Thế giới nghệ thuật thơ Hữu Thỉnh phong phú, đa dạng và mang
dấu ấn rõ nét. Đó là thành quả của một tư tưởng nghệ thuật cao đẹp, một tư duy
nghệ thuật mạnh mẽ, hiệu quả, của một bản lĩnh nghệ thuật kiên định, vững vàng
và cũng là của một phong cách đa dạng, sáng tạo. Sang thu là một trong những
bài thơ tiêu biểu cho phong cách thơ Hữu Thỉnh.
Với Hữu Thỉnh, thu về bằng
hương ổi, và gió se. Ảnh: IT
1. Sang thu gồm mười lăm câu thơ, chia làm ba khổ, cả
bài thơ chỉ có một dấu chấm (.): Mở đầu bài thơ là những tín hiệu báo thu về,
tiếp đến là quang cảnh đất trời vào thu, và bài thơ được kết lại bằng những biến
chuyển trong lòng cảnh vật và suy ngẫm của nhà thơ trước cuộc đời. Theo mạch vận
động của tứ thơ, cảnh vật tựa hồ như một cuốn phim quay chậm dần hiện lên. Vẻ đẹp
của bài thơ nằm trong chính mạch chuyển vận tinh tế ấy.
Sang thu được chia làm ba khổ khúc chiết, nhưng nhịp thời
gian chuyển dịch qua ba khổ thật khó phân định. Từ đầu đến cuối bài thơ các
hình ảnh thơ, trạng thái sự vật đều mang hơi thu, dáng thu. Đó là hương ổi, gió
se, sương chùng chình, sông dềnh dàng, chim vội vã, nắng vẫn còn, mưa đã vơi, sấm
bớt bất ngờ và hàng cây đứng tuổi… Nhưng thật ra, trong sự dính liền của hệ thống
hình ảnh, vẫn có một sự chuyển vận của tự nhiên, của vạn vật khi đất trời sang
thu.
Cả bài thơ đều nằm trong sự vận động sang thu, nhưng mỗi khổ
thơ mang một dáng vẻ: Khổ một, cảnh vật là những tín hiệu mách bảo sự hiện diện
đâu đó của mùa thu từ góc nhìn vườn ngõ Bỗng nhận ra hương ổi/ Phả vào trong
gió se/ Sương chùng chình qua ngõ/ Hình như thu đã về; Khổ hai nghiêng về cảnh sắc
thiên nhiên, mây trời, sông nước chuyển mình sang thu Sông được lúc dềnh dàng/
Chim bắt đầu vội vã, Có đám mây mùa hạ/ Vắt nửa mình sang thu; Khổ ba nghiêng về
những những biến đổi bên trong các hiện tượng thiên nhiên và tạo vật Vẫn còn
bao nhiêu nắng/ Đã vơi dần cơn mưa/ Sấm cũng bớt bất ngờ/ Trên hàng cây đứng tuổi.
Nhà thơ Hữu Thỉnh. Ảnh: IT
Có thể thấy, ba khổ thơ làm nên hành trình chuyển vận của
thiên nhiên: Từ gần đến xa, từ thấp đến cao, từ ngoài vào trong… Sự chuyển vận
tinh tế nhưng cũng rất mãnh liệt. Từ sự chuyển vận của tứ thơ trên bề mặt câu
chữ của bài thơ Sang thu, nhà phê bình Chu Văn Sơn đã phát hiện ra “mạch cảm
nghĩ” của thi sĩ trước mùa thu: “Sau một thoáng ngỡ ngàng ở khổ một… Hình như
thu đã về, là đến niềm say sưa ở khổ hai…
Có đám mây mùa hạ/ Vắt nửa mình sang thu, và kết lại ở khổ ba
với vẻ trầm ngâm… Sấm cũng bớt bất ngờ/ Trên hàng cây đứng tuổi. Tương ứng với
những cung bậc của mạch cảm là các cấp độ của mạch nghĩ. Khổ đầu: Bất giác, khổ
hai: Tri giác, khổ ba: Suy ngẫm. Mạch cảm và mạch nghĩ bao giờ cũng song hành
và chuyển hóa sang nhau trong cùng một dòng tâm tư. Chúng đan dệt với nhau khiến
cấu trúc nghệ thuật càng tinh vi, phức tạp”.
Như vậy, rõ ràng là trong thế giới nghệ thuật của bài thơ
Sang thu có một sự chuyển vận của đất trời và của dòng cảm xúc nhà thơ. Cấu
trúc của chỉnh thể nghệ thuật ấy được tạo bởi sự chuyển vận ngầm đã mang lại
cho người đọc những khám phá lý thú và bất ngờ.
2. Mở đầu bài thơ ta bắt gặp tiếng reo vui khi hồn thơ bất
giác nhận ra những tín hiệu báo thu về:
Bỗng nhận ra hương ổi
Trong thơ thu, người đọc đã từng bắt gặp lá thu rơi trong thơ
Lưu Trọng Lư, áo mơ phai dệt lá vàng trong thơ Xuân Diệu; hương cốm mới, cái chớm
lạnh, xao xác hơi may trong Đất nước của Nguyễn Đình Thi… Với Hữu Thỉnh, thu về
bằng hương ổi, và gió se. Trong nhịp bước âm thầm của thời gian, đất trời chuyển
từ mùa hạ sang thu, gió thu nhẹ nhàng mang theo chút hơi “se” rất đặc trưng của
mùa thu Đồng bằng Bắc bộ, hương ổi “phả” vào trong gió, lan tỏa vào không gian.
Đây thực sự là những hình ảnh đặc trưng của mùa thu nhưng lại vô cùng quen thuộc,
gần gũi với con người Việt Nam.
Trong “Lời tự bạch với Sang thu”, nhà thơ Hữu Thỉnh từng trầm
ngâm kể: “… giữa đất trời mênh mang, giữa cái khoảnh khắc giao mùa kì lạ, điều
khiến cho tâm hồn tôi phải lay động, phải giật mình để nhận ra, đó chính là
hương ổi. Với tôi, thậm chí là với nhiều người khác không làm thơ thì mùi hương
đó gợi nhớ đến tuổi ấu thơ, gợi nhớ đến buổi chiều vàng với một dòng sông thanh
bình, một con đò lững lờ trôi, những đàn trâu bò no cỏ giỡn đùa nhau và những đứa
trẻ ẩn hiện trong triền ổi chín ven sông… Nó giống như mùi bờ bãi, mùi con trẻ…
Hương ổi tự nó xộc thẳng vào những miền thơ ấu thân thiết trong tâm hồn chúng
ta”.
Bảng 1
Đến hai câu tiếp theo trong khổ đầu của bài thơ, chúng ta bắt
gặp sự chuyển vận của đất trời rất tinh tế. Sự vật đang ở thế vận động mạnh -
hương ổi “phả”, gió “se”, bỗng như chùng lại:
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về
Sương thu như muốn đọng lại, lưu luyến, ngập ngừng trong sự
chuyển dịch chầm chậm qua ngõ. Từ láy “chùng chình” đặt giữa câu thơ tạo nên sự
ngắt quãng nhịp nhàng (Sương/ chùng chình/ qua ngõ), mà vẫn chứa đựng sự chuyển
vận của sương trong không gian thong thả, yên bình. Biện pháp nhân hóa được sử
dụng trong câu thơ “Sương chùng chình qua ngõ”, như để diễn tả sự cố ý trong
chuyển động chậm của sương. Nó như muốn giăng mắc vào giậu rào, níu vào nhành
cây khô đâu đó ở trước ngõ, đầu thôn. Ở đây, sương mang vẻ duyên dáng, yểu điệu
như bóng hình thiếu nữ chưa muốn rời bước trước ngõ nhà ai. Trong cái “chùng
chình” của sương, có sự níu giữ của hồn thơ, có vẻ tư lự của thi sĩ trước thời
khắc giao mùa.
Trong sự chuyển mình tinh tế của cảnh vật nhà thơ nhận ra
“thu đã về”. Sự hiện hữu của nó cũng không thật rõ, nhà thơ chỉ phỏng đoán bằng
cảm nhận - “hình như”.
3. Nếu ở khổ thơ mở đầu, tín hiệu mùa thu mới chỉ là sự
đoán định với ít nhiều bỡ ngỡ thì đến khổ thơ thứ hai, cùng với dòng chảy thời
gian, thu bước ra khỏi thời khắc giao mùa, hiện hình rõ nét. Mùa thu đi từ ngõ
để đến với không gian rộng hơn, nhiều tầng bậc hơn. Hơi thở của thu, đến đây đã
rõ rệt hơn. Sự hiện diện của thu không còn mơ hồ, không phải “hình như”nữa mà
đã cụ thể, hữu hình trong thiên nhiên và tạo vật:
Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu
Sông vào thu với dòng trôi “dềnh dàng”, thong thả, khoan
thai, rất mềm mại và duyên dáng. Trên nền không gian ngưng đọng ấy, có chuyển động
vội vã, gấp gáp của đàn chim trời trong hành trình di trú. Sự vận động của đất
trời ở thời điểm giao mùa được cụ thể hóa bằng những sắc thái đổi thay của cảnh
vật.
Từ láy “vội vã” đặt trong vế đối với từ “dềnh dàng” ở câu
trên tạo nên mạch vận động từ chậm đến nhanh, từ nhẹ đến mạnh. Phải chăng có sự
tương phản giữa sông dềnh dàng và chim vội vã? Dềnh dàng cũng là sự vận động
nhưng diễn ra chậm, còn vội vã là nhanh. Quá trình ấy phù hợp với quy luật vận
động từ chậm đến nhanh.
Nhịp cầu mong manh giữa hạ sang thu, cuối cùng đã được cụ thể
qua đám mây: Vắt nửa mình sang thu. Cả đất trời đang cựa mình thay áo mới. Hữu
Thỉnh không tả trời thu “xanh ngắt mấy tầng cao” như Nguyễn Khuyến mà chỉ điểm
vào bức tranh thu một chút mây vương lại của mùa hè đã qua - mây trời vắt nửa
mình sang thu.
Hình như trong đám mây còn có làn nắng mùa hè. Hình như trong
làn mây đã mang theo chút se của mùa thu. Đám mây mang trên mình cả hai mùa. Bước
đi của thời gian trong hình ảnh “đám mây” vừa mãnh liệt lại vừa vô cùng tinh tế.
Đó là cái tinh tế của hồn thơ nhạy cảm trước những chuyển vận của tạo vật ở thời
khắc giao mùa.
Sang thu âm thầm nhưng thi sĩ vẫn cảm nhận được được sự khẩn
trương trong mạch vận động.
4. Ở hai khổ thơ đầu, thu hiện hình bằng hình ảnh, bằng
sự chuyển động được nhìn thấy thì ở khổ cuối, thu lắng sâu vào suy ngẫm. Hình
tượng thơ, bởi vậy mang tính triết lý sâu xa:
Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi.
Vẫn là nắng, mưa, sấm, chớp của mùa hạ vương lại đâu đây,
song chỉ là “vẫn còn”, “đã vơi dần”, “cũng bớt bất ngờ” bởi mùa thu không phải
“hình như… đã về” mà đã hiện hữu trong không gian. Trong sự vận động của tứ
thơ, theo mạch cảm, mạch nghĩ (từ bất giác sang tri giác đến suy ngẫm, theo ba
khổ thơ), “nắng”, “mưa”, “sấm” không chỉ là hình ảnh tự nhiên mà còn mang tính
biểu tượng - cho những sóng gió, thăng trầm trong cuộc đời mà con người phải trải
qua.
Rồi đây nàng thu sẽ ngự trị cảnh vật nhưng tác giả vẫn tin rằng
hàng cây đứng tuổi vẫn còn đó. Thời gian mang tính lưỡng giá ấy để nhà thơ suy
ngẫm trước cuộc đời. Qua bão giông, sóng gió của cuộc đời con người cần vững
vàng, điềm tĩnh đón nhận mọi thử thách.
5. Tác phẩm văn học là một hệ thống chỉnh thể được biểu hiện
qua mối quan hệ mật thiết giữa nội dung và hình thức. Nếu như nội dung thể hiện
tư tưởng, quan điểm nghệ thuật của người nghệ sĩ thông qua các chất liệu lấy từ
cuộc sống thì hình thức là hình tượng, thể thơ, từ ngữ, hình ảnh, nói cách khác
là hệ thống các phương tiện diễn đạt để chuyển tải nội dung của người nghệ sĩ.
Hai yếu tố này có mối quan hệ mật thiết với nhau. Hình thức tất yếu phải là
hình thức của một nội dung nhất định và nội dung bao giờ cũng là nội dung được
thể hiện qua một hình thức. Trong những tác phẩm nghệ thuật có giá trị, nội
dung và hình thức luôn luôn thống nhất khăng khít với nhau. Sang thu là một bài
thơ như thế.
Sang thu được viết bởi thể thơ năm chữ. Sự lựa chọn thể thơ
xuất phát từ sự đòi hỏi của nội dung, từ cái nhìn của tác giả, cái mạnh của thể
thơ năm chữ là chất hoài niệm, hễ non tay thì thành vè (Nguyễn Phan Cảnh - Ngôn
ngữ thơ, tr.104). Chọn thể thơ này là một thử thách nghệ thuật, bởi thơ năm chữ
còn gọi là thơ ngũ ngôn có cội nguồn là thể thơ truyền thống có mặt trong các
sáng tác dân gian qua thể loại vè và đồng dao, tính chất cổ kính cùng với sự hạn
chế về câu chữ khó diễn đạt tình cảm. Tuy nhiên, một số nhà thơ như Xuân Quỳnh
với Sóng; Hữu Thỉnh với Sang thu đã rất thành công ở thể thơ này với chỉnh thể
chặt chẽ, nhuần nhuyễn giữa vần với nhịp:
Theo vị trí hiệp vần, Hữu Thỉnh sử dụng vần chân:
Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu
Theo mức độ hòa âm giữa các tiếng hiệp vần ông sử dụng vần
thông:
Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi
Điều khá thú vị ở đây là đường nét thanh điệu của bài thơ,
theo thống kê, bài thơ có 60 âm tiết thì có đến 33 âm tiết vần bằng, 27 âm tiết
vần trắc. Vấn đề ở đây là có nhiều cặp câu nhà thơ tạo ra sự phối thanh nhịp
nhàng, nếu câu thơ trước kết thúc bằng âm tiết vần trắc thì câu thơ sau đó kết
thúc là âm tiết vần bằng, sự hiện diện của nhiều thanh bằng. Ví như sự phối hợp
nhịp nhàng các cặp câu: (bảng 1)
Chính sự hiệp vần ấy tạo nên sự êm ái, nhịp nhàng phù hợp với
lối tâm tình và hoài niệm của tác giả.
Theo Mai Ngọc Chừ: Sự ngừng nhịp trong dòng thơ phụ thuộc vào
nội dung, ý nghĩa và vào từng thể thơ cụ thể (Vần thơ Việt Nam dưới ánh sáng của
ngôn ngữ học, tr. 38). Để tránh sự đơn điệu của thể thơ truyền thống trong cách
ngắt nhịp, Hữu Thỉnh thể hiện sự tìm tòi đổi mới qua cách ngắt nhịp linh hoạt
2/3: Hình như/ thu đã về; 1/2/2: Vắt/ nửa mình sang thu. Ngoài ra, có nhiều câu
không có nhịp cắt giữa dòng, mỗi dòng thơ là một nhịp:
Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Không gò ép và gọt dũa cầu kỳ, Hữu Thỉnh đã để lại trong lòng
người đọc những câu thơ giàu hình ảnh và nhạc điệu, cách xử lý nghệ thuật của
ông thể hiện sự tìm tòi sáng tạo.
Sang thu của Hữu Thỉnh là bài thơ hay. Mạch bài thơ có sự vận
động âm thầm mà quyết liệt của thời gian, thể hiện sự tinh tế về cảm giác, là sự
hoài niệm của tác giả về cuộc đời. Ông muốn sẻ chia hay tìm sự đồng điệu? Có lẽ
cả hai! Ánh lên trong bài thơ, qua ngòi bút giàu suy tưởng, là một mùa thu đẹp,
gợi cảm, là niềm tin vững vàng của nhà thơ trước sự trôi chảy của cuộc sống.









Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét