng tức
càng ăn khoẻ. Tính anh thế. Không ăn, lấy sức đâu mà tức được? Đã tức thì phải
ăn. Anh ăn ngoàm ngoàm. Trông thô bỉ quá. Rõ thật cái vẻ của một người cục súc.
Chị cu làm như không buồn nhìn đến, nhưng trông thấy cả. Chị lộn máu lên. Chị
giận chồng chị quá. Cái anh chồng động cãi nhau là lại ăn thật khoẻ, làm như
cãi nhau được thì lòng hả hê. Đich là nó cố ý trêu tức chị. Chị uất người. Cổ
chị có cái gì lấp hẳn. Thật ra thì nó chẳng động chạm gì đến chị. Nó đi ăn cơm
kia mà!… Chị trút giận vào đàn muỗi. Chị vừa ngửi vừa phát vào bắp chân đen
đét. Chị trút giận vào thằng cu…
Thằng cu lại ngủ rồi. Chị đem nó lừa vào võng. Cái Viển cũng
tắm xong rồi. Nó đang phơi quần. Anh cu thì quẳng cái bát, đôi đũa xuống mâm từ
lúc nãy kia rồi. Bây giờ anh đang ngồi bắt tréo kheo, hất hàm lên, nghênh trời.
Chị cu lại lên mâm. Chị nhắc cái niêu nhẹ nhõm. Chị nghiêng
nó ra ánh trăng, nhìn. Còn ba hột cơm ranh! Ăn chẳng bõ dính răng. Chị nguây
nguẩy đứng lên, bảo Viển:
- Viển! Mày vét nốt mà ăn đi.
Viển tưởng chị nhường cho nó. Nó là con ở nhưng cũng ra phết
lắm, không lẹp nhẹp; nhất là cái miếng ăn, miếng uống dù trong bụng đói đến chết,
ngoài mặt nó cũng làm ra không cần. Nó bảo:
- Chị ăn đi. Tôi không đói.
- Mày ăn đi.
- Tôi không ăn ạ.
- Không ăn thì đem trút xuống ao cho cá!
Anh cu biết ngay là vợ dỗi. Anh cười gằn, hỏi:
- Nào, có đứa nào ăn không nào?
Chị cu không thèm đáp. Cái Viển đoán là chủ giận, vội lại vét
cái nồi cơm ra bát…
- Mời chị lại xơi nốt…
Chị gắt:
- Đổ té nó đi! Tao đã bảo…..
Thì “choang” một cái, anh cu đã hất cái mâm ra ngoài giữa
sân. Chị cu gào thật to:
- Trời ơi là trời!… Mày phá tao thế à? Từ sáng đến giờ, tao
ngồi trầy trầy trên khung cửi, mới được chừng một đồng hào, mà mày phá tao một
lúc một cái niêu, bốn năm cái bát…
Thằng cu trong nhà lại thét lên. Viển chạy vào “rước” nó. Chị
cu thì vừa nhảy loi choi, vừa cỗ tay đen đét, xỉa xói vào mặt chồng mà kể lể.
Nhưng chị bỗng nhiên ngừng bặt… Có tiếng đấm đá nhau huỳnh huỵch. Rồi tiếng người
đàn bà, gào to hơn:
- Mày cứ đánh chết bà đi! Mày đánh chết bà xem nào! Mày không
đánh chết bà được thì…
Anh cu đuổi. Chị vừa chạy quanh vườn, vừa kêu. Anh không đuổi
nữa. Chị cứ đứng ngoài vườn lải nhải mà nhiếc mãi. Đến lúc mỏi miệng, không buồn
nói nữa, chị về sân, thì chồng chị đã lăn ra hè, ngủ như chết từ bao giờ rồi.
Viển và thằng cu cũng ngủ. Chị đi vào giường.
Đêm hôm ấy, trời nổi gió, rồi trời mưa. Mãi đến lúc thấy nước
hắt vào người, anh cu mới thức giấc. Anh vội vàng nhổm dậy. Anh dụi mắt. Anh
nhìn trời. Sấm sét ì ầm. Chớp nhoang nhoáng. Anh vào nhà. Một cái chớp loè lên.
Anh thoáng thấy cái Viển ôm con anh ngủ trên cái võng. Anh đưa võng cho con một
cái. Viển ngủ mệt, không biết gì. Anh đứng tần ngần một lúc. Rồi anh rón rén đi
lại giường…
… Sáng hôm sau, tiếng người láo quáo bên hàng xóm, làm chị cu
giật mình, mở mắt ra. Chị hơi sửng sốt. Trong nhà đã sáng. Chị ngóc đầu nhìn lại
võng. Viển ôm con chị, mồm hãy còn há hốc. xem chừng ngủ mệt. Chị lay đầu chồng,
khẽ gọi:
- Phải gió! Dậy đi!… Sáng rồi.
Anh cu mở mắt ra. Chị giục:
- Kìa, dậy đi!
- Tạnh mưa rồi à?
- Tạnh rồi. Dậy đi!
- Yên đã nào!…
- Dậy đi! Ra chõng kia mà nằm.
Anh mỉm cười. Chị hơi bẽn lẽn mà phát khẽ vào lưng anh, vừa bảo:
- Nỡm lắm! Có ra chõng mà nằm không? Cái Viển nó lại cười cho
là trò trẻ. Mới giận nhau chập tối, nửa đêm đã lành…
Anh vẫn nằm, không nhúc nhích. Chị đành bước qua anh, ra
chõng. Chị vừa vấn khăn vừa gọi:
- Viển ơi! Viển! Không dậy à? Con gái gì mà ngủ trương lên đến
tận nửa buổi chưa chán mắt.
- Bu ơi con đói....
Lần này có lẽ là lần thứ mười, thằng cu bé chạy về đòi ăn, chị
đĩ Chuột đang quấy một nồi gì trong bếp, cáu tiết chạy ra mắng át nó đi:
- Đã bảo hết cơm rồi, tí nữa chè chín thì ăn chè mà!...
Thấy mẹ gắt, thằng cu không dám đòi ăn nữa, nhưng mặt nhăn
nhó bịu xịu như muốn khóc. Chị đĩ Chuột thương hại, dịu dàng bảo:
- Con chạy ra vườn xem chị Gái làm cỏ, lúc nào chè chín bu gọi
về mà ăn... chóng ngoan rồi bu thương.
Nhưng nó không nhúc nhích, mà nó còn nhúc nhích làm sao được:
một nắm cơm nhỏ ăn từ sáng đã bị cái dạ dày chăm chỉ của con nhà nghèo tiêu hết
đánh phèo một cái rồi, còn chi. Nó ngồi phịch xuống đất, gục đầu vào ngưỡng cửa,
ngáp...
- Sắp chín chưa, bu?
Quay ra vẫn thấy con nằm phục đấy, mắt lờ đờ như chết lả, chị
Chuột chép miệng:
- Thôi đây! Chín chả chín thì đừng, bắc mẹ nó ra cho chúng
mày ăn không có chúng mày làm tội cũng chết. Chốc lại nheo nhéo, chốc lại nheo
nhéo...
Chị vừa lẩm bẩm, vừa dập lửa rồi bắc cái nồi ở trên bếp xuống,
lấy một cái vỏ trai múc vào mấy cái bát sành sứt mẻ tứ tung, đặt ngay trên mặt
đất. Thằng cu Bé vội vàng lê xích lại gần, hai mắt lóng lánh đổ dồn cả vào mấy
bát “chè” màu nâu đục, khói bốc lên nghi ngút. Mồm nó nuốt nước bọt ừng ực, mũi
nó nở hẳn ra như để hít lấy hương vị của khói chè ngon ngọt. Chị đĩ Chuột phải
đưa tay cản nó lại, sợ nó sà vào mà bị bỏng. Chị bảo nó:
- Còn nóng lắm, chưa ăn được. Con ra vườn gọi chị về cho chị
ăn với không có phải tội chết, nó làm quần quật từ sáng tới giờ mà chưa được tí
gì vào bụng.
Không đợi dến hai tiếng, chị Gái hớn hở chạy về, lôi thôi lếch
thếch trong mấy mảnh giẻ rách tả tơi, vừa đến bếp nó đã reo lên:
- Sướng quá! Lại được ăn chè kia chứ! Có ngọt không bu? Bu lấy
đâu được mật mà lại nấu chè thế?
Chị Chuột mắng yêu con:
- Úi chà! Tíu tít như con mẹ dại ấy! Tha hồ ăn đến chán chê,
chỉ sợ không sao nuốt được thôi, con ạ.
Rồi chị bảo thằng cu Bé:
- Bé lại đây, bu cho ăn.
Thằng cu ngồi xổm bên mẹ, hấc mặt lên, há hốc mồm ra như con
chim non đợi mẹ mớm mồi. Một miếng vào mồm, nó đã vội nuốt thỏm đi, khen “ngon
quá”. Nhưng chưa kịp ăn miếng nữa, nó đã oẹ một cái, mũi đỏ lên, nước mắt ứa ra
giàn giụa.
- Sao thế?
Nó chỉ hụ hị nhìn mẹ mà không nói, cũng không chịu há mồm ăn
nữa. Cái Gái nhìn mẹ, xêu một miếng chè nữa ăn thử lại:
- Nhạt quá, bu ạ.
Chị Chuột mắng con:
- Làm gì có nhiều mật mà ngọt. Có mà ăn cho no bụng là phúc rồi.
Thằng cu chừng đói quá không chịu được, lại há mồm ra. Mẹ nó
đút cho nó một xêu nhỏ nữa. Nó nhắm mắt, duỗi cổ, cố nuốt cho trôi. Nhưng cũng
như lần trước, nó lại oẹ ra, và khóc oà lên. Chị đĩ Chuột lấy tay áo lau nước mắt
không cầm nổi đã trào ra hai má hõm xanh bùng như người ngã nước. Cái Gái lấy
ngón tay di một cục “chè”. Rồi bỗng nói to lên:
- À! Con biết rồi! Không phải chè, cám mà! Cám nâu mà bu bảo
chè!
Nhưng mẹ nó đưa mắt nhìn nó, lấy ngón tay chỉ ra phía nhà
ngoài nói khẽ, nhưng hơi gắt:
- Khe khẽ cái mồm một tí! Réo mãi lên, thằng bố mày nó nghe
thì nó chết. Nó đã ốm nằm đấy, thuốc không có, mà còn bực mình thì nó chết.
Rồi hai mẹ con lẳng lặng ăn, cố nuốt những bát cám đặc khè
cho đỡ đói. Thằng cu nhất định không chịu ăn, ngồi khóc ti tỉ đòi cơm. Chị đĩ
Chuột đành dỗ nó:
- Thôi nín ngay, bu ăn xong bu xin thầy cho một miếng mà ăn.
Chị bế con rón rén bước vào chỗ chõng nằm. Thằng bé vẫn sụt sịt.
Anh đĩ Chuột giở mình, hơi nghiêng mặt quay ra. Một làn ánh sáng mờ lướt qua
làm cho cái mặt hốc hác và màu da đã xanh lại càng xanh thêm. Mái tóc dài quá
xoà xuống tai và cổ, hai con mắt ngơ ngác và lờ đờ, những chiếc răng dài và
thưa ở cái mồm hé ra để cho dễ thở khiến anh có cái vẻ dễ sợ của con ma đói. Thấy
vợ con, anh cố gượng nhếch miệng cố gượng một cái cười méo xệch và vừa thở phều
phào vừa hỏi bằng một thứ tiếng yếu ớt như từ thế giới bên kia đưa lại:
- Nó làm sao thế?
Chị đĩ Chuột xốc con lên một cái:
- Nó vòi đấy chứ có làm sao? Cơm gạo đỏ không chịu ăn, đòi ăn
cơm trắng của thầy cơ.
- Thì lấy cho nó ăn, tôi ăn làm sao hết?
Chị đĩ Chuột lấy liễn cơm chực moi cho con một ít. Nhưng anh
bảo:
- Mang cả ra cho nó ăn, tôi không ăn nữa đâu. Còn bao nhiêu
vét cho cái Gái với bu em ăn hết đi, để nó thiu ra đấy.
Chị đĩ Chuột cười, bảo chồng:
- Thằng cu nó dở người, chứ mẹ con tôi ăn cơm đỏ đã no rồi,
ăn vào đâu được nữa?
Anh biết vợ nói dối, chực nói, nhưng lại thôi, buồn rầu buông
một tiếng thở dài. Vợ lo ngại hỏi:
- Bây giờ người thế nào, để tôi kể với ông thầy lang lấy thuốc.
- Tiền đâu mà thuốc thang mãi?
- Tôi vừa bán con chó mực với hai buồng chuối non được bốn
hào.
Chồng nhìn vợ, ngẫm nghĩ một chút rồi bảo:
- Đừng lấy thuốc nữa, tôi sắp khoẻ rồi, chỉ ăn cho nó khoẻ
lên chắc bệnh phải hết. Bu em đong cho tôi cả bốn hào gạo đỏ, đừng đong gạo trắng
ăn nhạt lắm.
Vợ gật đầu:
- Cũng được, nhưng đã thật khỏi chưa? Tôi trông thầy em còn mệt
lắm.
- Ốm luôn sáu tháng trời làm mà không mệt sao được? Đi đi…
- Đi ngay giờ à?
- Ừ, đi xuống nhà bà phó Cửu ấy, xa một tí nhưng được rẻ.
Vợ gật đầu bảo thằng cu:
- Con ngồi đây với thầy cho bu đi đong gạo nhé?
Nó không chịu, sợ sệt nhìn cha. Chị mắng:
- Con nhà vô phúc, lại sợ bố!... Khốn nạn, tại đi về không có
tiền mua bánh cho nó nên nó giận đấy mà, phải tội chết, con ạ.
Nhưng anh đĩ Chuột bảo:
- Cho cả nó đi, kẻo nó khóc. Bảo cái Gái về tôi bảo.
Người cha khốn nạn nhìn đứa con chòng chọc, thở dài. Một giọt
lệ từ từ lăn xuống chiếu.
- Thầy bảo gì con ạ?
- Lúc nãy mẹ con mày ăn cám phải không?
Gái gượng cười cãi:
- Ăn chè đấy chứ.
Bố nó chép miệng:
- Khốn nạn, chè đâu mà ăn, cơm còn không có nữa là chè! Rõ
mày khổ từ trong bụng mẹ...
Cái Gái cúi đầu xuống không nói. Anh đĩ Chuột thở dài:
- Con đi lấy cho thầy cái ghế buộc giậu, với sợi thừng ở gác
bếp để thầy mắc lại cái võng, thế này cao quá.
Cái Gái lấy ghế và thừng vào. Anh đĩ bảo:
- Để đấy cho thầy rồi ra vườn làm cỏ đi.
Nó ra vườn, anh gượng ngồi dậy, xuống khỏi giường, mon men ra
đóng chặt cửa buồng lại. Anh lấy cái thừng, làm một cái tròng chắc chắn, dùng hết
sức tàn còn lại, trèo lên ghế, hai chân khẳng khiu run lẩy bẩy. Anh buộc cẩn thận
một đầu dây lên xà nhà, buộc xong, mệt quá, anh đu vào cái thừng, gục đầu xuống
thở. Anh thấy lòng chua xót, nước mắt giàn ra hai má lõm. Rồi anh quả quyết,
anh đứng thẳng người lên, chui đầu vào tròng, cái thừng cứng cáp cọ vào cổ làm
anh rùng mình, khóc nấc lên một tiếng. Cả cái thân hình mảnh dẻ bắt đầu rung
chuyển như một tàu lá run trước gió. Bỗng anh ngừng bặt, ngây người ra nghe
ngóng. Tiếng ai vừa gọi ngoài ngõ, tiếp đến cái Gái thưa và chạy ra, tiếng người
kia the thé:
- Bu mày đâu?
Tiếng cái Gái rụt rè đáp lại:
- Bẩm bà, bu con đi vắng.
- Đi vắng! Đi vắng mãi! Mày về bảo con mẹ mày nội ngày mai
không trả tiền tao thì tao đào mả lên đấy. Cái giống chỉ biết ăn không.
Anh đĩ Chuột rít hai hàm răng lại. Hai chân giận dữ đạp phắt
cái ghế đổ văng xuống đất. Cái tròng rút mạnh lại. Cái bộ xương bọc da giãy giụa
như một con gà bị bẫy, sau cùng, nó chỉ còn gật từng cái chậm dưới sợi dây thừng
lủng lẳng.
Ở ngoài ngõ, mẹ con chị đĩ Chuột vừa kêu khóc vừa van lạy. Bà
Huyện nhất định bắt mẻ gạo mới đong để trừ sáu hào chị Chuột vay từ hai tháng
trước cho chồng uống thuốc.
Một đám cưới
Dần thức dậy thì trong nhà còn tối om om. Ðêm tháng chạp, trời lâu sáng. Thật ra thì gà gáy đã lâu. Tiếng gà gáy xôn xao. Và óc Dần còn lưởng vưởng một ý nhớ mơ hồ, giống như khi người ta nhớ lại những chốn mình đã qua trong một giấc chiêm bao: Dần chưa tỉnh hẳn ra, Dần đã thấy những tiếng gà gáy rất mong manh, rất xa xôi vẩn lên trong giấc ngủ nửa mê nửa tỉnh. Rồi thì Dần tỉnh hẳn. Có lẽ do một tiếng gáy cộc lốc của anh gà trụi trong chuồng gà nhà bên cạnh. Con gà đang ở thời kỳ tập gáy, tiếng gáy ngắn nhưng đã vang động lắm. ấy là một con gà có sức. Dần phác lại trong tưởng tượng cái hình dung lộc ngộc của nó, lấc cấc và vụng dại như một anh con trai mười sáu tuổi, đôi chân cao, cái cổ trần ngất nghểu, cái mào đỏ khè mới hơi nhu nhú, cái đuôi cụt ngủn. Anh chàng rất hay sang nhà nó tãi gio, tãi rác, khiến nó bực mình đã mấy lần toan vụt chết.
Dần thức dậy thì trong nhà còn tối om om. Ðêm tháng chạp, trời lâu sáng. Thật ra thì gà gáy đã lâu. Tiếng gà gáy xôn xao. Và óc Dần còn lưởng vưởng một ý nhớ mơ hồ, giống như khi người ta nhớ lại những chốn mình đã qua trong một giấc chiêm bao: Dần chưa tỉnh hẳn ra, Dần đã thấy những tiếng gà gáy rất mong manh, rất xa xôi vẩn lên trong giấc ngủ nửa mê nửa tỉnh. Rồi thì Dần tỉnh hẳn. Có lẽ do một tiếng gáy cộc lốc của anh gà trụi trong chuồng gà nhà bên cạnh. Con gà đang ở thời kỳ tập gáy, tiếng gáy ngắn nhưng đã vang động lắm. ấy là một con gà có sức. Dần phác lại trong tưởng tượng cái hình dung lộc ngộc của nó, lấc cấc và vụng dại như một anh con trai mười sáu tuổi, đôi chân cao, cái cổ trần ngất nghểu, cái mào đỏ khè mới hơi nhu nhú, cái đuôi cụt ngủn. Anh chàng rất hay sang nhà nó tãi gio, tãi rác, khiến nó bực mình đã mấy lần toan vụt chết.
Dần nhỏm dậy. Nó sờ soạng ra khỏi cái ổ rơm rồi đi thẳng ra ngoài.
Bên ngoài mịt mù sương. Khí lạnh sắc như dao. Dần rùng mình và hắt hơi mấy cái
luôn. Nó thấy cần phải động đậy ngay, cần phải làm ngay một việc gì cho nóng
người: đã rét mà lại còn đứng co ro thì chỉ càng tổ rét. Nó mải mốt vơ lấy cái
chổi để quét sân, quét ngõ. Việc quét tước ấy chẳng sáng nào nó quên làm, dù
sân nhà có bẩn hay không. Ấy là một thói quen cũng như cái thói quen dậy từ lúc
hãy còn đêm. Nết chăm chỉ ấy, nó học được mấy năm đi ở.
Dần đi ở từ năm chửa mười hai. Khi ấy, đầu nó còn để hai cái
trái đào. Nó mới biết cầm vững cái chổi để quét nhà và thổi một niêu cơm con
con không sống, không khê. Mẹ nó vốn nghèo từ trong trứng nghèo ra, nên hay liệu,
hay lo. Thị nghĩ rằng: Con mình đã lớn rồi, phải uốn nắn ngay đi nhà mình vườn
ít, ruộng không, cửi vải cũng không, nghĩa là công việc chẳng có gì; nó ở nhà
cũng chỉ chơi; để mặc nó lêu lổng chạy ra ngoài đường, đánh chắt, đánh ô, rồi
nó hư thân; chi bằng cho nó đi ăn đi ở với người ta, để người ta bắt nó cất nhắc
việc nọ, việc kia cho nó quen tay; có việc làm rồi mới biết việc mà làm, chỉ
nhông nhổng chơi quen, đến lúc phải làm tất gờ guộng chân tay, chẳng đánh đổ
cái này cũng đánh vỡ cái kia, cái thứ con gái mà cầm đến cái gầu không biết tát
làm sao, đưa cho đám mạ không biết cấy thế nào, bảo ngồi lên khung cửi nhắc lấy
cái thoi thì lúng ta lúng túng, là thứ con gái đáng cho hùm ăn thịt. Thị nhất định
cho Dần đi ở để học cho quen công việc cửi vải, ruộng vườn, sau này độ cái
thân: ấy là cái lợi xa xôi. Nhưng lại còn cái lợi nhãn tiền: nhà đỡ một miệng
ăn.
Nếu bớt được mỗi ngày vài lẻ gạo, thì ít ra các em Dần cũng được no hơn. Rồi có được đồng công nào cũng là hay. Mà chẳng được thì mỗi năm người ta cũng thí bỏ cho cái quần, cái áo. Bố mẹ, nếu chẳng được nhờ con thì cũng chẳng còn phải lo lắng gì vào thân nó.
Nếu bớt được mỗi ngày vài lẻ gạo, thì ít ra các em Dần cũng được no hơn. Rồi có được đồng công nào cũng là hay. Mà chẳng được thì mỗi năm người ta cũng thí bỏ cho cái quần, cái áo. Bố mẹ, nếu chẳng được nhờ con thì cũng chẳng còn phải lo lắng gì vào thân nó.
Dần đi ở. Nó ở cho nhà bà chánh Liễu. Nhà bà chánh dệt chín
mười khung cửi. Bà thuê Dần, với hai con bé nữa, để chúng dọn vặt và trông nom ống
suốt: Năm đầu, công cả năm có một đồng, với một cái áo cánh vải to, một cái quần
sồng, một cái thắt lưng. Nhưng nếu chịu khó và ngoan thì bà sẽ cho hơn. Còn cái
sự ăn (bà giao hẹn cả với người ta vì tính bà rất phân minh) thì bà cũng không
dám nói chắc rằng đói hay no; bởi vì tiếng rằng giàu, nhưng nhà bà cũng cơm
chia: sáng, mỗi người một lùm; trưa, ba lượt thật đầy; tối, củ khoai, củ ráy, bụng
trẻ con, như vậy, thì có lẽ cũng không phải đói. Mẹ Dần cho như thế đã là hậu
quá. Bởi vì thật ra, ở nhà Dần, Dần có được ăn ba bữa thế đâu? Mỗi ngày, chỉ bữa
trưa. Mà hiếm họa lắm mới có bữa được mỗi người ba vực chặt. Thường thường là
hai vực, hơn hai vực. Có khi một. Cũng có khi chẳng vực nào, phải ăn ráy, ăn
khoai trừ bữa. Thế mà Dần chịu được, thì vào nhà bà chánh, cố nhiên là Dần chịu
được, Dần sung sướng là khác nữa. Con người ta, có cơm vào là có da, có thịt
ngay. Chẳng lâu đâu. Người mẹ nghĩ và mừng. Thị chắc chỉ vài, ba tháng sau, nếu
Dần được một ngày rỗi rãi về chơi với các em, cả nhà sẽ ngạc nhiên thấy nó béo
như con cun cút. Mà trắng, mà đẹp, mà lành lặn, ra phết cô con gái lắm!...
Mơ ước hão! Bởi vì ít lâu nay, Dần có về thật, nhưng nó vẫn gầy
như một cái que. Nó khóc hu hu. Nó đòi ở nhà với các em, muốn cho ăn thế nào
thì cho, muốn bắt làm gì thì bắt, chỉ đừng bắt nó ở cho nhà bà chánh nữa. Cơm
nhà giàu khó nuốt. Ăn của họ mà không làm lợi cho họ được thì họ làm cho đến phải
mửa ra mà giả họ. Dần chân yếu tay mềm lắm. Nó thà nhịn đói mà ở cửa, ở nhà còn
hơn. Mẹ Dần nhất định không nghe. Thương con thì để bụng. Nuông con thà giết
con đi. Trẻ con đứa nào chả thích ở nhà với bố, với mẹ để chẳng người nào động
đến thân? Ði ở cho nhà người ta, ăn cơm của người ta, lấy công của người ta,
thì cố nhiên là phải làm cho đáng cơm, đáng công của người ta. Làm không được
người ta thiệt thì người ta xót. Người ta xót thì người ta phải nói. Nói, mình
nghe thì chớ, không nghe thì người ta phải chửi, phải đánh. Người ta đánh chửi
cho là phúc nhà mình đấy, không đánh, không chửi, sao có nên thân người được?
Thị bảo Dần: "Mày có hư thì người ta mới đánh; đánh thế chứ đánh nữa tao
cũng không thương chút nào; mày muốn sống, thì về nhà bà chánh mà ở, không về
thì đi đâu mặc kệ! Tao không chứa, tao không lấy gì nuôi được mày...".
Hỡi ôi! Người mẹ rất đáng thương của Dần chết đến hôm nay đã
quá một năm rồi. Nghĩ đến mẹ lúc nào, Dần cũng ngậm ngùi. Bởi vì bà nói thế,
nhưng bà chẳng nghĩ thế đâu. Khi đã cố làm ra mặt hắt hủi để cho Dần chịu đi rồi,
bà ôm mặt khóc hu hu. Bà bảo chồng rằng: "Nghĩ đến con lúc nào thì thương
con đứt ruột. Nhưng biết làm sao? Trời bắt tội mình nghèo. Nó ở nhà mình thì ăn
cũng chẳng bao giờ được bữa no. Ðã đành ăn không no, nó cũng còn sướng hơn ở
nhà bà chánh, được ăn no. Nhưng mình liệu có nuôi được nó suốt đời không? Rồi
chỉ vài ba tuổi nữa, có ai thương đến nó, xin nó cho con nhà người ta, mình đừng
gả hay sao? Về nhà chồng mà thổi cơm không chín, quét nhà chẳng nên thì liệu
người ta có khỏi đào ông, bới cha không? Vả lại cái đời nó còn dài. Không bắt
nó ép mình, ép xác cho quen, rồi khổ ngay vào chính cái thân của nó. Mình nghĩ
đến nó nhiều chứ có phải bắt nó đi ở để hòng được lợi mỗi năm một vài đồng bạc
công đâu?".
Bố Dần chẳng nói sao. Ông chỉ thở dài. Nhưng ông cũng ngơ ngẩn
hàng ngày, hàng buổi như nhớ con lắm. Về sau, các em Dần lại kể với Dần như thế,
nên Dần mới biết. Dần không muốn làm khổ cha mẹ nữa, nên khổ đến chết cũng đành
cắn răng mà chịu, không dám khóc lóc đòi về. Lâu dần rồi nó cũng quen đi. Cái sự
khổ thì bao giờ cũng thế thôi. Nhưng khi người ta đã nhất định chịu, thì khổ thế
nào mà không chịu được.
Dần ở cho nhà bà chánh Liễu đúng hai năm. Nó mới về nhà từ dạo
đầu giêng. Vụ mùa năm ngoái, mẹ Dần đi tả mấy cơn, rồi lại không chịu kiêng
khem, cứ đi làm; mưa nắng nhiễm vào người - mà sức một người vừa mới ốm xong
còn được bao nhiêu? - Thị phải lại một trận kịch liệt rồi thì chết. Thành thử
nhà chỉ còn một bố, là đàn ông, với hai đứa trẻ con, vắt gỉ mũi chưa được sạch:
chúng nó chưa biết làm gì cả. (Hai đứa áp với Dần, giá trời để cho chúng nên
người thì bây giờ đã đứa thổi được nồi cơm, đứa quét được cái nhà; nhưng một
năm xưa, hai đứa lên đậu cách nhau có vài ngày, rồi chết, cũng cách nhau có vài
ngày). Bố Dần, cố đợi hết năm, đến nói với bà chánh Liễu xin cho con gái mình về.
Dần ở nhà coi sóc các em, chăm mấy sào vườn bòn bán, nhặt nhạnh để cho bố đi
làm. Bốn bố con lịu nhịu nuôi nhau. Con nhà nghèo thường sớm biết, sớm khôn. Dần
mới mười lăm mà đã quán xuyến được mọi việc trong nhà, biết suy tính, biết liệu
lo, chẳng kém gì một người nội trợ đã sành sỏi lắm.
Nhưng ông trời hình như không muốn cho bố con Dần ngóc đầu
lên. Cuộc sống mỗi ngày một khó thêm. Gạo kém, thóc cao. Ngô, khoai cũng khó
chuốc được mà ăn. Thậm chí đến hạt muối cũng sinh ra hiếm nốt: mua một vài xu
chẳng hàng nào chịu bán. Ðồng tiền thành ra rẻ quá. Công làm tuy có cao hơn,
nhưng chẳng thấm vào đâu. Trước kia, mỗi người làm mỗi ngày hào rưỡi thì đã gần
đủ cả nhà ăn; bây giờ mỗi ngày được ba hào, tiền gấp hai, nhưng nếu đem đong gạo
thì chưa bằng một góc ngày xưa, thành thử một người ăn cũng hết. Ngày làm đã vậy,
còn ngày nghỉ: có phải ngày nào cũng có người thuê đâu? Ðã thế lại còn bão, lại
còn lụt, rồi lụt chán, đến vụ chiêm lại giở trò đại hạn. Rồi những nhà giàu,
chúng không thể chôn bạc giấy, nhất định để thóc mọc mầm trong nhà chứ không chịu
bán. Gạo cứ mỗi ngày một giá. Không biết rồi làm gì ra tiền mà đong?
Một đêm, sau khi đã than thở với con hết quá một trống canh rồi,
bố Dần thở dài bảo con rằng:
- Cơ cực này, nếu còn ở nhà, rồi đến chết đói cả lũ mà thôi.
Bây giờ mà còn thế, đến tháng hai, tháng ba này còn khổ đến đâu? Bố con mình có
thân thì phải liệu dần đi. Cũng chẳng còn mấy ngày nữa mà đã Tết, thôi thì ta
cũng cố mà chịu vậy qua giêng rồi sẽ tính.
- Thầy bảo: con tính thế nào? Nhà mình thì chỉ có cấp làm
thuê. Thời vụ lại hết rồi. Qua giêng, con chắc mười ngày nghỉ, chưa chắc có một
ngày có việc.
- Ấy thế mình mới lại càng cần phải tính. Nếu có việc thì còn
phải lo gì nữa? Chẳng được cơm thì cũng được cháo, miễn là không chết lả...
Nhưng không có việc!... Cho nên tao định lên rừng một chuyến.
- Eo ôi!
- Việc gì mà "eo ôi?". Bây giờ người ta đi như đi
chợ. Nghe nói trên ấy làm ăn còn dễ. Làng ta, về cánh nhà ông trương Huấn đấy,
họ đi tất cả bằng ấy anh em, mà anh nào về cũng có tiền.
- Tiền rừng, bạc bể chả dễ nuốt được đâu. Vô phúc mà ngã nước
một chuyến thì lại được!...
- Thì chỉ đến chết là cùng, chứ gì? Còn hơn ngồi nhà mà chết
đói. Thế mày bảo không liều thân đi như thế, thì còn xoay xấp gì để kiếm ra tiền
được nữa, nào?
Ồ mà đúng như vậy thật. Dần chẳng còn biết đáp sao được nữa.
Nó đành lẳng lặng. Câu chuyện ngắt ra vài phút. Trong khi ấy, cả hai đều nghĩ
ngợi. Dần bỗng hỏi:
- Cả chúng con cũng đi à?
- Không. Tao hãy đi một mình trước, xem sao.
Dần vội kêu lên:
- Chịu thôi! Chúng con chả dám ở nhà đâu. Ðêm hôm có ba đứa
trẻ ranh!...
Nó sợ có nắm gạo hay củ ráy, củ khoai cũng không giữ được mà
ăn. Nhưng thầy nó bảo:
- Tao đã liệu chỗ ấy rồi. Vườn đất với các em, tao sẽ nhờ chú
Lữ trông nom. Bòn bán thế nào chả đủ cho hai đứa chúng nó ăn. Mà không đủ thì
tao đến...
Còn nó? Chắc thầy nó lại định cho nó đi ở cho nhà bà chánh Liễu
hay nhà nào khác đấy. "Thì cũng được!...". Dần nghĩ vậy. Cái thân nó,
nào nó có cần gì? Nhưng nghĩ đến cảnh nhà tan tác mà buồn. Rồi đây bố một nơi,
con một nẻo, chị em mỗi đứa nhờ vả một người... Nó đã sắp nói một lời gì để can
cha, thì cha đã bảo:
- Còn mày thì tao cho người ta cưới.
Chuyện cưới xin khiến Dần thèn thẹn. Thành thử nó lại không
tìm được câu gì để nói. Vẫn người bố nói:
- Thôi thì trước sau cũng một lần. Có rùi gắng cũng chẳng rùi
gắng được bao nhiêu. Mắc cái người ta xin cưới mấy lần rồi. Tao khất mãi để cho
hết tang bu mày đã; nhưng người ta nhất định xin lo trước. Chết cái con gái người
ta cũng sắp cưới rồi: nhà người ta cũng neo người; không cưới mày về thì ngay đứa
sai vặt cũng không có nữa. Vả lại chỗ người ta với mình, không lẽ thế nào? Người
ta ăn ở phải thì mình cũng phải ăn ở phải, thấy người ta nói mãi, tao cũng nể.
Dần tức tối:
- Nể! Nể cái gì! Thầy cứ bảo rằng: mẹ con chết đi rồi, hai em
thì còn dại, chỉ có con hơi lớn một tí phải ở nhà để thổi cơm, nấu nước.
- Thì tao vẫn bảo người ta thế. Nhưng người ta không chịu.
- Không chịu là không chịu thế nào? Quyền còn ở mình...
- Thì vẫn là quyền còn ở mình? Cho nên người ta có dám bắt
mình đâu? Người ta chỉ cố nài. Người ta nói khó với mình. Tao thề với mày: hai
ba lần bà ấy không khóc với tao, tao chết! Rồi bà ấy lạy. Bà ấy bảo: Thế này
này, ông ạ: ông cũng khổ, nhưng tôi còn khổ hơn ông, thầy cháu chết đi, tôi chỉ
được có mình cháu là con trai, ông cố thương tôi...". Như thế thì tao còn
biết từ chối người ta thế nào cho tiện?
Rồi thầy Dần nói nhỏ:
- Mắc cái lúc mẹ mày nằm xuống, nhà không còn một đồng xu
nào, không còn vớ víu vào đâu được, tao đã nhận của người ta hai mươi đồng bạc
cưới. Ý người ta định đưa tiền trước thế, rồi xin cưới ngay cuối năm, năm
ngoái. Tao phải khất. Nhưng không lẽ khất lần người ta mãi? Người ta lại tưởng
mình có ý lừa lọc gì người ta chăng. Hôm nọ người ta lại đến xin lần nữa. Họ
xin đến tháng giêng... Nhưng từ giờ đến tháng giêng có là bao? Ðằng nào mày
cũng phải đi, mà mày đi thì tao không làm thế nào vừa trông coi các em mày vừa
đi làm được. Cho nên tao nhất định mang gửi chúng nó, rồi lên rừng một chuyến.
Kiếm ăn được, tao sẽ đem chúng nó đi. Ðịnh thế, nên tao bảo người ta: "Nếu
bà nhất định lo, thì tôi cho lo ngay dạo trong năm". Người ta có hỏi tao:
"Ông đã thương... trước nữa là thương cháu, sau nữa là thương tôi, mà rộng
cho như thế, thật cũng là phúc nhà chúng tôi lắm lắm. Tình cảnh nhà tôi, chắc
ông cũng chẳng còn lạ gì. Chúng ta cùng là cái chỗ nghèo hèn, thì con cái chúng
ta lại làm bạn với nhau. Vậy ông định may vá cho cháu thế nào, ăn tiêu thế nào,
thì ông cho chúng tôi biết để chúng tôi lo. Tao nghĩ nát ruột cũng không biết
trả lời thế nào cho tiện. Vải giấy như vải giấy năm nay?... Xin ít thì không biết
may gì. Chỉ một bộ quần áo cánh vải to cũng phải non ba chục.
Mà xin nhiều thì mang tiếng; với lại người ta lấy gì mà đưa cho mình được? Vay công vay nợ lắm vào thì về sau lại chỉ khổ chúng mày. Tao phải bảo người ta: muốn may cho mày thế nào thì may lấy, tao không dám nhận. Bà ta bảo: "Ta với ta, chẳng nói gì ông cũng rõ: cái lúc khó khăn thế này, mười nhà họa mới có một nhà có tiền mà may mặc, còn thì chỉ quần manh, áo vá, đeo dây, quấn rợ; chắc ở nhà ông thì cũng thế, mà nhà tôi thì cũng vậy. May quần chùng áo dài cho cháu, bất quá chỉ mặc một ngày cưới mà thôi, rồi cũng bằng để đấy, cảnh nhà chúng ta thì còn hội hè đình đám gì mà phải sắm quần chùng áo dài kia chứ?... Vậy ông đã dạy thế, thì tôi xin may cho cháu một bộ quần áo vải, quần áo cánh thôi, để cháu nó mặc đi làm ấy; còn hôm cưới, nếu cháu nó chưa có áo chùng, thì tôi xin đưa cái áo chùng của tôi cho nó mặc, cho nó qua cái ngày ấy, kẻo cháu nó là trẻ con nó lại tủi thân chăng. Rồi từ hôm sau mà đi lại cứ quần áo đụp, đem ra mà mặc. Cái áo dài lại cất đi. ấy, nhà có một mẹ, một con, chỉ một cái áo dài là đủ chán! Mẹ đi đâu mẹ mặc; con đi đâu con mặc. Việc may mặc cho cháu thế cũng là tàm tạm được. Còn ý ông định ăn uống thế nào, xin cho biết". Người ta nói thế là có ý hỏi mình có cần cau rượu, tiền nong gì nữa hay không? Tao nghĩ cũng chẳng còn nên xin thêm nữa. Mình cất lấy hai chục đồng bạc của người ta, hơn một năm, có đến năm rưỡi trời rồi. Vả lại còn đang có trở bu mày, cũng nên làm vụng làm trộm, miễn là xong việc thì thôi. Vậy họ đương, anh em, tao nhất định chẳng bảo ai. Ðằng nhà trai cũng vậy. Bà ấy đã thú thật rằng: phải biện năm, ba cỗ thế nào, về đằng họ nhà gái, thì xin biện; chứ đằng họ nhà bà ấy tịnh không mời người nào cả. Bởi việc phải lo thì lo, chứ thật ra một tí gì cũng vào công nợ cả. Công nợ lắm thì về sau chỉ chết chúng mày, chứ chết ai? Vì thế, nên tao bảo: Bà ạ, dẫu rằng "Vui thì vui cả triều đình, chẳng vui, vui thể một mình vui chi?". Ðằng nhà trai, bà còn không muốn bảo ai, thì đằng nhà gái bây giờ đang còn tang mẹ cháu, tôi cũng chẳng bảo ai sất cả. Vậy bà định ngày nào cứ một mình bà với chồng nó đến, tôi cũng chỉ cho hai em nó đưa nó về. Thế cũng xong. Ai cười đến hạng nhà chúng ta? Còn như sự tiền nong... đáng lẽ tôi chẳng nên xin thêm đồng nào nữa mới phải (hồi mẹ cháu mất, tôi cất lấy hai chục đồng bạc của bà, là tôi phải nghĩ), nhưng phương ngôn dạy rằng: giàu bán chó, khó bán con; tôi cũng còn đồng công, đồng nợ, tất cả độ mười đồng, kể cái sự bắt bà trả cả thì cũng không dám bắt, nhưng tôi xin thêm dăm đồng nữa để trang trải những chỗ tôi vay mượn để lo cho bu cháu, hồi bu cháu mất. Như thế cũng như là tiền của cháu, cháu bỏ ra để trả nghĩa cho bu cháu. Tôi không dám tơ hào gì vào đấy. Ấy là tao cũng nói dối bà ấy thế, chứ công nợ tao cũng chưa trả vội; tao nắm lấy dăm đồng ấy, để ra giêng đi lên rừng...
Mà xin nhiều thì mang tiếng; với lại người ta lấy gì mà đưa cho mình được? Vay công vay nợ lắm vào thì về sau lại chỉ khổ chúng mày. Tao phải bảo người ta: muốn may cho mày thế nào thì may lấy, tao không dám nhận. Bà ta bảo: "Ta với ta, chẳng nói gì ông cũng rõ: cái lúc khó khăn thế này, mười nhà họa mới có một nhà có tiền mà may mặc, còn thì chỉ quần manh, áo vá, đeo dây, quấn rợ; chắc ở nhà ông thì cũng thế, mà nhà tôi thì cũng vậy. May quần chùng áo dài cho cháu, bất quá chỉ mặc một ngày cưới mà thôi, rồi cũng bằng để đấy, cảnh nhà chúng ta thì còn hội hè đình đám gì mà phải sắm quần chùng áo dài kia chứ?... Vậy ông đã dạy thế, thì tôi xin may cho cháu một bộ quần áo vải, quần áo cánh thôi, để cháu nó mặc đi làm ấy; còn hôm cưới, nếu cháu nó chưa có áo chùng, thì tôi xin đưa cái áo chùng của tôi cho nó mặc, cho nó qua cái ngày ấy, kẻo cháu nó là trẻ con nó lại tủi thân chăng. Rồi từ hôm sau mà đi lại cứ quần áo đụp, đem ra mà mặc. Cái áo dài lại cất đi. ấy, nhà có một mẹ, một con, chỉ một cái áo dài là đủ chán! Mẹ đi đâu mẹ mặc; con đi đâu con mặc. Việc may mặc cho cháu thế cũng là tàm tạm được. Còn ý ông định ăn uống thế nào, xin cho biết". Người ta nói thế là có ý hỏi mình có cần cau rượu, tiền nong gì nữa hay không? Tao nghĩ cũng chẳng còn nên xin thêm nữa. Mình cất lấy hai chục đồng bạc của người ta, hơn một năm, có đến năm rưỡi trời rồi. Vả lại còn đang có trở bu mày, cũng nên làm vụng làm trộm, miễn là xong việc thì thôi. Vậy họ đương, anh em, tao nhất định chẳng bảo ai. Ðằng nhà trai cũng vậy. Bà ấy đã thú thật rằng: phải biện năm, ba cỗ thế nào, về đằng họ nhà gái, thì xin biện; chứ đằng họ nhà bà ấy tịnh không mời người nào cả. Bởi việc phải lo thì lo, chứ thật ra một tí gì cũng vào công nợ cả. Công nợ lắm thì về sau chỉ chết chúng mày, chứ chết ai? Vì thế, nên tao bảo: Bà ạ, dẫu rằng "Vui thì vui cả triều đình, chẳng vui, vui thể một mình vui chi?". Ðằng nhà trai, bà còn không muốn bảo ai, thì đằng nhà gái bây giờ đang còn tang mẹ cháu, tôi cũng chẳng bảo ai sất cả. Vậy bà định ngày nào cứ một mình bà với chồng nó đến, tôi cũng chỉ cho hai em nó đưa nó về. Thế cũng xong. Ai cười đến hạng nhà chúng ta? Còn như sự tiền nong... đáng lẽ tôi chẳng nên xin thêm đồng nào nữa mới phải (hồi mẹ cháu mất, tôi cất lấy hai chục đồng bạc của bà, là tôi phải nghĩ), nhưng phương ngôn dạy rằng: giàu bán chó, khó bán con; tôi cũng còn đồng công, đồng nợ, tất cả độ mười đồng, kể cái sự bắt bà trả cả thì cũng không dám bắt, nhưng tôi xin thêm dăm đồng nữa để trang trải những chỗ tôi vay mượn để lo cho bu cháu, hồi bu cháu mất. Như thế cũng như là tiền của cháu, cháu bỏ ra để trả nghĩa cho bu cháu. Tôi không dám tơ hào gì vào đấy. Ấy là tao cũng nói dối bà ấy thế, chứ công nợ tao cũng chưa trả vội; tao nắm lấy dăm đồng ấy, để ra giêng đi lên rừng...
Câu chuyện đêm hôm ấy Dần đang thầm nhắc lại, trong khi đưa đẩy
cái chổi cùn trên mặt cái sân con. Bởi vì hôm nay chính là ngày bà mẹ chồng sẽ
đến rước Dần đi. Ðêm hôm qua, đợi hai đứa bé ngủ rồi, hai cha con lại thở dài,
thở ngắn với nhau. Dần khóc đến quá nửa đêm, rồi thiếp đi lúc nào chẳng biết.
Sáng dậy, Dần có cảm tưởng như nó mới chợp mắt đi một tý. Nó thấy người mỏi mệt.
Dù vậy, nó cũng chạy ra ngoài quét thóc...
Dần quét xong thì ở đằng đông, mặt trời đã nhô lên. Những tia
sáng đầu tiên chọc thủng tấm màn sương, rồi xé toạc mãi ra. ánh sáng tràn đi.
Trong khoảnh khắc, trở nên quang hẳn... Dần ra ao, rửa mặt. Lúc trở về nhà, nó
thấy bố và hai em đã dậy rồi. Hai đứa con, mỗi đứa ôm một đùi cha.
Người cha ngồi lử thử, lừ thừ. Ðôi mi mắt trông có vẻ hơi
sưng. Dần cúi mặt, bởi nó đoán rằng đêm hôm qua, cha cũng khóc. Nó vờ tìm cái
chổi, tuy nó biết nhà không còn cái chổi nào nữa, ngoài cái nó vừa quét và để
ngoài đầu chái...
Thầy nó bảo:
- Hôm nay mày phải xuống chợ một tý đi, con ạ.
- Mua bán gì mà đi chợ?
- Mua mấy xu chè tươi, với mấy quả cau. Người ta đến, cũng phải
có bát nước, miếng trầu tươm tất chứ?
- Chào!... Vẽ chuyện!
- Sao lại vẽ chuyện? Không có, không coi được.
Dần cười tủm tỉm. Thằng em lớn, tỳ một tay lên đùi cha, múa
may tay kia và nhún nhảy người, giễu chị:
- Lêu lêu! Lêu lêu? Có người sắp được đi lấy chồng... Lêu
lêu.
Dần khoặm mặt, lườm em. Người cha sợ con gái nhìn xấu hổ, củng
vào đầu con trai một cái và mắng nó:
- Im thằng này!... Ðể cho người ta dặn nó. Mua độ hai xu
chè...
- Rầy hai xu, hàng chè nó chả bán thì sao... Dần kêu lên thế
và cố cười to để cho khỏi thẹn. Người cha cũng cười và hỏi:
- Hai xu không bán, thì mấy xu mới bán?
- Ít nhất là năm xu. Mua ít nó không có tiền trả lại.
- Thì mua cả năm xu vậy. Năm xu thì nấu được mấy ấm?
- Một ngàn ấm... Ông lão cả đời không đi chợ, cứ tưởng chè rẻ
lắm. Quen với ngày xưa, độ một xu một ấm bây giờ năm xu, nấu đặc chỉ được một ấm
là hết xoắn.
Thầy Dần lè lưỡi ra:
- Èo! Mẹ ơi!
- Thật... Không có thế, cứ cổ con mà chặt? Muốn mua thì mua,
chẳng mua thì đừng, chứ cái sự đắt thì ngang ngang với nhân sâm.
- Ðắt thì cũng phải mua. Năm xu chè, với hai quả cau ngon
ngon một tý.
- Cau ngon phải tám, chín xu một quả.
- Vị chi đi ba xu một miếng trầu?
- Ðúng thế, không kém ba xu một miếng.
- Trời đất ạ!... Có đời nào như vậy? Cái thổ tả gì cũng đắt!...
cho nên tao vẫn bảo: Cái lúc này chẳng nên giở giang ra làm gì. Mọi đồng mọi tốn.
Giá làm độ mươi lăm cỗ, chắc mất đến năm chục bạc. Miếng bùi chui qua cổ; mình
ăn một bữa có no được bằng đời đâu, mà người ta phải chạy cỗ cho họ đương nhà
mình thì khổ. Thà bất nhược là ta chước hết?...
- Ấy thầy thì chỉ thế... Cái gì cũng chước! Thành thử ra con
mình chỉ theo không.
- Theo không cũng được. Mẹ mày ngày xưa cũng chỉ theo không
tao đấy. Thế mà cũng ăn ở với nhau được mãi, sinh con đẻ cái, mà lại còn thương
yêu nhau bằng tám những cặp vợ chồng cưới linh đình. Mẹ kiếp! Lắm đám cưới linh
đình, mà rồi lại chả bỏ nhau ùn ùn ra đấy à?
Dần lại cười tủm tỉm. Bởi nhắc đến vợ, thầy nó bỗng nhớ ra một
điều...
- Tý nữa quên! Con nhớ mua mấy nén hương... Hôm nay là ngày
cưới con, cỗ bàn đã chả có thì thôi, mấy nén hương cũng không có nốt thì phải tội...
Cái ý ấy - sự nhớ tưởng đến người đã khuất - khiến cả hai bố
con cùng buồn bã. Mắt rơm rớm nước, thầy nó thở dài rồi bùi ngùi bảo:
- Biết vậy, tao cũng bảo bà ấy biện một mâm để cúng bu mày.
Người sống, chẳng có thì thôi, nhưng người chết...
Dần thổn thức. Nó sợ còn đứng đấy thì nó sẽ khóc òa lên mất.
Nó cố bảo:
- "Thôi! Con đi chợ..." rồi chạy ra. Ra đến sân nó
mới nghe thấy thầy nó bảo:
- Ừ con đi.
Xế chiều hôm ấy, bà mẹ chồng và chồng Dần mới đến. Cả hai
cùng mặc quần áo cánh. Bà mẹ khoác một cái áo nâu dài đã bạc ở trên vai. Chú rể
xách một chẽ cau, chừng một chục quả. Vào đến nhà, y lúng túng không biết đặt
đâu. Bà mẹ trông thấy bảo Dần:
- Cho bu mượn cái đĩa đi, con!
Mặt Dần đã đỏ bừng. Hai đứa em nó, trông thấy, cười rúc rích.
Nó lợi dụng câu sai của mẹ chồng, để chạy tót ra chái đứng. Một lúc lâu nó cũng
không vào. Thầy nó phải đỡ lấy chỗ cau ở tay bà mẹ chồng, đặt lên giường thờ mẹ
nó. Rồi thầy nó nói thật to:
- Ði nấu nước đi con!
Không thấy con gái thưa, ông phải bảo thằng con trai lớn:
- Chạy ra bảo chị đun ấm nước.
Rồi ông thân hành đi lấy chìa vôi ra để têm trầu. Bà mẹ chồng
có lời ngay:
- Thưa ông, ông đã có lòng thương đến cháu, mà xét ra, như thế
này thì thật ông thương quá, thương mọi nhẽ, cái gì ông cũng châm chước đi cho
cả, khiến chúng tôi cảm tạ cái bụng ông mà lại lấy làm xấu hổ về cái cách chúng
tôi xử lắm. Chúng tôi xử thế này thật quả là không phải. Nhưng lạy Trời, lạy Ðất!...
Chúng tôi cũng muốn nghĩ thế nào kia nhưng ông trời ông ấy chỉ cho nghĩ đến thế
thôi, thì cũng phải rầu lòng mà chín bỏ làm mười, chứ như ông thì thật một bỏ
làm mười, mà không được một cũng bỏ làm mười. Có vậy thì công việc của cháu mới
xong xuôi được. Giá phải bố vợ như bố vợ nhà khác, nhất nhất cái gì cũng bắt đủ
lề lối, thì nhà như nhà chúng tôi lấy gì mà lo được? ít là cháu suốt đời không
có vợ. Nhưng phúc làm sao, lại gặp được ông bố vợ thương con rể như ông, thì có
phải ông trời ông ấy cũng còn thương nhà chúng tôi lắm lắm không?
Thôi thì bây giờ mọi sự ông đã thương cho cháu cả rồi, hôm
nay tiện được ngày, tôi cũng biện cơi trầu đến kêu với ông để ông cho cháu được
lễ các cụ - trước là lễ gia tiên, sau là lễ bác nhà ta, sau nữa ông lại cho
cháu lễ sống ông, (chẳng có tiền bạc gạo lợn, hay mâm cao cỗ đầy thì cũng phải
lấy đầu làm lễ gọi là chút lòng thành của con, cháu các cụ) - rồi xin phép ông
để chúng tôi đưa cháu về nhà làm ăn.
Ðáp lại bao nhiêu lời bóng bẩy, xa xôi ấy, ông bố vợ chỉ trả
lời gọn thon lỏn một câu:
- Vâng! Mời bà cứ ngồi chơi thư thả xơi nước, xơi trầu đã.
Rồi ông lại cất cao giọng, bảo con:
- Hễ được nước thì bắc lên đây, con nhé!
Rồi ông ngồi lử thử. Bởi vì ông buồn lắm. Chỉ lát nữa là người
ta rước Dần đi. Ðêm hôm nay, chỉ còn mình ông với hai đứa trẻ con. Nhà sẽ vắng
ngắt vắng ngơ, chẳng khác gì ngày vợ ông mới chết đi. Rồi chỉ mươi bữa, nửa
tháng là ông đã phải bỏ nốt hai đứa con trai để ngược... Chao ôi! Buồn biết mấy?...
Ông đờ đẫn cả người. Ông nghĩ bụng rằng: giá Dần không phải về nhà người ta,
thì có lẽ chẳng đời nào ông phải lên rừng; ông cứ ở nhà với ba con, bố con đùm
bọc lấy nhau, bây giờ bỏ lại hai đứa bé mà đi, ông thương chúng nó quá... A thì
ra ông phải đi nơi khác làm ăn, chẳng phải vì cớ gì khác mà chỉ vì Dần phải đi
lấy chồng, Dần đi lấy chồng, không ai trông coi vườn đất, nhà cửa, con cái cho
ông nữa... Ông buồn quá. Ông đáp lại những câu rất dài dòng của bà thông gia bằng
những câu ngắn ngủn. Bà thông gia, trái lại nhiều lời lắm. Bà vui vẻ. Bà nói
luôn. Bởi tài ăn nói của người ta, một đời mới có dịp dùng đến độ vài lần. Bà
thì chỉ một lần thôi, bởi vì bà có mỗi một mống con trai. Lấy một con vợ cho
con, có dễ đâu? Nhất là mình lại không có nhiều tiền. Công việc phải qua mấy
mươi nấc, mấy mươi cầu. Chưa cưới được vợ về cho con, thì còn là đi lại mỏi
chân, van ông lạy bà sái hàm răng... Công việc của bà, mười phần xong đến chín
phần rồi. Còn một tý chút nữa mà thôi. Tội gì không ngọt ngào với người ta cho
yên ổn cả. Người ta gả con gái, đã chẳng được gì thì cũng phải được lời nói mát
lòng, mát ruột cho hả dạ...
Ðến tối, đám cưới mới ra đi. Vẻn vẹn có sáu người, cả nhà gái
nhà trai. Ông bố vợ đã tưởng không đi. Nhưng bà mẹ chồng cố mời. Vả lại nếu ông
không đi, thì hai đứa bé cũng không thể đi mà Dần thì đang khóc lóc. Nếu chỉ có
mình nó ra đi thì có lẽ nó cũng không chịu nốt. Ông đành kéo mấy cành rào lấp
ngõ rồi đi vậy.
Dần không chịu mặc cái áo dài của bà mẹ chồng đưa, thành thử
lại chính bà khoác cái áo ấy trên vai. Dần mặc những áo vải ngày thường nghĩa
là một cái quần cồng cộc xẫng và đụp những miếng vá thật to, một cái áo cánh
nâu bạc phếch và cũng vá nhiều chỗ lắm, một bên tay rách quá, đã xé cụt gần đến
nách. Nó sụt sịt khóc, đi bên cạnh mẹ chồng. Chú rể dắt đứa em lớn của Dần. Còn
thằng bé thì ông bố cõng. Cả bọn đi lủi thủi trong sương lạnh và bóng tối như một
gia đình xẩm lẳng lặng dắt díu nhau đi tìm chỗ ngủ... Ðến nhà trai, bà mẹ chồng
mời bố Dần uống nước ăn trầu. Rồi bà giết một con gà, dọn cho ba bố con ông một
mâm cơm. (Dần vừa thẹn vừa buồn không chịu ngồi ăn). Ba bố con lặng lẽ ăn. Người
cha ăn có vài lượt cơm, rồi buông bát đĩa, ngồi xỉa răng đợi cho hai đứa con
ăn. Ông thúc chúng ăn nhanh lên, rồi còn về kẻo khuya. Thằng lớn và cơm phùng mồm
ra, bị nghẹn mấy lần. Khi cả hai con đã thôi cơm, ông cho chúng nó uống nước rồi
đứng lên, chào bà mẹ chồng Dần để ra về. Ông dắt thằng lớn và cõng thằng bé
trên lưng. Dần đứng đợi cha ở ngoài sân. Nó vẫn còn dụi mắt. Người cha ái ngại,
đứng lại nhìn con một thoáng rồi âu yếm bảo:
- Thôi! Thầy cho em về nhé.
Dần khóc nấc lên. Hai đứa em không còn chế nhạo nữa. Thằng lớn
chực khóc. Thằng bé ngây mặt ra vì không hiểu sao cả. Người cha mắng yêu con:
- Mẹ chúng mày!...
Bà mẹ chồng thấy Dần khóc quá, chạy ra. Bố Dần vội bước đi. Dần
chạy theo cha, nức nở:
- Thầy!... Thầy...
- Mẹ mày!... nín đi cho thầy về.
- Thầy đừng... đi... lên rừng!
Người cha thấy lòng thổn thức và đáp liều:














Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét