Trong lịch sử thi ca mỗi dân tộc, đề tài làng quê luôn giữ vị
trí quan trọng, là mảnh đất mỡ màu sản sinh ra bao áng thơ đi cùng năm tháng. Nếu
tình yêu quê hương đã chắp đôi cánh diệu kỳ cho thi ca thì ngược lại, nhờ nghệ
thuật mà vẻ đẹp nên thơ tiềm ẩn trong những làng quê lam lũ đã được tỏa sáng rồi
trở thành sợi dây bền chặt gắn kết mỗi cá nhân với mảnh đất chôn rau cắt rốn.
Cổng làng
Mùa xuân trong thơ
Những giá trị sâu sắc về tư tưởng, văn hóa, thơ về làng
quê đã đánh thức lòng tự hào và không ngừng nuôi dưỡng tình yêu đất nước
trong mỗi con người: Làng ta phong cảnh hữu tình/ Dân cư giang khúc như hình con
long (Ca dao). Nếu “làng” là từ chỉ đơn vị hành chính thấp nhất ở nông thôn thì
từ ghép “làng quê” mang ý nghĩa khái quát, gợi về cả một chiều sâu văn hóa cội
nguồn. Đấy là nơi gia đình, dòng họ nhiều đời sinh sống; là nơi có mồ mả cha
ông, có cây đa, bến nước, sân đình... Là nơi mà mỗi người được bao bọc trong một
mối quan hệ huyết tộc, trong nghĩa tình sâu nặng với cộng đồng.
Nếu thành thị là nơi giao lưu, tiếp nhận cái mới thì làng quê
là cái nôi nuôi dưỡng những giá trị văn hóa truyền thống ngàn đời. Những trầm
tích văn hóa, những thuần phong mỹ tục chủ yếu được lưu giữ ở làng quê và hiện
diện với một tần số lớn vào mùa Xuân - mùa lễ hội. Trong thời khắc thiêng liêng
ấy, làng quê Việt hiện lên thật đẹp đẽ, lung linh; đất trời rạng rỡ, non nước hữu
tình:
Rằm Xuân lồng lộng trăng soi
Sông Xuân nước lẫn mầu trời thêm Xuân
(Rằm tháng Giêng, Hồ Chí Minh)
Trong thơ Xuân, bức tranh làng quê Việt vô cùng tươi sáng và
tràn trề sức sống: Sóng cỏ xanh tươi gợn chân trời/Bao cô thiếu nữ hát trên đồi
- (Mùa Xuân chín, Hàn Mạc Tử).
Bởi theo quy luật của tạo hóa: Xuân - sinh, Hạ - trưởng, Thu
- thu, Đông - tàn. Cũng giống như tuổi trẻ là khởi đầu của một đời người thì
mùa Xuân là khởi đầu một năm, là mùa của sự sinh sôi, phát triển. Nếu trong tiết
Đông rét mướt, vạn vật tàn úa: Cây cối trút lá, trơ trụi, khẳng khiu; những đàn
chim hối hả bay về phương Nam tránh rét, con người co ro trong nỗi cô đơn đáng
sợ… thì khi Xuân về, tiết trời ấm áp, mưa bụi giăng giăng, cây cối căng tràn nhựa
sống, nảy đầy chồi non lộc biếc. Những cánh én nhỏ rộn ràng báo Xuân. Cảnh vật
trút bỏ cái lốt u ám cũ kỹ, bừng thức trong trạng thái hồi sinh: Đã thấy Xuân về
với gió Đông/ Với trên màu má gái chưa chồng/ Bên nhà hàng xóm cô hàng xóm/ Ngước
mắt nhìn trời đôi mắt trong. (Xuân về, Nguyễn Bính).
Nếu điểm nhấn của mùa Xuân trên phố là sắc màu rực rỡ của những
loài hoa quý từ tứ xứ mang về thì gam màu chủ đạo của bức tranh quê mùa Xuân là
màu xanh mát mắt của đất trời: Mùa Xuân là cả một mùa xanh (Nguyễn Bính). Đó là
màu xanh non tơ của sự sống tự thân bất diệt, được chắt chiu, nuôi dưỡng từ
lòng đất mẹ: Cỏ non xanh rợn chân trời/ Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.
(Truyện Kiều, Nguyễn Du)
Chỉ bằng vài nét chấm phá cốt ghi lấy linh hồn tạo vật, đại
thi hào dân tộc Nguyễn Du đã vẽ được một tuyệt tác kinh điển về quang cảnh
thiên nhiên Việt Nam. Không theo khuôn mẫu, không xuất hiện loài hoa mai cao
quý (Xuân thiên mai nhị phô thanh bạch) mà chỉ thấy ngút ngàn, mênh mông là cỏ
dại, loài thảo mộc mang sức sống mãnh liệt của mùa Xuân.
Sự đối lập giữa hai màu nguyên thủy xanh - trắng ấy hình như
đã gợi cho nhà văn Nguyễn Nhật Ánh ý tưởng để anh sáng tạo được một tác phẩm
đình đám: Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh. Dấu hiệu của mùa Xuân là sự sống phới
phới đang lên, nên bức tranh làng quê mùa Xuân không tĩnh mà rất động, màu sắc
tươi vui và âm thanh rộn rã: Lúa thì con gái mượt như nhung/ Ngào ngạt hương bay
bướm vẽ vòng. (Xuân về, Nguyễn Bính).
Mùa Xuân là mùa hoa với muôn hồng ngàn tía, với bao nhiêu
hương sắc mà hoa là biểu tượng của vẻ đẹp tự nhiên ban phát. Đó là hoa xoan vừa
dịu dàng vừa nồng nã: Đầy Xuân mưa bụi nở hoa xoan (Cuối Xuân tức cảnh, Nguyễn
Trãi), để rồi Sáng ra mặt đất lan tràn mùi hương (Chế Lan Viên); Hoa bưởi sau
nhà ngan ngát hương đưa (Hương thầm), là Hoa cẩm cù trắng xóa/ Hoa tóc tiên đỏ đằm
(Mùa Xuân) trong thơ Phan Thị Thanh Nhàn.
Và cơ man nào loài hoa thường xuyên xuất hiện trong thơ của
nhà thơ chân quê Nguyễn Bính: Hoa chanh nở giữa vườn chanh/Hoa mai trắng xóa dưới
chân đồi/Xuân đến hoa mơ hoa mận nở… Trong thơ Nguyễn Bính hầu hết là những thứ
hoa đồng nội: Bưởi, cam, cau, ngâu, lý, mơ, mận, cỏ may, bèo tây hoang dại, tím
ngắt… Và trên cái thảm hoa Xuân ấy nổi bật lên là sắc thắm hoa đào - bà chúa của
mùa Xuân: Vườn ai thấp thoáng hoa đào nở.
Vì thế, mỗi khi Xuân sang, làng quê Việt như được ướp trong một
mùi hương tinh khiết, dịu dàng. Chúng phát ra tín hiệu gọi mời, quyến rũ biết
bao cánh bướm đa tình: bướm trắng, bướm vàng, bướm nâu, bướm đen, bướm chúa…
Những nàng bướm xinh đẹp duyên dáng, lộng lẫy như những vị sứ giả mang những lá
bùa nhiệm màu của tình yêu thả vào trái tim tương tư cho những mối tình giăng
tơ, gian díu: Qua dậu tầm Xuân thấy bướm vàng/ Bướm vàng vàng quá bướm yêu yêu.
(Hết bướm vàng).
Làng quê trong thơ Xuân là một làng quê văn hóa: No đủ, yên ấm,
thanh bình. Mà tâm điểm là ngày Tết âm lịch - một điểm nhấn văn hóa đặc sắc,
ngày lễ trọng nhất trong năm. Dường như hồn xưa đất nước, những gì là quốc bảo,
quốc túy, quốc hồn đều được hiện diện vào dịp Tết và chỉ thấy được rõ nhất
trong ngày Tết chốn quê. Như một chiếc đũa thần nhiệm màu, Tết đã đánh thức phần
tinh hoa trong mỗi con người, đã làm cho cuộc sống nơi thôn làng thật đáng sống:
An nhiên và hạnh phúc. Dù trên thực tế, nông thôn xưa nghèo lắm. Cái thiếu đói
không giấu nổi, vẫn bảng lảng trong sự xào xạc của phiên chợ Tết: Hàng quán người
về nghe xao xác/Nợ nần năm hết hỏi lung tung. (Chợ đồng, Nguyễn Khuyến).
Bức tranh làng quê sống động
Nhưng mang tinh thần Carnaval, những người nông dân chân lấm
tay bùn, đầu tắt mặt tối vẫn tạo ra cho mình một sự thảnh thơi, mà họ hằng mơ ước:
Chẳng phong lưu cũng ba ngày tết/ Kiết cú như ai cũng rượu chè. (Tú Xương). Tạm
quên nhọc nhằn cơ cực thường nhật, buông bỏ mọi nỗi buồn đeo bám, chọn lối sống
tích cực, lạc quan, họ có thể hóa thân thành những anh hai, chị ba phong lưu, đắm
đuối trong niềm hạnh phúc ngọt ngào, giữa bầu khí quyển đậm đặc tình yêu: Mùa
Xuân mùa hội, mùa chơi/ Đò đưa con mắt tiếng cười cũng đưa. (Dặn người đi hội một
mình, Nguyễn Thị Mai).
Vào những ngày đầu năm mới, con người như trở về với tính bản
thiện của mình. Trẻ em được mặc quần áo mới, được nghỉ học vui chơi; các cụ ông
nhàn nhã uống rượu đề thơ, các cụ bà thư thái, từ tâm đi lễ Phật: Có những ông
già tóc bạc phơ/ Rượu đào đôi chén bút đề thơ/ Những bà tóc bạc hiền như Phật/ Sắm
sửa hành trang chẩy hội chùa. (Thơ Xuân, Nguyễn Bính).
Vẻ đẹp của làng quê văn hóa ngày Xuân, đã tạo nên những rung
động cho nhiều con tim mẫn cảm để rồi lặng lẽ đi vào thơ, làm nên hệ thống thơ
Xuân với gam màu độc đáo. Phiên chợ Tết của Đoàn Văn Cừ (1913 - 2014) là một dấu
mốc đâu dễ vượt qua. Bài thơ in lần đầu trên báo Tết Thời nay Xuân Kỷ Mão 1939.
Cảnh quê, tình quê, hương quê thấm vào từng con chữ, toát ra từ mỗi con chữ, tạo
thành những thông điệp nghệ thuật đi sâu vào vùng khuất lấp trong trái tim bạn
đọc. Chúng đã giúp những thế hệ sau hiểu biết rất nhiều về làng quê Việt, về những
năm tháng đã lùi xa vào quá khứ một đi không trở lại. Thậm chí: “Đọc một phóng
sự dài về chợ Tết chưa chắc đã thu được nhiều tư liệu bằng đọc bài thơ này”
(1).
Bằng những nét bút tinh xảo, nhà thơ đã đặc tả được một bức
tranh làng quê vô cùng sống động: Thằng cu áo đỏ chạy lon xon/Vài cụ già chống
gậy bước lom khom/ yếm thắm che môi cười lặng lặng lẽ, em bé nép đầu bên yếm
mẹ/ Hai người thôn gánh lợn chạy đi đâu/ Anh hàng tranh kĩu kịt quảy đôi bồ/ Thầy
khóa gò lưng bên cánh phản/ Tay mài nghiên hý hoáy viết thơ Xuân… Lũ trẻ con mải
ngắm bức tranh gà/ Mấy cô gái ôm nhau cười rũ rượu/ Áo cụ lý bị người chen lấn
kéo… Thật là mỗi người mỗi vẻ. Tất cả hợp lại thành bức tranh dân gian về làng
quê Việt trong ngày áp Tết: Đầy ắp hương vị Tết, tràn ngập niềm hân hoan đón Tết.
Ở đồng bằng Bắc bộ còn có những phiên chợ Tết rất độc đáo: mỗi
năm chỉ họp một lần như chợ Đồng (Vào 24 tháng Chạp) ở làng Và của Nguyễn Khuyến,
hay chợ Viềng ở Nam Định (Vào 8 tháng Giêng)… Người ta đến chợ không để trao đổi
hàng hóa mà chỉ cốt bán rủi mua may, cầu duyên hay cầu tài, cầu lộc. Với bà con
đồng bào dân tộc ít người, phiên chợ ngày Xuân được coi như một ngày hội văn
hóa: Vợ chồng xuống núi đi chợ Xuân/ Sương sớm còn che như lấp lối/ Vó ngựa cuốn
nhanh chồng ríu chân/ Vợ thương ghìm cương dừng ngựa lại. (Vợ chồng đi chợ Xuân,
Bàng Sĩ Nguyên). Đó là ngày hội của đất trời, ngày hội của lòng người: có tiếng
khèn náo nức, có tiếng suối róc rách reo vui, tiếng chim rừng hót mê say và
muôn hoa dại bừng sắc thắm trên triền núi, có tiếng kèn lá thao thiết gọi bạn
tình: Từng đôi lại từng đôi/ Kèn lá nối đàn môi/ Khăn piêu và khuy bạc/ Ô xoay
che dáng người. (Chợ tết vùng cao, PhanThị Thanh Nhàn).
Tết ở làng quê Việt gắn với biết bao mỹ tục. Trung tâm và
quan trọng nhất là tục thiêng gia đình sum họp. Xoay quanh nó là hàng loạt
phong tục đẹp đẽ: Tục gói bánh chưng, bánh tét, giết lợn, giết gà đồ xôi… làm cỗ
dâng lên ông bà tiên Tổ; tục dán câu đối đỏ, đốt pháo hồng trừ ma quỷ, đón giao
thừa với những lời chúc tốt lành; tục mở hàng năm sớm, tục không nói lời bất
nhã, mừng tuổi đầu năm, tổ chức mừng thọ người cao tuổi và nhất là tục khai bút
đầu Xuân: Ình ịch đêm qua trống các làng/ Ai ai mà chẳng rước Xuân sang/ Rượu
ngon nhắp giọng đưa vài chén/ Bút mới xô tay thử mấy hàng/ (Khai bút, Nguyễn
Khuyến); Khắp nơi vang lên tiếng pháo nổ để đuổi ma quỷ/ Các nhà đều dán câu đối
mới thay câu đối cũ. (Đêm trừ tịch, Nguyễn Bỉnh Khiêm).
Các mỹ tục ấy đã làm cho tình làng xóm thêm gắn bó; gia đình
thêm hạnh phúc, đầm ấm; cuộc sống thêm yên vui tươi (vui như Tết). Khi một nhà
có việc, lập tức mọi người chạy đến giúp rập, đâu kể sang hèn: Chú Táo đầu đình
sang với tớ/ Ông từ xóm chợ lại cùng ta. (Lên lão, Nguyễn Khuyến).
Trong thơ Xuân, làng quê được tiếp cận chủ yếu qua góc nhìn
văn hóa, nên xuất hiện rất nhiều hội hè đình đám. Đứng đầu là hội chùa Hương,
danh thắng được chúa Trịnh Sâm mệnh danh là Thiên Nam đệ nhất động: Hôm qua em
đi chùa Hương,/ Hoa cỏ còn mờ hơi sương/ Cùng thầy me em vấn đầu soi gương. (Nguyễn
Nhược Pháp). Rồi tiếp đến là hội Lim: Nón quai thao em thẹn thùng che má/ Hát đắm
say cho đứt ruột gan người/ Hát như thể cuộc đời toàn nhàn hạ/ Chỉ để yêu để nhớ,
để thương. (Hội Lim, Nguyễn Đình Minh).
Và hàng ngàn lễ hội hội lớn nhỏ ở khắp các vùng quê, mà hội
nào thì phần lễ cũng rất trang nghiêm còn phần hội thì thật vui vể với bao trò
chơi dân gian vô cùng hấp dẫn: Cờ tướng, cờ người, đánh đu, ném còn: Ném lên quả
còn cầu may/ Ném lên quả còn cầu lộc/ Hai cặp mắt tình tứ nhìn nhau/ Quả còn trên
tay mê ngủ. (Tung còn, Mai Liễu) hay: Bốn mảnh quần hồng bay phấp phới/ Đôi hàng
chân ngọc duỗi song song. (Chơi đu, Hồ Xuân Hương).
Nhìn chung, với những rung cảm mãnh liệt, với cách diễn đạt
tinh tế bằng hình ảnh đẹp, với cấu trúc đầy chất trí tuệ, qua hệ thống tu từ
sinh động, thơ Xuân về đề tài làng quê đã cho thấy đâu là cội nguồn sức mạnh Việt
Nam. Mang vẻ đẹp đơn sơ nhưng ẩn chứa bao điều kỳ diệu, chúng đã đưa ta trở lại
làng quê yêu dấu những ngày xưa êm ái, làm ta càng thêm gắn bó với quê hương xứ
sở.
Tư liệu tham khảo:
1. Vũ Quần Phương, Thơ quê hương và những lời bình, NXB Đại học
Quốc gia Hà Nội, 2007, trang 47.
2. Đặng Thai Mai, Mấy ý nghĩ (Lời giới thiệu tập Từ ấy), NXB
Văn Học Hà Nội, 1959.
2/3/2020







Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét