Truyện ngắn Nam Cao 2
Trăng sáng
Ðiền có bốn cái ghế mây. Tất cả đồ đạc trong nhà, chỉ có bốn
cái ghế mây này là có giá. Không phải Ðiền mua. Tính Ðiền rất ghét mua. Từ ngày
ra ở riêng đến giờ, Ðiền mới mua có một lần. ấy là một cái giường bằng gỗ bưởi
của một người cô nghèo khó. Người cô cần tiền để lấy thuốc ngã nước cho chồng.
Còn Ðiền thấy cũng cần một cái giường. Tháng ba vừa rồi vợ Ðiền mới sinh một
con trai. Nghĩa là bây giờ Ðiền có những hai con. Cả nhà đúng bốn người, bốn
người chất cả vào một cái giường! Giá mùa rét thì cũng được, chen chúc nhau một
tý càng ấm áp. Nhưng mùa nực, còn gì là vệ sinh?
Năm chừng mười họa, Ðiền cũng còn nghĩ rằng: nên theo phép vệ
sinh. Bởi Ðiền là người có học hẳn hoi. Ðiền đã có lần làm một ông giáo trường
tư trong ngót ba năm, mà Ðiền có bốn cái ghế mây vừa mới nói. Năm ngoái đây,
cái trường vẫn thuê Ðiền dạy lớp nhất, lấy hai chục bạc lương một tháng, đột
nhiên phải dẹp. Dẹp để nhường lại mấy căn nhà cho người ta dùng vào việc khác,
cần cho lúc này hơn. Ông hiệu trưởng còn chịu của Ðiền nửa tháng lương. Tiền học
tháng cuối cùng thì chưa thu được. Chỗ anh em biết tính thế nào cho tiện? Giá
ông xoay được, thì ông trả phắt Ðiền chục bạc, cho đẹp mặt cả đôi bên. Nhưng
ông không xoay được. Mà chẳng lẽ Ðiền phải thiệt? Thôi thì... thôi thì... - biết
nói ra sao bây giờ? - Ông cười một cách ngượng nghịu bảo Ðiền:
- Thôi! Thế này này, ông Ðiền ạ! Giá ông không ngại, thì ông
đem bộ ghế mây về quê mà dùng. Lão hàng phở nó trả có bảy hào một cái. Hôm nọ,
chỉ căng mây lại cho hai cái cũng đã mất một đồng. Bán cho lão thì phí đi. Mà ở
nhà ông chưa có ghế...
Lúc ấy, Ðiền phải cố giữ, cái mặt mới không xị xuống. Thật ra
thì Ðiền chán lắm. Ðiền chẳng muốn lấy bốn cái ghế tý nào. Chao ôi! Cũng mang
tiếng là ghế mây!... Cái thì xộc xệch, cái thì bốn chân rúm lại, và chẳng cái
nào là nước sơn không róc cả ra như là da thằng hủi. Trông đủ thảm. Ðiền phải bỏ
ra bảy hào chịu lấy một cái vé tàu hỏa để tải mình về quê đã đủ xót ruột lắm rồi,
còn phải nợ mà bỏ tiền ra tải bốn cái ghế già nua ấy nữa. Nhưng từ chối thì
không tiện. Ra sự rằng mình dỗi. Có lẽ tủi lòng ông hiệu trưởng. ấy là một điều
mà Ðiền chẳng muốn, bởi ông với Ðiền là chỗ bạn nghèo với nhau. Họ bị tủi vì
người ngoài đã lắm. Chẳng nên để người nọ bị tủi vì người kia... Ðiền đang nghĩ
một cớ gì để thoái thác. Thì ông lại bảo:
- Ông nên đi tàu thủy. Có đắt mới đến năm hào. Năm hào với năm
xu màn là năm hào rưỡi. Vậy cho rằng có phải trả tiền cước bốn cái ghế, thì
cũng chỉ bằng tiền tàu hỏa thôi. Mà rộng rãi. Ông để hai cái ghế ra, một cái để
ngồi, một cái gác chân, ung dung như ngồi nhà ông vậy. Tội gì đi tàu hỏa mà
chen chúc.
Kể thì cũng là một ý hay. Như thế tránh được cả cái nạn huých
khuỷu tay vào ngực nhau để tranh một cái vé đi xe lửa. Tránh được cả cái nạn ngồi
lên đùi người khác và để người khác ngồi lên đùi mình. Và ngửi mùi mồ hôi với
mùi phân lợn của những toa tàu hạng tư ... Nhưng...Ông hiệu trưởng không đợi Ðiền
phải nói ra. Ông đã đoán mà hiểu trước. Nên ông bảo:
- Còn cái sự chuyển những cái ghế thì không ngại. Tôi sẽ bảo
thằng nhỏ buộc hai cái làm một, dùng cái đòn gánh nước, gánh ra tàu cho ông.
Còn từ bến màn về nhà ông, sẽ thuê một thằng bé nào độ năm xu, hay một hào.
Ðiền nhẩm tính. Như vậy, tất cả có già giặn lắm mới tốn chừng
đồng bạc. Nghĩa là tiêu quá đằng kia hai hào. Hai hào bốn cái ghế mây! Cho có xộc
xệch nữa cũng còn rẻ chán... Ðiền ưng thuận. Thế là bốn cái ghế mây của ông hiệu
trưởng mà lão hàng phở trả có bảy hào một chiếc, được đi tàu thủy về quê của Ðiền.
Và thế là Ðiền có bốn cái ghế mây. Ðiền không biết giá. Nhưng
Ðiền đoán chừng mua mới thì cũng đắt. Bây giờ, mỗi chiếc có khi tới ba bốn đồng.
Ba bốn đồng một chiếc! Thế nghĩa là cả bộ đáng giá ngót hai chục bạc. Xóm Ðiền
cũng chả nhà nào có những đồ đạc đắt tiền như thế. Vợ Ðiền quý lắm. Thị rất xót
xa khi thấy những ông khách cục súc, sau khi đã nắc nỏm khen bộ ghế vừa đẹp vừa
thanh, liền đặt cái mông đít to bành bạnh như cái vại lên mặt ghế, khiến mấy sợi
mây lún xuống, rồi co cả hai chân bẩn thỉu lên, ngả cái lưng to như lưng trâu tựa
vào vành ghế, khiến cái vành ghế phai oải hẳn về đằng sau. Như thế phỏng còn gì
là ghế? Có mà ghế sắt cũng phải hỏng, đừng nói gì ghế mây!... Một hôm thị bàn với
chồng rằng:
- Này, cậu ạ! Người nhà quê họ vô ý lắm. Mình có của thì mình
phải giữ gìn. Hay là ta đem cất những cái ghế mây đi, kẻo để ai vào cũng leo
lên ngồi chồm chỗm, mấy chốc mà vứt đi?
Thoạt nghe, Ðiền phải bật cười. Ðiền nghĩ đến tính bủn xỉn của
đàn bà. Họ may áo để cất đi. Và mua ghế để chẳng cho ai ngồi sốt. Ðiền đã toan
phản đối. Nhưng nghĩ ngợi một giây, Ðiền lại bằng lòng. Vợ Ðiền thế nào chả hơn
Ðiền trong cái môn lo liệu việc nhà? Vả bây giờ Ðiền chỉ là một kẻ ăn nhờ. Vợ
Ðiền phải lo cho chồng từ năm xu húi cái đầu. Thị đã phải gánh lấy tất cả cái
ách gia đình, thì cũng nên để cho thị có quyền trong gia đình một tý. Kẻo thị lại
bảo: dẫu có hỏng cái gì, Ðiền cũng không phải bỏ tiền thay, nên điền không xót
ruột... Từ hôm ấy, bốn cái ghế mây được treo lên bốn cái mỏ móc buộc ngoài đầu
chái. Chỉ những khi có khách khứa nào sang trọng, Ðiền mới ra bê vào.
Nhưng những buổi tối có trăng thì dù chẳng có ai, Ðiền cũng
khuân đủ bốn cái ghế ra sân. Rồi Ðiền gọi vợ, con ra. Vợ bế con nhỏ ngồi một
chiếc. Con lớn một chiếc. Còn một chiếc Ðiền dùng mà gác chân. Họ ngồi ghế, đợi
trăng lên. Nếu con nhỏ không khóc, con lớn không bắt gãi thì hạnh phúc thật
hoàn toàn. Gió thổi tan những lo lắng, chua cay chất ở lòng. ánh trăng êm xoa
nước mát lên da. Da mềm dịu. Những nét cau có chìm đi tất cả. Trán vợ Ðiền hóa
phẳng phiu, mặt thị tươi hẳn. Thị trẻ ra mười tuổi. Những phút thảnh thơi ấy,
sao mà thị hiền dịu thế! Ðáng yêu đến thế! Ðiền không nhận ra một chút gì ở thị
nó có dính dáng đến người đàn bà cau có vẫn ngoác mồm ra mắng con, mắng con ở,
mắng mèo, mắng chó khiến nhà cứ om lên suốt ngày. Thị cúi xuống đứa con nhỏ, đồng
thời ngước đôi mắt âu yếm nhìn con lớn. Ðứa con lớn cười với thị. Thị cười với
nó. Thị cười với chồng. Ðiền nhìn vợ, nhìn con, lòng sung sướng. Ðiền mỉm cười
với giăng.
Ðiền rất yêu giăng. Cái ấy cũng là thường, bởi óc Ðiền đẫm
văn thơ. Có đọc văn thơ, mới biết giăng là một cái đẹp và quý lắm. Giăng là cái
liềm vàng giữa đống sao. Giăng là cái đĩa bạc trên tấm thảm nhung da trời.
Giăng tỏa mộng xuống trần gian. Giăng tuôn suối mát để những hồn khát khao ngụp
lặn. Trăng, ơi trăng! Cái vú mộng tròn đầy mà thi sĩ của muôn đời mon man! Ðiền
không ân hận chút nào. Hai thân Ðiền bán cả ruộng, vườn đi để cho Ðiền đi học
chẳng phí đâu. Ðã đành các người chỉ có cái mục đích con làm nên ông phán, ông
tham để ấm thân; các người hoàn toàn thất vọng khi thấy con leo cau đến tận buồng
mà lại hỏng ăn. Ðiền tạng yếu quá, không được nhận vào công sở; và các người đã
vội cho là tiền con đi học thật là tiền vất xuống sông. Nhưng Ðiền tin rằng:
cái học thức của Ðiền tuy chẳng giúp Ðiền kiếm nổi miếng ăn, nhưng cũng có ích
cho Ðiền nhiều lắm. Chỉ nói một cái nhờ nó mà Ðiền đọc nổi văn thơ, và nhờ văn
thơ mà hiểu được cái đẹp của gió, của giăng. Và Ðiền rất phàn nàn cho những tâm
hồn cằn cỗi như tâm hồn của vợ Ðiền. Ðối với thị, giăng chỉ là ... đỡ tốn hai
xu dầu! Dầu lạc lúc này mỗi chai lít hai đồng. Mới biết các nước đánh nhau cũng
có thiệt cho con nhà nghèo thật. Mỗi tối, thị đốt đèn một lát. Nhưng một lát
cũng đủ tốn hai xu rồi. Những tối có trăng đỡ tốn hai xu. Hai xu chẳng là bao
nhưng mười cái hai xu đã được hai hào; mười cái hai hào đã được hai đồng bạc;
và mười cái hai đồng bạc... chao ơi! Nếu cứ tính toán mãi thế, thì biết đến bao
giờ cũng được? Sao thị lại cứ phải luôn luôn tính toán? Những kẻ chỉ suốt đời
tính toán là những kẻ tự làm khổ thân suốt đời... Ðiền vẫn trách vợ Ðiền như thế
đấy. Ðiền có ngờ đâu chính Ðiền cũng một tật. Và ngay lúc này đây, lúc ngồi ngắm
trăng để tạm quên những cái lo nhỏ nhen của kiếp người, Ðiền cũng còn tính vẩn
vơ. Ðiền thấy giời rộng quá và sao nhiều quá. Ðiền nhớ đến câu thơ của một thi
sĩ Tây phương ví khoảng trời sao như một cánh đồng. Nếu trời là một cánh đồng
thì cánh đồng ấy thật bao la. Và Ðiền chỉ cần được một mảnh bằng cái mảng ở sau
nóc nhà Ðiền kia, cũng đủ cho Ðiền không còn phải lo sinh kế nữa. Ðiền sẽ trao
cho vợ Ðiền cai quản. Còn Ðiền lúc ấy có thể rảnh rang theo đuổi cái mộng của
Ðiền...
Ðó là một cái mộng văn chương. Ðã có một thời, Ðiền chăm chỉ
đọc sách, viết văn. Ðiền nao nức muốn trở nên một văn sĩ. Ðiền sẽ nguyện cam chịu
tất cả những thiếu thốn, đọa đày mà văn nhân nước mình phải chịu. Ðiền vẫn thường
bảo với một người bạn cùng chí hướng: Ðiền sẵn lòng từ chối một chỗ làm kiếm mỗi
tháng hàng trăm bạc, nếu có thể kiếm được năm đồng bạc về nghề văn... Nhưng viết
luôn mấy năm trời, Ðiền chẳng kiếm được đồng nào. Trong khi ấy Ðiền vẫn phải
ăn. Nhà Ðiền kiết xác xơ. Các em Ðiền không được đi học. Mà cũng không được ăn
no nữa. Sự túng thiếu đưa đến bao nhiêu là lục đục. Bố Ðiền bỏ nhà đi. Mẹ Ðiền
gồng thuê, gánh mướn kiếm tiền nuôi hai đứa con thơ. Những đứa con lớn, đứa đi ở
bế em, đứa đi ở chăn trâu, đứa đi xin những cái hoa chuối, những nắm khoai đội
đi chợ xa bán để kiếm vài xu ăn cho khỏi chết. Ðiền thấy mình ích kỷ. Sự nghiệp
mà làm gì nữa? Bổn phận Ðiền phải nghĩ đến gia đình. Ðiền phải gây dựng lại gia
đình! Ðiền phải tạm quên cái mộng văn chương để kiếm tiền. Ðiền đi dạy học.
Chao ôi! Dạy học lấy mỗi tháng có hai mươi đồng. Bà mẹ Ðiền tưởng thế đã là
phong lưu lắm. Bà bắt Ðiền cưới vợ. Vợ Ðiền là một con nhà khá giả, lấy Ðiền vì
Ðiền là người có học. Rồi Ðiền có con. Cái gia đình lớn của Ðiền đã chẳng được
nhờ Ðiền, bây giờ lại thêm một gia đình con con nữa. Không một phút nào Ðiền
không phải nghĩ đến tiền. óc Ðiền đầy những lo lắng nhỏ nhen. Một đôi khi chợt
nhớ lại cái mộng xưa, Ðiền lại thở dài. Ðiền tự an ủi: Có tiền rồi sẽ viết.
Nhưng Ðiền biết: chẳng bao giờ Ðiền viết nữa, bởi chắc chắn là suốt đời Ðiền
cũng không có tiền...
Tối nay lại có giăng. Nhưng Ðiền chỉ đem có hai cái ghế ra
sân. Vợ Ðiền hôm nay luật quật suốt cả ngày. Con ở xin đi ăn giỗ một hôm. Thị lại
phải dệt vải lấy tấm vải để mai đi bán về đưa lãi nợ. Dệt xong thị vội vàng đi
đòi món tiền. Về đến nhà, con bé khóc hết hơi. Con lớn thì lem luốc, mũi dãi
nguếch ngoác bôi đầy mặt. Nhà cửa còn bề bộn. Con ở vẫn chưa về. Mình thị biết
xoay sở làm sao kịp? Thị thấy lòng sôi lên sùng sục, thị giậm chân bành bạch
kêu trời. Thị đánh con lớn, chửi con nhỏ, quăng cái chổi, đá cái thúng, và càu
nhàu trống không. Rồi thị bế con đi nằm sớm. Ðứa con lớn thút thít khóc chán
cũng lăn ra ngủ. Mình Ðiền ngồi ngoài sân. Ðiền cố thản nhiên. Nhưng da mặt cứ
rồm rộm; nó có vẻ dày lên và tê tê. Ðiền thấy gần như tủi cực. Vợ Ðiền có lẽ rất
yêu Ðiền. Nhưng thị chỉ biết rằng người ta cần ăn cơm, mặc áo và uống thuốc khi
đau ốm. Thị chỉ cố lo cho chồng ba thức ấy. Thị nhịn ăn để chồng ăn. Thị nhịn mặc
cho chồng mặc. Thị bán đến cả yếm, áo để lo thuốc thang cho chồng. Thị tưởng thế
là chồng sung sướng lắm. Nhưng không phải, Ðiền đã quen với những tình cảm nồng
nàn và những lời nói vuốt ve. Nét mặt cau có, ngân ngữ cục cằn, và nhất là cái
lối yêu quá đơn sơ - có thể nói thô sơ - của vợ Ðiền làm cho Ðiền khổ. Ðiền thấy
cái đời tình cảm của Ðiền thiếu thốn. Ðiền không được yêu ai. Còn sống trong
cái gia đình này mãi, giữa những lo lắng nhỏ nhen này mãi, lòng Ðiền sẽ cạn. Cạn
luôn cả nguồn thơ quý báu, mà Ðiền vẫn ao ước có ngày lại khơi... Trên kia,
giăng nhởn nhơ như một cô gái non vừa mới có nhân tình. Gió nhẹ nhàng đặt trên
lá những bước chân vũ nữ. Những tàu lá chuối láng trăng đưa đẩy... Ðiền nghĩ đến
những người đàn bà nhàn hạ, vừa tắm bằng một thứ nước thơm tho, mặc áo lụa
xanh, ngả tấm thân mềm trên chiếc ghế xích đu và đưa đẩy đôi chân thưỡn thẹo...
Tại sao Ðiền lại vụt nghĩ đến những hình ảnh lả lơi ấy? Chính
Ðiền cũng không thể hiểu. Có lẽ Ðiền ước ao một cái mái tóc thơm tho, một làn
da mát mịn, một bàn tay ve vuốt. Có những người đàn bà đẹp, yêu rất khéo, bởi họ
được ăn ngon, mặc đẹp, chăm sóc thịt da và chẳng làm gì cả. Phải rồi, vợ Ðiền
chỉ là một kẻ tục tằn. Thị chẳng đáng cho Ðiền yêu quý. Cũng chẳng đáng cho Ðiền
thương hại. Ðiền phải đi. Ði để giữ cho lòng mình tươi lâu. Ðiền sẽ làm bất cứ
cái gì đó để có ăn. Rồi Ðiền bình tĩnh viết. Có như vậy Ðiền viết mới ra hồn được.
Lời phải đẹp. ý phải thanh cao. Ngọn bút của Ðiền mới khơi nguồn cho những tình
cảm đầy thơ mộng. Nghệ thuật chính là cái ánh trăng xanh huyền ảo nó làm đẹp đến
cả những cảnh thật ra chỉ tầm thường, xấu xa...
Ðiền lại thấy hiện ra cái bóng dáng yêu kiều của những người
đàn bà nhàn nhã ngả mình trên những cái ghế xích-đu nhún nhảy... Những người ấy
sẽ đọc văn Ðiền. Lòng họ đẹp thêm lên. Họ sẽ yêu Ðiền. Họ sẽ gửi cho Ðiền những
bức thư xinh xinh ướp nước hoa. Tưởng tượng của Ðiền tỏa rộng ra như một ánh
trăng. Ðiền nghĩ đến những cuộc tình duyên lãng mạn với những người đàn bà đẹp
chỉ biết trang điểm và yêu đương. Những tiếng gắt gỏng ở trong nhà lại đưa ra.
Vụt cái, trăng mất đẹp. Ðiền cúi mặt, bẽn lẽn như bị bắt gặp làm việc xấu. Ðiền
lắng tai nghe. Tiếng vợ Ðiền gay gắt hỏi:
- Làm sao thế?
Ðứa con gái vừa mếu máo vừa đáp lại.
- Con đau bụng.
- Giời ơi là giời!
Ấy là tiếng vợ Ðiền rên lên. Rồi thị mắng con:
- Ăn bậy lắm! Chết là phải, còn kêu ai?
Ðứa con không dám khóc to. Nó chỉ oằn oại và rít nho nhỏ
trong cổ họng. Thỉnh thoảng nó không còn sức nén, tiếng khóc bật ra Ðiền nghe một
vài tiếng nức nở như tiếng người nôn oẹ, Ðiền vẫn ngồi cúi mặt. Một nỗi chua
xót gần như là thuộc về thể chất, ứ lên trong lòng Ðiền. Nó dâng lên đến cổ,
xông lên óc. Nước mắt Ðiền ứa ra.
Vợ Ðiền gượng nhẹ đặt đứa con đang ngủ mệt xuống võng. Thị cầm
một con dao ra vườn moi mấy nhánh gừng về rửa sạch, giã ra. Thị vắt thêm vào đấy
nửa quả chanh. Thứ thuốc bách bệnh của con nhà nghèo chỉ gồm có thế. Thị gạn lấy
nước đem lại cho con. Con bé mới ngửi thấy hơi gừng đã sợ. Nó mím chặt môi. Dỗ
thế nào nó cũng không chịu uống. Thị phải bế nó, đặt nằm ngửa trên đùi, một tay
thị đỡ đầu, một tay thị kề chén nước gừng vào tận môi con. Con bé mím môi thật
chặt. Bực mình thị quát:
- Há mồm ra!
Con bé khóc. Thế là cốc nước gừng đã dốc tuột vào mồm nó. Nó
giãy lên như đỉa phải vôi. Nó phun phè phè. Nó gào lên. Bao nhiêu nước gừng bắn
ra áo mẹ. Thằng cu con giật mình, khóc thét lên. Vợ Ðiền tức quá, phát đen đét
vào lưng con bé ốm và quăng nó xuống giường như quăng một con mèo:
- Kệ cha mày! Cho mày chết đi!
Con bé vừa gào vừa van lạy:
- Con lạy bu; Con cay lắm! Con lạy bu! Cay mồm...
- Mày câm ngay không tao tát cho vỡ mặt.
Nó vẫn không chịu lặng. Thị sừng sộ, chực vồ lấy nó:
- Mày có câm không nào?
Nó sợ quá đành phải nín. Nhưng những tiếng rên nho nhỏ vẫn
còn thoát ra... Ðiền thương con lắm. Vút cái, Ðiền thấy Ðiền không thể nào đi
được. Ðiền không thể sung sướng khi con Ðiền còn khổ. Chao ôi! Trăng đẹp lắm!
Trăng dịu dàng và trong trẻo và bình tĩnh. Nhưng trong trong những căn lều nát
mà trăng làm cho cái bề ngoài trông cũng đẹp, biết bao người quằn quại, nức nở,
nhăn nhó với những đau thương của kiếp mình! Biết bao tiếng nghiến răng và chửi
rủa! Biết bao cực khổ và lầm than?... Không, không, Ðiền không thể nào mơ mộng
được. Cái sự thật tàn nhẫn luôn luôn bày ra đấy. Sự thực giết chết những ước mơ
lãng mạn gieo trong đầu óc Ðiền cái thứ văn chương của bọn nhàn rỗi quá. Ðiền
muốn tránh sự thực, nhưng trốn tránh làm sao được? Vợ Ðiền khổ, con Ðiền khổ,
cha mẹ Ðiền khổ. Chính Ðiền cũng khổ. Bao nhiêu người nữa, cùng một cảnh, khổ
như Ðiền! Cái khổ làm héo một phần lớn những tính tình tươi đẹp của người ta.
Tiếng đau khổ vang dội lên mạnh mẽ. Chao ôi! Chao ôi! Nghệ thuật không cần là
ánh trăng lừa dối, nghệ thuật có thể chỉ là tiếng đau khổ kia, thoát ra từ những
kiếp lầm than, vang dội lên mạnh mẽ trong lòng Ðiền. Ðiền chẳng cần đi đâu cả.
Ðiền chẳng cần trốn tránh, Ðiền cứ đứng trong lao khổ, mở hồn ra đón lấy tất cả
những vang động của đời...
... Sáng hôm sau, Ðiền ngồi viết. Giữa tiếng con khóc, tiếng
vợ gắt gỏng, tiếng léo xéo đòi nợ ngoài đầu xóm. Và cả tiếng chửi bới của một
người láng giềng ban đêm mất gà.
Trẻ con không được ăn thịt chó
Hắn hút đến điếu này là điếu thứ ba. Ba điếu thông luôn. Cái
thuốc lào, hút vào một buổi sáng lành lạnh như buổi sáng hôm nay, sao mà ngon
thế! Khói đậm đà như vị mật, thấm qua lưỡi để pha vào với máu, lan đi từng thớ
thịt, làm da thịt đê mê. Đôi mắt hắn gà gà; hơi thở phì phò như ống bễ lò rèn,
những ngón tay lờ rờ trên không khí mơn man một dáng hình tưởng tượng. Như thế
trong vài ba phút. Rồi cơn say lại nhạt. Cái thú vị chính là ở đó. Những cơn
say, nếu kéo dài ra tất thành nôn nao. Người ta đâm chúi đầu vào bức vách hoặc
xều dãi ra như một con chó trước khi hoá dại! Còn cái gì thô tục bằng? Đằng này
những cơn say rất chóng qua. Người hút, vừa hút xong, đã bị muốn hút luôn điếu
nữa. Hút bằng nào cũng không biết chán. Hút đi, hút lại mà vẫn còn thấy ngon.
Cái điếu là một vật vô tri mà dường như cũng biết nịnh đời. Vốn
dĩ xưa nay nó là một cái điếu rất tồi. Hút không kêu. Nó chỉ xìn xịt như tiếng
một vật gì bị ẩm. Nghe chán lắm. Thế mà hôm nay, chẳng biết cao hứng thế nào,
nó lại kêu: những tiếng nổ tanh tách nảy lên trên không khí khô nỏ và trong veo
của mùa thu như một chuỗi cười giòn. À, thì ra cái điếu hình như cũng có hồn.
Vào một buổi sáng mát mẻ như buổi sáng hôm nay, tự nhiên nó hết ươn ao, và thấy
cần phải ầm ĩ thì mới khoái. Người cũng vậy. Hắn thấy lúc này mà phải bò gối ngồi
nhà thì cái đời thật khổ. Ấy thế là hắn càu nhàu chửi tục. Hắn chửi những quân
hàng bưởi không chịu đến mua cây bưởi đào nhà hắn để hắn có dăm đồng mà tiêu.
Năm đồng bạc!… Mắt hắn sáng hẳn lên một chút. Chúng có vẻ vừa trông thấy con
chó thui béo căng và vàng óng treo lủng lẳng bên trên cái trống hàng nhà mụ
Tam. Nước dãi tứa ra đầy miệng hắn, một hơi rượu rất mong manh thoáng qua mũi hắn
rồi vụt biến. Chà! Hôm nay mát trời lắm nhỉ? Rượu với thịt chó mà lại gặp khí
trời mát thì ngon biết chừng nào là ngon! Hắn nuốt dãi hai, ba lượt. Rồi hắn lại
nhịt thuốc vào nõ điếu, châm đóm hút thêm điếu nữa. Cái điếu vẫn kêu tanh tách.
Nhưng khói thuốc bây giờ sao nhạt thế! Khi đang hút thì nó nhạt như nước lã, mà
hút xong thì lại hơi đắng miệng. Hắn nhổ bọt vào chân cột rồi vừa chép chép
môi, vừa hếch mặt nhìn lên nóc nhà. Rượu… thịt chó… rượu… thịt chó… Óc hắn cứ
luẩn quẩn nghĩ đến hai thứ đấy. Sắc vàng bóng của một cái mông chó thui nhầy nhẫy
mỡ với sắc xanh nhạt của một chai Văn-điển đầy ăm ắp cứ lần lượt hiện ra. Ờ!
Mát trời thế này mà được uống rượu thì tuyệt quá! Nhưng đào đâu ra tiền? Ấy thế
là hắn lại chửi những quân hàng bưởi. Rồi nhân tiện, hắn chửi luôn vợ hắn: Cái
“con mèo mù” đà đẫn mãi, bưởi chín đã gần muốn rụng mà vẫn chưa chịu rước người
vào mua. Chửi chán, hắn tặc lưỡi một cái để bảo hắn rằng: không chửi nữa. Hắn
quăng mạnh hai chân xuống đất để đứng lên và ra đi. Hắn đi cúi mặt, bước những
bước mải mốt và cả quyết. Người ta tưởng hắn như đã định sẵn một nơi nào để đến.
Nhưng không phải. Đến đầu ngõ, hắn tần ngần đứng lại. Bởi đến đầu ngõ, hắn gặp
một con đường hai ngả. Biết đi ngả dưới hay ngả trên? Đi ngả dưới tức là đến
nhà con mẹ Vụ để gạ bán non cho nó mươi gốc chuối. Nhưng con mẹ Vụ sẽ nhớ ra rằng:
đã có lần hắn bán cho thị mười gốc chuối khác lấy hai đồng bạc đi xóc đĩa rồi lại
bán lại lần nữa cho người khác lấy ngót hai đồng bạc. Giá mỗi cây chuối cố sinh
ra lấy hai buồng, thì hắn không đến nỗi là con người lật lọng đâu. Nhưng cái giống
chuối, từ cổ chí kim, mỗi cây chỉ sinh được một buồng. Vậy thì hắn đích thực là
một con người hay lật lọng.
Chậc! Ừ thì hắn là người lật lọng, như vậy thì đã sao? Không
sao cả. Bởi ai đã chửi hắn luôn ba hôm mới biết rằng chửi hắn vô ích thật. Chửi
hắn thì mỏi miệng. Nhưng nên buộc chỉ cổ tay để nhớ cho thật kĩ: từ giờ đừng
bao giờ dại dột tham lợi mà mua chuối non cho hắn một lần thứ hai. Con mẹ Vụ sẽ
không mua chuối non cho hắn một lần thứ hai. Không những thế. Rất có thể, nó sẽ
xỉa xói vào mặt hắn mà mắng cho đến nhục. Vậy thì cái ngả dưới rành rành là bất
lợi. Hắn quay mặt về ngả trên. Thế nghĩa là cứ đến thẳng hàng thịt chó nhà mụ
Tam. Nhưng mụ Tam vốn không ưa bán chịu. Mà hắn thì lại đã chịu của mụ luôn ba
bữa, chứ đào đâu ra tiền trả. Cái mặt mụ chắc chắn là sẽ không được tươi tỉnh lắm.
Mụ sẽ vác nó lên. Mụ sẽ nhìn cái tổ chim vô hình trên lưng chừng một cây tre ở
trước cửa hàng nhà mụ, chứ không thèm nhìn hắn. Nếu hắn có lài nhài lắm, thì mụ
sẽ hướng đôi môi lên hướng trời xanh mà bảo hắn: Trả nợ cũ đi đã rồi hãy ăn.
Như vậy thì cũng nhục. Hắn dùng dằng không nỡ bước. Trong khi ấy thì nước dãi từ
từ dâng lên miệng hắn. Rượu… thịt chó!… Rượu… thịt chó!… Trước mắt hắn lại lập
loè hai sắc: vàng bóng và xanh nhợt. Hắn nuốt nước dãi kêu ừng ực. Rồi hắn tặc
lưỡi kêu một cái để ra hiệu cho hắn đừng do dự nữa. Việc gì mà do dự nữa ?
Thịt chó của mụ Tam để bán, chứ không phải để cho ôi thối. Còn hắn muốn ăn thì
phải mua. Không có tiền thì mua chịu. Trời sinh ra thế. Dầu rằng mụ Tam không
ưa bán chịu thì hắn cũng đã chịu luôn được ba bữa. Thêm một bữa nữa thì đã sao?
Ấy thế là hắn bước. Hắn bước nhanh nhẹn và vui vẻ. Y như một ông phó mới đi đến
một đám mời ăn khao.
Nhưng gần đến hàng mụ Tam, hắn nghe tiếng mụ Tam the thé.
Đích là mụ vừa xoắn được một kẻ ăn hàng chịu mất mặt mũi, bây giờ mới thấy. Đen
đủi thực. Hắn tần ngần đứng lại. Để nghe ngóng xem sao đã! Chà cái con mụ la
sát này thật là chua ngoa. Nó bảo người kia: ăn mà không muốn trả thì ăn này,
ăn nọ cho con nó. Miếng ăn là miếng nhục. Thế này thì khó lòng mà nuốt cho trôi
được. Hắn thở dài một tiếng, quay trở về… Bây giờ thì những bước đi thẫn thờ
hơn. Hắn thấy người mỏi mệt, chân tay rã rời. Đúng là một anh nghiện đến bữa
chưa được hút, thỉnh thoảng hắn lại đưa tay che miệng ngáp thật to, như một con
trâu nghé ngọ, nước mắt ứa ra òng ọng. Khỏi một rặng tre cao, đến cánh đồng. Nắng
bừng lên. Nắng mùa thu dìu dịu. Trời thì đẹp. Cánh đồng lúa mởn tươi, run gờn gợn
như một làn da quen ủ kín đột nhiên phơi ra gió lạnh. Phong cảnh quyến rũ như một
nhan sắc hoàn toàn nảy nở. Chao ôi! Giá hắn không bận nghĩ đến rượu và thịt
chó! Giá hắn không khổ sở vì một cái dạ dày ưa đòi hỏi thì hắn đã sung sướng lắm.
Nhưng hắn lại thèm rượu và thịt chó mà không được uống rượu, ăn thịt chó. Bởi vậy
hắn cho là đời thật đáng buồn. Kiếp người nản lắm. Trời thì cay nghiệt như một
bà già thiếu ăn ngay từ lúc còn thơ. Mà cái nắng hanh của mùa thu vô cùng khó
chịu. Đầu hắn nghẹo xuống vai. Đôi mắt hắn lim dim. Hắn có vẻ vừa đi vừa ngủ. Hắn
đã gần ngủ thật thì một việc bỗng làm hắn đột nhiên tỉnh người.
Ấy là lúc hắn lò dò về đến sân. Hắn đang đi bỗng giật mình. Một
con chó đang thiu thiu trong một bụi dong ở đầu sân nhảy choàng ra. Một tí nữa
thì đớp vào chân hắn. Hắn nhảy cẫng lên một cái. Và hắn sực nhớ ra rằng nhà hắn
có một con chó vện, con chó vện ấy hay trông gà hoá cuốc, nên lắm khi trực đớp
cả chân người nhà. Đó là một cái tật không thể tha thứ được. Bởi không ai nuôi
chó để nó cắn què chân bao giờ. Ờ, mà lại còn điều này nữa: nuôi mèo hay nuôi
chó thì cũng phải tuỳ gia cảnh; nhà giàu nuôi là phải, bởi nhà giàu sợ trộm mà
lại nhiều cơm hớt; còn nghèo rớt mồng tơi như nhà hắn, nuôi làm gì? Giá thử nhà
còn trẻ nhỏ, thì nuôi chó cũng còn được việc. Nhưng nhà không còn trẻ nhỏ. Thằng
cu con đã lên ba. Nó đã có thể ra vườn được. Hạt gạo năm nay khó chuốc như hạt
ngọc. Đến bữa ăn, phải tính đầu để chia cơm. Cứ tình hình ấy, thì phải dở hơi lắm
lắm mới nuôi một con chó để chẳng có việc gì cho nó làm… Thế là đủ lắm. Hắn
sung sướng vì đã nghĩ ra điều ấy. Hắn gật đầu luôn mấy cái. Rồi hắn đưa mắt
nhìn trộm con chó vện. Con chó vện đã lại nằm thiu thiu bên một gốc chuối. Quả
thật, nó đã đến ngày tận số. Hắn đi tìm cái thúng. Hắn rón rén đi vòng lại phía
sau đuôi con chó… Ập! con chó giật mình đến thót. Nỗi nguy chụp xuống. Nó bị
thu gọn trong cái thúng, không còn chỗ mà giãy giụa. Trong khi ấy, thằng người
kêu rối rít:
- Chúng mày ơi! Chúng mày ơi! Tao úp được con chó rồi.
Lũ trẻ con đang nghịch đất, quăng cả những cái bẹ mèo chuối
đi, xô đẩy nhau ngã kêu chí choé, và vừa chạy về vừa reo lên:
- Chúng mày ơi! Chúng mày ơi! Thầy úp được con chó rồi!… A
ha!
Người cha bảo:
- Chúng mày xúm cả lại đây, đè chặt lấy. Đè thật chặt.
Con Gái, và cu Nhớn, cu Nhỡ, cu Con xúm lại: đứa tì tay, đứa
tì chân, đứa ngồi cả lên trôn thúng. Người bố đi tìm gậy để ngáng lên cổ chó mà
nhận xuống. Lũ trẻ bắt đầu bàn tán:
- Thầy giết chó, nhỉ?
- Ừ, thầy giết chó để làm thịt chén.
- Thích nhỉ, cu Con nhỉ?
- Thầy cho cả chúng ta ăn thịt chó nhỉ?
- Tao cũng ăn thịt chó.
- Ừ, thầy cho cả mày, cả tao.
- Cả chị Gái…
- Chúng mày có im cả không, chó ra bây giờ thì mất ăn…
Người đàn bà ở chợ về. Thị tủm tỉm cười. Thị cười vì nghĩ đến
đàn con. Hôm nay, chẳng biết cao hứng thế nào, thị đã mua cho chúng những bốn
cây mía lách. Những ba trinh kia đấy, như thế kể đã là nhiều lắm. Cả đội hàng của
thị đem đi buổi sáng, bán được vừa sáu xu. Vì đâu lại có sự hoang phí ấy? Có lẽ
bởi hôm nay trời mát. Có lẽ bởi thị thương hại thằng cu Con. Mỗi lần mẹ về chợ,
cứ nghe tiếng các anh reo là cu Con lại thét lên. Hình như nó sợ các anh chạy
ra trước nó. Có khi nó khóc. Có khi mải mốt quá, nó ngã lộn tùng phèo từ trên
hè xuống sân. Ấy thế mà mười lần thì đến chín, mẹ nó chỉ chìa cho nó bàn tay
không. Người đàn bà, nghĩ đến cái bộ mặt tiu nghỉu của con lúc nào, rỏ nước mắt
ra lúc ấy. Trông thương đứt ruột. Nhưng biết làm sao được? Đã đành quà của nó,
chỉ một đồng trinh là đủ. Nhưng không thể đong một hào chín xu rưỡi gạo. Mà cái
ngữ tiêu trong nhà thị, mỗi ngày không thể quá hai đồng hào. Vậy có thương con
thì để bụng. Còn cái sự mua quà thật khó lòng thay! Nhưng thời tiết có ảnh hưởng
đến người ta rất lạ lùng. Hôm nay, người mẹ đáng thương kia thấy dễ chịu trong
người. Khí nóng nặng nề của mùa hạ đã tan rồi. Cái rét sắc như dao của mùa đông
chưa tới. Trời xanh ngắt. Nắng êm êm. Gió phơi phới trên da, cho người ta cái cảm
giác nhẹ nhõm sau khi tắm. Tạo vật hiền hoà lắm. Tạo vật không đè nén và doạ nạt.
Người ta tin tưởng vào đời hơn. Người mẹ nghĩ rằng: mát mẻ thế này thì làm việc
là một trò chơi. Rồi thị lại nghĩ rằng: nếu mía lách đem đi chợ mà không có người
mua thì chẳng ai đem đến chợ. Ấy thế là thị đánh liều bỏ ra xu rưỡi và chọn lấy
bốn cây vừa ngon vừa dài. Chọn xong, thị cũng thấy tiếc tiền. Và trên đường về
thị còn lẩn quẩn nghĩ đến xu ruỡi mãi. Nhưng thị lại nghĩ đến thằng cu Con, đến
lúc nó sẽ bíu chặt lấy mấy cây mía lách mà cười nấc lên. Vậy thì thị chẳng nên
tiếc nữa. Có mất đâu mà tiếc? Con thị nó sẽ ăn vào miệng.
Về đến nhà, thị cảm động quá, hơi run. Môi thị tự nhiên mỉm
cười. Nhưng chẳng có đứa nào reo. Chẳng đứa nào trông thấy mẹ. Chúng đi đâu cả?
Thị vừa gọi vừa hoảng hốt chạy ra ngoài bờ ao. À! Hú vía… chúng nó đây cả rồi.
Nhưng làm gì mà dao, thớt bừa bộn thế?
Thị hơi sửng sốt vì bố chúng nó đang thả một con chó thui xuống
nước và cầm một búi rơm kì cọ. Sao lại có sự long trọng ấy? Thị đã toan hỏi
nhưng lại nín, vì lại có cả mấy người anh em bạn chồng. À, thôi phải… có lẽ hôm
nay là ngày giỗ ông nào, bà nào đây, thị ngây mặt ra, cố nhớ… Hăm nhăm tháng
chín… không, mà không phải… Giỗ chạp gì hôm nay? Lửa giận chợt bốc lên ngùn ngụt.
Thị thâm tím mặt. Thị biết chẳng phải giỗ chạp gì cả. Vả có giỗ cũng chẳng cần
giết chó. Xưa nay có bao giờ phải giết chó mới làm giỗ được? Nhà nghèo, chả bát
cơm, bát canh, thượng số vài, ba hào chỉ là đủ lắm. Gọi là có nhớ đến ông bà
tiên tổ cho khỏi tội. Làm gì mà phải linh đình thế? Khốn nạn! Khốn nạn cho thị
lắm! Cái số thị chẳng ra gì nên vớ phải một thằng chồng không biết lo, biết
nghĩ, chỉ thích ăn, thích uống. Con chó to bằng ấy, lúc này bán đâu không nổi
ba đồng bạc? Cả nhà ăn gạo hàng nửa tháng. Ấy thế mà cái môi nó vừa máy lên một
cái, nó đã phải đè ra mà giết ngay. Ăn hoang, phá hại. Ăn uống thế, có khác gì
ăn thịt con không, hở trời? Thị nghẹn ngào cả cổ. Thị muốn gào thật lớn. Nhưng
còn vướng mấy người bạn đây. Thôi cũng đành cắn răng. Nhưng thị không còn sức
mà đứng nhìn nó nữa. Thị chạy về nhà bình bịch. Thị quăng thị xuống cái phản gỗ
sung đến phịch. Chao ôi là chán nản, thị thấy một nỗi chán nản rời rã xâm lấn
người…
Một lúc thật lâu, anh chồng về. Anh vừa lau tay vào vạt áo, vừa
tươi cười hỏi:
- Nhà còn gạo không?
- Làm gì mà còn gạo!
- Thế thì làm sao được?
- Muốn làm sao thì làm.
Anh bẽ lắm. Giá phải lúc khác thì anh đã cho cái tát. Nhưng
lúc này làm thế có khác gì đuổi bạn. Vả lại chị vợ đang tức tối. Đánh thị, chắc
thị sẽ gào lên đến bảy làng nghe thấy. Còn ra quái gì! Anh cũng đành cười gượng
mà nịnh nọt cho xong chuyện…
- Bu mày chịu khó đi đong chịu vậy?
- Tôi không rỗi!
Hắn đã lộn tiết lên rồi, không còn nhịn được. Mắt hắn trợn
lên. Hắn gườm nhìn vợ một giây, rồi hục hặc:
- Cái giống nhà mày khó bảo!
Mắt người vợ đã rân rấn nước. Hắn biết là hắn thắng. Chỉ cần
khéo hơn một chút. Hắn lại xoay ra đấu dịu:
- Cái thứ người đâu mà ngang như cua vậy? Phải biết: tao muốn
mất tiền làm gì chứ? Nhưng chết cái ăn của người ta mãi, chẳng lẽ không mời lại
người ta một bữa thì cái mặt mình còn ra mặt gì? Nhân tiện con chó nó ăn phải bả
hay sao mà chẳng biết, sáng hôm nay cứ rú lên rồi lăn ra giãy chết…
À, ra thế… Thị hơi nguôi lòng một chút. Thật ra thì thị biết
không nguôi, không được. Nó cục như chó vậy. Ương với nó, nó thượng cẳng chân,
hạ cẳng tay là thường. Thiệt thân. Mà kết cục cũng vẫn phải đủ gạo cho nó thổi.
Thị đứng lên, vừa nguýt hắn, vừa lạu bạu:
- Đong mấy hào?
Thế là hắn lại đổi mặt ra tươi cười:
- Thì bu mày liệu đấy. Có ba người khách với tôi là bốn. Với
mẹ con nhà mày nữa.
- Mẹ con chúng tôi thì nhịn. Đong chịu chỉ có thể đong đến
năm hào là hết đất. Ai bán cho mình hơn?
- Ừ thì đong năm hào. Với bảo mẹ Xuyên bán chịu cho tao chai
rượu nữa. Mà cầm cả chai nước mắm đi, mua chịu cho tao một hào.
Bao nhiêu là thứ! Thị rên lên như một người mất cướp. Nhưng
nó đã muốn chết thì mặc nó. Thị cứ mua cho nó. Rồi bán gì đi mà trả nợ thì cứ
bán. Còn thì ăn, hết thì nhịn. Bố ăn lắm thì con chết đói. Cùng lắm thì bống bế
nhau đi ăn mày…
Bây giờ thì mọi thức đã xong rồi. Con chó hơi gầy. Nhưng gầy
thì cũng tốt. Hai bát tiết canh đông lắm. Ấy là cái điềm lành báo rằng cuộc vui
sẽ hoàn toàn. Những miếng thịt ngon thái tái hộn ngay vào hai cái bát chậu thật
to cho khỏi lôi thôi. Vẽ vời đơm vào đĩa hẳn hoi thì biết bằng nào đĩa cho nó
xuể? Nồi xáo bốc hơi thơm lựng, chẳng cần múc làm gì cho rếch bát. Sau khi đã hỏi
qua ý khách, chủ nhà định bê cả nồi lên để lúc nào ăn cơm hãy múc ra. Múc ngay
vào những bát bây giờ dùng đựng tái. Như vậy, tiện. Chỉ có hai cái bát mà đủ cả.
Ăn hết rồi lại múc. Ăn thịt chứ có ăn bát đâu mà cần… Hắn lảm nhảm bênh vực cho
cách dự định của hắn như thế mãi, tuy chẳng có ai phản đối. Họ cũng thừa biết cả
cửa nhà cơ nghiệp nhà hắn chỉ có hai cái bát chậu ấy thôi. Nhưng có gì. Miễn là
được uống rượu sớm hơn một chút. Anh nào anh ấy đói ngấu. Mà cái mùi thịt chó bốc
lên thơm vô cùng. Bao nhiêu là nước răng!
Chủ nhân, sau một cái liếm môi rất nhẹn, hất hàm hỏi khách:
- Xong rồi chứ?
- Xong
- Bưng mâm nhé?
- Ừ, làm thì làm!
- Nào, bưng mâm!…
Hắn dang hai chân, khuỳnh hai cánh tay và thè lè cái lưỡi ra
như một con chó về mùa nắng. Trông như hắn muốn vần một cái cối đá nhất chứ
không phải để bưng một cái mâm bằng gỗ. Nhưng thật ra đó chỉ là một cử chỉ trịnh
trọng và sung sướng. Binh Hựu giơ bàn tay trái lên làm trống khẩu, dùng ngón trỏ
tay kia làm dùi, ưỡn ngực ra, vừa gõ vừa kêu:
- Tung! Tung!… Tung!
Ấy là cái hiệu trống để cho phu nhắc kiệu lên vai. Chủ nhân ý
tứ nâng cái mâm thịt chó lên ngang mặt…
- Tung! Tung!
Thế nghĩa là: Đi! Đi! Và chúng đi. Lũ trẻ, thấy người lớn
cũng làm trò như chúng, thích chí cười sằng sặc. Chúng à à tuốn vào nhà trước,
như đàn ruồi. Cu Nhỡ trèo lên phản ngồi xếp bằng sẵn. Cu Con trèo không kịp
khóc oà lên. Nhưng người bố trợn mắt thật to và quát:
- Những thằng này hỗn! Chỗ chúng mày ngồi đấy à?
Cu Nhỡ cười như mếu, vội vàng tụt xuống. Cu Nhớn lấy thế làm
khoái lắm. Nó vừa lêu lêu em, vừa nhạo:
- Xấu! Không ngồi đấy đi!… Xấu! Không ngồi đấy đi…
Nhưng nó cũng cụt hứng ngay. Bố nó quay lại nó:
- Còn mày nữa! Không xách thằng cu Con đi à? Đưa nhau xuống bếp,
rồi ăn cơm.
Khi cả ba đứa trẻ đã lụt cụt chạy ra rồi, hắn mới đặt mâm xuống
phản, nháy mắt và xếch môi lên để làm cái điệu bộ cười, rồi toang toang bảo như
một kẻ cả vẫn đi ăn, đi họp:
Nhiêu Cừ bẹp mồm ra:
- Bẩm cụ bá dạy thế thật là chí lý.
- Ồ, có chăng thì thế chứ!… Vậy mời quan viên nào!
Ba ông khách ngồi. Chủ nhân chắp hai tay trước ngực, rồi lại
đưa tay phải lên đầu gãi, lầm rầm như khấn ông vải về ăn cỗ:
- Bẩm các cụ, chả mấy khi các cụ có lòng chiếu cố đến chơi
nhà chúng cháu… Gọi là chén rượu nhạt, xin rước các cụ cứ thật thà đi cho.
- Ờ!
Nghe tiếng “ờ” rất sang rung lên trong cái cổ họng của binh Hựu
bắt chước giọng ông chánh Ngạc, cả bốn anh cùng cười. Chủ nhân rót rượu ra hai
cái bát. Hai người uống chung một bát. Chúng bắt đầu ăn, uống, tranh nhau nói
và cười rung cả mái nhà.
Người mẹ rất còm cõi và bốn đứa con gầy ốm, quây quần với
nhau trong xó bếp. Trong gia đình này, năm mẹ con thường giống như một bọn dân
hèn yếu cùng chung phận con sâu, cái kiến dưới cái ách một ông bạo chúa.
Thấy lũ con đứa nào cũng nhăn nhăn, nhó nhó, người mẹ thương
đứt ruột. Thị biết rằng chúng đói. Khi người ta đã đói mà lại ngửi thấy mùi thịt
chó, thì bụng càng đói thêm. Thế mà bữa rượu của người bố với ba ông khách cứ
kéo dài mãi. Nghĩ mà bực quá! Cái thể không chết được, chứ giá chết được thì thị
chỉ thắt cổ mà chết đi cho rồi… Thị dỗ con:
- Cố mà nhịn lúc nữa, các con ạ: Đợi trên nhà ăn xong, còn thừa
thì ta ăn.
Rồi muốn cho chúng quên đi, thị sổ tóc ra cho chúng xúm vào bắt
chấy. Úi chà! Nhiều chấy quá! Chỉ việc rẽ một đám tóc ra là đủ thấy bốn, năm
con bò lổm ngổm. Cái Gái và cu Nhớn, cu Nhỡ thi nhau bắt. Chúng cho cu Con mấy
con chấy kềnh làm trâu. Mới đầu cái trò chơi ấy cũng hay hay. Nhưng chỉ một lúc
là chúng chán. Thằng cu Con ra hiệu đình công trước. Nó lăn vào lòng mẹ, oằn oại
vừa hụ hị kêu:
- Đói!… Bu ơi! Đói…
Tức khắc những đứa kia cũng nhớ ra rằng chúng đói. Chúng
không bắt chấy cho mẹ nữa. Chúng thở dài. Chúng nuốt bọt nhem nhép. Chúng thừ mặt
ra. Chúng nằm ẹp xuống đất và lật áo lên để khoe cái bụng. Bụng đứa nào cũng gần
dính lưng.
Mắt thị rơm rớm nước. Cũng may, tiếng người bố trên nhà gọi:
- Cái Gái đâu! Dẹp mâm đi, này!
Bốn đứa trẻ cùng nhỏm dậy: mặt chúng đột nhiên tươi tỉnh lại.
Gái “vâng” một tiếng thật to và chạy lên. Cu Nhớn, cu Nhỡ ngồi chồm chỗm đợi… Một
lát sau, Gái bê mâm xuống. Nó cũng nâng lên ngang mặt như cha lúc nãy. Các em
nó đứng cả lên, chực đu lấy cái mâm. Nó càng nâng cao hơn, mồm thét:
- Khoan! Khoan! Kẻo vỡ…
Cu Nhớn thét:
- Thì bỏ xuống!
Gái vênh mặt lên, trêu nó:
- Không bỏ. Không cho chúng mày ăn.
- Có sợ thành tật không?
- Không cho ăn thật đấy.
Cu Nhỡ sốt ruột, khoặm mặt lại, vằng nhau với chị:
- Làm trò mãi! Có bỏ xuống đây không nào?
Gái hạ nhanh mâm xuống đất, bảo:
- Này, ăn đi.
Nó ngẩng mặt nhìn các em, cười the thé. Người mẹ xịu ngay xuống.
Trong mâm, chỉ còn bát không. Thằng cu Con khóc oà lên. Nó lăn ra, chân đập như
một người giãy chết, tay cào xé mẹ. Người mẹ đỏ mũi lên và mếu xệch đi, rưng rức
khóc. Cái Gái và cu Nhớn, cu Nhỡ cũng khóc theo.
Bài học quét nhà
Hồng đang thẩn thơ chơi một mình ở trong vườn... Ít lâu nay, những
lúc được đi chơi, Hồng chỉ chơi có một mình. Chị Thảo về rồi. (Thảo là con ở
trước kia vẫn giữ em Hồng). Thằng em chửa biết đi. Còn thầy u thì bây giờ hay gắt
quá. Hồng cũng chẳng hiểu tại sao lại thế. Thầy, đã đành: thầy vốn nghiêm khắc
lắm, nhất là khi thầy viết hay đọc sách. Thầy chiếm một mình cả một căn buồng đầu
trong. Cửa ra vào đóng luôn luôn, chỉ có cửa sổ mở thôi. Thầy ngồi trong, viết
hay đọc sách suốt ngày. Những lúc ấy thầy muốn được yên tĩnh hoàn toàn. Hồng
hơi nói to là thầy quát mắng ngay. Có khi thầy mở cửa đánh sầm một cái, sồng sộc
bước ra, chực đánh Hồng. Đã bao nhiêu lần, Hồng gần bạt vía. Bởi vậy Hồng sợ lắm.
Mỗi lần phải đi qua chỗ buồng thầy, Hồng nín thở, kiễng chân, cố cho không có một
mảy may tiếng động. Chỉ cần có thế. Ngoài ra, thầy hiền như ông bụt đất. Mỗi
chiều ở trong buồng làm việc bước ra, thế nào thầy cũng gọi Hồng. Nếu thầy mải
đi tắm, hay bận đi đâu, thì thầy chỉ vuốt tóc Hồng, hỏi vài câu, nhìn Hồng bằng
đôi mắt yêu thương, rồi khẽ tát vào má Hồng một cái, bảo: "Cho con đi
chơi...". Nhưng nếu thầy không còn bận việc gì, thì thầy xách hai cái ghế
ra sân. Thầy ngồi một cái, Hồng ngồi một cái. Thầy gác hai chân lên cái ghế của
Hồng. Hai bố con nói chuyện với nhau. Thường thường chỉ mình Hồng nói mà thôi.
Hồng nói bất cứ cái gì: chuyện u, chuyện em Thiên, chuyện con chó con hay chuyện
mặt trăng, cái đèn pin của ông giời. Cũng có khi Hồng nhắc đến bác Hòa, bác Kim
và những bác gì, bác gì đến chơi nhà Hồng vào một hôm Hồng đau bụng. Hồng nói
nói, cười. Đôi mắt như hai cái hạt nhãn của Hồng, cái miệng chúm chím, đôi hàm
răng trắng và nhỏ như răng chuột, cái đầu Hồng, với đôi bàn tay nhỏ xíu nhưng
múp míp, làm những điệu bộ xinh xinh, rất đáng yêu. Thầy sung sướng nhìn, mỉm
cười rất dịu dàng. Có khi đôi mắt thầy ươn ướt vì cảm động. Thầy nắm tay Hồng,
nhắc Hồng sang ghế của thầy, ôm Hồng trong lòng, vuốt ve tóc và hôn. Không! Thầy
có ghét Hồng đâu? Trái lại, thầy rất yêu Hồng. Cả u cũng thế. Thường thường thầy
u chỉ ăn cơm với tương mắm mà thôi. Nhưng bao giờ u cũng mua cho Hồng một thức
ăn riêng: thịt, cá, trứng hay là đậu. U cũng không để Hồng phải thèm quà bánh.
Hồng ao ước thức gì hôm trước, chỉ hôm sau, lúc u đi chợ về đã có thức ấy trong
thúng của u rồi. U nói với Hồng rất nhẹ nhàng. Năm thì mười họa mới có một lần
u quở mắng Hồng: ấy là những khi Hồng nghịch dại, làm bẩn người và quần áo.
Bây giờ thì khác hẳn, Hồng bị mắng luôn luôn. Động một tí gì
u cũng mắng. Nói một mình, mắng! Vấp ngã, mắng! Đi chậm, mắng! Bữa ăn, không có
thức ăn, ngả ngốn không ăn được: mắng!... Như vậy kể cũng còn đáng tội. Nhưng lại
còn những cái không phải tội Hồng: thí dụ như nhà bẩn, nhà lắm ruồi vào, con
chó bới vườn trầu, hay thằng Thiên ngã, thằng Thiên khóc... đâu có phải tại Hồng.
Hồng làm sao cho không thế được? Ấy thế mà u cũng cứ Hồng mà mắng. Hồng mếu mếu
suốt ngày vì phải mắng. Nhưng Hồng không dám khóc, Hồng chỉ cố tránh thầy u, lẩn
lút ra vườn, chơi một mình.
Chơi một mình, buồn lắm. Hồng ngơ ngẩn. Hồng tiếc những ngày
xưa cũ quá. Những ngày xưa cũ chỉ cách đây hơn nửa tháng. Chị Thảo chưa về. Chị
Thảo bế em Thiên. Hồng lẽo đẽo theo sau. Chúng đi chơi khắp xóm. Ngày ấy, Hồng
có biết bao nhiêu là bạn! Thằng Hỉ đỏ mũi, thằng Hân cởi truồng, thằng Tảo đầu
trọc như quả bưởi và mắt trố như hai con ốc nhồi, với cái Như, cái Mùi, cái
Vót... Chúng chơi với nhau vui lắm, vui lắm! Bây giờ Hồng chỉ còn được chơi với
cây soan, cây chuối, cây cam. Hồng gọi chúng là bác soan, bác chuối, bác cam. Hồng
lấy bẹ mèo chuối xúc cát làm gạo bán cho chúng nó. Hồng hỏi rồi lại tự trả lời,
cùng một lúc là mình và là tất cả. Nhưng coi chừng đấy! Nếu u nghe thấy, u sẽ mắng:
Hồng điên! Bởi vì theo ý u, có điên mới lảm nhảm nói một mình. Và nếu u biết Hồng
nghịch cát thì chết! Thế nào u cũng đánh. Nghịch cát, bẩn quần áo, bẩn cả đầu
tóc, mặt mũi chân tay. Ai rỗi mà tắm giặt cho Hồng được? Mà tiền đâu mà mua xà
phòng? Xà phòng thì đắt như nhân sâm, vàng cốm... U sẽ gào lên thế. U sẽ bảo: Hồng
làm khổ u, Hồng tưởng u còn sướng lắm nên phải làm tội, làm nợ cho bớt đi một
chút. U sẽ bắt Hồng ngồi ro ró ở trong nhà, không được ra đến ngoài. Bước chân
ra khỏi cửa là chặt chân! Chặt chân! Hơi một tí là chặt chân!
Hồng cũng chẳng hiểu tại sao u bỗng nhiên sinh khó tính như
thế vậy. Chỉ biết: đã ít lâu nay, cả thầy lẫn u đều có vẻ không vui. Thầy lúc
nào cũng cau có đăm chiêu, nhất là sau khi đọc nhật trình. Có lần buông tờ báo
xuống bàn, thầy lắc đầu một cách chán nản bảo u:
- Tình hình nguy lắm rồi, mình ạ. Tôi sợ khó mà được hết năm
nay.
- Sao vậy?
- Giấy khan lắm! Việc in, việc xuất bản bị hạn chế rất gắt
gao.
- Với lại cái lúc khó khăn thế này, việc gì mà chả khó.
Thầy thở dài. U thở dài. Trán thầy tối như trời lúc sắp mưa.
U cười gượng, bảo:
- Nhưng thây kệ! Hơi đâu mà lo trước? Đến đâu hay đến đấy. Thời
buổi này, khổ đến đâu mà không phải chịu? Vả lại nhà mình khổ mãi, quen đi rồi.
Tìm được no, ăn no; tìm được đói, ăn đói. Chẳng tội gì mà lo mình ạ.
- Đã đành thế nhưng còn nợ?
- Thì ta ì ra đấy. Thịt người có ăn được đâu mà sợ!
Thầy cười chua chát. U cũng cười. Một lúc sau, u lại bảo:
- Nói đùa vậy, chứ nợ thì thế nào cũng phải trả. Mình không
phải là hạng người lì được. Bán gì thì bán, cũng phải bán đi mà trả.
- Còn gì mà bán?
- Cái nhà! Mình công nợ cũng vì làm nhà. Nay không còn làm gì
trả nợ được, thì lại bán nhà đi mà trả, có khó gì đâu?
- Đến nước ấy thì đẹp mặt!
- Ai cười thì cũng đành chịu vậy, chứ biết làm sao bây giờ?
Thầy lại lầm lì không nói. Nhưng thỉnh thoảng, mắt thầy lóe
ra một tia dữ tợn. Trông mặt thầy sợ lắm. U bấm Hồng, khẽ bảo: "Đi chơi
đi!" Rồi thì u cũng lảng ra. U dắt Hồng sang nhà hàng xóm chơi, bởi sợ thầy
gây sự...
Những mẩu chuyện na ná như trên, nhắc đi nhắc lại nhiều lần lắm.
Hồng chẳng hiểu gì. Nhưng Hồng cũng lờ mờ thấy một sự sụp đổ gì sắp tới. Một nỗi
lo lắng lảng vảng trong nhà Hồng. Thầy làm việc nhiều hơn. Tận lúc tối không
còn trông thấy chữ, thầy mới ở trong phòng làm việc đi ra. Thầy mải suy nghĩ
gì, quên cả việc gọi Hồng. Hồng quen lệ, đứng đợi thầy ở sân, chạy lại bám lấy
thầy. Nhưng thầy khẽ gạt ra, và hơi cau mặt bảo:
- Đi chơi! Để cho thầy nghỉ! Thầy hơi nhức đầu.
Một hôm, thầy nhận được một bức thư. Không phải thư của bác
Hòa. Hồng biết vậy lúc đọc thầy không mỉm cười. Thầy sầm mặt. Rồi mặt thầy hơi
tái đi một chút. U nhìn thầy, lo lắng hỏi:
- Thư của ai đấy, hở mình?
Thầy có vẻ không nghe thấy, bởi thầy không đáp lại. U sợ thầy
gắt, không hỏi nữa. Một lúc sau, đột nhiên thầy bảo:
- Nay mai mình tính công cái Thảo, trả cho nó, rồi cho nó về.
Cái Hồng ngót năm tuổi rồi, chẳng còn bé bỏng gì, trao cho nó giữ em. Ngày mai
đi chợ, nhớ mua một củ nâu. Bao nhiêu quần áo trắng của tôi, của chúng nó nhuộm
tất cả đi, cho bền và đỡ tốn xà phòng. Còn ba chục thùng thóc, mình phải liệu
chia ra; làm thế nào cho đủ ăn từ nay đến tết. Ăn ít chứ! Miễn không chết người
thì thôi. Quà bánh cho chúng nó thì bỏ đi.
Những huấn lệnh của thầy được đem ra thi hành đúng từng chữ một.
Chị Thảo về, Hồng phải giữ em và đánh vật với nó suốt ngày vẫn không xong! Nó vẫn
ngã, vẫn khóc, vẫn đập phá, khiến Hồng phải mắng. Quần áo của cả nhà đều nhuộm
nâu. Những khi u đi chợ về muộn, thầy làm bếp. Thầy u ăn mỗi ngày có một bữa
trưa. Mỗi trưa u cất đi một bát cơm, để dành cho Hồng ăn bữa tối. Trừ hai bữa
cơm. Hồng chẳng còn được ăn quà bánh gì. Mà u luôn luôn sai làm việc nọ, việc
kia, mà hơi lóng ngóng là mắng ngay.
- Cái Hồng đi đâu rồi?
Hồng tái mét mặt, chạy về sân:
- Con đây ạ!
- Lại lẻn đi chơi đấy, phải không? Con này chơi quen rồi! Về
ngay đây, tao bảo!
Giọng u gắt gỏng. Hồng lóp ngóp trèo lên cái đầu hè cao đến
ngực, rồi lạch bạch chạy vào nhà. Nó mở to đôi mắt trong trẻo nhìn u...
- Mày nhìn gì tao? Thử nhìn cái nhà xem! Bẩn thế mà mày không
quét... Hễ mẹ cất lấy em một cái là chạy mất.
Hồng mải mốt chạy lại một xó nhà, lấy chổi. Cái cuống chổi to
quá, bàn tay nhỏ bé của Hồng cầm rất khó. Nó lúng túng chuyển từ tay phải sang
tay trái, rồi lại từ tay trái sang tay phải. Tay nào cầm cũng ngượng. Người mẹ
quát:
- Mày luống cuống gì mãi thế? Cái tay trông đẹp nhỉ? Lớn đầu
bằng ấy mà không biết cầm cái chổi! Chỉ ăn là nhẹn thôi!... Được rồi. Quét đi!
Hồng quét. Nhưng nó ấn cái chổi xuống thềm nhà quá. Cái chổi
không đưa đi được. Hồng cố đẩy. Cái chổi bật lên và tuột khỏi tay Hồng. Người mẹ
nghiến chặt hai hàm răng lại, rít lên:
- Giời ơi là giời! Con với cái! Chơi quen rồi!
Hồng nghẹn cổ. Nó ngừng quét, ngước lên mẹ, đôi mắt ầng ậc nước.
Mồm nó mím lại, toan méo xệch. Mẹ nó càng điên tiết. Thị vùng đứng dậy, chỉ vào
mặt nó:
- Mày đứng đấy à? Mày có quét ngay, không thì chết với tao
bây giờ. Quét đi!
Hồng sợ hãi, lại vội vàng vơ lấy chổi. Trong lúc lính quýnh,
cái chổi lại buột tay lần nữa. Người mẹ giơ tay lên chực tát. Hồng đưa một tay
đỡ, tay kia hấp tấp nhặt cái chổi. Người mẹ ngăn kịp giận, để rơi bàn tay xuống.
Hồng nắm cái cuống chổi bằng hai tay. Nó ì ạch vần cái chổi, như người ta vần
cái cối đá nhất. Trông thật là ngứa mắt! Người mẹ cố nén giận, cầm lấy tay nó
mà dắt, dạy quét như mấy ông đồ dạy viết...
- Người ta phải đưa ngang cái chổi thế này, thế này... Đó!
Không cần ấn mạnh, nó chạy làm sao được? Mà cứ dịch dần đi: Một nhát chỗ này, một
nhát chỗ này, rồi chỗ này, chỗ này... thế, thế!
Hồng bị mẹ kéo đi xềnh xệch. Những nhát chổi, tay mẹ đưa rộng
quá, tay con bị giật theo, cả người đi. Con bé gần chúi đầu xuống đất. Nước mắt
nó tuôn ra mờ cả mắt. Nhưng nó vẫn mím chặt môi, không dám khóc...
Người mẹ hăm hở làm một lúc, rồi buông tay ra, đứng thẳng người
lên, vừa thở vừa bảo con:
- Đấy! Cứ thế... Bây giờ mày quét đi, tao xem nào!
Hồng quét. Nhưng nó vẫn lờ rờ, lúng túng. Cái chổi ngập ngừng
trên mặt đất, không biết nên đi lối nào cho phải. Người mẹ thấy khắp người ngứa
ngáy. Thị không còn nhịn được, nước mắt thị ứa ra một chút. Thị tức tối đập vào
mình đánh đét. Hồng giật mình, đánh rơi cả chổi. Ấy thế là đét!... thêm tiếng nữa.
Lần này thì cái bàn tay dán vào một bên má cúp bê của con bé từ trước đến nay
chỉ nhận được những cái tát yêu của bố. Nó chúi người đi một cái và òa lên
khóc. Người mẹ sửng sốt như chợt nhận ra cái cử chỉ vô lý và tàn nhẫn quá. Thị
đứng ngây người ra một chút. Rồi thị vồ lấy cái chổi, quét như điên, như dại. Mặt
thị co rúm lại chực khóc. Nước mắt, nước mũi chảy ròng ròng xuống đất. Thị vừa
quét vừa rên nho nhỏ.
- Giời ơi! Giời ơi!... Giời làm khổ tôi thế này!
Người bố chỉ lẳng lặng nhìn tất cả tấn bi kịch đang diễn ra
trước mắt. Y thấy lòng đau quằn quặn. Có một lúc, đứa con gái ngước đôi mắt
giàn giụa nước mắt, nhìn bố, như cầu cứu. Y quay mặt đi, giả tảng như không nhận
thấy. Nhưng suốt buổi chiều hôm ấy, y buồn bã. Y cũng vào phòng viết, ngồi như
thường lệ, nhưng y không viết được. Y nhìn qua cửa sổ. Cái nhìn của y, len lét
theo dõi trong một góc vườn, đứa con gái thẩn thơ giữa những cây chuối, cây
xoan, cây bưởi... Nó có vẻ buồn bã thêm. Ba bốn lượt, nước mắt y rỏ xuống...
Tối hôm ấy, sau khi đã uể oải ăn xong bữa cơm nguội rắc vừng,
Hồng uống nước rồi lẳng lặng vào giường ngủ. Một lát sau, người bố vào, nằm bên
con, quạt cho con. Một bàn tay y vuốt ve những sợi tóc mềm như tơ. Con bé nhắm
nghiền đôi mắt, không dẫy dọn. Nhưng nó chưa ngủ hẳn... Bỗng nó nghe thấy mẹ khẽ
bảo:
- Hôm nay, tôi tức quá, tát cái Hồng một cái, rồi thương đứt
ruột. Suốt hôm, nghĩ đến lúc nào, tôi lại khóc. Không biết tôi điên hay sao ấy.
Thầy Hồng bảo:
- Đấy là mình lo lắng quá. Tôi cũng vậy: lắm lúc tôi biết
mình mắng nó bất công mà cứ mắng; tại ruột mình lúc nào cũng nóng như lửa đốt;
hơi một tí là mình cáu.
- Ấy tôi cũng thế...
- Nhưng chúng mình phải coi chừng! Tôi thấy nó ít lâu nay chậm
chạp và ngơ ngẩn lắm, không được nhanh nhẹn, ngộ nghĩnh như trước. Đừng mắng lắm,
nó mụ người đi đấy. Mà mình bắt nó làm vừa chứ! Nó còn non tuổi lắm: Đến tháng
chín này mới đầy năm tuổi. Đã làm, làm sao được?
- Thì ai chả biết! Hồng nó thì làm gì được? Có mà còn phải hầu
nó chán.
- Thế sao mình cứ bắt làm? Mà nó làm không được thì lại đánh?
- Thì đã bảo: điên mà lại! Con bé thật có nết. Chỉ vì mình
túng cho nên nó khổ... Mẹ nó! Ấy thế mà ngủ ù ỉ như lợn rồi đấy!...
Thật ra thì Hồng có ngủ đâu. Nó nghe thấy tất. Tự nhiên nó thấy
nước mắt giàn giụa chảy ra đầy má. Nó không dám chùi, sợ thầy nó biết. Nhưng bỗng
thầy nó quay vào, ôm lấy nó, áp môi vào má nó, ngạc nhiên một thoáng rồi bùi
ngùi bảo:
- Tội nghiệp con tôi! Đang khóc mê đây này...
Đời thừa
Từ ngẩng đầu lên nhìn Hộ ba lần. Ba lần, Từ muốn nói nhưng lại
không dám nói. Hắn đang đọc chăm chú quá. Ðôi lông mày rậm của hắn châu đầu lại
với nhau và hơi xếch lên một chút. Ðôi mắt sáng quắc có vẻ lồi ra. Cái trán rộng
hơi nhăn. Ðôi lưỡng quyền[1] đứng sừng sững trên bờ hai cái hố sâu của má
thì bóng nhẫy. Cả cái mũi cao và thẳng tắp cũng bóng lên như vậy. Cái mặt hốc
hác ấy, nghiêng nghiêng bên trên quyển sách, trông khắc khổ đến thành dữ tợn. Từ
thấy sợ...
Từ yêu chồng bằng một thứ tình yêu rất gần với tình của một
con chó đối với người nuôi. Từ bản tính rất dịu dàng, rất tận tâm. Vả lại Hộ, đối
với Từ, còn là một ân nhân nữa. Hộ đã cúi xuống nỗi đau khổ của Từ. Hộ đã cúi
xuống và đã đưa một bàn tay cầm lấy cái bàn tay mềm yếu của Từ, giữa lúc Từ đau
đớn không bờ bến: Từ bị tình nhân bỏ với một đứa con vừa mới đẻ. Gã tình nhân
vô liêm sỉ[2] ấy, Từ đã yêu hắn bằng cả tấm lòng yêu lúc ban đầu. Từ đã
tin như người ta tin một vị thần. Từ đã hiến mình một cách dè dặt tâm hồn và
xác thịt. Và khi biết mình sắp có một đứa con, Từ không hề hối hận một mảy may:
Từ rất bằng lòng. Ấy thế mà hắn đã phụ từ, phụ một cách hèn nhát và khốn nạn,
ngay chính vào lúc Từ cần đến hắn để bảo tồn sự sống và danh dự, lúc đứa con ra
đời. Từ sửng sốt vô cùng. Từ không tin ở sự thật rành rành. Rồi khi sự sửng sốt
qua thì Từ khóc. Từ khóc như mưa, khóc tưởng chẳng bao giờ còn lặng được. Từ
khóc, và ôm con ngồi nhịn đói, bởi vì Từ chẳng còn biết trông cậy vào ai, trừ
bà mẹ già mù và quanh năm nay ốm, mai đau, mà Từ vẫn phải nuôi. Bà mẹ già biết
làm sao? Bà chỉ còn một cách là còn được ít nước mắt nào thì rỏ cả ra mà khóc với
con, và cả mẹ lẫn con chỉ có một cách là khóc cho đến khi nào bao nhiêu xương
thịt đều chảy ra thành nước mắt hết, để rồi cùng chết cả. Giữa lúc ấy thì Hộ mở
rộng đôi cánh tay, đón lấy Từ. Hộ nuôi Từ, nuôi mẹ già, con dại cho Từ. Hộ nhận
làm bố cho đứa con thơ. Vì muốn yên ủi Từ và cứu lấy danh dự của Từ, Hộ đã
chính thức nhận Từ làm vợ. Rồi Hộ đứng ra làm ma cho bà mẹ Từ, khi bà cụ mất.
Biết bao nhiêu là ân nghĩa! Từ có yêu Hộ đến đâu, có chịu khó đến đâu, có làm
nô lệ cho Hộ suốt đời Từ nữa, thì cũng chưa đủ để đền ơn. Bởi thế, nên luôn mấy
năm trời, Hộ thấy Từ là một người vợ rất ngoan, rất phục tùng, rất tận tâm. Và
đáng lẽ thì Hộ phải sung sướng lắm.
Nhưng Hộ chỉ sung sướng được ít lâu thôi. Sau cái hành vi đẹp
của hắn, và cái hành vi ấy được trả công bằng một tình yêu rất êm đềm, hắn chỉ
còn nghĩ đến gia đình, chỉ cốt làm sao nuôi được gia đình. Hộ vốn nghèo. Hắn là
một nhà văn, trước kia, với cách viết thận trọng của hắn, hắn chỉ kiếm được vừa
đủ để một mình hắn sống một cách eo hẹp, có thể nói là cực khổ. Nhưng bấy giờ hắn
chỉ có một mình. Ðói rét không có nghĩa lý gì đối với gã trẻ tuổi say mê lý tưởng.
Lòng hắn đẹp. Ðầu hắn mang một hoài bão lớn[3]. Hắn khinh những lo lắng tủn mủn
về vật chất. Hắn chỉ lo vun trồng cho cái tài của hắn ngày một thêm nảy nở. Hắn
đọc, ngẫm nghĩ, tìm tòi, nhận xét và suy tưởng không biết chán. Ðối với hắn lúc
ấy, nghệ thuật là tất cả; ngoài nghệ thuật không còn gì đáng quan tâm nữa. Hắn
băn khoăn nghĩ đến một tác phẩm nó sẽ làm mờ hết các tác phẩm khác cùng ra một
thời... Thế rồi, khi đã ghép đời Từ vào cuộc đời của hắn, hắn có cả một gia
đình phải chăm lo. Hắn hiểu thế nào là giá trị của đồng tiền; hắn hiểu những nỗi
đau khổ của một kẻ đàn ông khi thấy vợ con mình đói rách. Những bận rộn tẹp nhẹp,
vô nghĩa lý, nhưng không thể không nghĩ tới, ngốn một phần lớn thì giờ của hắn.
Hắn phải cho in nhiều cuốn văn viết vội vàng. Hắn phải viết những bài báo để
người ta đọc rồi quên ngay sau lúc đọc. Rồi mỗi lần đọc lại một cuốn sách hay một
đoạn văn ký tên mình, hắn lại đỏ mặt lên, cau mày, nghiến răng vò nát sách và mắng
mình như một thằng khốn nạn... Khốn nạn! Khốn nạn! Khốn nạn thay cho hắn! Bởi
vì chính hắn là một thằng khốn nạn! Hắn chính là một kẻ bất lương! Sự cẩu thả
trong bất cứ nghề gì cũng là một sự bất lương rồi. Nhưng sự cẩu thả trong văn
chương thì thật là đê tiện. Chao ôi! Hắn đã viết những gì? Toàn những cái vô vị,
nhạt nhẽo, gợi những tình cảm rất nhẹ, rất nông, diễn một vài ý rất thông thường
quấy loãng trong một thứ văn bằng phẳng và quá ư dễ dãi. Hắn chẳng đem một chút
mới lạ gì đến văn chương. Thế nghĩa là hắn là một kẻ vô ích, một người thừa.
Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay, làm theo một vài kiểu mẫu
đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi
những nguồn chưa ai khơi, và sáng tạo những cái gì chưa có... Hắn nghĩ thế và
buồn lắm, buồn lắm! Còn gì buồn hơn chính mình lại chán mình? Còn gì đau đớn
hơn cho một kẻ vẫn khát khao làm một cái gì nâng cao giá trị đời sống của mình,
mà kết cục chẳng làm được cái gì, chỉ những lo cơm áo mà đủ mệt?
Hắn để mặc vợ con khổ sở ư? Hắn bỏ liều, hắn ruồng rẫy chúng, hắn hy sinh như người ta vẫn nói ư? Ðã một vài lần hắn thấy ý nghĩ trên đây thoáng qua đầu. Và hắn nghĩ đến câu nói hùng hồn của một nhà triết học kia: "Phải biết ác, biết tàn nhẫn để sống cho mạnh mẽ". Nhưng hắn lại nghĩ thêm rằng: Từ rất đáng yêu, rất đáng thương, hắn có thể hy sinh tình yêu, thứ tình yêu vị kỷ đi; nhưng hắn không thể bỏ lòng thương; có lẽ hắn nhu nhược, hèn nhát, tầm thường, nhưng hắn vẫn còn được là người: hắn là người chứ không phải là một thứ quái vật bị sai khiến bởi lòng tự ái. Kẻ mạnh không phải là kẻ giẫm lên vai kẻ khác để thỏa mãn lòng ích kỷ. Kẻ mạnh chính là kẻ giúp đỡ kẻ khác trên đôi vai mình. Và lại hèn biết bao là một thằng con trai không nuôi nổi vợ, con thì còn mong làm nên trò gì nữa?... Hắn tự bảo: "Ta đành phí đi một vài năm để kiếm tiền. Khi Từ đã có một số vốn con để làm ăn! Sự sinh hoạt lúc này chẳng dễ dàng đâu!". Từ khi đứa con này chưa kịp lớn lên, đứa con khác đã vội ra, mà đứa con nào cũng nhiều đẹn, nhiều sài, quấy rức, khóc mếu suốt ngày đêm và quanh năm uống thuốc. Từ săn sóc chúng đã đủ ốm người rồi, chẳng còn có thể làm thêm một việc khác nữa. Hộ điên người lên vì phải xoay tiền. Hắn còn điên lên vì con khóc, nhà không lúc nào được yên tĩnh để cho hắn viết hay đọc sách. Hắn thấy mình khổ quá, bực bội quá. Hắn trở nên cau có và gắt gỏng. Hắn gắt gỏng với con, với vợ, với bất cứ ai, với chính mình. Và nhiều khi, không còn chịu nổi cái không khí bực tức ở trong nhà, hắn đang ngồi bỗng đứng phắt lên, mắt chan chứa nước, mặt hầm hầm, vùng vằng đi ra phố, vừa đi vừa nuốt nghẹn. Hắn đi lang thang, không chủ đích gì. Rồi khi gió mát ở bên ngoài đã làm cái trán nóng bừng nguội bớt đi và lòng trút nhẹ được ít nhiều uất giận, hắn tạt vào một tiệm giải khát nào mà uống một cốc bia hay cốc nước chanh. Hắn tìm một người bạn thân nào để nói chuyện văn chương, ngỏ ý kiến về một vài quyển sách mới ra, một vài tên ký mới trên các báo, phác họa một cái chương trình mà hắn biết ngay khi nói là chẳng bao giờ hắn có thể thực hành, rồi lặng lẽ nghĩ đến cái tác phẩm dự định từ mấy năm nay để mà chán ngán. Hắn thừ mặt ra như một kẻ phải đi đày, một buổi chiều âm thầm kia, ngồi trong một làn khói nặng u buồn mà nhớ quê hương. Hắn cũng nhớ nhung một cái gì rất xa xôi... những mộng đẹp ngày xưa... một con người rất đáng yêu đã chẳng là mình nữa. Hắn lắc đầu tự bảo: "Thôi thế là hết! Ta đã hỏng! Ta đã hỏng đứt rồi". Và hắn nghĩ đến cái tên hắn đang mờ dần đằng sau những tên khác mới trồi ra, rực rỡ hơn... Rồi hắn ra về, thờ thẫn. Những sự bực tức đã chìm đi. Lòng hắn không còn sôi nổi nữa, nhưng rũ buồn...
Hắn để mặc vợ con khổ sở ư? Hắn bỏ liều, hắn ruồng rẫy chúng, hắn hy sinh như người ta vẫn nói ư? Ðã một vài lần hắn thấy ý nghĩ trên đây thoáng qua đầu. Và hắn nghĩ đến câu nói hùng hồn của một nhà triết học kia: "Phải biết ác, biết tàn nhẫn để sống cho mạnh mẽ". Nhưng hắn lại nghĩ thêm rằng: Từ rất đáng yêu, rất đáng thương, hắn có thể hy sinh tình yêu, thứ tình yêu vị kỷ đi; nhưng hắn không thể bỏ lòng thương; có lẽ hắn nhu nhược, hèn nhát, tầm thường, nhưng hắn vẫn còn được là người: hắn là người chứ không phải là một thứ quái vật bị sai khiến bởi lòng tự ái. Kẻ mạnh không phải là kẻ giẫm lên vai kẻ khác để thỏa mãn lòng ích kỷ. Kẻ mạnh chính là kẻ giúp đỡ kẻ khác trên đôi vai mình. Và lại hèn biết bao là một thằng con trai không nuôi nổi vợ, con thì còn mong làm nên trò gì nữa?... Hắn tự bảo: "Ta đành phí đi một vài năm để kiếm tiền. Khi Từ đã có một số vốn con để làm ăn! Sự sinh hoạt lúc này chẳng dễ dàng đâu!". Từ khi đứa con này chưa kịp lớn lên, đứa con khác đã vội ra, mà đứa con nào cũng nhiều đẹn, nhiều sài, quấy rức, khóc mếu suốt ngày đêm và quanh năm uống thuốc. Từ săn sóc chúng đã đủ ốm người rồi, chẳng còn có thể làm thêm một việc khác nữa. Hộ điên người lên vì phải xoay tiền. Hắn còn điên lên vì con khóc, nhà không lúc nào được yên tĩnh để cho hắn viết hay đọc sách. Hắn thấy mình khổ quá, bực bội quá. Hắn trở nên cau có và gắt gỏng. Hắn gắt gỏng với con, với vợ, với bất cứ ai, với chính mình. Và nhiều khi, không còn chịu nổi cái không khí bực tức ở trong nhà, hắn đang ngồi bỗng đứng phắt lên, mắt chan chứa nước, mặt hầm hầm, vùng vằng đi ra phố, vừa đi vừa nuốt nghẹn. Hắn đi lang thang, không chủ đích gì. Rồi khi gió mát ở bên ngoài đã làm cái trán nóng bừng nguội bớt đi và lòng trút nhẹ được ít nhiều uất giận, hắn tạt vào một tiệm giải khát nào mà uống một cốc bia hay cốc nước chanh. Hắn tìm một người bạn thân nào để nói chuyện văn chương, ngỏ ý kiến về một vài quyển sách mới ra, một vài tên ký mới trên các báo, phác họa một cái chương trình mà hắn biết ngay khi nói là chẳng bao giờ hắn có thể thực hành, rồi lặng lẽ nghĩ đến cái tác phẩm dự định từ mấy năm nay để mà chán ngán. Hắn thừ mặt ra như một kẻ phải đi đày, một buổi chiều âm thầm kia, ngồi trong một làn khói nặng u buồn mà nhớ quê hương. Hắn cũng nhớ nhung một cái gì rất xa xôi... những mộng đẹp ngày xưa... một con người rất đáng yêu đã chẳng là mình nữa. Hắn lắc đầu tự bảo: "Thôi thế là hết! Ta đã hỏng! Ta đã hỏng đứt rồi". Và hắn nghĩ đến cái tên hắn đang mờ dần đằng sau những tên khác mới trồi ra, rực rỡ hơn... Rồi hắn ra về, thờ thẫn. Những sự bực tức đã chìm đi. Lòng hắn không còn sôi nổi nữa, nhưng rũ buồn...
Ít lâu nay, mỗi lần ra đi, Hộ không chỉ trở về buồn bã mà
thôi. Hắn say mềm. Thường thường hắn đã ngủ một nửa ngay từ khi còn ở dọc đường;
và vừa về đến nhà, chưa kịp thay quần áo, tháo giày, đã đổ như một khúc gỗ xuống
bất cứ cái giường nào, ngủ say như chết. Từ phải chờ khi con ngủ mê, rón rén lừa
con, dậy lại tháo giày, cởi quần tây cho hắn, luồn một cái gối xuống gáy hắn,
và cố nhấc chân, nhấc tay hắn, đặt cho hắn nằm ngay ngắn lại... Nhưng cũng có
đêm hắn chưa ngủ vội. Hắn lảo đảo bước vào nhà, mắt gườm gườm, đôi môi mím chặt.
Hắn đi thẳng lại trước mặt Từ. Hắn cúi xuống, quắc mắt nhìn Từ, gõ gõ một ngón
tay trỏ vào trán Từ và dọa như người ta dọa trẻ con:
- Ngày mai... mình có biết không?... Chỉ ngày mai thôi! Là
tôi đuổi tất cả mấy mẹ con mình ra khỏi cái nhà này... Tôi đuổi tất, không chừa
một đứa nào, kể cả con bé Thảo là con ngoan nhất... Mấy đứa kia đều đáng vật một
nhát cho chết cả! Chúng nó chỉ biết ăn với hét! Cả con mẹ nữa, con mẹ là mình ấy...
cũng đáng vật một nhát cho chết cả! Chúng nó chỉ biết ăn rồi ngồi ôm con như nhện
ôm khư khư bọc trứng, không chịu làm thêm việc gì cho có tiền. Chỉ khổ thằng
này thôi!
Hắn rít lên như vậy. Rồi hắn mím chặt môi, đôi mắt ngầu ngầu
nhìn vào tận mắt Từ. Từ chẳng dám cãi nửa lời, chỉ lẳng lặng cúi mặt nhìn xuống,
như một đứa trẻ con biết mình có lỗi khi nghe người ta quở phạt. Bởi vậy hắn trừng
trộ một lúc rồi quay ra, loạng choạng cởi quần, cởi áo, hắn vất bừa bộn xuống
giường. Rồi hắn tháo giày, quăng từng chiếc một vào một xó nhà. Có khi máy tay,
hắn quăng cả những vật gì thấy trên bàn, rồi lải nhải mắng Từ về tội không biết
thu dọn nhà cho gọn ghẽ. Hắn nói chán rồi đi ngủ. Bấy giờ Từ mới dám đứng lên,
treo quần áo cho hắn lên mắc và thu dọn tất cả những thức hắn đã vứt lổng chổng
ra đầy nhà.
Lần đầu, Từ sửng sốt. Từ chẳng hiểu ra sao. Từ đoán chồng
nghe ai nói nên ghen bóng, ghen gió chi đây. Từ khóc suốt đêm và dự định sẵn những
câu để sáng hôm sau nói. Nhưng sáng hôm sau, hắn không để cho Từ phải nói. Hắn
bẽn lẽn kêu mình đã quá chén hôm qua, hỏi Từ về những thủ đoạn vũ phu của mình
rất buồn cười, rồi xin lỗi Từ, hôn hít các con như một người cha tốt. Hắn tuyên
bố từ giờ chừa rượu và giữ được khá lâu, nhưng rồi lại uống và say như lần trước
để làm những trò vừa buồn cười, vừa đáng sợ như lần trước. Cứ thế mãi, Từ quen
đi, không giận nữa. Nhưng Từ lờ mờ hiểu nỗi đau khổ mà có lẽ chính Từ đã gây ra
cho chồng. Từ hiểu và Từ buồn lắm, buồn lắm lắm. Còn gì buồn cho bằng mình biết
mình làm khổ cho người mà mình yêu? Nhưng Từ biết làm sao được? Ðã nhiều lần Từ
muốn ẵm con đi. Ðã nhiều lần, Từ muốn bỏ liều con để đi làm, Từ muốn hy sinh.
Nhưng lòng Từ mềm yếu biết bao! Từ là vợ! Từ là mẹ. Từ sống với những tình cảm
thông thường của đàn bà. Từ rất yêu chồng và thường nhận ra rằng chồng Từ cũng
yêu Từ, cũng muốn có Từ. Những khi Từ ốm đau chẳng hạn. Hộ lo xanh mắt và thức
suốt đêm để trông coi thuốc thang cho vợ. Ðối với các con cũng vậy. Chỉ xa
chúng mấy ngày, Hộ đã nhớ và lúc về thấy các con chạy ra reo mừng và nắm lấy áo
mình, thường thường Hộ cảm động đến ứa nước mắt. Hắn hôn hít chúng vồ vập lắm...
Biết đâu hắn sẽ sung sướng khi không con, không vợ? Từ nghĩ về hắn: nghĩ thế
nhưng Từ cũng chẳng dám tìm cách mà xa hắn. Mới nghĩ đến sự xa hắn, Từ đã phải
thổn thức đến bật tiếng khóc ra được rồi... Từ đành chỉ cố ngoan ngoãn hơn,
đáng yêu hơn. Từ nhịn mặc, nhịn ăn để bớt những món tiêu. Từ thu xếp cửa nhà
ngăn nắp, sạch sẽ, gọn gàng. Nhất là Từ hết sức ngăn những tiếng khóc, tiếng nô
đùa của lũ con. Từ sợ cả nói với chồng. Bởi vậy ba lần nhìn chồng để toan nói,
Từ thấy chồng đang đọc sách chăm chú quá, không dám nói lại cúi mặt xuống nhìn
đứa con đang nằm trong lòng Từ.
Cao hứng Hộ bỗng ngoảnh mặt lên. Hắn vừa gặp được một đoạn
hay lắm nên ngừng đọc, ngẫm nghĩ và để cho cái khoái cảm ngân ra trong lòng.
Ðôi mắt hắn, tuy mới rời trang sách đã nhìn ngay lại phía Từ. Hắn mỉm cười, Từ
cũng mỉm cười. Hắn bảo:
- Này, Từ ạ... Nghĩ cho kỹ, đời tôi không đáng khổ mà hóa khổ,
chính tôi làm cái thân tôi khổ, tôi mê văn quá nên mới khổ. Ấy thế, mà tuy khổ
thì khổ thật, nhưng thử có người giàu bạc vạn nào thuận đổi lấy cái địa vị của
tôi, chưa chắc tôi đã đổi. Tôi cho rằng: những khi được đọc một đoạn văn như đoạn
này, mà lại hiểu được tất cả cái hay, thì dẫu ăn một món ăn ngon đến đâu cũng
không thích bằng. Sướng lắm! Sao thiên hạ lại có người tài đến thế? Mình tính:
người ta tả cái cảnh một người nhớ quê hương chỉ mất có ba câu, đúng ba câu!...
Mình có hiểu không? ... Ba câu giản dị một cách không ngờ mà hay được đến như
thế này...
Hắn đọc lại đoạn văn. Hắn định nghĩa để Từ nghe. Hắn giảng giải
cho Từ. Tuy Từ chẳng hiểu được bao nhiêu, nhưng cũng tin lời hắn lắm. Từ giữ
mãi nụ cười hiền dịu trong khi nghe hắn nói. Khi hắn ngừng nói đã được một lúc
khá lâu, Từ mới làm như chợt nhớ ra:
- Có lẽ hôm nay đã là mồng hai, mồng ba tây rồi, mình nhỉ?
- À phải! Hôm nay mồng ba... Giá mình không hỏi tôi thì tôi
quên... Tôi phải đi xuống phố.
Từ nhắc khéo:
- Hèn nào mà em thấy người thu tiền nhà sáng nay đã đến...
Hộ sầm mặt lại:
- Tiền nhà... tiền giặt... tiền thuốc... tiền nước mắm... Còn
chịu tất! Tháng vừa rồi tiêu tốn quá, mới mồng mười đã hết tiền. May mà còn có
đất mua chịu được.
Hắn nghĩ đến món tiền hắn đã tiêu phí mấy hôm đầu tháng. Mỗi
lần hắn bực tức hay chán nản, hắn lại đi uống rượu, thành thử hết tiền sớm. Từ
không hé môi phàn nàn nửa tiếng, nhưng cả tháng Từ ăn và bắt các con ăn kham khổ,
thường thường đói nữa! Quà sáng thì bỏ hẳn, có khi bữa tối cũng chịu nhịn cơm,
ăn cháo. Hộ trông thấy thế, thương vợ, thương con quá, và ân hận vì mình đã
tiêu quá trớn. Bởi vậy suốt từ mồng mười đến hết tháng, hắn không ra khỏi nhà để
chẳng phải tiêu thêm tí gì...
Hắn vừa mặc quần áo, vừa nhắc thầm trong trí:
- Nhất định hôm nay không đi đâu cả... Lấy tiền xong là về
ngay...
Nhưng Từ bảo:
- Mình đi phố thì đi ăn nhé. Còn có ít gạo chỉ đủ cho lũ trẻ.
Em chả đong thêm nữa, để mai trả tiền rồi lấy thêm luôn một thể... Em không để
cơm mình đâu đấy... Nhà chẳng còn gì ăn...
Hộ hơi cau mày. Bởi vì hắn sợ bước vào tiệm ăn lắm. Hắn có thể
gặp ở đây một vài người bạn... và khi ấy thì... ôi thôi! Mặc kệ gia đình và những
cái gì còn lại!... Hắn sẽ uống rất khỏe, nói toàn những chuyện vá trời lấp biển,
rồi đi la cà đến hết đêm mới về. Hắn nghĩ ngợi một chút rồi hắn bảo:
- Ðược! Tôi sẽ mua cái gì về để cả nhà cùng ăn.
- Ðừng phiền nữa! Em cứ cho chúng nó ăn cơm trước rồi đi ngủ.
- Ðừng ăn trước... Ðợi tôi đem thức ăn về, ăn một thể. Tôi về
sớm. Cả tháng chúng nó đói khát, khổ sở, hôm nay có tiền cũng nên cho chúng nó
một bữa ăn ra hồn.
- Vẽ chuyện!
Hắn mỉm cười, đáp lại. Hắn lại gần Từ, cúi xuống nắm lấy tay
đứa bé và gọi nó. Mặt hắn và mặt Từ ghé sát. Hắn cố ý khẽ chạm môi mình vào má
Từ một cái. Từ vờ giũ mấy cái bụi ở tay áo hắn. Vợ chồng nhìn nhau âu yếm. Hắn
vuốt má Từ một cái rồi ra đi.
Ở tòa báo ra, Hội đi thẳng tới một hiệu thịt quay. Hắn định
mua mấy hào thịt, vài cái bánh tây, gói đem về. Lòng hắn sáng bừng. Hắn tưởng
tượng ra cái cảnh lũ con háu ăn và đói khát, rón thịt bằng tay và ăn những miếng
bánh thật to, miệng phụng phịu và môi bóng nhờn những mỡ. Cái cảnh thô tục và cảm
động! Hắn sẽ cười thỏa thích. Còn Từ sẽ ngồi bên hắn mà nhìn chúng, đôi mắt
sung sướng và thương hại loang loáng ướt... Ðến trước cửa hiệu thịt quay, Hộ dừng
lại. Hắn cẩn thận nhìn trước, nhìn sau, trước khi vào. Một người quen có thể đi
qua, và nếu họ bắt gặp hắn đang cố nhét một gói thịt vào túi áo!... Không!
Không có gì đáng ngại, ngoài đường phố... Nhưng trong hiệu, một thiếu nữ đẹp
đang mặc cả... Hắn đành đợi vậy. Trong khi đợi, hai tay chắp sau lưng, hắn làm
ra vẻ đợi một người bạn vừa vào một nhà nào gần đấy. Bỗng một bàn tay đập vào
vai khiến hắn giật mình quay lại. Trung nhếch cười lặng lẽ và Mão cười ầm ĩ,
cùng đưa tay cho hắn bắt:
- Mải ngắm nàng thơ nào mà ngây người ra thế?
Hộ ấp úng:
- À! Các anh!...
- Không theo gót sen nào đấy chứ?
- Cái ấy không quan hệ! Thi sĩ là người giữ được mình trẻ mãi
và đến muôn năm cũng vẫn còn trinh bạch.
- Cũng may tôi lại cũng không là thi sĩ nốt.
- Nghĩa là chẳng theo nàng nào cả?
- Chẳng theo nàng nào cả!
- Thế thì đi theo hai thằng này!
Hộ nhìn Trung và Mão một thoáng rồi mới hỏi:
- Làm chi?
- Thế thì đệ kiếu. Ðệ phải về kẻo hết tàu điện.
Trung cau mày nhìn Hộ một cách kinh ngạc và khinh bỉ:
- Sao lại có người điên đến thế? Về giữa lúc chiều thì đẹp mà
phố thì vui thế này!
Hộ trở nên đứng đắn:
- Không đùa nữa... Thật ra thì tôi có việc phải về, thế thôi.
- Ờ! Nói vậy còn dễ nghe... Thôi thế anh về nhé!... Nhưng
mà... này! Anh đã biết gì chưa?
Hộ đã toan đi, quay đầu lại nhìn Trung...
- "Ðường về" sắp được dịch ra tiếng Anh đấy nhé! Bản
quyền[4] tác giả ba nghìn đồng.
Hộ trợn mắt lên. Người hắn bổi hổi. Một lúc lâu hắn mới hỏi
được Trung:
- Có đích không?
- Ðích xác rồi. Chính Quyền đưa cái thư điều đình cho chúng
tôi xem.
Hộ có vẻ hoài nghi:
- Không mà lại!... Tôi biết lắm... Nhưng lại đằng này đã, về
làm gì vội? Chúng mình làm cốc bia...
Hộ đã quên hẳn vợ con. Hắn chỉ còn háo hức muốn biết thêm về
việc quyển "Ðường về" của Quyền được dịch ra tiếng Anh. Hắn bám lấy
Mão và Trung. Ba người vào một tiệm giải khát ở Bờ Hồ. Và chỉ độ nửa giờ sau,
Mão và Trung đã thấy Hộ đỏ tai, giộng một cái vỏ chai bia xuống mặt bàn:
- Cuốn "Ðường về" chỉ có giá trị địa phương thôi,
các anh có hiểu không? Người ta dịch nó vì muốn biết phong tục của mọi nơi. Nó
chỉ tả được cái bề ngoài của xã hội. Tôi cho là xoàng lắm! Một tác phẩm thật
giá trị, phải vượt lên bên trên tất cả các bờ cõi và giới hạn, phải là một tác
phẩm chung cho cả loài người. Nó phải chứa đựng được một cái gì lớn lao, mạnh mẽ,
vừa đau đớn, lại vừa phấn khởi. Nó ca tụng lòng thương, tình bác ái[5] , sự
công bình... Nó làm cho người gần người hơn. Như thế mới thật là một tác phẩm
hay, các anh có hiểu không? Tôi chưa thất vọng đâu! Rồi các anh xem... Cả một đời
tôi, tôi sẽ chỉ viết một quyển thôi, nhưng quyển ấy sẽ ăn giải Nobel [6] và
dịch ra đủ mọi thứ tiếng trên hoàn cầu!
Trung gật gù cười, vẫn cái cười lặng lẽ của y. Mão thì cười
hô hố. Hộ không cười, mặt căng lên vì hứng khởi. Hắn nói say sưa lắm. Và đến
lúc đèn phố bật, Trung và Mão muốn về, Hộ bảo luôn:
- Thong thả đã! Ði đâu mà vội? Chúng mình đi uống rượu... Tôi
có tiền...
Sáng hôm sau. Hắn thức dậy trên cái giường nhà hắn. Hắn thấy
mình mẩy đau như dần, đầu nặng, miệng khô và đắng. Cổ thì ráo và rát cháy. Hắn
đưa tay với ấm nước ở trên bàn để uống. Ấm nước đầy và nước hãy còn ấm. Ðó là sự
ý tứ của Từ. Hộ hiểu thế, và lòng buồn nao nao. Bởi hắn lờ mờ nhớ ra rằng: hình
như đêm qua hắn say rượu, đi la cà chán rồi về, lại gây sự với Từ; hình như hắn
lại đánh cả Từ, đuổi Từ đi, rồi mới đóng cửa lại và đi ngủ... Hắn đột nhiên hoảng
sợ, nhổm dậy, mắt nhớn nhác tìm Từ. Nhưng không! Từ vẫn còn nhà... Chắc hẳn
trong lúc quá say, hắn gài cửa nhưng chưa gài được, thành thử khi thấy hắn ngủ
mệt rồi, Từ lại bế con vào. Bây giờ Từ đang thiếp đi trên võng, đứa con nhỏ nằm
bên. Từ vốn dậy sớm quen. Sáng nay, chắc Từ mệt quá, vừa mới lịm đi, nên mới ngủ
trưa như thế. Ðầu Từ ngoẹo về một bên. Một tay Từ trật ra ngoài mép võng, sã xuống,
cái bàn tay hơi xòe ra lỏng lẻo. Dáng nằm thật là khó nhọc và khổ não. Hắn bùi
ngùi. Chao ôi! Trông Từ nằm thật đáng thương! Hèn chi mà Từ khổ cả một đời người!
Cái tướng vất vả lộ ra cả đến trong giấc ngủ. Hộ nhớ ra rằng: một đôi lúc, nếu
nhìn kỹ thì Từ khó mặt lắm. Ðột nhiên Hộ nảy ra ý muốn lại gần Từ, nhìn kỹ xem
mặt Từ lúc bây giờ ra sao? Hắn rón rén, đi chân không lại. Hắn ngồi xổm ngay xuống
đất, bên cạnh võng và cố thở cho thật khẽ. Hắn ngắm nghía mặt Từ lâu lắm. Da mặt
Từ xanh nhợt; môi nhợt nhạt; mi mắt hơi tim tím và chung quanh mắt có quầng,
đôi má đã hơi hóp lại khiến mặt hơi có cạnh. Hộ khẽ thở dài và lắc đầu ái ngại.
Hắn dịu dàng nắm lấy tay sã xuống của Từ. Cái bàn tay lủng củng rặt những
xương! Trên mu bàn tay, những đường gân xanh bóng ra, làn da mỏng và xanh
trong, xanh lọc. Cái cổ tay mỏng manh. Tất cả lộ một cái gì mềm yếu, một cái gì
ẻo lả, cần được hắn che chở và bênh vực... Một vẻ bạc mệnh, một cái gì đau khổ
và chật vật, cần được hắn vỗ về an ủi... Thế mà hắn đã làm gì để cho đời Từ đỡ
khổ hơn? Hắn đã làm gì để cho Từ khỏi khổ? Nước mắt hắn bật ra như nước một quả
chanh mà người ta bóp mạnh. Và hắn khóc... Ôi chao! Hắn khóc! Hắn khóc nức nở, khóc
như thể không ra tiếng khóc. Hắn ôm chặt lấy cái bàn tay bé nhỏ của Từ vào ngực
mình mà khóc. Từ thức dậy, Từ hiểu ngay, không cần hỏi một câu nào cũng hiểu.
Và Từ cảm động. Mắt Từ giàn giụa nước. Từ khẽ rút tay ra, vòng lên cổ chồng, nhẹ
nhàng núi hắn vào, để hắn gục đầu lên cạnh ngực Từ. Hắn lại càng khóc to hơn và
cố nói qua tiếng khóc:
- Anh... anh... chỉ là... một thằng... khốn nạn!...
- Không!... Anh chỉ là một người khổ sở!... Chính vì em mà
anh khổ...
Từ bảo thế. Tay Từ níu mạnh hơn một chút. Ngực Từ thổn thức.
Từ chực ngả đầu sát vào vai Hộ. Nhưng đứa con, bị giằng, khóc thét lên. Từ vội
buông chồng ra để vỗ con. Tiếng vẫn còn ướt lệ, Từ dỗ nó:
- A! Mợ đây! Mợ đây mà! Ôi chao! Con tôi nó giật mình... Mợ
thương...
Hộ đã tránh chỗ để Từ đưa võng... Từ vừa đưa vừa hát:
Ai làm cho gió lên giời,
Cho mưa xuống đất, cho người biệt li;
Ai làm cho Nam, Bắc phân kỳ,
Cho hai hàng lệ đầm đìa tấm thân...
Cho mưa xuống đất, cho người biệt li;
Ai làm cho Nam, Bắc phân kỳ,
Cho hai hàng lệ đầm đìa tấm thân...
Một bữa no
Bà lão ấy hờ con suốt một đêm. Bao giờ cũng vậy cứ hết đường
đất làm ăn là bà lại hờ con. Làm như chính tự con bà nên bây giờ bà phải đói.
Mà cũng đúng như thế thật. Chồng bà chết từ khi nó mới lọt lòng ra. Bà thắt
lưng buộc bụng, nuôi nó từ tấm tấm, tí tí giở đi. Cũng mong để khi mình già, tuổi
yếu mà nhờ. Thế mà chưa cho mẹ nhờ đưọc một li, nó đã lăn cổ ra nó chết. Công
bà thành công toi.
Con vợ nó không phải giống người. Nó có biết thương mẹ già
đâu! Chồng chết vừa mới xong tang, nó đã vội vàng đi lấy chồng ngay, nó đem đứa
con gái lên năm giả lại bà. Thành thử bà đã già ngót bảy mươi, lại còn phải làm
còm cọm, làm mà nuôi đứa con gái ấy cho chúng nó. Hết xương, hết thịt vì con,
vì cháu, mà nào được trông mong gì?
Nuôi cháu bảy năm trời, mãi cho đến khi nó đã mười hai, bà
cho nó đi làm con nuôi người ta lấy mười đồng. Thì cải mả cho bố nó đã mất tám
đồng rồi. Còn hai đồng bà dùng làm vốn đi buôn, kiếm mỗi ngày dăm ba xu lãi
nuôi thân. Có chạy xạc cả gấu váy, hết chợ gần đến chợ xa, thì mới kiếm nổi mỗi
ngày mấy đồng xu. Sung sướng gì đâu! Ấy thế mà ông trời ông ấy cũng chưa chịu để
yên. Năm ngoái đấy, ông ấy còn bắt bà ốm một trận thập tử nhất sinh. Có đồng
nào hết sạch. Rồi chết thì không chết nhưng bà lại bị mòn thêm rất nhiều sức lực.
Chân tay bà đã bắt đầu run rẩy. Người bà thỉnh thoảng tự nhiên bủn rủn. Đang ngồi
mà đứng lên, hai mắt cũng hoa ra. Đêm nằm, xương cốt đau như giần. Đi đã thấy mỏi
chân. Như vậy thì còn buôn bán làm sao được? Nghĩ đến nắng gió bà đã sợ.
Tuy vậy mà bà vẫn phải ăn. Chao ôi! Nếu người ta không phải
ăn thì đời sẽ giản dị biết bao? Thức ăn không bao giờ tự nhiên chạy vào mồm. Có
làm thì mới có. Nhưng bây giờ yếu đuối rồi, bà không còn kham được những việc nặng
nề, cũng không còn chịu đựng được nắng sương. Bà phải kiếm việc nhà, việc ở
trong nhà. Ở làng này, chỉ có việc bế em, như một con bé mười một, mười hai tuổi.
Mới đầu còn có nhiều người muốn thuê. Ai cũng nghĩ rằng: những bà già tính cẩn
thận và chẳng bao nhiêu, bữa lưng bữa vực thế nào cũng đủ no; mà đã không no
các cụ cũng chỉ lặng im, không ấm ức như những đồ trẻ nhãi, hơi một tí cũng đem
chuyện nhà chủ đi kể với đủ mọi người hàng xóm… Nhưng thuê bà được ít lâu, tự
nhiên người ta chán. Người ta nhận ra rằng: thuê một đứa trẻ con lại có phần
thích hơn. Trẻ con cạo trọc đầu. Những lúc tức lên, có muốn cốc nó dăm ba cái
thì cứ cốc. Chẳng ai kêu: ác! Nhưng bà lão đầu đã bạc. Người ta tức bà đến gần
sặc tiết ra đằng mũi cũng không thể giúi đầu bà xuống mà cốc. Cũng không thể chửi.
Mắng một câu, đã đủ mang tiếng là con người tệ. Mà bà thì lẩm cẩm, chậm chạp,
lì rì. Bà rờ như thể xẩm rờ. Tay bà, đưa bát cơm lên miệng cũng run run. Cơm
vương vãi. Tương mắm rớt ra mâm, rớt xuống yếm bà, rớt cả vào đầu tóc, mặt mũi,
quần áo đứa bé nằm ở lòng bà. Rồi hơi trái gió, trở trời, bà lại đau mình. Suốt
đêm bà thở dài với rên rẩm kêu trời. Có khi bà lại khóc lóc, hờ con. Nghe rợn cả
người. Như vậy thì chịu làm sao được? Ấy thế là người ta lại phải tìm cớ tống
bà đi. Bà lại phải gạ gẫm ở cho nhà khác… Không đầy một năm trời bà thay đổi đến
năm, sáu chủ. Mỗi lần đổi chủ là một lần hạ giá. Thoạt tiên cơm nuôi tháng một
đồng. Rồi cơm nuôi tháng năm hào. Rồi cơm nuôi, một năm bốn đồng. Rồi hai đồng.
Rồi chẳng có đồng nào. Đến nước ấy mà cũng chẳng ma nào chịu được. Một hôm, người
chủ cuối cùng sai bà xách hai cái lọ đi kín nước. Bà bào: bà chỉ có thể mang một
lọ. Y đã lấy sự ấy làm khó chịu, nhưng cố nhịn. Nhưng một lọ cũng không xong.
Bà xách một lọ nước đầy, ở dưới cầu ao bước lên bờ, chẳng biết bẩy rẩy thế nào
mà ngã khuỵu xuống, vỡ tan cái lọ và què một bên tay. Nghe tiếng bà kêu, chủ
nhà phải chạy ra đỡ bà về. Không ai có thừa cơm nuôi báo cô bà. Y bèn đãi bà
năm hào cho bà về hưu trí. Từ ngày ấy đến nay tính ra đã hơn ba tháng rồi.
Hơn ba tháng, bà lão chỉ ăn toàn bánh đúc. Mới đầu, còn đuợc
ngày ba tấm. Sau cùng thì một tấm cũng không có nữa. Tiền hết cả. Mỗi sáng, bà
ra chợ xin người này một miếng, người kia một miếng. Ai lấy đâu mà ngày nào
cũng cho như vậy? Lòng thương cũng có hạn. Mấy hôm nay bà nhịn đói. Bởi thế bà
lại đem con ra hờ. Bà hờ thê thảm lắm. Bà hờ suốt đêm. Bà khóc đến gần mòn hết
ra thành nước mắt. Đến gần sáng, bà không còn sức mà khóc nữa. Bà nằm ẹp bụng
xuống chiếu, nghĩ ngợi. Có người nói: những lúc đói, trí người ta sáng suốt. Có
lẽ đúng như thế thật. Bởi vì bà lão bỗng tìm ra một kế. Bà ra đi.
Cứ đi được một quãng ngắn, bà lại phải ngồi xuống nghỉ. Nghỉ
một lúc lâu, trống ngực bà mới hết đánh, tai bà bớt lùng bùng, mắt bà bớt tối
tăm, người tàm tạm thôi quay quắt. Bà nghỉ tất cả năm sáu quãng. Thành thử đến
tận non trưa, bà mới tới nhà mình định tới: ấy là nhà bà phó Thụ, nuôi cái đĩ.
Bà quen gọi như vậy, ngay từ khi nó còn nhỏ; cái đĩ tức là đứa con của anh con
trai đã cướp công bà để về với đất, yên thân mà mặc tất cả những gì còn lại.
Anh con trai chẳng còn phải khổ sở như bà ngày nay.
Bà nghĩ đến con, để mà ghen với nó thêm lần nữa, trong khi ngồi
nghỉ ngoài đầu ngõ nhà bà phó Thụ. Ngoài đầu ngõ nhà bà phó Thụ, có một cây
sung lớn. Bà tựa lưng vào gốc. Từ đầu ngõ vào đến nhà, còn những hai lần cổng.
Có gọi thật to, ở trong nhà mới nghe tiếng. Mà bà thì còn hơi sức đâu mà gọi?
Tiếng bà bải hải. Hơi nói to một chút, nó đã ra đằng lỗ tai. Vả lại, chó nhà
giàu dữ lắm. Nhà bà phó Thụ có những hai con chó đẫy đà, lực lưỡng. Lúc thiến,
người ta rắc mảnh chai tán nhỏ vào. Vết thiến lành dúm mảnh chai ở bên trong
gây cho con vật một nỗi đau ngứa ngáy, suốt đời không khỏi. Nỗi đau làm tội nó.
Nó bứt rứt, khổ sở, cáu kỉnh, nên bạ thấy người nào lại nào cũng lăn xả vào
chân, hoặp một miếng, ray thịt người ta cho hả giận. Trời ơi! Những con chó nhà
bà phó Thụ, chúng dữ ghê gớm lắm. Bà lão nghĩ đến chúng còn chết khiếp. Cái lần
bà đưa cái đĩ vào, một người nhà phải cầm một cái gậy to tướng ra đe. Ấy thế mà
cả ba con cũng hồng hộc chạy ra. Chúng vây lấy bà già rách rưới. Con nào cũng uốn
cong cái lưng xuống, hếch cái mõm đen thui lên, nhe ra những chiếc răng trắng hơn
hớn và nhọn sắc. Bị cái gậy của người nhà cản lại, chúng càng tức tối. Chúng lồng
lộn chung quanh. Chúng nhảy chồm lên. Chúng ngoạm những cái cột giậu, kêu sồn sột.
Chúng lay thật mạnh, hục hặc như muốn bẻ gãy cái cột, để lao vào đầu nguời ta…
Bà lão với đứa cháu cứ rúm cả tay chân lại. Cháu nép vào bà, bà nép vào người
bà phó Thụ. Chị người nhà thì luôn tay vụt cái gậy bên này, bên nọ, đằng sau, đằng
trước, và quát mắng. Ấy thế mà một con chó còn xông vào được, và chỉ một tí nữa
nó xơi chân bà một miếng. Nhưng chị người nhà đánh kịp. Nó mới đấm được mõm vào
cái bắp chân gầy đét của bà lão thôi. Hú hồn!… Bây giờ dám gọi sao? Chó thính
tai mà lại rất mau chân. Chúng xộc cả ra thì khốn. Ấy thế là bà lão đành ngồi đợi
dịp. Cái đĩ bế em ra ngõ chơi chẳng hạn… Hay là có người nào trong nhà đi đâu…
Hay là có người đàn ông khoẻ mạnh nào đến nhà bà phó Thụ, để cho bà đi ghẹ… Bà
ngồi rỗi, tưởng tượng ra đủ mọi cái may mắn tương tự thế. Chỉ còn mỗi một cái
bà chưa nghĩ đến: ấy là lúc chính bà phó Thụ ra, hoặc đi đâu về. Thì chính bà
phó Thụ đi chợ về. Mới thoạt trông thấy bà lão, bà tưởng là một con mẹ ăn mày.
Bà hơi cau mặt:
- Ai kia? Ai ngồi làm gì kia? Chó nó ra, nó lôi mỡ ra cho đấy.
Sao mà bạo thế?
Bà lão quay lại mỉm cười móm mém:
- Bẩm bà đi chợ về!…
Bà phó Thụ mở to đôi mắt đỏ ngầu, nhìn kĩ hơn một chút. Bà nhận
ra bà cái đĩ ở. Tức thì mặt bà nguỷu xuống. Bà lão này còn muốn quấy quả gì nữa
đây? Để vòi tiền thêm chăng? Bà lão rên một tiếng và chống tay lên đầu gối, bẩy
rẩy đứng lên. Bà phó hỏi:
- Bà đi đâu thế?
Bà lão lại rên tiếng nữa để mở đầu câu nói (bà rên cũng như một
vài người khác bạ lúc nào cũng thở dài. Cái ấy thành thói quen).
- Bẩm bà, con lên chơi với cháu. Lâu lắm, cháu không được về,
con nhớ cháu quá!
- Úi dào ôi! Vẽ cái con chuột chết! Nó phải làm chứ có rỗi
đâu mà bà chơi với nó? Nhà tôi không có cơm cho nó ăn để nó cứ nồng nỗng nó
chơi. Bà muốn chơi với nó thì đem ngay nó về nhà, tìm cơm cho nó ăn, bà cháu
chơi với nhau vài ba tháng cho thật chán đi, rồi hãy bảo nó lên. Tôi không giữ.
Bà tưởng nó đã làm giàu làm có cho tôi rồi đấy, hẳn?
Bà cần phải nói ráo riết ngay để chặn họng, không cho bà lão
mở mồm vòi vĩnh. Bà lão bị những lời tàn nhẫn ấy hắt vào mặt quả nhiên không
còn nói sao được nữa. Bà cúi đầu, như một con mẹ ăn cắp lúa, bị tuần sương tóm
được. Bà phó chiếp chiếp mồm luôn mấy cái, rồi vác mặt lên trời mà bảo:
- Chơi với bời! Cái lúc nó mới đến, trông như con giun chết,
cạy gỉ mũi còn chưa sạch thì không thấy chơi với bời. Người ta nuôi mãi, bây giờ
mới trơn lông đỏ da một tí, đã phải đến mà giở quẻ. Tưởng báu ngọc lắm đấy! Tưởng
người ta đã phải giữ khư khư lấy đấy!… Úi chào! Có phải mả tổ nhà người ta đâu
mà người ta giữ? Muốn bắt nó về, cho nhà nào nó nuôi làm bà cô tổ nhà nó nó thì
cứ bắt. Ai người ta thiết? Cứ trả lại tiền người ta!…
Bà lão rưng rưng nước mắt. Khốn nạn, bà có ý quắt quéo thế
đâu? Bà lão mếu máo:
- Bẩm bà, bà dạy thế thật oan cho con quá. Trời để con sống bằng
này tuổi đầu, con còn dám lừa lọc hay sao? Thật có trời trên kia làm chứng, nếu
con quả định đến đây để dỗ dành cháu về để đem cho người khác thì trời cứ vật
chết con đi! Con chỉ xin bà cho được trông thấy cháu, bà cháu chơi với nhau một
lúc. Cũng chẳng còn mấy chốc nữa mà con chết, con cũng tưởng đi chơi dối già một
bận…
- Nó không đuợc rỗi mà chơi với bà. Chẳng chơi bời gì cả! Bà
đã trót lên thì vào đây, tôi cho một bữa cơm. Bận sau thì đừng vẽ con khỉ nữa.
Nhà tôi không có thói phép cho chúng nó như thế được. Con tôi đi học tận Hà Nội,
dễ tôi cũng phải nay ra chơi, mai ra chơi với nó đấy! Đã đi ở mà còn không biết
phận… Chơi với bời!…
Môi bà lại chiệp chiệp và xìa ra…
Cái đĩ vừa trông thấy bà, mừng rối rít. Nó cười rồi nó khóc
chẳng biết vì sao cả. Nhưng đôi mắt khoằm khoặm của bà phó Thụ dội nước vào
lòng nó. Nó tự nhiên ngượng nghịu. Nó không dám xoắn xuýt bà nó nữa. Nó cúi đầu,
khẽ hỏi:
- Bà đi đâu đấy?
- Bà đến xin bà phó một bữa cơm ăn đây! Bà đói lắm.
Câu nói rất thật thà ấy, bà lão dùng giọng đùa mà nói. Như thế
người ta gọi là nửa đùa nửa thật. Một cách lấp liếm cái ý định của mình bằng
cách nói toạc nó ra. Cái đĩ bế em, dắt bà ra đầu chái, để không bị ai nhìn nữa…
- Da bà xấu quá! Sao bà gầy thế?
- Chỉ đói đấy thôi, cháu ạ. Chẳng sao hết.
- Lớp này bà ở cho nhà ai?
- Chẳng ở với nhà ai.
- Thế lại đi buôn à?
- Vốn đâu mà đi buôn? Với lại có vốn cũng không đi được. Người
nhọc lắm.
- Thế thì lấy gì làm ăn?
- Chỉ nhịn thôi chứ lấy gì mà ăn!
Bà cháu mới kịp trao đổi với nhau từng ấy câu thì bà phó đã
the thé hỏi:
- Nó bế em đi đâu rồi?
Ấy là dấu hiệu bà sắp gọi. Cái đĩ vội đặt em xuống đất, bảo:
- Bà giữ nó hộ con một tí.
Nó cởi dải yếm lấy ra một cái túi rút con con. Trong túi xóc
xách mấy đồng trinh. Nó rút ra, đếm lấy hai xu, giúi cho bà…
- Con biếu bà để bà ăn bánh đúc. Bà về đi!
Tiếng bà phó giục:
- Cái đĩ đi đâu rồi? Đem em về đây, rồi quét nhà, dọn cơm.
- Vâng!
Nó tất tưởi bế em chạy về. Bà lão hãi chó, lẽo đẽo đi theo
cháu. Bà phó trông thấy mà lộn ruột. Bà xa xả:
- Bà đừng theo đít nó thế. Bà cứ ngồi một chỗ rồi mà ăn cơm,
Khiếp thật thôi!
- Vơơơng!…
Bà lão “vâng” thành một tiếng rên. Bà vào nhà, ngồi xón vén
vào một xó ngay xuống đất. Bà phó cất lấy con. Cái đĩ lụt cụt chạy xuống nhà dưới.
Một lát sau, tiếng đũa bát bắt đầu lạch cạch… Bà phó bảo:
- Bà xuống dưới này mà ăn cơm.
Bà bế con ra. Bà lão theo sau. Tiếng khung cửi đã ngừng. Mấy
cô dệt cửi đều là con gái hoặc con nuôi bà phó Thụ, đang tới tấp, cô xới cơm,
cô bỏ rau, cô sẻ mắm, chung quanh cái mâm gỗ đặt ngay trên mặt đất. Cả nhà quây
quần vào, chỉ ngồi có một mâm. Bà lão chẳng đợi ai phải bảo, ngồi ngay xuống cạnh
cháu, tay run run so đũa. Trông bà so đũa mà ngứa mắt! Bà phó muốn giật xoét lấy
làm thật nhanh cho đỡ bực. Nhưng bà nhịn đuợc. Bà chỉ chép miệng và lừ lừ đôi mắt,
tỏ ý khó chịu. Cái đĩ hiểu nên chỉ nhìn xuống đất. Nó giận bà nó lắm. Nó đã bảo
bà nó về đi mà bà nó không chịu về…
Bà phó chẳng nói nửa lời, bê lấy bát cơm ăn. Mặt bà vẫn hầm hầm.
Lũ con gái, con nuôi, con ở, biết hiệu, vội vàng cũng làm theo. Chậm một tí, bà
chửi cho phải biết! Có khi bà hắt cả bát cơm vào mặt. Bà lão nhìn vòng quanh một
lượt, rồi cũng cất bát cơm lên:
- Mời bà phó…
Nhưng bà vừa mới há mồm ra thì bà phó đã cau mặt quát:
- Thôi, bà ăn đi! Đừng mời!
Bà lão vội vàng ăn ngay. Nhưng họ ăn nhanh quá. Mọi người đều
lặng lẽ, cắm cúi, mải mốt. Đôi đũa này lên lại có đôi khác xuống. Liên tiếp
luôn như vậy. Cứ tăm tắp tăm tắp. Tay bà lão lờ rờ, không biết lợi dụng lúc nào
để gắp rau vào bát mắm. Lập cập quá, bà đánh rơi cả mắm ra ngoài bát. Bà phó lại
cau mặt, gắt:
- Sẻ riêng cho bà ấy một bát mắm, để ra cạnh mâm cho bà ấy!
Một cô vội làm ngay. Từ đấy, bà lão dễ xoay xở hơn một chút.
Nhưng bà mới ăn chưa hết hai lượt cơm thì bà phó đã quăng bát đũa xuống đất. Chỉ
một thoáng sau, mọi nguời khác cũng thôi. Họ thôi gần đều một lượt. In như bà mẹ
ra hiệu cho họ vậy. Thật ra thì lệ mỗi người chỉ được ăn có ba vực cơm thôi. Mà
phải ăn nhanh để còn làm. Nhưng bà lão nhà nghèo, đã quen sống vô tổ chức, làm
gì hiểu trong những nhà thừa thóc, thừa tiền, lại có sự hạn chế miệng ăn như vậy?
Bà đoán rằng họ khảnh ăn. No dồn, đói góp. Người đói mãi, vớ được một bữa, tất
bằng nào cũng chưa thấm tháp. Nhưng người no mãi, người ta có cần ăn nhiều lắm
đâu. Vậy thì bà cứ ăn. Ăn đến kì no. Đã ăn rình thì ăn ít cũng là ăn. Đằng nào
cũng mang tiếng rồi thì dại gì mà chịu đói? Bà ăn nữa thật. Cái đĩ ngượng quá,
duỗi cổ ra, trợn mắt, nuốt vội mấy miếng cơm còn lại như một con gà con nuốt
nhái. Rồi nó buông bát đũa. Bà bảo cháu:
- Ăn nữa đi, con ạ. Nồi còn cơm đấy. Đưa bát bà xới cho.
Nó chưa kịp trả lời thì bà phó đã mắng át đi:
- Mặc nó! Nó không ăn nữa! Bà ăn bằng nào cho đủ thì cứ ăn!
À! Bây giờ thì bà lão hiểu. Người ta đứng lên tất cả rồi. Chỉ
còn mình bà lão ngồi ăn với bà phó Thụ ngồi lại để lườm với nguýt. Nhưng bà lão
còn thấy đói. Còn cơm mà thôi ăn thì khí tiếc. Vả đã đi ăn chực thì còn danh
giá gì mà làm khách. Bà cứ ăn như không biết gì. Đến khi bà đã tạm no, thì cơm
vừa hết. Chỉ còn một ít bám dưới đáy và chung quanh nồi. Bà vẫn tiếc. Bà kéo
cái nồi vào lòng, nhìn, và bảo con bé cháu:
- Còn có mấy hột để nó khô đi mất. Tao vét cho mày ăn nốt đi
kẻo hoài, đĩ nhé?
- Khô mặc kệ nó! Bà có ăn được hết thì ăn đi, đừng bảo nó. Nó
không ăn vào đâu được nũa. Ăn cho nó nứt bụng ra thì ăn làm gì?
Bà phó vội gắt gỏng bảo thế. Ừ, thì bà ăn nốt vậy! Bà cạo cái
nồi sồn sột. Bà trộn mắm. Bà rấm nốt. Ái chà! Bây giờ thì bà no. Bà bỗng nhận
ra rằng bà no quá. Bụng bà tưng tức. Bà nới thắt lưng ra một chút cho dễ thở.
Bà tựa lưng vào vách để thở cho thoả thích. Mồ hôi bà toát ra đầm đìa. Bà nhọc
lắm. Ruột gan bà xộn xạo. Bà muốn lăn kềnh ra nghỉ, nhưng sợ người ta cười, cố
gượng. Ôi chao! Già yếu thì khổ thật. Đói cũng khổ mà no cũng khổ. Chưa ăn thì
người rời rã. Ăn rồi thì có phần còn nhọc hơn chưa ăn. Ôi chao!…
Xế chiều hôm ấy, bà lão mới ra về được. Bà bảo: về muộn cho đỡ
nắng. Thật ra thì bà tức bụng, không đi nổi. Mà bà uống nhiều nước quá. Uống bằng
nào cũng không đã khát. Bà chỉ càng thêm tức bụng. Đêm hôm ấy, bà lăn lóc rất
lâu không ngủ được. Bà vần cái bụng, bà quay vào lại quay ra. Bụng bà kêu ong
óc như một cái lọ nước. Nó thẳng căng. Bà thở ì ạch. Vào khoảng nửa đêm, bà thấy
hơi đau bụng. Cơn đau cứ rõ thêm, cứ tăng dần. Chỉ một lúc sau, bà đã thấy đau
quắn quéo, đau cuống cuồng. Rồi bà thổ. Rồi bà tả. Ôi chao! Ăn thật thì không
bõ mửa. Bà tối tăm mặt mũi. Đến khi bệnh tả dứt thì bà lại sinh chứng đi lị. Ruột
bà đau quằn quặn. Ăn một tí gì cũng đau không chịu được. Luôn nửa tháng trời
như vậy. Rồi bà chết. Bà phó Thụ, nghe tin ấy, bảo: “Bà chết no”. Và bà dùng
ngay cái chết ấy làm một bài học dạy lũ con gái, con nuôi:
- Chúng mày xem đấy. Người ta đói đến đâu cũng không thể chết
nhưng no một bữa là đủ chết. Chúng mày cứ liệu mà ăn tộ vào!…
Tư cách mõ
Bây giờ thì hắn trở thành mõ thật rồi. Một thằng mõ đủ tư
cách mõ, chẳng chịu kém một anh mõ chính tông một tí gì: cũng đê tiện, cũng lầy
là, cũng tham ăn. Hơi thấy nhà nào lách cách mâm bát là hắn đến ngay. Hắn ngồi
tít ngoài xa, ngay chỗ cổng vào. Người ta bưng cho một mình hắn một mâm. Hắn
trơ tráo ngồi ăn. Ăn xong, còn thừa bao nhiêu, hộn tất cả vào, lấy lá đùm thành
một đùm to bằng cái vế đùi, để đem về cho vợ, cho con. Có khi hắn còn sán đến
những chỗ người ta thái thịt, dỡ xôi, lấy cắp hoặc xin thêm một đùm to nữa. Hắn
bỏ cả hai đùm vào cái tay nải rất to, lần đi ăn cỗ nào hắn cũng đem theo. Thế rồi
một tay xách tay nải, một tay chống ba toong, hắn ra về, mặt đỏ gay vì rượu, và
trầu, đầy vẻ phè phỡn và hể hả… Mùa đến, hắn vác một cái đòn càn có quấn mấy sợi
thừng ở một đầu, đo hết ruộng nọ đến ruộng kia:
- Mùa màng, anh em đến xin cụ lượm lúa… Mùa màng, anh em đến
xin ông lượm lúa… Đến xin bà, hay thầy, hay cô lượm lúa…
Mồm hắn nói, tay hắn lượm. Hắn cứ chọn những gồi nào to nhất,
mẩy nhất thì lượm. Cụ hay ông, hay bà, hay thầy, cô, bằng lòng cho hay không,
cũng mặc! Mặc cho ông, bà, thầy, cô tiếc. Hạt thóc quý như hạt ngọc. Nhưng tiếc
cũng chẳng làm sao được. Ai nấy đều im như thóc cả. Người ta đã nói: tham như
mõ. Nếu nó không tham, sao nó làm mõ? Còn mình không lẽ mình lại keo với cả từ
thằng mõ trở đi?… Hà hà! Cứ vậy là ăn câu đấy. Hắn biết thóp người ta như vậy,
nên hắn lại càng làm dữ. Hết mùa rồi đến Tết. Trước Tết, hắn xách ba toong đi
trước, vợ thì đội một cái thúng cái đi sau. Chúng đến từng nhà, xin mỗi nhà bát
gạo. Mùng một Tết, bố con hắn xách một bao chè với năm quả cau, đến mừng tuổi
các ông quan viên để kiếm cỗ và kiếm tiền phong bao. Bao chè với cau của hắn, hắn
đem đến rồi lại đem về: có ông nào ngu đến nỗi lấy cau chè của hắn? Người ta thừa
biết hắn chỉ có độc trọi một bao chè ấy, đem đi hết nhà này sang nhà nọ, xong mấy
ngày Tết lại đem đi bán lại… Thế rồi độ mùng năm, mùng sáu, vợ chồng hắn lại đi
tua lần nữa, để xin bánh chưng thừa…
Cứ thế, hắn ỷ vào cái địa vị hèn hạ của mình để nhiễu người
ta, và lấy sự nhiễu dược của người ta làm khoái lắm. Nhiều người phải bực mình.
Họ lại còn bực mình vì cái cách hắn ưng nịnh những người rộng rãi và tỏ vẻ xấc
láo, bùng phỉu đối với những kẻ không lấy gì mà rộng rãi với hắn được. Thật hắn
đã vô liêm sỉ quá. Mỗi lần hắn đi khỏi, những người đàn bà nguýt theo, chúm mỏ
ra và lẩm bẩm:
- Giống mõ có khác! Không trách được người ta gọi là đồ mõ!…
Trông ghét quá!…
Người ta tưởng như ông trời đã cố ý sinh ra hắn như thế để mà
làm mõ; hắn có cái cốt cách của một thằng mõ ngay từ khi còn ở trong bụng mẹ,
và là mõ ngay từ ngày mới sinh…
Không! Lộ sinh ra là con một ông quan viên tử tế, hẳn hoi. Và
chỉ mới cách đây độ ba năm, hắn vẫn còn được gọi là anh cu Lộ. Anh cu Lộ hiền
như đất. Cờ bạc không, rượu chè không, anh chỉ chăm chăm, chút chút làm để nuôi
vợ, nuôi con. Bố mẹ chết cả rồi. Chị cu thì y như con mài mại: lúc nào cũng chửa.
Vừa mới dạo nào, trông bụng chị to bằng cái thúng, rồi bẵng đi một dạo không gặp
chị, đến lúc gặp thì bụng đã lại mây mẩy rồi. Người đàn bà mắn quá! Vườn đất hẹp.
Gia sản không có gì. Anh cu Lộ chỉ độc nai lưng ra cày thuê, cuốc mướn. Nói thế,
nghĩa là nhà cũng túng. Nhưng túng thì túng thật, mà bụng dạ anh ta khá. Anh chỉ
làm mà ăn với nuôi vợ, nuôi con, chứ không hề ăn trộm, ăn cắp của ai. Cái sự
túng làm liều, anh tịnh là không có. Nhà hàng xóm có con gà, con vịt chạy sang,
hoặc buồng chuối, quả mít liền kề ngay với giậu nhà anh, anh cũng mặc thây,
không hề có cái tính tắt ma, tắt mắt. Nói cho phải, thì anh cu Lộ ăn ở phân
minh lắm. Bởi vậy, kẻ trên, người dưới, hàng xóm láng giềng ai cũng mến…
Họ đạo Lưu An có tất cả chừng sáu chục suất đinh. Sáu mươi suất
đinh tập họp lại với nhau, thành một cái làng nhỏ trong cái làng to. Trừ những
việc sưu thuế, tạp dịch là những việc họ cùng chịu chung với dân lương, còn thì
giáo dân nhất nhất cái gì cũng theo ước lệ riêng. họ ăn họp, khao vọng riêng với
nhau, đặt ra những tước vụ riêng. Ông trùm bên họ, cũng như người lí trưởng bên
dân. Dưới ông trùm, đến ông quản giáo, trông coi việc dạy trẻ học kinh. Sau
cùng đến ông sơ, tức là những ông đã đỗ bằng Sơ học yếu lược, và đã nộp lệ và
làm rượu trình bằng. Đấy là hạng quan viên. Bởi làm người đàn anh bên họ đạo,
không quá nặng nề, tốn kém như làm ông lí ông phó bên dân lương, nên đến gìa nửa
người trong họ là quan viên. Chỉ còn hơn vài chục trai em. Bởi vậy, bọn trai em
cứ phải đi phu choanh choách. Đã có quan viên, có trai em, tất cũng phải có một
thằng mõ nữa cho đủ bộ. Nhưng tìm đâu ra mõ? Các cụ bèn nghĩ một cách. Người mõ
không gọi là mõ nữa. Các cụ gọi là lềnh. Lềnh chuyên việc quét dọn nhà thờ, và
đi mời từng nhà một, chứ không phải rao. Mỏi chân một tí nhưng không xấu hổ. Họ
sẽ cắt lượt các trai em ra làm lềnh mỗi người ba năm. Người lềnh được ngồi
ngang với trai em khác, và hết hạn rồi, nếu có tiền hay tài cán, muốn làm quan
viên, vẫn được. Như vậy, thì cũng chẳng có gì là mất giá trị. Đến lần, đến lượt
thì làm, ai cũng làm…
Nhưng một năm xưa, một tên vô gia cư, chẳng biết quê quán nơi
đâu, đem một con vợ theo đến ngụ ở làng này. Vợ chồng đi làm thuê, làm mướn kiếm
ăn. Chúng ở nhờ nhà bà lão mù, bán thuốc cam, sài, ghẻ, lở bên cạnh chợ. Một
hôm, chẳng may người vợ chết. Cả hai vợ chồng cùng chưa vào làng. Vậy cố nhiên
là làng không chịu chôn cho. Hàng xóm cũng nhất định không chôn. Họ còn hạch
sách nọ kia, toan làm rầy rà cho người chồng và người chứa chịu. Không biết liệu
ra sao, anh chồng bèn mua một chục cau đem lên kêu với họ đạo, xin họ chôn làm
phúc, rồi anh ta xin nhập đạo. Họ nhận, làm ma cho người vợ. Rồi nhân tiện muốn
giúp đỡ anh chồng, họ bèn cho anh ta làm sãi để thay cho người lềnh và cấp cho
anh ta mấy sào đất bên cạnh nhà thờ để làm vườn, lại cho anh ta tiền để làm một
cái nhà con con. Từ đấy trai em trong họ không còn phải cắt lượt nhau làm lềnh
nữa. Được bốn mươi năm như vậy. Rồi người sãi chết. Hắn không có con để mà nối
nghiệp. Chân sãi khuyết. Bọn trai em quên hẳn cái lệ lềnh ngày xưa rồi, chỉ biết
có sãi là một anh na ná như thằng mõ, bây giờ nhất định bướng, không chịu làm
việc ấy. Bàn định mãi, các cụ bỗng nhớ đến anh cu Lộ. Nghĩ đến một cách rụt rè
thôi.
- Giá anh ta chịu cáng đáng cho thì hay quá! Anh ta cẩn thận
mà sạch sẽ…
Mà nhà cũng túng. Vườn đất hẹp. Cáng đáng được thì thêm bốn
sào vườn nữa, sưu thuế không phải đóng.
- Mà mỗi kì thuế họ lại còn cho thêm tiền…
Kể ra thì chỉ toàn cái lợi. Nhưng chỉ sợ anh ấy còn e cái tiếng…
- Tiếng tăm gì! Quét dọn nhà thờ thì cũng là làm việc thờ phượng,
ai làm không được. Còn đi mời quan viên, thì mình là người dưới, đi mời người
trên một tiếng, cũng không đáng à.
Một cụ kêu lên thế. Cụ tiên chỉ mủm mỉm cười, rồi hỏi:
- Hay là ta cho tìm anh ấy đến, dỗ anh ấy xem sao?
Lộ đến. Người ta kể tất cả những cái lợi ra mà nhử. Rồi người
ta lại cố cắt nghĩa cho anh hiểu; làm sãi chẳng có gì mà nhục, cũng là làm việc
họ đấy thôi; ai cũng ngại, không chịu đứng ra cáng đáng, thì mình đứng ra cáng
đáng giùm cho cả họ; có phải mình tham lợi, tự nhiên đem trầu cau đến xin làm
dâu đâu mà sợ tiếng?…
- Không, thế này anh cu ạ: giá như anh cầu cạnh để làm thì
còn có người nói được. Đằng này anh không cầu cạnh. Chúng tôi gọi anh đến cho
làm thì việc gì anh không làm? Ấy là tất cả các cụ, cùng quan viên trên, quan
viên dưới đều mến cái bụng anh hiền lành… Anh cứ làm.
Lộ bùi tai, làm vậy. Và quả nhiên, hắn làm được ít lâu thì
nhà đỡ xo dụi hơn trước thật. Bởi vì hắn chăm chỉ lắm. Mấy sào vườn họ cho, hắn
cuốc xới rất kỹ càng. Hắn làm ngô, làm mía được mấy vụ tốt luôn. Tiền của họ
cho, hắn bỏ ra lấy khô bã cho lợn ăn. Sưu thuế không mất một đồng trinh, làm được
đồng nào được cả. Làm gì không dễ chịu?
Bấy giờ những anh khác trông thấy thế mới sinh ra tiếc. Họ thấy
Lộ làm sãi ngon ăn quá. Họ ngấm ngầm ghen với hắn. Và chẳng người nào bảo người
nào, họ vô tình về hùa với nhau để báo thù.
Những lời tiếng mỉa mai truyền từ người nọ đến người kia. Lộ
thấy những bạn bè cứ lảng dần. Những người ít tuổi hơn, nói đến hắn, cũng gọi bằng
thằng. Trong những cuộc hội họp, nếu hắn có vui miệng nói chõ vào một vài câu,
nhiều người đã ra vẻ khinh khỉnh, không thèm bắt chuyện… Hắn nhận thấy sự thay
đổi ấy, và bắt đầu hối hận. Nhưng sự đã trót rồi, biết làm sao được nữa? Hắn tặc
lưỡi và nghĩ bụng: “Tháng ba này, thằng nào thằng ấy đến ba ngày không được một
bát cơm, dãi nhỏ ra, hết còn làm bộ!…” Một ý phấn khích đã bắt đầu nảy mầm
trong khối óc hiền lành ấy… Một hôm, trong một đám khao, Lộ vừa chực ngồi cỗ
thì ba người ngồi trước đứng cả lên. Lộ ngồi trơ lại một mình. Mặt hắn đỏ bừng
lên. Hắn do dự một lúc rồi cũng phải đứng lên nốt, mặt bẽn lẽn cúi gầm xuống đất.
Chủ nhà hiểu ba anh kia có ý gai ngạnh không chịu ngồi chung với mõ. Ông tìm một
người khác, xếp vào cho đủ cỗ, và an ủi Lộ:
- Chú ăn sau cũng được.
Lộ ầm ừ cho xong chuyện, rồi nhân một lúc không ai để ý, lẻn
ra về. Hắn tấm tức rất lâu. Trông thấy vợ, hắn cúi mặt, không dám nhìn thị, làm
như thị đã rõ cái việc nhục nhã vừa rồi. Hắn thở ngắn thở dài, lắm lúc hắn muốn
bỏ phắt việc, trả lại vườn cho họ đỡ tức. Nhưng nghĩ thì cũng tiếc. Hắn lại tặc
lưỡi một cái, và nghĩ bụng: “Mặc chúng nó!…” Hắn chỉ định từ giờ chẳng đi ăn cỗ
đám nào nữa là ổn chuyện… Nhưng khổ một nỗi, không đi, không được. Đám nào có
ăn, tất nhiên chủ nhân không chịu để hắn về. Làm cỗ cho cả họ ăn còn được, có hẹp
gì một cỗ cho thằng sãi? Để nó nhịn đói mà về, nó chửi thầm cho. Mà thiên hạ
người ta cũng cười vào mặt, là con người bủn xỉn… Ấy, người ta cứ suy hơn, tình
thiệt như vậy, mà nhất định giữ thằng sãi lại. Không ai chịu ngồi với hắn, thì
hắn sẽ ngồi một mình một cỗ trong bếp, hay một chỗ nào kín đáo cho hắn ngồi…
Mới đầu, Lộ tưởng ngồi như thế, có lẽ là yên ổn đấy. Nhưng
người ta tồi lắm. Người ta nhất định bêu xấu hắn. Trong nhà đám, một chỗ dù kín
đáo thế nào, mà chả có người chạy qua, chạy lại. Mỗi người đi qua lại hỏi hắn một
câu:
- Lộ à, mày?
Cũng có người đế thêm:
- Chà! Cỗ to đấy nhỉ? Đằng ấy hoá ra lại… bở!
A! Thế ra họ nói kháy anh cu Lộ vậy, cáu lắm. Hắn tặc lưỡi một
cái và nghĩ bụng: “Muốn nói, ông cho chúng mày nói chán! Ông cần gì!…” Hắn lập
tức bê cỗ về sân, đặt lên phản, ung dung ngồi. Nói thật ra, thì hắn cũng không
được ung dung lắm. Tai hắn vẫn đỏ như cái hoa mào gà, và mặt hắn thì bẽn lén muốn
chữa thẹn, hắn nhai nhồm nhoàm và vênh vênh nhìn người ta, ra vẻ bất cần ai.
Sau cái bữa đầu, hắn thấy thế cũng chẳng sao, và bữa thứ hai đã quen quen,
không ngượng nghịu gì mấy nữa. Bữa thứ ba thì quen hẳn. Muốn báo thù lại những
anh đã cười hắn trước, tự hắn đi bưng lấy cỗ, và chọn lấu một cỗ thật to để các
anh trông mà thèm. Bây giờ thì đến lượt người chủ không được bằng lòng. Có một
mình nó ăn mà đòi một cỗ to hơn bốn người ăn!…
- Mẹ kiếp! Không trách được người ta bảo: “Tham như mõ”.
A! Họ bảo hắn là mõ vậy… Tham như mõ vậy!… Đã vậy thì hắn
tham cho mà biết!… Từ đấy, không những hắn đòi cỗ to, lúc ăn hắn lại còn đòi
xin thêm xôi, thêm thịt, thêm cơm nữa. Không đem lên cho hắn thì tự hắn xông
vào chỗ làm cỗ mà xúc lấy. Ăn hết bao nhiêu thì hết, còn lại hắn gói đem về cho
vợ con ăn, mà nếu vợ con ăn không hết, thì kho nấu lại để ăn hai ba ngày… Hà
hà! Phong lưu thật!… Cho chúng nó cứ cười khoẻ đi!
Cứ vậy, hắn tiến bộ mãi trong nghề nghiệp mõ. Người ta càng
khinh hắn, càng làm nhục hắn, hắn càng không biết nhục. Hỡi ôi! Thì ra lòng
khinh, trọng của chúng ta có ảnh hưởng đến cái nhân cách của người khác nhiều lắm;
nhiều người không biết gì là tự trọng, chỉ vì không được ai trọng cả; làm nhục
người là một cách rất diệu để khiến người sinh đê tiện…
Bây giờ thì hắn mõ hơn cả những thằng mõ chính tông. Hắn nghĩ
ra đủ cách xoay người ta. Vào một nhà nào, nếu không được vừa lòng, là ra đến
ngõ, hắn chửi ngay, không ngượng:
- Mẹ! Xử bẩn cả với thằng mõ…
Mò Sâm Banh
Chú bếp Tư rất thận trọng về vấn đề giữ vệ sinh. Ông thường
nói rằng: Khí hậu ở đây chẳng được lành; những người chưa quen với thủy thổ miền
nhiệt đới, đến đây mà chẳng biết giữ thân, khó khỏi chết vì nguy hiểm ấy truyền
nhiễm phần nhiều do nước bẩn. Bởi vậy nước ăn của ông phải coi giữ như thế nào
cho thật sạch. Cái bể nước của ông, ông coi quý gần bằng vợ ông. Mà có lẽ còn
quý hơn vợ ông nữa. Bởi vì vợ ông ông có thể để người khác bắt tay, chứ bể nước
mà đứa nào dám nhúng tay bẩn hay cái "sô" bẩn vào thì cứ liệu cái thần
hồn với ông.
Ở nhà chủ, bếp Tư thích nhất cái bể nước ăn này. Nó to bằng cả
một căn nhà rộng, nước mưa ở trên các mái nhà theo hai cái ống máng mà trút xuống.
Mặt bể bưng kín mít, trừ một máng vuông, mỗi bể chừng một thước, có nắp kín như
nắp cống. Những ngày nghỉ vợ chồng ông chủ về Hà nội, thằng Tề con bác bếp vẫn
đậy nắp bể cho thật kín rồi trèo lên mặt bể, co một chân lên bắt chước Lã Bố đi
bài tẩu hoặc nhảy huỳnh huỵch để bắt chước Võ Tòng sát tẩu. Cái mặt bể toàn xi
măng cốt sắt, bốn mươi thằng Tề nhảy cũng không việc gì.
Tề là con một bác Tư. Mẹ nó chết mới xong tang. Bố nó tính hiền
lành nên rất yêu con. Chẳng như những bồi bếp khác, nay vợ này, mai vợ khác ,
hoặc nhân tình nhân ngãi với bọn cô đầu, nhà thổ. Vợ chết quá ba năm rồi mà
nghĩ đến lúc nào bác ta vẫn còn thương. Có khi đang ngồi bác tự nhiên khóc hu
hu. Hỏi bác thì bác bảo: cũng ngày này năm nọ, bác xin được phép chủ về quê ra
đón vợ ra ở đây luôn với bác, thế mà bây giờ vợ bác đã nỡ bỏ bác mà đi cho
đành! Chẳng ngày rằm, mùng một nào bác không thắp hương cúng vợ. Cúng xong bác
rơm rớm nước mắt, thở dài thở ngắn. Tề thấy thế cũng thương cha vô cùng.
Chỉ thương xuông cũng không thể gọi là thương. Cái lối thương
để bụng vô ích lắm. Phải tìm cách tỏ lòng thương ra ngoài mới được. Nghĩa là phải
kính mến nghe lời, giúp đỡ. Thầy giáo Tề bảo thế. Cũng vừa mới bảo lúc nãy
thôi, khi giảng nghĩa bài luân lý. Bởi vậy, cắp sách về đến nhà trông thấy bố,
Tề nhớ lại. Và Tề có ý nhìn xem bố làm gì. Làm gì? Bác Tư đang vắt cái bụng lên
thành bể, hai chân đeo lủng lẳng ở bên ngoài, phần trên người đang buông thõng
xuống ở bên trong. Không có lý bác gội đầu bằng cách ấy. Tề im im đứng đợi... Bỗng
hai cái chân tụt xuống, bác bếp Tư rút đầu ra. Và bác giật mình đánh thót. Ấy
là bác thoáng trông thấy có người đứng cạnh mà không biết người ấy là Tề. Tề mỉm
cười, khẽ hỏi.
Bác Tư ấp úng một lát rồi mới nói ra lời được.
- À! Mày... mày đấy à!
Bác nhe những cái răng đen lờ lờ ra cười khì khì. Bởi thật
thà thì trống ngực bác ta còn đập. Bác mới hơi định thần.
Tề hối hận vì đã làm cho cha hoảng sợ. Nó nhìn cha, ái ngại.
Cha nó bảo:
- Mẹ nó! Tao đánh rơi chai "sâm banh" vào trong
này rồi!
- Thì thầy thử thò tay vào mà quờ xem.
Có được chó người ta đấy! đầu ngón tay mới chỉ hơi nhúng nước.
- Thế làm sao được?
- Vậy mới rầy rà chứ! Lát nữa không có rượu uống thì bỏ cha!
Tề nghĩ ngợi rồi nói nhỏ:
- Hay để con lội vào?
Bác Tư lại nhe răng ra, khì khì:
- Có được chó!
_ Được.
- Nhưng ghét mày nó ra, bẩn nước thì có mà vất đi.
- Không, thế này chứ lỵ! Con lấy xà phòng tắm rồi rửa chân thật
sạch, rồi mới vào trong bể.
Thằng oắt này ranh thật. Nó có tài biến báo. Bác Tư nhìn con,
ra dáng phục. Nhưng bác vẫn chưa nhất định. Răng bác vẫn nhe ra để cười một cái
cười do dự. Đây là một kẻ nhút nhát đang bị người ta xui làm liều nhưng Tề đã
quyết. Nó chạy tọt vào nhà để cất sách vở và cởi quần, cởi áo. Một lát sau, nó
trần truồng chạy ra.
- Con tắm nhé !
_- Nhưng mà thôi ,con ạ. Nhỡ bà ấy biết.
Bà ấy là bà chủ. Tề nhìn lên gác, hỏi:
- Bà ấy thức hay ngủ?
- Ngủ, nhưng ngộ bà ấy dậy?...
- Không sợ! Thầy lên đóng cái cửa ở đầu cầu thang lại. Đóng lần
ngoài, như vậy bà ấy có dậy cũng không xuống được. Hễ bà ấy gọi thì con ra , chạy
vào nhà, ta đóng cửa lại rồi thầy hãy lên mở cửa cho bà ấy.
Sau mấy phút do dự nữa, bác Tư đành nghe con vậy. Cái mẹo của
nó được đem ra thi hành.
Tề tắm rửa xong rồi, bác Tư cẩn thận giội cho con thật sạch.
Rồi bác nhấc nó lên, từ từ thả vào trong bể. Thằng bé thấy cái trò ngộ nghĩnh, cười hi hí. Nó nghĩ đến cuộc bơi lặn trong cái hồ kín như hang này.
- Khéo nhé! sâu lắm đấy!
- Được, con bơi giỏi lắm. Thầy cứ buông.
Tề rơi đánh thóm. Thì bỗng cửa ngoài lịch kịch rồi có tiếng
giày tây cồm cộp đi vào.
- Chết rồi ông ấy về!
Bác Tư kêu lên, hoảng hồn. Bởi vì bác sơ ý, mới nghĩ đến việc
ngăn bà chủ mà quên ông chủ. Giờ này tan sở. Bác chưa kịp cài then cửa ngoài ,
bác giục Tề:
- Ra đi! Ra đi!
Nhưng sao kịp? Ông ấy đã tiến vào đến sân. Bác Tư đứng thẳng
người lên. Bác hóa ra tượng đá. Ông chủ nhận thấy, sinh ngờ vực. Ông nhìn vào
mắt bác. Bác thấy chân tay bủn rủn, hơi thở gần bị tắc. Giấp luôn mấy tiếng bà
chủ ở trên gác gọi:
- Tư! Tư!
- Bà đầm!
- La porte! La porte! (cái cửa! cái cửa!)
Và tay bà đập vào cái cửa kêu thình thịch. Bà vừa đập vừa nói
một tràng những tiếng gì choe choé. Bác Tư không nghe kịp nhưng cũng hiểu thế
là bà bắt. Bác cuống quít. Nhất là mắt ông chủ vẫn trừng trừng nhìn bác,
nghiêm khắc và chế nhạo. Ông hất hàm.
Bác Tư cúi đầu bối rối. Ông đoán ngay là bác đang làm một việc
gì vụng trộm. Ăn cắp đồ chẳng hạn. Ông nhìn chung quanh bác. Không có đồ gì cả.
Ông nhìn cái cửa buồng của bác. Cánh cửa buồng hé mở. Ông mỉm cười. Bởi vì ông
tưởng đã đoán được cái việc dấu giếm của người bếp hiền lành ấy. Muốn cuộc gì
ông cũng cuộc. Thế chết thế nào cũng có, một con gái trong cái buồng nhỏ kia.
Một cố gái đang luống cuống với những áo quần vắt trên thành giường. Cái này
không phải một tội. Khi vợ người ta chết đã ba năm và mấy tháng!... Nhưng thấy
bác bếp tỏ ra sợ hãi, ông muốn đùa một chút. Ông nói to lên bảo vợ:
- Đợi một tí. Tôi mở cho.
Bà vợ rú lên:
- Ồ! Vậy ra mình đấy ư?
- Ừ, tôi đây! Tôi lên giờ.
Và ông cố chắp nối mấy tiếng thật rõ rệt, cho người bếp hiểu :
- Moi oublier Innettes bureau. Lunette (ông vừa nhắc lại tiếng
ấy vừa lấy ngón tay trỏ chung quanh mắt để vẽ hình cái kính) biếc?
- Uẩy xừ!
- Va chercher (đi tìm).
- Uẩy xừ.
Tuy mồm uẩy" mà bác Tư vẫn không nhúc nhích. Ông
chủ tưởng người bếp của ông không hiểu, ông lại nói, lại ra hiệu lại. Rồi lại
nói:
- Biếc?
Thì có gì mà chả biết? Tiếng tây bác Tư đã thạo.Ông nói thế
là muốn bảo: Ông để quên cái kính ở sở và sai bác đi lấy về. Hiểu lắm, nhưng
còn thằng Tề trong cái bể?... Ông chủ giục:
- A lê! Maoo!
Mồm nói , tay ông nắm vai bác mà đẩy ra phía cửa.
- Uẩy xừ!
Bác đậy vội cái nắp bể lại để ông khỏi thấy, rồi chạy đi. Ông
nhìn theo mỉm cười. Ông định cho bác chạy một tua bở hơi tai để ông có thì giờ
chạy vào buồng bác. Ông sẽ nắm cổ người con gái kéo ra. Ông sẽ đeo cái kính của
ông vào mắt y, rồi bắt y lên giường ngồi chồm hổm như một pho tượng khỏa thân bằng
đá trắng. Để người bếp của ông lúc giở về trông thấy y mà cười. Mà chịu rằng
ông chủ của bác ma-lanh.
Nhưng ông cụt hứng ngay. Bởi vì buồng bác Tư trống rỗng.
Không con gái. Không dấu vết một cuộc ái ân vụng trộm. Ông văng tục một tiếng rồi
chạy lên với vợ.
Một lúc lâu sau, bác bếp về, nét mặt băn khoăn: bởi vì bác
không tìm thấy kính. Đó không phải là lỗi bác. Nhưng rất có thể rằng ông chủ gắt.
Tính ông nóng lắm. Chắc hẳn rằng ông sẽ quát ầm nhà lên... Bác rón rén lên cầu
thang gác. Ông chủ đang ngồi thụt hẳn người vào trong một cái ghế bành to, đọc
báo. Mắt ông có kính. Bác bếp ngạc nhiên rồi lại thêm lo sợ. Bây giờ thì bác sợ
bác đã hiểu nhầm lời ông sai đi tìm cái khác. Có lẽ ông sai bác đi tìm cái
khác. Thế mới bỏ đời bác chứ! Ai bảo bác hấp ta hấp tấp? Không chịu hỏi cho rõ
rồi hãy đi!
Bác rụt rè một lúc rồi mới dám đánh liều lên tiếng:
- Me-xừ.
Ông ngẩng đầu lên, hất hàm. Bác đọc như cái máy:
- Loong-toong diếc đa-na-ba-luy-nét.
Loong-toong bảo không có luy-nét! Ấy là một khoé ranh của
bác. Bác cũng nhanh trí khôn lắm đấy. Loong-toong bảo không có luy-nét. Vậy thì
luy-net là cái gì cũng được. Ông muốn gắt thì gắt với thằng loong-toong! Nhưng
luy-nét chính là cái kính. Bởi vì ông chủ trỏ tay lên kính mắt hỏi:
- Xa? (ca)
Và ông nhún vai, mỉm cười. Thoát nạn! bác bếp Tư nhẹ lâng cả
người. Một tảng đá lớn tưởng đè lên người bác vừa trút đi. Bác chạy xuống cầu
thang, bước hai bậc một. Y như một hòn đá lăn trên sườn núi. Bác chạy thẳng lại
cái bể. Nhìn trước nhìn sau một thoáng rồi bác mở nắp ra, cúi đầu xuống. Tối om
om. Một mảng nước loang loáng như nước mực. Bác gọi con:
- Tề! Tề ơi!
Im lặng. Một nỗi ngi vụt đến. Tim bác nhảy lên một cái. Tiếng
khàn khàn, bác gọi :
- Tề ơi! Ra đây thầy kéo lên.
Chẳng có gì đáp lại. Những đốm sáng lăn tăn nhẩy nhót trong
bóng tối. Ấy là bác bếp Tư hoa mắt. Bởi vì đầu óc bác đã nặng trĩu, quay quay,
choáng váng. Người thì bủn rủn. Bác nhoai lưng vào trong bể, vừa mếu máo vừa
rên rỉ:
- Con ơi! Tề con ơi...
Đầu ngón tay bác động phải một vật gì trơn nuồn nuột mà không
còn động đậy. Bác toan gào thật to. Nhưng có tiếng giầy tây cồm cộp trên thang
gác. Ông chủ xuống! Bác Tư sực tỉnh. Bác rút vội đầu ra khỏi bể. Bác đậy luôn nắp
lại. Vừa kịp ông chủ không trông thấy. Bác cố thản nhiên đi vào bếp, lau bát
đãi để sắp sửa lên bày bàn. Nhưng nghĩ đến bàn ăn, bác lại sinh lo lắng...
- Còn chai sâm banh!... Đào đâu ra một chai sâm-banh bây giờ?
Đêm hôm ấy, đợi vợ chồng ông chủ tắt đèn đi ngủ một lúc lâu,
bác Tư mới rón rén ra sân. Bác mở cái nắp bể thật êm. Bác quờ tay vào bể, loay
hoay tìm cách vớt con ra.
Sáng hôm sau, bác vừa báo cho chủ biết con bác phải cảm chết
đêm rồi.
Ông chủ giật mình:
- Vì dịch tả phải không?
- Bẩm ông không.
- Thế vì bệnh gì?
- Bẩm... bẩm...
Bác Tư ấp úng. Ông chủ lại càng sợ hãi:
- Đem chôn ngay đi! Bỏ vôi vào! Rồi lấy ca-re-lin rưới khắp
nhà, hiểu không?
- Bẩm hiểu.
- Được rồi. Đi đi!
Ông xua bác Tư như xua đuổi một thằng hủi. Mũi ông chun lại.
Ra khỏi cửa, bác Tư nhẹ hẳn người. Bác lấy làm may. Nếu ông chủ xuống xem! Nếu
ông chủ biết rằng thằng bé đã ngâm mấy giờ đồng hồ trong bể nước!...
Tiền Phong (12-1945)
Nỗi truân chuyên của khách má hồng
Suốt đêm hôm ấy, ông thầy thuốc Nguyễn Văn Thinh không sao ngủ
đươc. Tôi hỏi ông rằng: sáng mai ông đi cưới vợ rồi thì đêm nay ông có ngủ được
không? Ông có là thánh, tôi chắc ông cũng không ngủ được!
Ông thầy thuốc Nguyễn Văn Thinh không là thánh. Ngày mai là
ngày ông được ra thề với các quan Tây. Đó là điều kể ra cũng không thú vị gì… -
Thề thốt làm chi cho nó nặng lời! Nhưng thú vị ở chỗ thề xong, ông tức khắc
thành thủ tướng kiêm nội vụ. Thủ tướng kiêm nội vụ, ngài nghe rõ chưa? Ông thầy
thuốc Nguyễn Văn Thinh tưởng có thể điên người lên được.
- Thủ tướng kiêm nội vụ… Thủ tướng kiêm nội vụ…
Ông thầy thuốc Nguyễn Văn Tinh cười lặng tiếng một cái cười rộng
lớn, nhắc đi nhắc lại một cách say sưa như vậy. Hai bàn tay múp míp của ông, mở
rộng ra, khoát một cái hình tròn trước mặt ông. Ông vuốt ve trong tưởng tượng
cái Thủ tướng kiêm nội vụ hiện hình hiện khối.
- Thủ tướng kiêm nội vụ!... Thủ tướng kiêm nội vụ!…
Ông thầy thuốc Nguyễn Văn Thinh nhắm hẳn hai mắt lại, rên lên
những tiếng sung sướng ấy, đúng như một anh chàng dâm dục rên lên ở trong ngực
một ả giang hồ. “Thủ tướng kiêm nội vụ!... Thủ tướng kiêm nội vụ!...”.
Ông lịm đi một phút. Người không biết đã tưởng ông mệt quá,
chợp mắt, làm một giấc. Nhưng bỗng ông lại bật người lên như một con lật đật.
Cái lò xo giường tung ông xuống khỏi giường. Ông vội vã đi lại gần cái tủ áo có
gương kê ở một góc tường nhà. Một hình người múp míp hiện lên trong gương, với
một bộ mặt phởn phơ. Cái mặt mãn nguyện ấy mỉm cười, mấp máy môi. Ông Nguyễn
Văn Thinh, nhắc lại câu điệp khúc yêu quý của ông: “Thủ tướng kiêm nội vụ!...
Thủ tướng kiêm nội vụ!...”.
Ông mở tủ. từng chồng quần áo cao ngất hiện ra. Ông Nguyễn
Văn Thinh gật gù nhìn từ trên xuống dưới lại từ dưới lên trên.
Ông lục chồng này lại chồng kia. Ông lần lượt lấy ra, ngắm
nghía, rồi lại cất vào ba cái sơ-mi. Đến cái thứ tư thì ông tạm vừa lòng. Một
tay ông giơ nó ra xa, Ông ngả đầu về đằng sau, ngắm nghía. Mồm ông cười một cái
cười xếch lên đến mang tai. Đôi mắt híp lại, ông vừa gật đầu, vừa lẩm bẩm:
“Cũng phải thế này mới coi được chứ! Cũng phải thế này mới coi được chứ! Thủ tướng
kiêm…”.
Ông giật mình. Một hồi chuông gắt gỏng đã phạt đứt một mẩu
câu nói của ông. Ông lắng tai nghe, mặt hơi tái đi một chút. Ai? Ai có thể đến
vào lúc khuya khoắt thế? Máu ông như ngừng lại, lạnh giá trong huyết quản, tuy
mồ hôi ông toát ra đẫm trán. Nghe tiếng người bồi dậy, ông vội vàng gọi hắn:
- Bồi!
- Me xừ!
- Viens ic! (vào đây!)
Anh bồi vào.
- Chi vầy?
Ông thở ra hai tiếng ấy thì đúng hơn là ông nói: hai tiếng
nói bị hơi thở hổn hển đẩy ra. Mắt ông như mắt một người mất vía…
- Chi vậy mày? Ông nhắc lại.
-Bẩm có chuông kêu cứu.
- Ai kêu cứu?
- Dạ chưa biết… Để ra coi…
- Nè!
Ông nắm lấy tay áo anh bồi, giữ lại, thì thầm báo:
- Coi chừng, nghe không? Ngó cẩn thận rồi hãy mở. Tụi nó ghê
lắm đó.
- Dạ!
Anh bồi cố giấu một nụ cười mai mỉa rồi lui ra. Ông Nguyễn
Văn thinh ngồi phịch xuống một cái ghế bành, thở hắt ra một tiếng lớn, giơ một
tay lên và lắc đầu chán nản. Tụi chúng nó thật là khó chịu! Sao không muốn làm
Tây, lại cứ khăng khăng làm người Việt Nam!
macbupda: Anh bồi vào…
- Bẩm, một người cao lớn, mặc quần áo quan võ, đeo nhiều mề-đay
lắm, tự xưng là đại tá…
Ông sửng sốt:
- Tự xưng là đại tá? Người Việt hay là người Pháp?
- Bẩm không thể biết, bởi vì trông cũng giông giống như bác
sĩ.
Ông Nguyễn Văn Thinh vụt nhớ ra:
- A! Vậy thì chắc là ông Cô-lô-nen Xuân. Đúng rồi. Ra mời ông
vô.
Anh bồi ra rồi, mặt ông thầy thuốc có vẻ băn khoăn, lo lắng.
Ông Xuân đến làm gì khuya khoắt thế? Hay là có sự thay đổi ý
kiến gì của ông quan thấy Pháp chăng?
Đại tá Nguyễn Văn Xuân. Ông đúng như anh bồi tả thật: to lớn,
mặt đỏ gay, mũi chính thật không lõ như ông đã cố kéo ra cho lõ, ngực nhiều mề-đay
ngang với ông Tạ Duy Hiển khi ông này cầm roi điện ra bắt hổ nhảy qua vòng lửa.
Chẳng kịp chào nhau, ông Nguyễn Văn Thinh vội hỏi:
- Thế nào? Lành hay dữ? Có việc chi mà đến chơi khuya thế?
- Có việc này, cần lắm…
Chợt trông thấy chiếc áo của ông Thinh còn mở và chiếc sơ-mi
lúc nãy ông đã vất tạm lên chiếc ghế, ông Xuân hỏi:
- Định đi đâu hay sao mà thay áo thế?
Ông Thinh hơi bẽn lẽn:
- À!... không!... Tôi định lấy bộ lễ phuc mặc thử, rồi tập đọc
những lời tuyên ngôn ngày mai xem nó ra thế nào. Phải tập cho quen, lúc đọc
trông ra vẻ một chút. Xập xệ, người ta cười cho chết. Thủ tướng kiêm nội vụ kia
mà! Quan trên trông xuống, người ta trông vào. Có phải không ông phó?
- Trời ơi! Giá ông biết việc gì vừa xảy ra!...
Ông Thinh hoảng hốt:
- Việc gì? Việc gì vậy?
- Người Pháp định không cho chúng mình thề vội.
- Không cho chúng mình thề vội? Sao lại có thể vô lí như thế
được? Họ sợ chúng mình trung thành với họ quá chăng?
- Thì chính thế. Thí dụ như tôi chẳng hạn; ai còn không biết
tôi trung thành với họ hơn chó “béc-giê”? Trong lúc tất cả người Việt Nam vùng
dậy chống họ, thì một mình tôi lùi vào thành với họ, dạy họ tập giáo, tập gậy để
đánh người Việt Nam.
Ngờ rằng ông Nguyễn Văn Xuân kể công như vậy là có ý tranh
ngôi thủ tướng với mình, bác sĩ vội bảo:
- Tôi còn trung thành bằng mười ông ấy, ông bạn ạ. Trong thời
kì người Nhật ở dây, các quý phu nhân còn cần phải giao thiệp với họ nhiều, tôi
đã phải đem hết tâm lực ra mà phụng sự những người bỏ nước Pháp để phụng sự
quân đội của Thiên hoàng ấy. Như thế nghĩa là tôi trung thành với họ cả trong sự
không trung thành của họ.
- Ấy thế cho nên chúng mình mới hỏng. Chúng mình là những con
đĩ lứa quá rồi. Họ muốn có những con đĩ kín đáo hơn một chút để có thể lòe
thiên hạ là vợ chứ không phải là hạng đĩ.
- À! Ra vậy!
macbupda: Bây giờ ông bác sĩ mỡi vỡ lẽ như vậy. Ông thâm tím
mặt. Ông thâm tím hai tai. Ông sắp thâm tím đế cả hai bàn tay thì may sao đại
tá Xuân lại bảo:
- Nhưng mà phúc làm sao lại chỉ có bọn mình là trung thành với
họ thôi. Họ không biết làm sao đành lại ưng để cho bọn mình thề vậy.
- Ừ, thế chứ!
Bác sĩ Thinh vỗ tay xuống đùi, đắc ý, cười lên ha hả. Ông bảo
tiếp:
- Ta cứ thách già họ tìm được những người Việt Nam ghét làm
người Việt Nam hơn chúng mình. Một đồng nghiệp của tôi đấy, ông Xuân ạ. Họ mua
chuộc chán không được, xoay ra dọa dẫm, cố ép hắn đứng ra đòi Nam kì cho họ. Hắn
trốn đi. Họ chỉ còn một cách là đốt nhà cho hả giận. Ông xem đấy: tìm được những
người như chúng mình có phải là đễ đây?
- Đã đành!... Nhưng trách móc họ có ích gì? Chúng mình đã nhất
định trung thành với họ thì chúng mình cứ trung thành…
Ông Nguyễn Văn Thinh lại vội vàng giơ cả hai bàn tay ra trước
mặt như phân bua với bạn:
- Vâng, vâng… chính thế! Tôi thề với ông rằng tôi rất trung
thành với họ. Tôi mà dám trách họ thì tôi không phải là tôi nữa. Có ông biết đấy!
Đại tá Xuân mỉm một nụ cười mệt mỏi:
- Vâng, tôi biết lắm. Nhưng tôi đến để hỏi xem ông đã sửa soạn
gì chưa?
- Có rồi! Có rồi! Đủ cả… Ông Thinh bảo vậy.
- Quốc kì?
- Đã! Đã! Các quan tây đã đưa kiểu cho tôi chế tạo.
- Cái cờ vàng có ba gạch xanh giữa hai gạch trắng ấy à?
- Vâng, các quan đưa cho tôi hôm có cả ông ở đấy.
- Ông có hiểu ý nghĩa nó ra thế nào không?
- Hiểu lắm chứ! Thế ông không nghe các quan Tây bảo đấy à?
Màu vàng là màu Việt Nam…
- Nhưng chúng mình có còn là Việt Nam đâu?
- Không biết, nhưng các quan Tây bảo thế tất nhiên là như thế.
Ba gạch xanh là con sông Cửu Long Giang.
Đại tá Xuân lắc đầu:
- Tôi ngờ rằng họ xỏ chúng ta. Có lẽ chính ra thì màu vàng là
màu hoàng kim, Tổ quốc của bọn mình. Còn màu xanh là màu mắt các bà đầm, vì là
màu mắt nên mới có viền thêm tí trắng.
Ông thủ tướng kiêm nội vự tương lai trở nên nghĩ ngợi. Đại tá
Xuân bảo tiếp:
- Cả Quốc ca cũng thế. Tôi ngờ rằng anh chàng nhạc sĩ cũng muốn
xỏ chúng mình. Ông nghe nhé:
Thuở trời đất nổi cơn gió bụi,
Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên
Xanh kia thăm thẳm từng trên
Vì ai gây dựng cho nên nỗi này!...
Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên
Xanh kia thăm thẳm từng trên
Vì ai gây dựng cho nên nỗi này!...
Đúng là giọng một con nhà thổ ế vào hồi loạn lạc.
Ông thủ tướng vẫn cúi đầu nghĩ ngợi. Sau cùng ông tặc lưỡi:
- Chà! Thì đã sao? Tôi hỏi ông, ông ó muốn làm phó thủ tướng
kiêm phó nội vụ không?
Đại tá Xuân toét miệng ra cười:
- Tôi đùa ông đấy. Thật ra thì tôi cũng nghĩ rằng cái gì các
quan Tây bảo đều tốt cả. Chúng mình chỉ việc nghe là có phận nhờ đấy. Tôi đã mạn
phép ông đi lùng được một bọn đào kép ở Phú Nhuận trước để ngày mai chúng nó cử
Quốc ca.
- Ấy chết! Ấy chết!... thủ tướng Thinh trợn trừng hai mắt,
xua tay lia lịa và kêu lên như thế.
- Sao vậy?
- Bọn cô đầu ở nước Bắc Kỳ vào cả đấy.
Đại tá Xuân mìm môi, trợn mắt, đập mạnh nắm tay xuống bàn một
cái:
- Chẳng hề chi cả! Tôi sẽ ra lệnh cho chĩa hết súng vào mặt
chúng. Đứa nào láo lếu là… “Đoàng! Một phát cho về âm phủ mà đòi Việt Nam thống
nhất. Ông hiểu chữa?
Ông sùi bọt mép, mắt quắc lên, nảy lửa. Bác sĩ Thinh tái mặt
đi run cầm cập. Cười gượng để lấy lòng nhà võ:
- Vâng… vâng. Ông nói phải; ông không kém gì Hít-le.
Hai người bắt tay nhau, ông Thinh chỉ tay trái vào ngực mình,
mỉm cười, dõng dạc:
- Thủ tướng kiêm nội vụ.
Ông Xuân cũng làm như vậy:
- Phó thủ tướng kiêm phó nội vụ.
Rồi hai người cũng ngả nghiêng cười ha hả:
- Hà hà!... Nam kì tự trị và tự do…
Sáng hôm sau, lễ tuyên thệ cử hành rất long trọng trong thành
phố Sài Gòn. Người đến dự khá đông. Người ta đếm được sáu ngàn một chục người
trong đó có mười ông Chính phủ (ông Lưu Văn Lang không hiểu vì cớ gì vắng mặt)
và sáu ngàn lính kín chuyên việc giữ tự do cho địa hạt Sài Gòn - Chợ Lớn, ấy là
chưa kể một đoàn ca nhạc một một kép ba đào, một đội lính Pháp có xe tăng và
liên thanh và mấy quý quan người Pháp.
Đúng giờ, ông Lơ-cờ-léc, nụ cười hóm hỉnh ở trên môi, một tay
dắt bác sĩ Thinh, một tay dắt đại tá Xuân, bước lên đài. Công chúng - cái công
chúng toàn lính kín - nhìn nhau: anh nào cũng nghĩ đến việc nhìn xem người bên
cạnh mình có tỏ ý gì phản đối không. Thành thử không ai nhớ vỗ tay. Bọn lính
Pháp chĩa súng vào đám đông, hô:
- Vỗ tay đi, không ta bắn!
Tức thì tiếng vỗ tay nổ lên như pháo nổ. Đại tá Xuân ưỡn cái
ngực mề-đay ra. Bác sĩ Thinh cười chúm chím, đung đưa đôi mắt. Bọn lính Pháp lại
hô:
- Im! Im không ta bắn!
Tức thì im. Súng chĩa vào bọn cô đầu. Đàn nổi điệu phưng
phưng. Tiếng ca sĩ ai oán của “khách má hồng” cũng nổi lên theo, hòa với tiếng
đàn. Lá cờ màu vàng điểm mắt xanh từ từ kéo lên như một tấm khăn người ta vừa
rút ở trong một cái hộp quỷ thuật ra.
Giữa lúc ấy thì ông Nguyễn Văn Tâm, nguyên chủ huyện Cai Lậy
tỉnh Mỹ Tho, hiện giờ giữ chức tổng trưởng phụ trách chính trị, lật đật ở dây hạy
đến. Tay ông cầm một cái hộp có nắp kín, to bằng cái hộp bánh bích quy…
- Xin lỗi các ngài! Tôi đến hơi muộn quá. Nhưng tôi còn phải
cố tìm cho được cái bảo vật này.
Ông vừa giơ cái hộp của ông ra, vừa bảo vậy. Mọi người ngơ
ngác:
- Hộp gì? Ấn ngọc chăng? Hay bạc giấy? - Ông lắc đầu, cười:
- Sai! Sai! Thưa các ngài đoán sai tất cả. Bẩm, chính là tổ
kiến. Vâng, tổ kiến !Tổ kiến để trị những đứa nào còn cứ khăng khăng muốn
quay về Tổ quốc.
Công chúng, dù chỉ là cái công chúng toàn lính kín, bật cười.
Ông quắc mắt lên:
- Chúng bay cười? Trói cổ những đứa nào cười lại cho ta! Bỏ tổ
kiến vào ống quần chúng nó, thắt cho chặt lại.
Ý chừng ông chợt nhớ ra bọn người đứng đấy đêu là thủ hạ của
ông, ông hơi bẽn lẽn nhưng vốn nhanh trí vội quát tiếp một câu, chữa thẹn:
- Quân này ngu quá! Chỉ biết cười! Ngoài kia, hỗ nào cũng
nhanh nhản những đứa đòi thống nhất Việt Nam, không biết đi tóm cổ mấy mụ đàn
bà về để ta cho kiến đốt chơi.
Bọn lính kín dạ ran. Chúng chạy đi. Một lái sau, một bọn lôi
về một xâu đến chín, mười người đàn bà, quần áo khá sang. Nguyễn Văn Tâm hếc
mũi lên, hít vào, như một con thú dữ đánh hơi thấy mồi ngọn. Đôi mắt vọ của y
sáng lòe lên. Y cầm cái hộp, xăm xăm chạy ra, đón sẵn.
Nhưng khi y tiến đến chỗ chỉ còn cách những người đàn bà chừng
mười bước, y bỗng đứng dừng lại, há hốc mồm. Ôi chao! Y lóa mắt chang? Này đây
là bà Nguyễn Văn Thinh, bà Nguyễn Văn Xuân, bà Trần Văn Tánh… các bà Nguyễn
Thành Lạp, Bảo Toàn, Nguyễn Thành Vinh… đủ mặt các bà chồng có chân trong Chính
phủ Nam kì tự trị. Lại cả bà Nguyễn Băn Tâm nữa mới chết người ta chứ! Bọn lính
kín này định xược ông tổng trưởng Nguyễn Văn Tâm đây phỏng?
Mới đầu, ông Nguyễn Văn Tâm nội giận. Rồi bỗng ông sợ hãi.
Ông lấm lét nhìn thật nhanh về phái các quan Tây, rồi cuống quýt nhìn đó, nhìn
đây, như muốn tìm một cái lỗ nẻ để chui, sau cùng ông đành phải quát bọn lính
kín quá ư sốt sắng kia:
- Chúng bay đáng chém đầu! Tao biểu chúng bay đi bắt những
con mụ nào đòi Nam kì là đất Việt Nam kia mà!
Bọn lính kín nhao nhao thưa một lượt:
- Bẩm chính nhng mụ này đi biểu tình, đòn Nam kì phải là đất
Việt Nam đấy.
- Bậy nào! Chúng mày không biết rằng toàn là những bà vợ các
ông tổng trưởng đấy ư?
Bọn lính kín đứng sững người, chưa biết đáp ra sao thì chính
bà Nguyễn Văn Tâm đã xấn xổ buốc lên, chỉ vào tận mặt chồng:
- Phải chúng tôi chính là vợ các ông đây. Nhưng vợ các ông
cũng không muốn chịu lấy cái nhuc bán nước của các ông. Vợ các ông ăn cơm hẳn
hoi chứ không ăn bẩn bao giờ, nên không lú lẫn cho Nam kì không phải là đất Việt
Nam, người Nam kì không phải cùng nòi giống với tất cả những người Việt Nam ở Bắc,
Trung, và giở trò đòi Nam bộ tự trị để bản đất nước, bán đồng bào cho người
ngoài.
Ông tổng trưởng Nguyễn Văn Tâm chết đứng như Từ Hải. Cái hộp
tổ kiến từ cái bàn tay rã rời của ông buột rơi xuống đất. Người ta vội khiêng
ông vào nhà thương Sài Gòn tiêm.
Nam Bộ ngày 9-6-1946 Tiền Phong
Đôi mắt
Anh thanh niên làng chỉ một cái cổng gạch nhỏ, quay lại bảo
tôi:
- Ngõ này đây, ông Hoàng ở đây.
- Cám ơn anh nhé. Lát nữa tôi sẽ sang nhà anh chơi.
Tôi vỗ vai anh bảo vậy. Tôi toan vào. Anh vội ngăn tôi lại:
- Khoan đã. Anh để em gọi cho anh trong nhà xích con chó lại.
Con chó to và dữ lắm.
Tôi mở to đôi mắt, khẽ reo lên một tiếng thú vị. Tôi nhớ đến
những lần đến chơi nhà anh Hoàng ở Hà Nội. Bấm chuông xong, bao giờ tôi cũng phải
chờ anh Hoàng thân hành ra nắm chặt cái vòng da ở cổ một con chó tây to bằng
con bê, dúi đầu nó vào gầm cái cầu thang, rồi mới có đủ can đảm bước vội qua đằng
sau cái đuôi nó để vào phòng khách.
Tôi rất sợ con chó giống Ðức hung hăng ấy. Sợ đến nỗi một lần
đến chơi, không thấy anh Hoàng ra đứng tấn để giữ nó lại buồn rầu báo cho tôi
biết nó chết rồi, thì mặc dầu có làm ra mặt tiếc với anh, thật tình thấy nhẹ cả
người. Con chó chết vào giữa cái hồi đói khủng khiếp mà có lẽ đến năm 2000, con
cháu chúng ta vẫn còn kể lại cho nhau nghe để rùng mình. Không phải vì chủ nó
không tìm nổi mỗi ngày vài lạng thịt bò để nó ăn. Anh Hoàng là một nhà văn,
nhưng đồng thời cũng là một tay chợ đen rất tài tình. Khi chúng tôi đến nơi chỉ
còn một dúm xương và rất nhiều bản thảo chẳng biết bán cho ai, anh Hoàng vẫn
phong lưu, con chó của anh chưa phải nhịn bữa nào. Nhưng xác người chết đói ngập
phố phường. Nó chết có lẽ vì chén phải thịt người ươn hay vì hút phải nhiều xú
khí. Thảm hại thay cho nó.
Thế mà bây giờ đến thăm anh Hoàng ở chỗ gia đình anh tản cư về,
cách Hà Nội hàng trăm cây số, tôi lại được nghe đến một con chó dữ. Thật là thú
vị!... Tôi cười nho nhỏ. Chẳng biết tôi cười gì, anh thanh niên cũng nhe răng
ra cười. Ðáp lại tiếng anh gọi, tiếng những chiếc guốc mỏng mảnh quét trên sân
gạch nổi lên, lẹc khẹc và mau mắn. Một thằng bé mũ nồi đen, áo len xám, chạy
ra. Một đôi mắt đen lay láy nhìn tôi...
- Bác Ðộ, ba ơi! Bác Ðộ!...
Thằng Ngữ, con anh Hoàng. Nó chẳng kịp chào tôi, ngoắt chạy
trở vào, reo rối rít.
- Cái gì? Cái gì? Hừm!
Tiếng trầm trầm nhưng lại có vẻ nạt nộ của anh Hoàng hỏi nó.
(Bao giờ nói với con, anh Hoàng cũng có cái giọng dậm doạ buồn cười ấy). Thằng
bé líu ríu những gì tôi nghe không rõ. Rồi thấy tiếng thanh thanh của chị Hoàng
giục con:
- Ngữ xích con chó lại. Xích con chó lại cái cột tít đằng
kia.
Anh Hoàng đi ra. Anh vẫn bước khệnh khạng, thong thả, bởi vì
người khí béo quá, vừa bước vừa bơi hai cánh tay kềnh khệnh ra hai bên, những
khối thịt ở bên dưới nách kềnh ra và trông tủn ngủn như ngắn quá. Cái dáng điệu
nặng nề ấy, hồi còn ở Hà Nội anh mặc quần áo tây cả bộ, trông chỉ thấy là chững
chạc và hơi bệ vệ. Bây giờ nó lộ ra khá rõ ràng trong bộ áo ngủ màu xanh nhạt,
phủ một cái áo len trắng nó nịt người anh đến nỗi không còn thở được.
Anh đứng lại bên trong cổng, một bàn tay múp míp hơi chìa về
phía tôi, đầu hơi ngửa về đằng sau, miệng hé mở, bộ điệu một người ngạc nhiên
hay mừng rỡ quá. Tôi có thì giờ nhận rõ một sự thay đổi trên bộ mặt đầy đặn của
anh: trên mép một cái vành móng ngựa ria, như một cái bàn chải nhỏ.
Sửng người ra một lúc, rồi anh mới lâm li kêu lên những tiếng
ở trong cổ họng:
- Ối giời ơi! Anh! Quý hoá quá!
Anh quay lại:
- Mình ơi! Anh Ðộ thật. Xa thế mà anh ấy cũng chịu khó đến
thăm chúng mình.
Chị Hoàng lúc bấy giờ đã chạy ra, tay còn đang cài nốt khuy
chiếc áo dài màu gạch vừa mới mặc vội vào để ra đón khách. Người đàn bà vồn vã:
- Mong bác mãi. Lúc thằng cháu mới chạy vào, nhà tôi cứ tưởng
nó trông nhầm. Cứ tưởng bác ở cách hàng mười lăm hai mươi cây số...
Bắt tay tôi xong, anh Hoàng dịu dàng đẩy tôi đi trước. Chị vợ
đã nhanh nhẹn chạy trước vào nhà, dọn bàn dọn ghế. Sao lại có sự săn đón cảm động
như thế được? Tôi đâm ngờ những ý nghĩ không tốt của tôi về anh, từ hồi Tổng khởi
nghĩa trở đi. Sau Tổng khởi nghĩa, anh Hoàng đối với tôi đột nhiên nhạt hẳn đi.
Mấy lần tôi đến chơi với anh, định để xem anh thay đổi thế nào trong cuộc thay
đổi lớn của dân tộc chúng ta, nhưng đều không gặp anh. Cửa nhà anh đóng luôn
luôn. Thằng nhỏ nhà anh đứng bên trong cái cửa nhìn qua một lỗ con, bao giờ
cũng hỏi cặn kẽ tên tôi, để một lúc sau ra bảo tôi rằng ông nó không có nhà.
Mấy lần đều như vậy cả nên tôi đã sinh nghi. Lần cuối cùng,
trước khi bấm chuông, tôi còn nghe thấy tiếng vợ chồng anh. Nhưng thằng nhỏ vẫn
quả quyết rằng ông bà nó về trại những từ tối hôm trước kia rồi. Ðã đích xác là
anh không muốn tiếp tôi. Chẳng hiểu vì sao. Nhưng từ đấy tôi không đến nữa. Mỗi
lần gặp nhau ở ngoài đường, chúng tôi chỉ bắt tay nhau một cách rất lạnh lùng,
hỏi thăm nhau một câu chiếu lệ, rồi ai đi đường nấy. Tôi đã biết Hoàng vẫn có
tính tự nhiên "đá" bạn một cách đột ngột, vì những cớ mà chỉ mình anh
biết. Có khi chỉ là vì một tác phẩm của người bạn ấy được cảm tình của một nhà
phê bình đã chê một vài tác phẩm của anh. Có khi cũng chẳng cần đến thế. Anh có
thể là một người bạn rất thân của anh Hoàng khi anh chỉ là một nhà văn ở tỉnh
xa chỉ góp mặt với Hà Nội bằng những bài gửi về đăng báo, nhưng nếu anh lại về
sống hẳn ở thủ đô, giao thiệp với ít nhiều nhà văn khác, anh sẽ không phải là bạn
anh Hoàng nữa. Có lẽ anh Hoàng biết cái giới văn nghệ sĩ Hà Nội chửi anh nhiều
quá.
Riêng tôi, trước đây, tôi vẫn không hiểu sao người ta có thể
khinh ghét anh nhiều thế. Tận đến lúc bị anh đá tôi mới hiểu. Tôn còn được hiểu
rõ ràng hơn. Vào cái hồi quân đội Ðồng minh vào giải giáp quân Nhật ở nước ta,
một số gái kiếm tiền trút bộ đầm ra để mặc bộ áo Tầu. Còn anh bạn của tôi, chẳng
biết bám được ông má chín nào, ra một tờ báo hằng ngày để chửi vung lên. Chửi hết
cả mọi người rồi anh mới lôi đến một số bạn cũ của anh ra. Toàn là những người
hiền lành, xưa nay chưa hề chạm đến một sợi tóc của anh. Nhưng tên họ trên những
tờ báo của phong trào giải phóng quốc gia được hoan nghênh làm ngứa mắt anh.
Anh hằn học gi mỉa họ là những nhà văn vô sản và cho họ là một bọn khố rách áo
ôm đã đến ngày mả phát, ăn mặc và tẩm bổ hết cả phần thiên hạ. Tôi cười nhạt.
Không phải tôi khó chịu vì những lời vu cáo của anh. Tôi khó chịu chính vì thấy
đến tận lúc ấy mà vẫn còn một số nhà văn Việt Nam dùng ngòi bút mình để làm những
việc đê tiện thế. Anh Hoàng vẫn là con người cũ. Anh không chịu đổi. Tôi đã tưởng
anh với tôi chẳng bao giờ còn thân mật với nhau trở lại... Nhưng sao gặp tôi lần
này anh lại hân hoan đến thế? Anh đã đủ thì giờ để lột xác rồi chăng? Hay cuộc
kháng chiến mãnh liệt của dân ta đã quét sạch khỏi đầu anh những cái gì cũ còn
sót lại? Thật tình, tôi rất cảm động khi nghe thấy anh kể lể:
- Chẳng ngày nào chúng tôi không nhắc đến anh. Nguyên một hôm
xem tờ báo của ông hàng xóm thấy có bài của anh, tôi đoán anh làm tuyên truyền ở
tỉnh này. Tiện gặp một cán bộ về làng, tôi nhờ gửi cho anh một bức thư. Cũng là
gửi cầu may. Thật không dám chắc thư đến tay anh. Mà có đến, có lẽ anh nhiều việc,
cũng khó lòng về chơi với chúng tôi. Thế mà lại được gặp anh. Trông anh không lấy
gì làm khoẻ mà sao anh đi bộ tài thế? Mà sao anh lại tìm vào được đúng làng
này? Hồi mới đến đây, tôi ra khỏi nhà độ mươi bước là đã lạc. Nhiều ngõ quá mà
ngõ nào cũng giống ngõ nào. Có khi ra đồng về cũng nhầm ngõ...
Cái nhà Hoàng ở nhờ có thể gọi là rộng rãi. Ba gian nhà gạch
sạch sẽ. Hàng hiên rộng ở ngoài. Sân gạch, tường hoa. Một mảnh vườn trồng rau
tươi rười rượi. Xinh xắn lắm. Thích nhất là gia đình anh được ở cả nhà. Chủ
nhân cũng là người buôn bán trên Hà Nội. Ông thường nhờ vốn liếng và mối hàng của
vợ chồng anh. Còn gì hơn là lúc này trả nghĩa lại nhau. Ông đã dọn sang nhà ông
bố ở liền bên, nhường lại nhà cho anh hoàn toàn sử dụng. Anh cho tôi biết thế
và bảo tiếp:
- Giá chúng tôi chưa tìm được nhà ông thì chưa biết ra sao.
Tôi thấy nhiều người tản cư khổ lắm. Anh tính có đời nào anh ruột tản cư về nhà
em mà đến lú vợ đẻ, em bắt ra một cái lều ngoài vườn để đẻ!
Tôi cho anh biết người nhà quê mình có tục kiêng...
- Thì đã đành là vậy... Anh nói giọng tức tối và bất bình -
Thì đã đành là vậy, nhưng lúc này còn kiêng kỵ gì? Mà có những thế thôi đâu! Thấy
anh bây giờ khổ sở, em đã chẳng thương, lại còn xỉa xói, nhắc đến những lúc
hoang phí trước để mà xỉ vả. Nào "lúc có tiền thì chẳng biết ăn biết nhịn
để dè, chỉ biết nay gà mai chó!", nào "lúc buôn bán phát tài, bảo gửi
tiền về quê tậu ruộng vườn thì bảo không cần vườn ruộng, để tậu nhà ở tỉnh kia,
bây giờ không bám lấy nhà ở tỉnh đi?..." Tệ lắm! Anh tính mấy đời mới có một
phen loạn lạc thế này? Có tiền, thằng nào chẳng ăn chơi? Có mấy người cứ còm cọm
làm như trâu, ăn chẳng dám ăn, mặc chẳng dám mặc, ở thì chui rúc thế nào cho
xong thôi, để tiền mà tậu vườn, tậu ruộng như họ?
Chị Hoàng tiếp lời chồng:
- Họ làm chính chúng tôi cũng đâm lo. Có thể nói rằng trong một
trăm người thì chín mươi người cho rằng Tây không đời nào dám đánh mình. Mãi đến
lúc có lệnh tản cư tôi vẫn cho là mình tản cư để dọa nó thôi. Thế rồi đùng một
cái, đánh nhau. Chúng tôi chạy được người chứ của thì chạy làm sao kịp? May mà
còn vớt vát được ít tiền, một ít hàng để ở cái trại của chúng tôi, ở ngoại
thành. Khéo lắm thì ăn được độ một năm. Ðến lúc hết tất nhiên là phải khổ rồi.
Chỉ sợ đến lúc ấy, họ lại mỉa lại. Thành thử bây giờ, lý ra thì có muốn ăn một
con gà chưa đến nỗi không mua nổi mà ăn, nhưng ăn lại sợ người ta biết, sau này
người ta nói cho thì nhục.
Họ tàn nhẫn lắm cơ, bác ạ!
Anh Hoàng cười:
- Mà sao họ đã bận rộn nhiều đến thế mà vẫn còn thì giờ chú ý
đến những người chung quanh nhiều đến thế? Anh chỉ giết một con gà ngày mai cả
làng này đã biết. Này, anh mới đến chơi thế mà lúc nãy tôi đã thấy có người nấp
nom rồi. Ngày mai thế nào chuyện anh đến chơi tôi cũng đã chạy khắp làng. Họ sẽ
kể rất rạch ròi tên anh, tuổi anh, anh béo gầy thế nào, có bao nhiêu nốt ruồi ở
mặt, có mấy lỗ rách ở ống quần bên trái.
Tôi mỉm cười, cắt nghĩa cho anh hiểu: lúc này họ cần để ý đến
những người lạ mặt tới làng. Tôi chắc mấy người nấp nom tôi là mấy người có
trách nhiệm trong uỷ ban mấy anh tự vệ.
- Lại còn các ông ủy ban với các bố tự vệ nữa mới chết người
ta chứ! Họ vừa ngố vừa nhặng sị. Ðàn bà chửa mà đến nỗi cho là có lựu đạn giắt
trong quần! Họ đánh vần xong một cái giấy ít nhất phải mất mười lăm phút, thế
mà động thấy ai đi qua là hỏi giấy. Anh đi, hỏi. Anh về, hỏi, hỏi nữa. Anh vừa
ra khỏi làng, sực nhớ quên cái mũ, trở lại lấy, cũng hỏi rồi mới cho vào. Lát nữa
anh ra, lại hỏi. Hình như họ cho cái việc hỏi giấy là thú lắm.
Anh cười gằn một tiếng, nhìn bao trùm cả người tôi, hỏi:
- Anh sống ở nhà quê nhiều, anh có hiểu tâm lý của họ không?
Anh thử cắt nghĩa hộ tôi tại làm sao họ lại nhiêu khê đến thế?
Từ trước đến nay, tôi chỉ hoàn toàn ở Hà Nội, thành thử chỉ mới
biết những người nhà quê qua những truyện ngắn của anh. Bây giờ gần họ, tôi quả
là thấy không nhịn được. Không chịu được!
Nỗi khinh bỉ của anh phì cả ra ngoài theo cái bĩu môi dài thườn
thượt. Mũi anh nhăn lại như ngửi thấy mùi xác thối. Vợ chồng anh thi nhau kể tội
người nhà quê đủ thứ. Toàn là những người đần độn, lỗ mãng, ích kỷ, tham lam, bần
tiện cả. Cha con, anh em ruột cũng chẳng tốt với nhau. Các ông thanh niên, các
bà phụ nữ mới bây giờ lại càng lố lăng. Viết chữ quốc ngữ sai vần mà lại cứ hay
nói chuyện chính trị rối rít cả lên. Mở miệng ra là thấy đề nghị, yêu cầu, phê
bình, cảnh cáo, thực dân phát xít, phản động, xã hội chủ nghĩa, dân chủ với cả
dân tân chủ nữa mới khổ thiên hạ chứ! Họ mà tóm được ai thì có mà chạy lên trời!
Thế nào họ cũng tuyên truyền cho hàng giờ. Có lẽ họ cho những người ở Hà Nội về
như vợ chồng anh đều lạc hậu, chưa giác ngộ nên họ không bỏ lỡ một dịp nào để
tuyên truyền vợ chồng anh. Mà tuyên truyền như thế nào!...
Anh trợn mắt bảo tôi:
- Tôi kể cho anh nghe chuyện này thế nào anh cũng cho là bịa.
Nhưng tôi có bịa một tí nào, tôi chết. Một hôm, tôi đi chợ huyện chơi. Ở nhà đã
hỏi đường cẩn thận rồi, nhưng đến một ngã ba, lại quên béng mất, không biết phải
rẽ lối nào. Ðành đứng lại, chờ có người đi qua thì hỏi. Chờ mãi mới thấy một
ông thanh niên nghễu nghện vác một bó tre đi tới. Tôi chào rồi hỏi: "Ði chợ
huyện lối nào, ông làm ơn chỉ giúp tôi!" Anh ta trố mặt nhìn tôi chẳng rằng
chẳng nói, như nhìn một giống người lạ mới từ Hoả tinh rơi xuống. Tôi biết hiệu,
rút giấy đưa cho anh xem rồi lại hỏi. Bây giờ anh ta mới bảo: "Ông cứ đi lối
này, đến chỗ có một cây đa to thì rẽ về tay phải, đi một quãng lại rẽ về tay
trái, qua một cách đồng, vào đường gạch làng Ngò, vòng qua đằng sau đình, rẽ về
tay phải, đi một quãng nữa là đến chợ". Ðại khái thế, chứ không hoàn toàn
đúng thế. Chỉ biết là nó lôi thôi rắc rối, nhiều bên phải bên trái quá, đến nỗi
tôi không tài nào nhận được. Anh ta bày cho tôi một cách: đứng đợi đấy, gặp ai
gánh hàng đi chợ thì theo. Tôi cho là phải. Anh ta cười bảo: "Thôi thế
chào ông. Cháu vô phép ông đi trước. Cháu vội lắm. Cháu phải vác ngay bó tre
này lên Thượng để làm công tác phá hoại, cản cơ giới hoá tối tân của địch. Cuộc
trường kỳ kháng chiến của ta phải chia làm ba giai đoạn: giai đoạn phòng ngự,
giai đoạn cầm cự, giai đoạn tổng phản công. Giai đoạn phòng ngự nghĩa
là..." Anh ta cứ thế, đọc thuộc lòng cho tôi nghe cả một bài dài đến năm
trang giấy.
Chị Hoàng cười rú lên. Tôi cũng cười, nhưng có lẽ cái cười chẳng
được tươi cho lắm. Anh thấy cần phải thề lần nữa:
- Tôi có bịa thì tôi chết. Mà tôi lại thề với anh rằng lúc ấy
tôi ngạc nhiên quá, không còn cười được, vả lại cũng không dám cười. Cười, nhỡ
anh ta đánh cho thì tai hại. Nhưng từ hôm ấy ngày nào tôi cũng bắt nhà tôi đóng
cổng suốt ngày không dám đi đâu nữa.
Tôi cười gượng. Ðiều muốn nói với anh, tôi đành giấu kín
trong lòng không nói nữa. Tôi biết chẳng đời nào anh nhận làm một anh tuyên
truyền nhãi nhép như tôi. Vả lại dầu có rủ được anh làm như tôi, khoác cái ba
lô lên vai, đi hết làng nọ đến làng kia để nhận xét nông thôn một cách kỹ càng
hơn cũng chẳng ích gì. Anh đã quen nhìn đời và nhìn người một phía thôi. Anh
trông thấy anh thanh niên đọc thuộc lòng bài "ba giai đoạn" nhưng anh
không trông thấy bó tre anh thanh niên vui vẻ vác đi để ngăn quân thù. Mà ngay
trong cái việc anh thanh niên đọc thuộc lòng bài báo như một con vẹt biết nói
kia, anh cũng chỉ nhìn thấy cái ngố bề ngoài của nó mà không nhìn thấy cái
nguyên cớ thật đẹp đẽ bên trong. Vẫn giữ đôi mắt ấy để nhìn đời thì càng đi nhiều,
càng quan sát lắm, người ta chỉ càng thêm chua chát và chán nản.
Tôi biết lắm. Trước mặt người đàn anh trong văn giới ấy, tôi
chỉ là một kẻ non dại, mới tập tọng học nghề. Bởi vậy tôi không dám nói hết những
ý nghĩa của tôi ra. Tôi chỉ rụt rè và đưa ra vài điểm nhận xét:
- Có nhiều cái kỳ lạ lắm. Người nhà quê dẫu sao thì cũng còn
là một cái bí mật đối với chúng ta. Tôi gần gũi họ rất nhiều. Tôi dã gần như thất
vọng vì thấy họ phần đông dốt nát, theo nhếch, nhát sợ, nhịn nhục một cách đáng
thương. Nghe các ông nói đến "sức mạnh quần chúng", tôi rất nghi ngờ.
Tôi vẫn cho rằng đa số nước mình là nông dân, mà nông dân nước mình thì vạn kiếp
nữa cũng chưa làm cách mạng. Cái thời Lê Lợi, Quang Trung, có lẽ đã chết hẳn rồi,
chẳng bao giờ còn trở lại. Nhưng đến hồi Tổng khởi nghĩa thì tôi đã ngả ngửa
người. Té ra người nông dân nước mình vẫn có thể làm cách mạng, mà làm cách mạng
hăng hái lắm. Tôi đã theo họ đi đánh phủ. Tôi đã gặp họ trong mặt trận Nam
Trung Bộ. Vô số anh răng đen, mắt toét, gọi lựu đạn là "nựu đạn", hát
Tiến quân ca như người buồn ngủ cầu kinh, mà lúc ra trận thì xung phong can đảm
lắm. Mà không hề bận tâm đến vợ con, nhà cửa, như họ vẫn thường thế nữa. Gặp họ,
anh không thể tưởng tượng được rằng chính những người ấy, chỉ trước đây dăm
tháng, giá có bị anh lính lệ ghẹo vợ ngay trước mặt cũng chỉ đành im thin thít
mà đi, đi một quãng thật xa rồi mới dám lẩm bẩm chửi thầm vài tiếng, còn bao
nhiêu ghen tức đành là đem về nhà trút vào má vợ.
Hoàng nhếch một khoé môi lên, gay gắt:
- Nhưng anh vẫn không thể chối được rằng họ có nhiều cái ngố
không chịu được. Tôi thấy có nhiều ông tự vệ hay cả vệ quốc quân nữa táy máy
nghịch súng hay lựu đạn làm chết người như bỡn. Nhiều ông cầm đến một khẩu súng
kiểu lạ, không biết bắn thế nào. Nước mình như vậy, suốt đời không được mó đến
khẩu súng thì làm gì biết bắn, họ đánh mãi rồi cũng biết. Thì cứ để cho họ đánh
Tây đi! Nhưng tai hại là người ta lại cứ muốn cho họ làm uỷ ban nọ, uỷ ban kia
nữa, thế mới chết người ta chứ! Nói thí dụ ngay như cái thằng chủ tịch uỷ ban
khu phố tôi ở Hà Nội lúc chưa đánh nhau, nó là một anh hàng cháo lòng. Bán cháo
lòng thì nó biết đánh tiết canh, chứ biết làm uỷ ban thế nào mà bắt nó làm uỷ
ban? Ông chủ tịch làng này, xem giấy của nhà tôi, thấy đề Nguyễn Thục Hiền, cứ
nhất định bảo là giấy mượn của đàn ông. Theo ông ấy, thì đàn bà ai cũng phải là
thị này, thị nọ. Chị Hoàng cười nhiều quá, phát ho, chảy cả nước mắt ra. Rút
khăn tay lau nước mắt xong, chị chép miệng lắc đầu, bảo tôi:
- Giá bác ở đây thì nhiều lúc bác cũng cười đến chết. Thế mà
ông chủ tịch ấy cứ nằn nì mãi hai ba lượt, yêu cầu nhà tôi dạy bình dân học vụ
hay làm tuyên truyền giúp.
Anh chồng tiếp:
- Tôi chẳng có việc gì làm, lắm lúc cũng buồn. Nhưng công tác
với những người như vậy thì anh bảo công tác làm sao được? Ðành để các ông ấy gọi
là phản động.
Muốn lảng chuyện, tôi hỏi:
- Lúc này nhiều thì giờ thế, chắc anh viết được. Anh đã viết
được cái gì thú chưa?
- Chưa, bởi vì ngay đến một cái bàn viết ra hồn cũng không
còn nữa. Nhưng thế nào chúng mình cũng phải viết một cái gì để ghi lại cái thời
này. Nếu khéo làm còn có thể hay bằng mấy cái "Số đỏ" của Vũ Trọng Phụng.
Phụng nó còn sống đến lúc này phải biết!
Cơm chiều xong vào lúc bốn giờ, Hoàng mời tôi cùng đi với vợ
chồng anh đến chơi nhà mấy người ở phố cũng tản cư về. Có đâu một ông tuần phu
về hưu, một ông đốc học bị thải hồi vì một vụ hiếp học trò, một cụ phán già trước
đây chuyên môn sống về nghề lo kiện, hay chạy cửu phẩm cho thiên hạ. Anh chẳng
ưa gì họ bởi vì họ chẳng biết gì đến văn chương nghệ thuật, chỉ tổ tôm là giỏi.
Nói chuyện với họ chán phè. Nhưng nếu chẳng giao thiệp với họ
thì cũng chẳng biết đến chơi nhà ai được nữa... Anh vừa đi vừa tâm sự nhỏ với
tôi như vậy, và thì hầm kề sát tai tôi những cái thối nát, ngu ngốc, gàn dở, rởm
đời của từng người một, trong khi chúng tôi bước chầm chậm để đợi chị Hoàng ra
sau chúng tôi một chút.
Chị Hoàng rảo bước để theo kịp chúng tôi. Hai má đỏ ứng vì lửa
bếp. Chị cắt nghĩa sự chậm trễ của chị:
- Tôi xem lại nồi khoai lang vui, để lát nữa về ăn. ở đây cao
lương mỹ vị chẳng có gì, nhưng được cái thức ăn vặt thì sẵn. Bác ở chơi đây,
mai tôi xem nhà ai có mía to mua mấy cây về ướp hoa bưởi ăn thơm lắm.
Ðến một cái cổng gạch lớn có dây leo, anh Hoàng giật dây
chuông.
Một thằng bé chạy ra, lễ phép chào:
- Lạy ông!
- Không dám. Cụ Phạm có nhà không cậu?
- Bẩm ông, cụ sang bên ông đốc.
- Sao thấy nói ông đốc ở đây từ sáng?
- Bẩm không ạ! Sáng nay không thấy ông đốc sang chơi bên này.
Chúng tôi quay trở lại. Qua mấy cái ngõ ngoằn ngoèo khác, đến
một cái cổng gạch có dây leo khác. Một chị vú ẵm em đứng cổng:
- Lạy ông! Lạy bà!
- Không dám. Ông đốc có nhà hay đi chơi vắng?
- Bẩm ông, ông đốc con sang cụ tuần.
- Sao bên cụ tuần bảo sang đây?
- Bẩm ông, không ạ!
Anh Hoàng quay ra. Ði được mấy bước, anh quay lại khẽ bảo vợ:
- Các bố lại tổ tôm. Mụ Yên Kỷ cũng không có nhà, phải không?
Con mụ ấy cũng là đệ tử tổ tôm hạng nặng. Chắc họ tụ tập ở
đây hay ở bên nhà cụ Phạm, sai người gác cổng.
Chị Hoàng không có ý kiến gì. Anh Hoàng vỗ vai bảo tôi:
- Anh nghĩ có buồn không? Tri thức thì thế đấy. Còn dân
thì... như anh đã biết.
Tôi thầm rủa sự tình cờ sao lại xô đẩy anh về đây cùng với bằng
ấy thứ cặn bã của giới thượng lưu trí thức. Sao anh không đi theo bộ đội, đi diễn
kịch tuyên truyền nhập bọn với các đoàn văn hoá kháng chiến để được thấy những
sinh viên, công chức sung vào vệ quốc quân, những bác sĩ sốt sắng làm việc
trong các viện khảo cứu hay các viện quân y, những bạn văn nghệ sĩ của anh đang
mê mải đi sâu vào quần chúng để học họ và dạy họ, đồng thời tìm những cảm hứng
mới cho văn nghệ?
Tôi cười nhạt:
- Nghe anh nói, tôi nản quá. Như vậy cuộc kháng chiến của ta
có lẽ đến hỏng à?
Anh chộp lấy câu của tôi, nhanh như một con mèo vồ con chuột:
- Ấy đấy, tôi bi lắm. Cứ quan sát kỹ thì rất nản. Nhưng tôi
chưa nản có lẽ chỉ vì tôi tin vào ông Cụ. Tôi cho rằng cuộc Cách mạng tháng Tám
cũng như cuộc kháng chiến hiện nay chỉ ăn vì người lãnh đạo cừ. Hồ Chí Minh
đáng lẽ phải cứu vãn một nước như thế nào kia, mới xứng tài. Phải cứu một nước
như nước mình kể cũng khổ cho ông Cụ lắm. Anh tính tượng trưng cho phong trào
giải phóng cả một cái đệ tứ cường quốc là Ðại Pháp, mà chỉ có đến thằng Ðờ-Gôn.
Tôi nhắc đến tên mấy nhân vật kháng chiến khác của Pháp, còn
đáng tiêu biểu bằng mấy Ðờ-Gôn. Anh lắc đầu:
- Bằng thế nào được Hồ Chí Minh!
Và anh tiếp:
- Ông Cụ làm những việc nó cừ quá, đến nỗi tôi cứ cho rằng dù
dân mình có tồi đi nữa, ông Cụ xoay quanh rồi cũng cứ độc lập như thường. Những
cú như cú Hiệp định sơ bộ mồng 6 tháng 3 thì đến chính thằng Mỹ cũng phải lắc đầu:
nó cho rằng không thể nào bịp ông già nổi. Thằng Pháp thì nghĩa là gì? Bệt lắm
rồi. Không có thằng Mỹ xúi thì làm gì Pháp dám trở mặt phản Hiệp định mồng 6
tháng 3? Mình cho nó như vậy đã là phúc đời nhà nó lắm rồi. Ðáng lẽ nó phải bám
chằng chằng lấy chứ?
Buổi tối ăn khoai vùi xong, uống mấy tuần trà rồi đi nằm sớm.
Anh sợ tôi đã đi hàng mười cây số, lại ngồi nói chuyện suốt từ lúc đến, chắc
không thể ngồi được nữa. Vả lại tuy chưa buồn ngủ nhưng nằm đắp chăn cho ấm và
buông màn cho khỏi muỗi thì vẫn tốt. Hai cái giường nhỏ kề song song, cách nhau
có một lối đi nhỏ. Màn tuyn trắng toát. Chỉ trông cũng đã thấy thơm tho và thoải
mái.
Hoàng với tôi đi nằm trước. Một gói thuốc lá thơm và một bao
diêm đặt ở bên cạnh cái đĩa gạt tàn thuốc lá ở đầu giường. Tôi để nguyên cả quần
áo tây và chỉ ngay ngáy lo đêm nay một vài chú rận có thể rời sơ-mi tôi để du lịch
ra cái chăn bông thoang thoảng nước hoa. Mọi hôm tôi vẫn đắp chăn chung với anh
em thợ nhà in, cái giống ký sinh trùng hay phản chủ ấy, ở người tôi, không dám cam
đoan là tuyệt nhiên không có. Chị Hoàng thu dọn đồ đạc, đóng cửa, rồi đem một
cây đèn to lại chỗ cây giường chúng tôi, lấy ra một cái chai. Anh Hoàng trông
thấy, hỏi:
- Mình thắp đèn to đấy à?
- Vâng, tôi đổ thêm dầu đã.
Anh Hoàng hỏi tôi:
- Anh có thích đọc Tam Quốc không?
Tôi thú thật là chưa bao giờ được xem trọn bộ.
- Thế thì thật là đáng tiếc. Trong tất cả các tiểu thuyết
Ðông Tây, có hai quyển tôi mê nhất là Tam Quốc và Ðông Chu Liệt Quốc. Về cái
môn tiểu thuyết thì thằng Tàu nhất. Nhưng cũng chỉ có hai bộ ấy thôi. Thuỷ Hử
cũng hay, chẳng kém Tam Quốc và Ðông Chu Liệt Quốc. Những tiểu thuyết khác hay
đến đâu, anh cũng chỉ đọc một lần. Ðọc đến lần thứ hai là giảm thú rồi. Nhưng
Tam Quốc với Ðông Chu thì đọc đi đọc lại mãi vẫn thấy thú như mới đọc.
- Anh có hai bộ ấy ở đây không?
- Bộ Ðông Chu mất ở Hà Nội, không đem đi được. Thế mới sầu đời
chứ! Hận quá, may mà bộ Tam Quốc lại để ở ngoại thành, đem đi được. Nếu không
thì buồn đến chết.
Anh gạt tàn thuốc lá rồi bảo tiếp:
- Sở dĩ lúc này tôi hỏi anh là có thích đọc Tam Quốc không là
vì mỗi tối trước khi đi ngủ, chúng tôi có cái thú đọc một vài hồi Tam Quốc rồi
mới ngủ. Nhưng hôm nay anh không biết có nên bỏ cái lệ ấy đi không? Nếu anh
thích nói chuyện thì nghỉ một tối để chúng mình nói chuyện cũng chẳng sao.
Cố nhiên là tôi mời vợ chồng anh cứ giữ lệ thường. Anh có vẻ
mừng rỡ lắm:
- Vâng, nếu anh cho phép thì ta cứ đọc. Chúng mình cùng nghe
rồi lúc nào buồn ngủ thì ta ngủ. Tôi trông anh hơi mệt có lẽ cần ngủ sớm. Không
biết đèn sáng lại đọc thế có phiền anh không?
Tôi cho anh biết là tôi vẫn ngủ ngay trong nhà in, đèn sáng
và máy chạy ầm ầm, ở đây chăn ấm thế này thì dẫu súng có nổ ngay ở liền bên tôi
vẫn ngủ ngon lành lắm... Anh cười cùng cục trong cổ như một con gà trống:
- Vâng, thế thì ta cứ đọc. Mình lấy ra đi.
Chị Hoàng chạy lại bíp lấy một quyển sách bìa dày, gáy da,
đem lại.
- Mình đọc hay tôi đọc?
- Mình đọc đi.
Chị để cây đèn lên trên cái đôn thấp ở đầu giường, cởi áo dài
lên giường nằm cạnh thằng con đã chui vào chăn trước.
- Hôm qua đọc đến đâu rồi nhỉ. Hình như...
- Không cần, mình đọc lại cái đoạn thằng Tào Tháo nó tán Quan
Công ấy. Thế nào? Theo ý anh thì Tào Tháo có giỏi không?
Tôi trả lời qua loa cho xong chuyện:
- Tôi thấy nói là nó giỏi.
- Giỏi lắm anh ạ! Giỏi nhất Tam Quốc. Sao nó tài đến thế.
Chị Hoàng đã tìm thấy, bắt đầu cất tiếng thanh thanh đọc. Anh
Hoàng vừa hút thuốc lá vừa nghe. Mỗi khi đọc đến đoạn hay anh lại vỗ đùi kêu:
- Tài thật! Tài thật! Tài đến thế là cùng! Tiên sư anh Tào
Tháo.
Lão Hạc
Lão Hạc thổi cái mồi rơm, châm đóm. Tôi đã thông điếu và bỏ
thuốc rồi. Tôi mời lão hút trước. Nhưng lão không nghe...
- Ông giáo hút trước đi.
Lão đưa đóm cho tôi...
- Tôi xin cụ...
Và tôi cầm lấy đóm, vo viên một điếu. Tôi rít một hơi xong,
thông điếu rồi mới đặt vào lòng lão. Lão bỏ thuốc, nhưng chưa hút vội. Lão cầm
lấy đóm, gạt tàn, và bảo:
- Có lẽ tôi bán con chó đấy, ông giáo ạ!
Lão đặt xe điếu, hút. Tôi vừa thở khói, vừa gà gà đôi mắt của
người say, nhìn lão, nhìn để làm ra vẻ chú ý đến câu nói của lão đó thôi. Thật
ra thì trong lòng tôi rất dửng dưng. Tôi nghe câu ấy đã nhàm rồi. Tôi lại biết
rằng: lão nói là nói để có đấy thôi; chẳng bao giờ lão bán đâu. Vả lại, có bán
thật nữa thì đã sao? Làm quái gì một con chó mà lão có vẻ băn khoăn quá thế...
Lão hút xong, đặt xe điếu cuống, quay ra ngoài, thở khói. Sau
một điếu thuốc lào, óc người ta tê dại đi trong một nỗi đê mê nhẹ nhõm. Lão Hạc
ngồi lặng lẽ, hưởng chút khoái lạc con con ấy. Tôi cũng ngồi lặng lẽ. Tôi nghĩ
đến mấy quyển sách quý của tôi. Hồi bị ốm nặng ở Sài Gòn tôi bán gần hết cả áo
quần, nhưng vẫn không chịu bán cho ai một quyển. Ốm dậy, tôi về quê, hành lý chỉ
vẻn vẹn có một cái va-ly đựng toàn những sách. Ôi những quyển sách rất nâng
niu! Tôi đã nguyện giữ chúng suốt đời, để lưu lại cái kỷ niệm một thời chăm chỉ,
hăng hái và tin tưởng đầy những say mê đẹp và cao vọng: mỗi lần mở một quyển
ra, chưa kịp đọc dòng nào, tôi đã thấy bừng lên trong lòng tôi như một rạng
đông, cái hình ảnh tuổi hai mươi trong trẻo, biết yêu và biết ghét... Nhưng đời
người ta không chỉ khổ một lần. Mỗi lần cùng đường đất sinh nhai, và bán hết mọi
thứ rồi, tôi lại phải bán đi một ít sách của tôi. Sau cùng chỉ còn có năm quyển,
tôi nhất định, dù có phải chết cũng không chịu bán. Ấy thế mà tôi cũng bán! Mới
cách đây có hơn một tháng thôi, đứa con nhỏ của tôi bị chứng lỵ gần kiệt sức...
Không! Lão Hạc ơi! Ta có quyền giữ cho ta một tí gì đâu? Lão quý con chó vàng của
lão đã thấm vào đâu với tôi quý năm quyển sách của tôi...
Tôi nghĩ thầm trong bụng thế. Còn lão Hạc, lão nghĩ gì? Đột
nhiên lão bảo tôi:
- Này! Thằng cháu nhà tôi, đến một năm nay, chẳng có giấy má
gì đấy, ông giáo ạ!
À! Thì ra lão đang nghĩ đến thằng con lão. Nó đi cao su năm
sáu năm rồi. Hồi tôi mới về, nó đã hết một hạn công-ta. Lão Hạc, đem thư của nó
sang, mượn tôi xem. Nhưng nó xin đăng thêm một hạn nữa... Lão vội cắt nghĩa cho
tôi hiểu tại sao lão đang nói chuyện con chó, lại nhảy vọt sang chuyện thằng
con như vậy:
- Con chó là của cháu nó mua đấy chứ!... Nó mua về nuôi, định
để đến lúc cưới vợ thì giết thịt...
Ấy! Sự đời lại cứ thường như vậy đấy. Người ta đã định rồi chẳng
bao giờ người ta làm được. Hai đứa mê nhau lắm. Bố mẹ đứa con gái biết vậy, nên
cũng bằng lòng gả. Nhưng họ thách nặng quá: nguyên tiền mặt phải một trăm đồng
bạc, lại còn cau, còn rượu... cả cưới nữa thì mất đến cứng hai trăm bạc. Lão Hạc
không lo được. Ý thằng con lão, thì nó muốn bán vườn, cố lo cho bằng được.
Nhưng lão không cho bán. Ai lại bán vườn đi mà lấy vợ? Vả lại bán vườn đi, thì
cưới vợ về, ở đâu? Với lại, nói cho cùng nữa, nếu đằng nhà gái họ cứ khăng
khăng đòi như vậy, thì dẫu có bán vườn đi cũng không đủ cưới. Lão Hạc biết vậy
đấy, nhưng cũng không dám xẵng. Lão tìm lời lẽ giảng giải cho con trai hiểu.
Lão khuyên nó hãy dằn lòng bỏ đám này, để rồi gắng lại ít lâu, xem có đám nào
khác mà nhẹ tiền hơn sẽ liệu; chẳng lấy đứa này thì lấy đứa khác; làng này đã
chết hết con gái đâu mà sợ?... Lạy trời lạy đất! Nó cũng là thằng khá, nó thấy
bố nói thế thì nó thôi ngay, nó không đả động đến việc cưới xin nữa. Nhưng nó
có vẻ buồn. Và lão biết nó vẫn theo đuổi con kia mãi. Lão thương con lắm. Nhưng
biết làm sao được?... Tháng mười năm ấy, con kia đi lấy chồng; nó lấy con trai
một ông phó lý, nhà có của. Thằng con lão sinh phẫn chí. Ngay mấy hôm sau, nó
ra tỉnh đến sở mộ phu, đưa thẻ, ký giấy xin đi làm đồn điền cao su...
Lão rân rấn nước mắt, bảo tôi:
- Trước khi đi, nó còn cho tôi ba đồng bạc, ông giáo ạ! Chả
biết nó gửi thẻ xong, vay trước được mấy đồng, mà đưa về cho tôi ba đồng. Nó
đưa cho tôi ba đồng mà bảo: “Con biếu thầy ba đồng để thỉnh thoảng thầy ăn quà;
xưa nay con ở nhà mãi cũng không nuôi được bữa nào, thì con đi cũng chẳng phải
lo; thầy bòn vườn đất với làm thuê làm mướn thêm cho người ta thế nào cũng đủ
ăn; con đi chuyến này cố chí làm ăn, bao giờ có bạc trăm con mới về, không có
tiền, sống khổ sống sở ở cái làng này, nhục lắm!...”. Tôi chỉ còn biết khóc, chứ
còn biết làm sao được nữa? Thẻ của nó, người ta giữ. Hình của nó, người ta chụp
rồi. Nó lại đã lấy tiền của người ta. Nó là người của người ta rồi, chứ đâu còn
là con tôi?...
Lão Hạc ơi! Bây giờ thì tôi hiểu tại sao lão không muốn bán
con chó vàng của lão. Lão chỉ còn một mình nó để làm khuây. Vợ lão chết rồi.
Con lão đi bằn bặt. Già rồi mà ngày cũng như đêm, chỉ thui thủi một mình thì ai
mà chả phải buồn? Những lúc buồn, có con chó làm bạn thì cũng đỡ buồn một chút.
Lão gọi nó là cậu Vàng như một bà hiếm hoi gọi đứa con cầu tự. Thỉnh thoảng
không có việc gì làm, lão lại bắt rận cho nó hay đem nó ra ao tắm. Lão cho nó
ăn cơm trong một cái bát như một nhà giàu. Lão ăn gì lão cũng chia cho nó cùng
ăn. Những buổi tối, khi lão uống rượu, thì nó ngồi ở dưới chân. Lão cứ nhắm vài
miếng lại gắp cho nó một miếng như người ta gắp thức ăn cho con trẻ. Rồi lão chửi
yêu nó, lão nói với nó như nói với một đứa cháu bé về bố nó. Lão bảo nó thế
này:
- Cậu có nhớ bố cậu không? Hả cậu Vàng? Bố cậu lâu lắm không
có thư về. Bố cậu đi có lẽ được đến ba năm rồi đấy... Hơn ba năm... Có đến ngót
bốn năm... Không biết cuối năm nay bố cậu có về không? Nó mà về, nó cưới vợ,
thì nó giết cậu. Liệu hồn cậu đấy!
Con chó vẫn hếch mõm lên nhìn, chẳng lộ một vẻ gì; lão lừ mắt
nhìn trừng trừng vào mắt nó, to tiếng dọa:
- Nó giết mày đấy! Mày có biết không? Ông cho thì bỏ bố!
Con chó tưởng chủ mắng, vẫy đuôi mừng, để lấy lại lòng chủ.
Lão Hạc nạt to hơn nữa:
- Mừng à? Vẫy đuôi à? Vẫy đuôi thì cũng giết! Cho cậu chết!
Thấy lão sừng sộ quá, con chó vừa vẫy đuôi, vừa chực lảng.
Nhưng lão vội nắm lấy nó, ôm đầu nó, đập nhè nhẹ vào lưng nó và dấu dí:
- À không! À không! Không giết cậu Vàng đâu nhỉ!... Cậu Vàng
của ông ngoan lắm! Ông không cho giết... Ông để cậu Vàng ông nuôi...
Lão buông nó ra để nhấc chén, ghé lên môi uống. Lão ngẩn mặt
ra một chút, rồi bỗng nhiên thở dài. Rồi lão lẩm bẩm tính. Đấy là lão tính tiền
bòn vườn của con...
Sau khi thằng con đi, lão tự hỏi rằng: “Cái vườn là của con
ta. Hồi còn mồ ma mẹ nó, mẹ nó cố thắt lưng buộc bụng, dè sẻn mãi, mới để ra được
năm mươi đồng bạc tậu. Hồi ấy, mọi thức còn rẻ cả... Của mẹ nó tậu, thì nó hưởng.
Lớp trước nó đòi bán, ta không cho bán là ta có ý giữ cho nó, chứ có phải giữ để
ta ăn đâu? Nó không có tiền cưới vợ, phẫn chí bước ra đi, thì đến lúc có tiền để
lấy vợ, mới chịu về. Ta bòn vườn của nó, cũng nên để ra cho nó; đến lúc nó về,
nếu nó không đủ tiền cưới vợ thì ta thêm vào với nó, nếu nó có đủ tiền cưới vợ,
thì ta cho vợ chồng nó để có chút vốn mà làm ăn...”. Lão tự bảo lão như thế, và
lão làm đúng như thế. Lão làm thuê kiếm ăn. Hoa lợi của khu vườn được bao
nhiêu, lão để riêng ra. Lão chắc mẩm thế nào đến lúc con lão về, lão cũng có được
một trăm đồng bạc...
Lão lắc đầu chán nản, bảo tôi:
- Ấy thế mà bây giờ hết nhẵn, ông giáo ạ! Tôi chỉ ốm có một
trận đấy thôi. Một trận đúng hai tháng, mười tám ngày, ông giáo ạ! Hai tháng mười
tám ngày đã không làm ra được một xu, lại còn thuốc, lại còn ăn... Ông thử tính
ra xem bao nhiêu tiền vào đấy?...
Sau trận ốm, lão yếu người đi ghê lắm. Những công việc nặng
không làm được nữa. Làng mất vè sợi, nghề vải đảnh phải bỏ. Đàn bà rỗi rãi nhiều.
Còn tí việc nhẹ nào, họ tranh nhau làm mất cả. Lão Hạc không có việc. Rồi lại
bão. Hoa mầu bị phá sạch sành sanh. Từ ngày bão đến nay, vườn lão chưa có một
tí gì bán. Gạo thì cứ kém mãi đi. Một lão với một con chó mỗi ngày ba hào gạo,
mà gia sự vẫn còn đói deo đói dắt...
- Thì ra cậu Vàng cậu ấy ăn khỏe hơn cả tôi ông giáo ạ. Mỗi
ngày cậu ấy ăn thế, bỏ rẻ cũng mất hào rưỡi, hai hào đấy. Cứ mãi thế này thì
tôi lấy tiền đâu mà nuôi được? Mà cho cậu ấy ăn ít thì cậu ấy gày đi, bán hụt
tiền, có phải hoài không? Bây giờ cậu ấy béo trùng trục, mua đắt, người ta cũng
thích...
Lão ngắt lại một chút, rồi tắc lưỡi:
- Thôi thì bán phắt đi! Đỡ được đồng nào, hay đồng ấy. Bây giờ
tiêu một xu cũng là tiêu vào tiền của cháu. Tiêu lắm chỉ chết nó. Tôi bây giờ
có làm gì được đâu?
Hôm sau lão Hạc sang nhà tôi. Vừa thấy tôi, lão báo ngay:
- Cậu Vàng đi đời rồi, ông giáo ạ!
- Cụ bán rồi?
- Bán rồi? Họ vừa bắt xong.
Lão cố làm ra vẻ vui vẻ. Nhưng trông lão cười như mếu và đôi
mắt lão ầng ậng nước, tôi muốn ôm choàng lấy lão mà òa lên khóc. Bây giờ thì
tôi không xót năm quyển sách của tôi quá như trước nữa. Tôi chỉ ái ngại cho lão
Hạc. Tôi hỏi cho có chuyện:
Mặt lão đột nhiên co dúm lại. Những vết nhăn xô lại với nhau,
ép cho nước mắt chảy ra. Cái đầu lão ngoẹo về một bên và cái miệng móm mém của
lão mếu như con nít. Lão hu hu khóc...
- Khốn nạn... Ông giáo ơi! Nó có biết gì đâu! Nó thấy tôi gọi
về thì chạy ngay về, vẫy đuôi mừng. Tôi cho nó ăn cơm. Nó đang ăn thì thằng Mục
nấp trong nhà, ngay đằng sau nó, tóm lấy hai cẳng sau nó dốc ngược nó lên. Cứ
thế là thằng Mục với thằng Xiên, hai thằng chúng nó chỉ loay hoay một lúc đã
trói chặt cả bốn chân nó lại. Bấy giờ cu cậu mới biết là cu cậu chết! Này! Ông
giáo ạ! Cái giống nó cũng khôn! Nó cứ làm in như nó trách tôi; nó kêu ư ử, nhìn
tôi như muốn bảo tôi rằng: “A! Lão già tệ lắm! Tôi ăn ở với lão như thế mà lão
xử với tôi như thế này?”. Thì ra tôi già bằng này tuổi đầu rồi còn đánh lừa một
con chó, nó không ngờ tôi nỡ tâm lừa nó!
Tôi an ủi lão:
- Cụ cứ tưởng thế đấy chứ nó chả hiểu đâu! Vả lại ai nuôi chó
mà chả bán hay giết thịt? Ta giết nó chính là hóa kiếp cho nó đấy, hóa kiếp để
cho nó làm kiếp khác.
Lão chua chát bảo:
- Ông giáo nói phải! Kiếp con chó là kiếp khổ thì ta hóa kiếp
cho nó để nó làm kiếp người, may ra có sung sướng hơn một chút... kiếp người
như kiếp tôi chẳng hạn!...
Tôi bùi ngùi nhìn lão bảo:
- Kiếp ai cũng thế thôi, cụ ạ! Cụ tưởng tôi sung sướng hơn
chăng?
- Thế thì không biết nếu kiếp người cũng khổ nốt thì ta nên
làm gì cho thật sướng?
Lão cười và ho sòng sọc. Tôi nắm lấy cái vai gầy của lão, ôn
tồn bảo:
- Chẳng kiếp gì sung sướng thật, nhưng có cái này là sung sướng:
Bây giờ cụ ngồi xuống phản này chơi, tôi đi luộc mấy củ khoai lang, nấu một ấm
nước chè tươi thật đặc; ông con mình ăn khoai, uống nước chè, rồi hút thuốc
lào... Thế là sướng.
- Vâng! Ông giáo dạy phải! Đối với chúng mình thì thế là sung
sướng.
Lão nói xong lại cười đưa đà. Tiếng cười gượng nhưng nghe đã
hiền hậu lại. Tôi vui vẻ bảo:
- Thế là được, chứ gì? Vậy cụ ngồi xuống đây, tôi đi luộc
khoai, nấu nước.
- Nói đùa thế, chứ ông giáo cho để khi khác?...
- Việc gì còn phải chờ khi khác?... Không bao giờ nên hoãn sự
sung sướng lại. Cụ cứ ngồi xuống đây! Tôi làm nhanh lắm...
- Đã biết, nhưng tôi còn muốn nhờ ông một việc...
Mặt lão nghiêm trang lại...
- Việc gì thế, cụ?
- Ông giáo để tôi nói... Nó hơi dài dòng một tí.
- Vâng, cụ nói.
- Nó thế này, ông giáo ạ!
Và lão kể. Lão kể nhỏ nhẹ và dài dòng thật. Nhưng đại khái có
thể rút vào hai việc. Việc thứ nhất: Lão thì già, con đi vắng, vả lại nó cũng
còn dại lắm, nếu không có người trông nom cho thì khó mà giữ được vườn đất để
làm ăn ở làng này. Tôi là người nhiều chữ nghĩa, nhiều lý luận, người ta kiêng
nể, vậy lão muốn nhờ tôi cho lão gửi ba sào vườn của thằng con lão, lão viết
văn tự nhượng cho tôi để không ai còn tơ tưởng dòm ngó đến; khi nào con lão về
thì nó sẽ nhận vườn làm, nhưng văn tự cứ để tên tôi cũng được, để thế để tôi
trông coi cho nó... Việc thứ hai: Lão già yếu lắm rồi, không biết sống chết lúc
nào: con không có nhà, lỡ chết không biết ai đứng ra lo cho được; để phiền cho
hàng xóm thì chết không nhắm mắt: lão còn được hăm nhăm đồng bạc với năm đồng vừa
bán chó là ba mươi đồng bạc, muốn gửi tôi để lỡ có chết thì tôi đem ra, nói với
hàng xóm giúp, gọi là của lão có tí chút, còn bao nhiêu đành nhờ hàng xóm cả...
Tôi bật cười bảo lão:
- Sao cụ lo xa quá thế? Cụ còn khỏe lắm, chưa chết đâu mà sợ!
Cụ cứ để tiền ấy mà ăn, lúc chết hãy hay! Tội gì bây giờ nhịn đói mà tiền để lại?
- Không, ông giáo ạ! Ăn mãi hết đi thì đến lúc chết lấy gì mà
lo liệu? Đã đành rằng là thế, nhưng tôi bòn vườn của nó bao nhiêu, tiêu hết cả.
Nó vợ con chưa có. Ngộ nó không lấy gì lo được, lại bán vườn thì sao?... Tôi cắn
rơm, cắn cỏ tôi lạy ông giáo! Ông giáo có nghĩ cái tình tôi già nua tuổi tác mà
thương thì ông giáo cứ cho tôi gửi.
Thấy lão nằn nì mãi, tôi đành nhận vậy. Lúc lão ra về, tôi
còn hỏi:
- Có đồng nào, cụ nhặt nhạnh đưa cho tôi cả thì cụ lấy gì mà
ăn?
Lão cười nhạt bảo:
- Được ạ! Tôi đã liệu đâu vào đấy... Thế nào rồi cũng xong.
Luôn mấy hôm, tôi thấy lão Hạc chỉ ăn khoai. Rồi thì khoai
cũng hết. Bắt đầu từ đấy, lão chế tạo được món gì, ăn món ấy. Hôm thì lão ăn củ
chuối, hôm thì lão ăn sung luộc, hôm thì ăn rau má, với thỉnh thoảng một vài củ
ráy, hay bữa trai, bữa ốc. Tôi nói chuyện lão với vợ tôi. Thị gạt phắt đi:
- Cho lão chết! Ai bảo lão có tiền mà chịu khổ! Lão làm lão
khổ chứ ai làm lão khổ! Nhà mình sung sướng gì mà giúp lão? Chính con mình cũng
đói...
Chao ôi! Đối với những người ở quanh ta, nếu ta không cố tìm
mà hiểu họ, thì ta chỉ thấy họ gàn dở, ngu ngốc, bần tiện, xấu xa, bỉ ổi...
toàn những cớ để cho ta tàn nhẫn; không bao giờ ta thấy họ là những người đáng
thương: không bao giờ ta thương... Vợ tôi không ác, nhưng thị khổ quá rồi. Một
người đau chân có lúc nào quên được cái chân đau của mình để nghĩ đến một cái
gì khác đâu? Khi người ta khổ quá thì người ta chẳng còn nghĩ gì đến ai được nữa.
Cái bản tính tốt của người ta bị những nỗi lo lắng, buồn đau ích kỷ che lấp mất.
Tôi biết vậy, nên tôi chỉ buồn chứ không nỡ giận. Tôi giấu giếm vợ tôi, thỉnh
thoảng giúp ngấm ngầm lão Hạc. Nhưng hình như lão cũng biết vợ tôi không ưng
giúp lão. Lão từ chối tất cả những cái gì tôi cho lão. Lão từ chối một cách gần
như là hách dịch. Và lão cứ xa tôi dần dần...
Lão không hiểu tôi, tôi nghĩ vậy, và tôi càng buồn lắm. Những
người nghèo nhiều tự ái vẫn thường như thế. Họ dễ tủi thân nên rất hay chạnh
lòng. Ta khó mà ở cho vừa ý họ... Một hôm, tôi phàn nàn về việc ấy với binh Tư.
Binh Tư là một người láng giềng khác của tôi: Hắn làm nghề ăn trộm nên vốn
không ưa lão Hạc bởi vì lão lương thiện quá. Hắn bĩu môi và bảo:
- Lão làm bộ đây! Thật ra thì lão chỉ tâm ngẩm thế, nhưng
cũng ra phết chứ chả vừa đâu. Lão vừa xin tôi một ít bả chó...
Tôi trố to đôi mắt, ngạc nhiên. Hắn thì thầm:
- Lão bảo có con chó nhà nào cứ đến vườn nhà lão... Lão định
cho nó xơi một bữa. Nếu trúng, lão với tôi uống rượu.
Hỡi ơi lão Hạc! Thì ra đến lúc cùng lão cũng có thể làm liều
như ai hết. Một người như thế ấy!... Một người đã khóc vì trót lừa một con
chó!... Một người nhịn ăn để tiền lại làm ma, bởi không muốn liên lụy đến hàng
xóm, láng giềng... Con người đáng kính ấy bây giờ cũng theo gót binh Tư để có
ăn ư? Cuộc đời quả thật cứ một ngày một thêm đáng buồn...
Không! Cuộc đời chưa hẳn đã đáng buồn, hay vẫn đáng buồn
nhưng lại đáng buồn theo một nghĩa khác. Tôi ở nhà binh Tư về được một lúc lâu
thì thấy những tiếng nhốn nháo ở bên nhà lão Hạc. Tôi mải mốt chạy sang. Mấy
người hàng xóm đến trước tôi đang xôn xao ở trong nhà. Tôi xồng xộc chạy vào.
Lão Hạc đang vật vã ở trên giường, đầu tóc rũ rượi, quần áo xộc xệch, hai mắt
long sòng sọc. Lão tru tréo, bọt mép sùi ra, khắp người chốc chốc lại bị giật mạnh
một cái, nẩy lên. Hai người đàn ông lực lưỡng phải ngồi đè lên người lão. Lão vật
vã đến hai giờ đồng hồ rồi mới chết. Cái chết thật là dữ dội. Chẳng ai hiểu lão
chết vì bệnh gì mà đau đớn và bất thình lình như vậy. Chỉ có tôi với binh Tư hiểu.
Nhưng nói ra làm gì nữa! Lão Hạc ơi! Lão hãy yên lòng mà nhắm mắt! Lão đừng lo
gì cho cái vườn của lão. Tôi sẽ cố giữ gìn cho lão. Đến khi con trai lão về,
tôi sẽ trao lại cho hắn và bảo hắn: “Đây là cái vườn mà ông cụ thân sinh ra anh
đã cố để lại cho anh trọn vẹn: cụ thà chết chứ không chịu bán đi một sào...”.













Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét