Tìm hiểu cách vận dụng thành ngữ, tục ngữ
1. Mở đầu
Thành ngữ, tục ngữ (ThN, TN) là sản phẩm của tư duy, là công
cụ diễn đạt những tri thức, kinh nghiệm quý báu, những triết lí nhân sinh vừa
sâu sắc, thâm thuý vừa không kém phần nghệ thuật; được bảo tồn và lưu truyền từ
thế hệ này sang thế hệ khác. Qua ThN, TN chúng ta không chỉ hiểu đặc điểm ngôn
ngữ mà còn tri nhận được các vấn đề về văn hóa, tư duy, lịch sử của dân tộc ấy.
Cách vận dụng ThN, TN vào tác phẩm phần nào thể hiện phong cách ngôn ngữ tác giả.
Sơn Nam là nhà văn thể hiện được dấu ấn đó.
Sơn Nam vừa là nhà văn, nhà báo vừa là nhà khảo cứu. Dường
như ở lĩnh vực nào ông cũng để lại trong lòng người đọc những ấn tượng đẹp, đặc
biệt là đối với người dân Nam bộ. Như một chú ong rừng hiền lành và cần mẫn,
Sơn Nam đã âm thầm đi, lặng lẽ ngắm nhìn và cặm cụi gom góp, chắt lọc những gì
được gọi là tinh tuý, là vàng mười của cuộc sống, những mong để lại cho con
cháu đời sau. Đến với Sơn Nam, ấn tượng đầu tiên gieo vào trong mỗi người đọc
chính là ở vốn từ ngồn ngộn chất phù sa của đồng bằng châu thổ sông Cửu Long,
trong đó có ThN, TN. Bài viết này khảo sát cách vận dụng ThN, TN của ông qua một
số tác phẩm văn xuôi và công trình biên khảo như. Hương rừng Cà Mau, Bà
Chúa Hòn, Hình bóng cũ, Xóm Bàu Láng, Đồng bằng sông Cửu Long - Nét sinh hoạt
xưa và văn minh miệt vườn.
2. Nội dung
2.1. Tần số sử dụng
Qua quá trình khảo sát các tác phẩm trên, chúng tôi tạm thời
thống kê được kết quả như sau: tổng số ThN, TN được sử dụng là 683 với tần số
xuất hiện là 1.175 lần. Cụ thể như sau:
Đối tượng thống kê
|
Số lượng
|
Tần số
sử dụng
|
Nguyên dạng
|
Cải biến
|
||
Hán Việt
|
Thuần Việt
|
Hán Việt
|
Thuần Việt
|
|||
Thành ngữ
|
545
|
985
|
130
|
503
|
60
|
292
|
Tục ngữ
|
138
|
190
|
19
|
82
|
22
|
67
|
Trong đó, số lượt ThN, TN xuất hiện trong từng tác phẩm là:
Hương rừng Cà Mau
|
Xóm
Bàu Láng
|
Bà
Chúa Hòn
|
Hình
bóng cũ
|
Đồng bằng sông Cửu Long – Nét sinh hoạt xưa
|
Văn minh
Miệt Vườn
|
551
|
212
|
141
|
76
|
125
|
70
|
Sự chênh lệch ít hoặc nhiều tần số ThN, TN xuất hiện trong từng
tác phẩm một phần do dung lượng của chúng chi phối, mặt khác cũng do yêu cầu thể
loại (Đồng bằng sông Cửu Long – Nét sinh hoạt xưa và Văn minh Miệt Vườn là
hai tác phẩm biên khảo nên số lượt ThN, TN xuất hiện trong các tác phẩm này ít
hơn so với các sáng tác văn học như Hương rừng Cà Mau, Xóm Bàu Láng… Tuy
nhiên sự chênh lệch này là không đáng kể). Riêng với tập truyện ngắn Hương
rừng Cà Mau, mỗi truyện có ít nhất 4 – 5 lượt ThN, TN được sử dụng. Trong
đó có một số truyện như Đơn Hùng Tín chào đời có đến 20 lượt ThN, TN
được sử dụng; Cái va li bí mật là 11 lần ThN, TN; Người tình của
cô đào hát là 14 lần ThN, TN…
Số lần ThN, TN được sử dụng nguyên dạng nhiều hơn so với cải
biến. Đây là tình hình chung của các nhà văn khi sử dụng ThN, TN trong các sáng
tác của mình. Tuy nhiên với Sơn Nam sự chênh lệch này là không đáng kể (nguyên
dạng: 633, cải biến: 352). Đáng nói là sự chênh lệch khá lớn giữa các ThN, TN
Hán Việt và ThN, TN thuần Việt (số lượt ThN, TN Hán Việt cả nguyên dạng và cải
biến là 232, số lượt ThN, TN thuần Việt cả nguyên dạng và cải biến là 944), tỉ
lệ sai lệch ở đây là 2/10. Điều này có liên quan đến sở trường, phong cách ngôn
ngữ cũng như mục đích sáng tác của mỗi nhà văn. Sinh thời, Sơn Nam từng tâm niệm
sống và viết về đất và người của quê hương Nam bộ. Nhưng đó không phải là Nam bộ
với cuộc sống hiện đại trong những năm gần đây mà đấy là miền Nam của một thời
mở cõi. Quan niệm đó cộng với tấm lòng xiết bao trân trọng và yêu thương đối với
vốn văn hóa, vốn ngôn ngữ dẫu là còn quê mùa nhưng chất phác của người bình dân
Nam bộ, nhà văn đã nghiên cứu, học hỏi chắt lọc đưa thứ ngôn ngữ ấy vào trong từng
trang viết của mình. Có thể đấy không phải là thứ vàng mười như ngôn ngữ trong
văn của Nguyễn Tuân như bao người ngợi ca nhưng nó đã làm nên tên tuổi một Sơn
Nam với nhiều biệt danh thân thương trìu mến: nhà Nam bộ học, ông già Nam
bộ…
Nhưng dù là ThN, TN thuần Việt hay Hán Việt thì trong sáng
tác của Sơn Nam, chúng cũng đều gần gũi với lời ăn tiếng nói hằng ngày của người
bình dân Nam bộ. Trong đó có nhiều ThN, TN được lặp đi lặp lại nhiều lần như: ăn
chưa no lo chưa tới (6 lần), ăn hiền ở lành (5 lần), ăn năn
hối cải (8 lần), cò bay thẳng cánh (11 lần), công ăn việc
làm (7 lần), dầm sương dãi nắng (6 lần), khỉ ho cò gáy (6
lần), nhanh như chớp (21 lần), nửa mừng nửa tủi (7 lần),nước
lên rồi nước lại ròng (7 lần), nước mặn đồng chua (7 lần), tai
vách mạch rừng (9 lần),thao thao bất tuyệt (8 lần), xuất quỷ nhập
thần (9 lần)… Một số trường hợp tác giả còn sử dụng ThN, TN đặt tên cho
tác phẩm của mình: Anh hùng rơm, Ăn to xài lớn, Đồng thanh tương ứng, Xuất
quỷ nhập thần…
Nhà văn vận dụng ThN, TN ở nhiều dạng khác nhau. Tùy theo từng
trường hợp mà ông có thể sử dụng chúng ở nguyên dạng hay cải biến.
2.2. Cách sử dụng
2.2.1. Sử dụng nguyên dạng
Sử dụng nguyên dạng nghĩa là nhà văn không có bất cứ sự thay
đổi nào về cấu trúc hình thức cũng như nội dung ý nghĩa của ThN, TN. Nói như thế
không có nghĩa là làm hạn chế việc sử dụng ThN, TN trong sáng tạo của các nhà
văn. Qua khảo sát các tác phẩm của Sơn Nam, chúng tôi nhận thấy ThN, TN nguyên
dạng thuần Việt cũng như Hán Việt đều được nhà văn sử dụng một cách nhuần nhuyễn
và tự nhiên.
Trong sáng tác của mình, Sơn Nam không dùng ThN, TN để tô điểm
thêm cho lời nói, nếu có thì đấy chỉ là một cách chơi chữ, một kiểu nói vui.
“Có người dùng chữ nho để cười cợt với lão:
- Tử viết thiện giả, có con không gả, tích thiện phùng
thiện, tích ác phùng ác, để lâu tác hoác.” (Chuyện rừng tràm, tr 228)
Sơn Nam vận dụng tục ngữ (TN) nguyên dạng như một tiền đề
chân lí. Nó được đặt trong lời thoại của nhân vật hoặc lời dẫn truyện của nhà
văn, thường là ở đầu câu:
“Anh chồng vỗ bàn nghe rầm rầm:
- Chồng chúa, vợ tôi! Vợ không được phép cãi chồng. Sửa
lại cho mau
Cô vợ lắc đầu:
- Tôi không sửa lại” (Tình bậu muốn thôi, tr 862)
Sử dụng TN nguyên dạng cả về nội dung lẫn hình thức như một
phản đề để nêu lên chủ đề câu chuyện.
“Cái câu Được kiện như sọ trâu khô, thất kiện như mồ ma
chết dường như không đúng với trường hợp tranh chấp của hai ông điền chủ
làng Vĩnh Hòa thời Pháp thuộc.” (Một kiểu anh hùng, tr 637)
Dùng nguyên dạng TN ở nghĩa đen để miêu tả thiên nhiên, đất
trời Nam bộ. Trường hợp này chủ yếu xuất hiện trong các tác phẩm biên khảo.
“Trâu từ Tà Keo đưa đều đặn ở đồng bằng, với lái chuyên nghiệp.
Nơi nước mặn học nước lợ, trâu dễ mất sức, cần thay đổi trong thời
gian ngắn” (ĐBSCL – Nét sinh hoạt xưa, tr 37)
Một ngữ cảnh khác:
“Phía hạ lưu phần lớn diện tích bùn lầy ẩm thấp, khí hậu khắc
nghiệt. Đất úng lần hồi tạo thêm phèn. Muỗi mòng nhiều, lăng quăng và lá cây mục
dẫy đầy, tôm cá sanh sôi, cá lớn nuốt cá bé, chim chóc và rắn ăn cá.” (ĐBSCL
– Nét sinh hoạt xưa, tr 16)
Dùng nguyên dạng TN để kết thúc câu chuyện hoặc để rút ra
chân lí, thường được dùng ở cuối câu.
“Cai tổng Biện cười khì:
- Bỏ qua đi. Lời tục thường nói: No mất ngon giận mất
khôn. Mấy giờ rồi?
- Dạ, hơn tám giờ” (Xóm Bàu Láng, tr 91)
Thành ngữ (ThN) thực hiện chức năng định danh nên khi được sử
dụng nguyên dạng, nó chủ yếu đóng vai trò làm thành phần câu. Việc vận dụng ThN
của Sơn Nam trong trường hợp này cũng khá đa dạng.
ThN làm chủ ngữ trong câu:
“Đôi trai tài gái sắc ở hai nước Ba Tư, Hy Lạp gì
đó hiểu lầm nhau, họ xua quân ra trận, rốt cuộc chàng và nàng bị thương…”
(Hình bóng cũ, tr 366)
ThN làm vị ngữ trong câu: “Hội đồng Tần gian ác quá. Nó cậy
quyền cậy thế. Nó dựa oai quan chánh tham biện Rờ - Nu” (Ngôi mộ chôn đứng,
tr 691)
ThN làm đồng vị ngữ trong câu: “Thầy hương quản xuống
thang, đến tận vũng máu mà xem: - Bậy quá. Tôi đâm trúng nó, nó la xí hụt để gạt
tôi. Tôi rút mũi chĩa lên. Thừa cơ hội đó, nó tẩu thoát. Chắc nó bị thương chết
bờ chết bụi, nằm đâu đây chớ chẳng xa.” (Xuất quỷ nhập thần, tr 910)
ThN làm định ngữ:
+ “Đôi mươi mái nhà lá, vài ba gốc dừa không trái, ngọn
Xẻo Bần xơ rơ như vậy đó. Chung quanh là cánh đồng cò bay thẳng cánh nhưng
đầy năn kim, ô rô, cỏ ống. Cò lông bông, trích, cúm núm bay lượn tối ngày” (Bác
vật xà bông, tr 73)
+“Lão Khăn Đen nói: - Tánh tôi không muốn nói quanh quẩn. Con
Lài là đứa trẻ tuổi ăn chưa no lo chưa tới. Muốn trị bịnh thì nên tìm ngay
gốc… mà đốn” (Xóm Bàu Láng, tr 190)
+“Cô gái ở Rạch Giá thèm đời sống miệt vườn “Mẹ mong gả thiếp
về vườn; Ăn bông bí luộc dưa hường nấu canh”. Cô gái mệt vườn lại e ngại khi rời
quê, theo chồng tận chốn chim kêu vượn hú.” (Văn minh Miệt Vườn, tr
387)
+Bổ nghĩa cho động từ: “Có lẽ hắn biết lội, nên sáng hôm
sau không ai trông thấy anh hùng rơm trở lại làng Bình An và dân chài
lưới tuyệt nhiên không gặp cái thây ma chết trôi nào”(Anh hùng rơm, tr 21)
+ Bổ nghĩa cho tính từ: “Bây giờ là ngày hay đêm? Ở đây là biển
trần khổ hay là ở trên bồng lai? Trong mớ ánh sáng lung linh, dường như có muôn
ngàn gương mặt khác nhau hiện ra không rõ rệt, dịu hiền như ngọc nữ kim đồng,
trong tiếng tiêu, tiếng sáo, tiếng đờn cò, giữa bầy phụng hoàng bay lượn.”
(Một cuộc bể dâu, tr 626)
ThN làm trạng ngữ:
+ “…trong hộp, vỏn vẹn có miếng giấy vàng, ghi những lời di
chúc như trên. Ngày qua tháng lại, ba nó cứ chờ cơ hội “rồng nằm trước cửa” nhưng
mãi thất vọng.”
(Xóm Bàu Láng, tr 11)
Nhìn chung, việc sử dụng ThN nguyên dạng đảm nhiệm các vị trí
khác nhau trong câu giúp cho lời văn trở nên tự nhiên, sinh động đầy hình ảnh.
Bên cạnh đó, khi đóng vai trò là thành phần phụ bổ nghĩa cho danh từ, động từ,
tính từ… ThN còn làm cụ thể hóa nét nghĩa, nhấn mạnh nội dung ý nghĩa của ngữ cảnh.
Trong một số trường hợp ThN nguyên dạng còn được dùng làm câu
độc lập. Ví dụ: “Lão khăn đen phục thầm lối ăn nói
bóng gió của đối phương. Cai tổng Biện hiểu con Lài chỉ là con cờ. Không
hơn không kém. Và lão ta đoán chắc rằng con Lài bị xác Hắc Hổ giựt dây…”(Xóm
Bàu Láng, tr 193)
Một trường hợp khác:
“- Vậy thì mấy cậu lấy cái áo ấy đem về đây cho tôi giặt
giùm, vài ngày sau, lại đem vô cho anh sui tôi thay đỡ.
-Rồi! Tùy cơ ứng biến. Đưa cái áo đây.” (Xóm Bàu Láng,
tr 245)
Có thể nói ThN, TN nguyên dạng trong sáng tác của Sơn Nam được
vận dụng linh hoạt, tự nhiên. Chúng có thể xuất hiện ở đầu câu, giữa câu hoặc
cuối câu. Có thể tham gia làm thành phần câu hoặc đứng thành câu độc lập. Chúng
được dùng như những cơ sở lập luận để trình bày quan điểm cá nhân của nhân vật.
Bên cạnh đó, dùng ThN, TN nguyên dạng ở đầu tác phẩm còn là một cách thức để
thu hút sự chú ý của người xem.
2.2.2. Sử dụng cải biến
ThN, TN trong sáng tác của Sơn Nam được sử dụng dưới một số
hình thức cải biến sau:
2.2.2.1. Cải biến về mặt ngữ âm
Đây là cách sử dụng ThN, TN dưới hình thức biến thể ngữ âm
Nam bộ. Được mệnh danh là nhà Nam bộ học, vì thế không khó để hiểu ngôn ngữ mà
Sơn Nam vận dụng là ngôn ngữ mang đậm chất miền Nam, và những biến thể ngữ âm
trong các ThN, TN được sử dụng là một minh chứng cho điều này.
Qua khảo sát, chúng tôi thống kê được 110 ngữ cảnh có sử dụng
ThN, TN ở dạng biến thể ngữ âm. Trong đó có đến 55 ngữ cảnh sử dụng ThN, TN Hán
Việt, tức là chiếm 50% trong tổng số ngữ cảnh được thống kê. Ở đây nhà văn
không dịch nghĩa các ThN, TN Hán Việt được sử dụng mà cải biến chúng theo cách
phát âm của người miền Nam. Sau đây là một số biến thể ngữ âm trong cách sử dụng
ThN, TN của Sơn Nam:
+ Biến thể phụ âm đầu
N à R, nay đây mai đó à rày đây mai đó. “Sống ở
rừng U Minh Hạ từ lâu rồi mà Hoàng Mai hãy còn có cảm giác lạc loài tận đâu
đâu, bước chân đi không vướng đất. Ví nàng như cánh bèorày đây mai đó thì
không đúng cho lắm, có lẽ nàng như đóa hoa sen, gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi
bùn” (Hương rừng, tr 561)
D à L, dở khóc dở cười à lỡ cười lỡ khóc hoặc lỡ
khóc lỡ cười. “Nhưng đột nhiên lão Nhị chới với, lỡ cười lỡ khóc. Từ dười
cái lu bí mật có tiếng ho sù sụ vang lên” (Xóm Bàu Láng, tr 138)
Một số trường hợp khác như: t à d, tụm năm tụm ba à dụm năm
dụm ba, gi à d, giòi từ trong xương giòi ra à dòi từ
trong xương dòi ra…
+ Biến thể âm chính
Xuất hiện nhiều nhất là trường hợp biến đổi i à a, sinh à
sanh
“… Để cố gắng ra vẻ bình tĩnh, con Lài nói:
- Thưa cha, chuyện gì? Nếu được thì con sẵn sàng… Nữ
sanh ngoại tộc, xuất giá tòng phu…” (Xóm Bàu Láng, tr 184)
Một ngữ cảnh khác “Câu “Thiên sanh nhơn hà nhơn vô lộc” với
nội dung lạc quan, tin tưởng vào kết quả lao động bản thân lần hồi trở thành lời
ngụy biện để chờ thời bó tay trước định mạng, trước tương lai không lối thoát”
(ĐBSCL – Nét sinh hoạt xưa, tr 62)
 à Ơ, chân à chơn. Ví dụ: “Ai nấy nhao nhao phản đối,
trình ra nhiều bằng cớ xác đáng: - Tụi tôi quần áo lêm luốc tay lấm chơn bùn.
Vả lại, chưa đóng giấy thuế thân. Rủi có bề gì thì… phải làm sao.” (Đồng
thanh tương ứng, tr 399). Tương tự như vâỵ, ta có một số ThN, TN khác như: đắc nhân tâm à đắc nhơn tâm,
địa linh nhân kiệt à địa linh nhơn kiệt, nhân tình
thế thái à nhơn tình thế thái…
Ngoài ra còn có những cách biến đổi nguyên âm khác như:
- ư à ơ, ăn gửi nằm nhờ à ăn gởi nằm
nhờ, ê à a đầu ghềnh cuối bãi à đầu gành cuối
bãi, â à ư, đồng tâm nhất trí à đồng tâm nhứt trí
…
- Anh à iêng, cò bay thẳng cánh à cò bay
thẳng kiếng . “Các ông đại điền chủ thường núp oai của nhà binh
Pháp để bảo vệ cái tài sản cò bay thẳng kiếng của họ” (Hình bóng cũ,
tr 309)
- Ươ à a, tam cương ngũ thường à tam cang ngũ
thường; ơp à iêp, tâm đầu ý hợp à tâm đầu ý hiệp, iên
à ân, tiến thoái lưỡng nan à tấn thoái lưỡng nan…
Nhìn chung, cách sử dụng ThN, TN theo những biến thể phát âm
của phương ngữ miền Nam không chỉ với ThN, TN thuần Việt mà còn có cả Hán Việt.
Điều này làm cho ngôn ngữ tác giả mang đậm màu sắc khẩu ngữ Nam bộ.
2.2.2.2. Cải biến về mặt từ ngữ
* Thêm hoặc bớt từ trong thành ngữ, tục ngữ gốc
Hình thức cải biến này được thực hiện bằng cách lược bớt hoặc
thêm một số từ vào trong ThN, TN gốc.
® Lược từ
+ Lược một vài từ trong ThN, TN gốc vừa làm gọn ThN, TN vừa
phù hợp với nội dung của ngữ cảnh. Ví dụ:
“Nỗi lo âu của thằng Thiếu vẫn là việc A Mách còn sống sót,
trốn thoát. Mấy đêm rồi thằng Thiếu ăn ngủ không yên, nó chẳng dám tiết lộ
chi tiết ấy cho cô Huôi biết. Cô Huôi đã hỏi, nó trả lời rằng đã giết trọn hai
tên hộ vệ” (Bà chúa Hòn, tr 190)
Những ThN, TN có từ chỉ số lượng hoặc chỉ quá trình được tác
giả lược bớt. Chẳng hạn, câu TN “Nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống” được
vận dụng như sau:
“Làm ruộng nước thì cực nhọc, nhất là phá rừng lúc ban đầu
nhưng so với miền trung thìnước phân cần giống không đặt thành mối quan
tâm lớn” (ĐBSCL – Nét sinh hoạt xưa, tr 28)
+ Vừa lược bỏ vừa thay từ. Chẳng hạn: Nước lên rồi nước
lại ròng => nước khi lớn khi ròng; trăng khuyết rồi trăng lại tròn à trăng
khi tròn khi khuyết.
“Thương người như thể thương thân (nói là thương thân người
(nào) khác thể thân ta), thi ơn bất cầu báo, trăng khi tròn khi khuyết, nước
khi lớn khi ròng là những câu thường nhắc nhở.” (ĐBSCL – Nét sinh hoạt xưa,
tr 48)
Hai ThN được cải biến nhưng vẫn giữ nét nghĩa chỉ sự đổi thay
của tạo vật và kiếp người. Có thể nói sự thay đổi đó như một thủ pháp về ngôn
ngữ của Sơn Nam, mạch văn do vậy mà nhẹ nhàng, chất phác đúng với phong cách của
ông.
® Thêm từ
Một ThN, TN nguyên dạng có thể truyền tải nội dung đến người
đọc một cách trọn vẹn, có giá trị biểu cảm cao nhưng đối với ThN, TN được cải
biến bằng cách thêm một số từ vào ThN, TN gốc thì giá trị biểu cảm của nó cũng
không kém.
Qua khảo sát cho thấy tác giả thường sử dụng các phụ từ quan
hệ hoặc mức độ để thêm vào ThN, TN nguyên dạng. Chẳng hạn:
Ăn cơm chúa múa tối ngày à ăn cơm chúa thì phải múa
tối ngày
Đi thưa về trình à đi phải thưa về phải trình
Gian phu dâm phụ à gian phu lẫn dâm phụ
Khôn chết, dại chết, biết thì sống à khôn cũng chết,
dại cũng chết, biết thì sống…
Việc thêm từ vào ThN, TN không chỉ có tác dụng nhấn mạnh nội
dung ý nghĩa của ThN, TN gốc mà còn đem lại cho ThN, TN những sắc thái biểu cảm
khác. Bên cạnh đó ThN, TN được cải biến theo dạng này trong một số trường hợp
còn giúp cụ thể hóa nét nghĩa và phù hợp với lối diễn đạt của nhà văn.
Mượn ý của thành ngữ, tục ngữ gốc
Trường hợp này xuất hiện khá nhiều, khoảng 36/1175 ngữ cảnh
được thống kê. Ở dạng cải biến này nhà văn không vận dụng khuôn hình của ThN,
TN nguyên dạng mà chỉ mượn ý của nó và triển khai theo phong cách khẩu ngữ của
người miền Nam. Qua khảo sát cho thấy hầu hết các ngữ cảnh có sử dụng ThN, TN ở
dạng mượn ý chủ yếu được đặt trong lời thoại nhân vật. Mượn ý ThN, TN gốc được
thể hiện ở hai hình thức: mượn ý thuận chiều và mượn ý nghịch chiều.
Mượn ý thuận chiều nghĩa là nhà văn diễn đạt lại ThN, TN theo
phong cách khẩu ngữ đúng với nội dung ý nghĩa của ThN, TN gốc. Ví dụ:
“ - Vạn vật tuần hoàn, ruộng dâu hóa biển, biển hóa
ruộng dâu. Hơi đâu mà buồn bực” (Xóm Bàu Láng, tr 387)
ThN Hán Việt nhất tiễn song điêu nghĩa là bắn một
mũi tên mà giết được hai con chim, được nhà văn sử dụng ba lần đều dưới hình thức
mượn ý này.
(a) “Hay quá bắn một mũi tên mà giết được ba con chim.
Trừ được Hai Lành, dằn mặt bọn người ở làng xóm. Nay mai, đám cưới thằng Hai được
vẹn toàn, chẳng ai dám bàn tán ra vào” (Xóm Bàu Láng, tr 85)
(b) “Đội Vinh cười toe toét: Thiệt là bắn một mũi tên mà
giết được hai con chim. Lên đây uống rượu” (Xóm Bàu Láng, tr 301)
(c) “Đời Minh Mạng, giai đoạn kéo dài 20 năm thêm khá đông tù
tội bị đày vào đồng bằng, qua đất Campuchia với dụng ý thâm độc: bắn một
mũi tên nhưng giết được nhiều con chim. ” (ĐBSCL – Nét sinh hoạt xưa, tr
42)
Cách phô diễn như lời nói thông thường làm cho ThN Hán Việt
không xa lạ bác học, mà còn miêu tả được thâm ý của bọn người như cai tổng Biện,
đội Vinh và triều đình Huế thời bấy giờ. Một số trường hợp khác:
Bệnh nào thuốc ấy à Bịnh ở đâu thì thuốc ở đó
Lù đù vác lu mà chạy à ví như kẻ “làm nhu” để chờ
dịp vác cái lu mà chạy
Mượn ý nghịch chiều, nghĩa là trên cơ sở nội dung ý nghĩa của
ThN, TN gốc, nhà văn diễn đạt với ý nghĩa ngược lại (những ThN, TN được sử dụng
thường có màu sắc âm tính). Xét các ngữ cảnh sau:
“Vì quá thương con gái mà mình nghe lời nó. Đúng là mình đang cỡi
trên lưng cọp. Thà nhảy xuống lưng cọp còn sướng hơn là cỡi trên lưng con
cọp què.” (Xóm Bàu Láng, tr 272)
Một ngữ cảnh khác:
“Bà chánh thất nằm xuống, Bá Vạn cười lạt, nghĩ thầm:
Trót lên lưng cọp thì cứ cỡi luôn! Mình ra về hoặc đính chánh
để làm gì? Mình chỉ muốn cho cậu Hai Điền tin dùng…” (Bà chúa Hòn, tr 143)
ThN cưỡi trên lưng cọp chỉ một tình thế nguy hiểm,
tiến thoái lưỡng nan. Trong hai ngữ cảnh trên, tác giả mượn ý để miêu tả những
suy nghĩ và hành động của nhân vật.
Ghép vế và sử dụng một vế
® Sử dụng một vế
Ở dạng cải biến này nhà văn chỉ sử dụng một vế nhưng người đọc
vẫn tri nhận được ThN, TN gốc mà tác giả sử dụng. Có được điều này một mặt do sự
cố định của khuôn hình ThN, TN; mặt khác những ThN, TN mà nhà văn sử dụng vốn
quen thuộc gần gũi với lời ăn tiếng nói hằng ngày của nhân dân.
Chó ba khoanh mới nằm, người ba lăm mới nói à chó
ba khoanh mới nằm
Gần mực thì đen gần đèn thì sáng à gần mực thì đen
Người đời muôn sự của chung; Hơn nhau một tiếng anh hùng mà
thôi à người đời muôn sự của chung
TN thường có hai vế, khi xét về nội dung ý nghĩa có loại TN cả
hai vế đều đồng chức, tức là quan hệ ý nghĩa của hai vế là đẳng lập, cùng hỗ trợ
để suy ra nét nghĩa khái quát. Trong quá trình vận dụng, nhà văn chỉ sử dụng vế
này hoặc vế kia nhưng vẫn đảm bảo được nội dung ý nghĩa của cả câu TN. Đấy là
trường hợp dùng câu TN “Được chim bẻ ná, được cá quăng nơm”trong hai ngữ liệu
sau:
“Bá Vạn uống rồi xua tay, đuổi đứa nữ tì ra ngoài:
- Cậu Cẩu đòi tôi tới Vàm Rầy. Nếu tới trễ, tội của tôi thêm
nặng. Cô nghĩ coi, tôi như thằng già cõng đứa bé lên vai để nó xem hát. Dè đâu
nó cú đầu thằng già. Đành rằng được cá quăng nơm là thế gian thường
tình, nhưng cậu làm quá đáng…” (Bà chúa Hòn, tr 235)
Một ngữ cảnh khác:
“Bọn hộ vệ dâng rượu cho cậu Cẩu. Cậu uống một hơi cạn bầu rượu
rồi trợn mắt:
- Bậy quá. Thiệt là chó chết.
Lời trách móc vu vơ khiến Bá Vạn phật ý. Hay là cậu muốn hại
ông theo kiểu được chim bẻ ná?” (Bà chúa Hòn, tr 282)
TN có hai vế, nhưng đôi khi nghĩa chỉ thiên về một vế nào đó.
Câu TN “Đại phú do thiên tiểu phú do cần” có nghĩa đen là con người giàu
có nhờ trời phật phù hộ nhưng nếu siêng năng chăm chỉ thì họ vẫn có thể tạo dựng
được một sự nghiệp nho nhỏ cho mình. Từ đó đi đến nghĩa khái quát là khuyên con
người nên cố gắng, chăm chỉ, chí thú làm ăn. Khi vận dụng vào sáng tác, Sơn Nam
chỉ sử dụng vế chính, tức là vế quyết định nghĩa khái quát của câu TN.
“Trong chế độ đại điền chủ, câu châm ngôn tiểu phú do cần là
láo khoét. Làm ruộng suốt năm, đến mùa đong tất cả cho ông điền chủ là chuyện
thường xảy ra. Nhiều người không đủ lúa ăn trong một tháng sau khi gặt cho đến
ngày tết, nói chi đến chuyện qua tháng ba tháng tư năm sau.” (Văn minh miệt vườn,
tr 392)
® Ghép vế
Bên cạnh cách sử dụng một vế, trong một số trường hợp nhà văn
còn ghép vế của hai ThN hay TN có cùng một hướng nghĩa lại với nhau. Ví dụ:
“Mày đừng lo. Nay mai mày có vợ đẹp, mày trở thành ông điền
chủ giàu sang. Hôm nay, mày tới đây… xin lỗi… mày là thằng cùng đinh khố
rách. Nhưng mai kia mốt nọ mày trở thành ông vua xóm Bàu Láng. Tin lời tao
đi.” (Xóm Bàu Láng, tr 100)
ThN cùng đinh khố rách được tạo thành từ hai ThN “cùng
đinh hạ bộ” và “khố rách áo ôm”. Cả hai ThN đều có nghĩa là chỉ người
nghèo khổ, nhưng ThN Hán Việt “cùng đinh hạ bộ” còn định danh cụ thể là
người đàn ông nghèo. Ở đây nhà văn không nói là khố rách áo ôm càng
không sử dụng cùng đinh hạ bộ mà kết hợp hai ThN ấy lại thành cùng
đinh khố rách vừa miêu tả cụ thể đối tượng vừa nhấn mạnh đến tình cảnh của
nhân vật trong hoàn cảnh hiện tại.
Ngoài ra, còn một số trường hợp khác như:
Anh hùng nghĩa hiệp + giang hồ tứ chiếng à anh
hùng tứ chiếng
Vừa đánh trống vừa la làng + vừa ăn cướp vừa la làng à
vừa đánh trống vừa ăn cướp
Thay từ
Hình thức cải biến này trong sáng tác của Sơn Nam được thể hiện
dưới hai dạng
® Thay thế từ ngữ trong ThN, TN nguyên dạng bằng một từ
khác có nghĩa tương đương
“Rồi ông Hai Tước ghé miệng sát vào tai thằng Nậu mà nói thật
nhỏ:
- Bà cai tổng là con vợ bé… thứ mười của tao. Tao giấu giếm
không muốn cho mấy bà vợ ở nhà hay biết, tao thương mày, giúp mày tàng hình, rồi
hiện hình… chớ thật ra tao đau lòng xót dạ lắm” (Bà vợ thứ mười, tr
69)
Đau lòng xót ruột à đau lòng xót dạ. Ruột và dạ cùng
biểu trưng cho tấm lòng, tình cảm của con người.
“Tôi nói:
- Hồi xưa, bác làm quốc sự, vào tù ra khám mấy lượt
về tội chống thực dân Pháp. Quan phó tham biện mời bác ra làm đại hương cả, bác
từ chối, cháu khâm phục lắm” (Ngày mưa đầu mùa, tr 670)
Vào tù ra tội à vào tù ra khám. Tội là
một hành vi trái với pháp luật, khám là danh từ chỉ nơi để giam giữ
những người có hành vi không đúng pháp luật. Như vậy quan hệ giữa hai danh từ
này là quan hệ giữa vật chứa khám và vật được chứa tội. Do vậy ý
nghĩa của ThN được cải biến không đổi.
“Mui tam bản hóa ra chật chội. Bá Vạn nằm ngồi chẳng yên.
Khí trời oi bức là một lẽ nhưng nguyên do chính vẫn là những việc sắp xảy ra” (Bà
chúa Hòn, tr 99)
Đứng ngồi không yên à nằm ngồi chẳng yên. Đứng và nằm cùng
ở trong trường chỉ hoạt động tư thế của con người, không và chẳng cùng
là từ phủ định. Cách cải biến ở ThN này chủ yếu là để phù hợp với ngữ cảnh.
® Thay thế từ ngữ trong thành ngữ, tục ngữ nguyên dạng bằng từ
địa phương có nghĩa tương đương
Bên cạnh cách thay thế từ có ý nghĩa tương đương vào ThN, TN
gốc là cách thay từ địa phương nhưng vẫn đảm bảo được nội dung ý nghĩa của ThN,
TN gốc. Ví dụ một số ngữ liệu sau:
“Tôi lạnh người, gió thổi hiu hiu. Phải chăng oan hồn thưở
trước đang trở về đây? Họ trở thành cát bụi đang thu mình vào rễ lúa để
vươn lên mặt đất, đòi đơm bông kết trái.” (Miễu bà chúa Xứ, tr 607)
Đơm hoa kết trái à đơm bông kết
trái
Ngoài ra, còn một số trường hợp khác như:
Ếch ngồi đáy giếng xem trời bằng vung à Ếch
ngồi đáy giếng coi trời bằng vung
Nhanh như điện
à Lẹ như
điện xẹt
Áo mặc sao qua khỏi đầu
à Áo bận sao qua khỏi đầu
Trèo cao ngã đau…
à Trèo cao té nặng…
Nhìn chung cải biến ThN, TN bằng cách thay từ vựng trong sáng
tác của Sơn Nam xuất hiện dưới hai hình thức: thay bằng từ có nghĩa tương đương
và thay bằng từ địa phương. Cách biến đổi này không làm thay đổi ý nghĩa của
ThN, TN gốc.
Đảo trật tự cú pháp
Các ThN có quan hệ đẳng kết, cách đảo trật tự đối với các ThN
này trong sáng tác của Sơn Nam diễn ra khá đa dạng. Có khi đó là sự hoán chuyển
toàn khối giữa hai vế:
Chim trời cá nước à Cá nước chim trời
Hoa thơm cỏ lạ à Cỏ lạ hoa thơm
Mê tín dị đoan à Dị đoan mê tín
Tự cấp tự túc à Tự túc tự cấp…
Có khi tác giả vẫn giữ nguyên khung kết cấu ngữ pháp của hai
vế và chỉ hoán vị các thành tố đối ứng nhau theo từng cặp được đan chéo giữa
hai vế. Chẳng hạn:
Cao chạy xa bay à cao bay xa chạy
Chân lấm tay bùn à tay lấm chân bùn
Đầu ghềnh cuối bãi à đầu bãi cuối gành
Giá sạch tiết trong à giá trong tiết sạch
Ví dụ các ngữ liệu sau:
“Dân số ở làng mạc chung quanh chợ Cà Mau không quá thưa thớt
như viên chức đi thanh tra đã tưởng. Khi nghe tiếng tàu chạy dưới sông, bọn đàn
ông đã cao bay xa chạy vì tội trốn xâu lậu thuế, vì sợ ông Tây da trắng,
thế nên trong nhà chỉ còn bà già, trẻ con thôi” (Văn minh miệt vườn, tr 374)
Cách hoán chuyển này vẫn đảm bảo tính cân đối, nhịp nhàng, đối
xứng về mặt cấu trúc và về mặt nội dung ý nghĩa của ThN. Trong ngữ cảnh trên,
ThN cải biến cao bay xa chạy đã miêu tả chân thực hình ảnh những người
đàn ông ở Cà Mau nhanh chân tẩu thoát trước sự kiểm soát của các viên chức
thanh tra.
ThN giá sạch tiết trong chỉ phẩm tiết cao đẹp, thường
là dùng cho các cụ nho xưa. Khi vận dụng vào trong ngữ cảnh: “Ông hội đồng tự
so sánh với một sứ giả thời xa xưa. Nếu có đem theo kiểu hột ngọc đựng thuốc độc,
chắc ông đã uống để quyên sinh, giữ giá trong tiết sạch” (Hai viên ngọc,
tr 496) thì ThN cải biến giá trong tiết sạch cũng nói lên được dụng ý
của hội đồng Tần, tự nhận mình là người tiết tháo, sạch trong. Cách dùng này của
tác giả còn bao hàm cả dụng ý châm biếm nhân vật.
Triển khai khuôn hình của ThN, TN gốc
Để nhấn mạnh nội dung mới, nhà văn sử dụng song song, tức là
vừa sử dụng ThN, TN gốc vừa trên cơ sở đó triển khai ý ngược lại. Chẳng hạn:
“Đất lành chim đậu, đất hung dữ thì chim bay đi. Ai cậy nhiều
tiền, tung tiền ra mướn với thái độ hách dịch thì không làm, nếu cần thì làm
không công, giúp đỡ người nghèo để lấy tiếng” (ĐBSCL – Nét sinh hoạt xưa, tr
51)
Một ngữ cảnh khác:
“Chàng thanh niên liếc qua chỗ tôi ngồi, rồi nói khẽ:
- Thầy kí giả này khiêm tốn, chẳng muốn khoe khoang chức vụ với
người chung quanh. Bà con chưa nghe câu tục ngữ phương Tây à? Cái thùng rỗng
kêu to, chớ cái thùng đặc ruột của thầy luôn luôn im lặng” (Người tình của cô
đào hát, tr 722)
Ở đây nhà văn sử dụng từ trái nghĩa với từ trong ThN, TN gốc
(dữ >< lành, bay >< đậu, đặc ruột >< rỗng, im lặng ><
kêu to) để diễn đạt nội dung mới phù hợp với ý đồ của nhà văn.
2.2.2.3. Sử dụng liên thành ngữ, tục ngữ
Đây là một nét riêng trong cách sử dụng ThN, TN của Sơn Nam.
Sử dụng liên ThN, TN nghĩa là trong một ngữ cảnh nhà văn có thể vận dụng liên tục
2 hoặc 3 ThN, TN đi liền với nhau. Cách dùng này có các dạng sau:
* TN và TN
“Lời tục thường nói: Biết chết nhưng cũng nhào vô. Con
chim ghét nhau vì tiếng gáy. Cu rừng gáy hai cốt ghét con cu mồi gáy tới bốn cốt.
Nó cho rằng có kẻ bảnh trai hơn, toan chiếm đoạt sự sống của nó” (Bốn cái
ngu, tr 103)
* ThN và ThN
“Đất cò bay thẳng cánh, chó chạy cong đuôi nhiều câu hát
của giới thương hồ, nhóm công tử Bạc Liêu và có lẽ tuồng cải lương cũng là hậu
quả trực tiếp hoặc gián tiếp của kế hoạch này” (ĐBSCL – Nét sinh hoạt xưa, tr
97)
* ThN và TN
“Nhưng ở đồng quê, chuyện gì xảy ra lần lần thiên hạ đều hay
biết hết. Họ không tiếc lời mỉa mai con Bảy:
- Ừ, trời cao có mắt. Cao nhơn tắc hữu cao nhơn trị,
trèo cao té nặng. Ngó cao đau ót”(Con Bảy đưa đò, tr 238)
Một trường hợp khác là các ThN, TN được sử dụng không đi liền
với nhau mà có sự đan xen trong cùng một ngữ cảnh. Chẳng hạn:
“Tôi thấy vợ con họ bây giờ giống như mấy bà hồi xưa thắt
lưng buộc bụng, gánh gạo đường xa để nuôi mấy ông đồ cho dài lưng tốn vải” (Hình
bóng cũ, tr 288)
Sử dụng liên ThN, TN trong sáng tác của Sơn Nam có hai trường
hợp:
Vận dụng liên tục các ThN, TN có cùng hướng nghĩa nhằm nhấn mạnh
nội dung mà nhà văn cần diễn đạt. Ví dụ:
“Không giúp nước được thì ít ra ông cũng phải biết những gì xảy
ra đau buồn trong nước. Cây có cội, nước có nguồn. Chim có tổ, cá có hang.
Đôi mắt già của ông Từ Thông ngẩn ngơ nhìn muôn lớp sóng cồn. Ông hỗ thẹn, tủi
bấy phận mình không bằng con chim đổ quyên đêm hè kêu khoắc khoải” (Hòn Cổ Tron,
tr 527)
“Trong vũ trụ, đẹp nhất là hoa. Nhụy hoa được loài ong hút về,
tạo ra chất tinh khiết, xứng đáng cho chúng ta xe lại làm cây đèn sáp để đọc
sách hoặc cúng vái thần thánh. Con ong lại là ông Tơ bà Nguyệt, là lá
thắm chỉ hồng, đem nhụy bông đực rắc vô lòng bông cái” (Cái tổ ong, tr 134)
Sử dụng liên tục các ThN, TN không cùng hướng nghĩa. Trường hợp
này xuất hiện khá nhiều, nó cho thấy sự am hiểu vốn ThN, TN của Sơn Nam cũng
như tài năng sử dụng ngôn ngữ của tác giả.
-… Xưa kia mình tưởng lầm rằng lão ta có máu giang hồ
nghĩa hiệp. Mình đang lâm vào tình thế tấn thoái lưỡng nan, đã trót
cỡi trên lưng cọp làm sao nhảy xuống” (Xóm Bàu Láng, tr 167)
Một ngữ cảnh khác:
“Để chứng tỏ mình là kẻ khiêm tốn, giáo Phép ngồi xuống, nghe
đám anh hùng tứ chiếngthuật lại những trận hô phong hoán vũ thất
bại, lỡ cười lỡ khóc” (Đơn Hùng Tín chào đời, tr 418)
Hoặc là:
“Hai Khoánh cố che giấu sự khinh bỉ đối với anh chàng đại ca
nhỏ nhen ấy. Nhưng gây gổ, giảng luân lí với kẻ giết đàn bà, con nít là điều
ngu xuẩn, hơi đâu khảy đờn vào tai trâu, múc nước đổ lá môn. Phải tương kế
tựu kế. Áp dụng triệt để câu: quân tử tham tài tiểu nhân tham thực…” (Cái va li
bí mật, tr 145)
Sử dụng liên ThN, TN không chỉ nhấn mạnh nội dung của đoạn
văn, câu văn mà quan trọng hơn là nó tạo nên tính nhạc cho đoạn văn, câu văn
đó. Điều này cũng phản ánh rất rõ cách nói năng hàng ngày của người nông dân
Nam bộ:
“Cầm thử coi nặng không? Tay anh hùng mới cử nó được. Tạo ra
lúa gạo, xuồng chèo là nhờ nó. Nên nhà nên cửa, nên đất nên vườn, nên chồng
nên vợ, xưng hùng xưng bá cũng nhờ nó” (Hương rừng, tr 572)
Có thể nói trong một câu văn, vận dụng một ThN, TN đã là vận
dụng một lời hay ý đẹp; vận dụng trùng điệp những ThN, TN là trùng điệp những lời
hay ý đẹp vậy.
3. Kết luận
Tóm lại, cách vận dụng ThN, TN trong sáng tác của Sơn Nam khá
phong phú và đa dạng. Chúng có thể được sử dụng nguyên dạng, cải biến hoặc vận
dụng nhiều ThN, TN đi liền với nhau trong cùng một ngữ cảnh. Cải biến vừa tạo
ra những biến tấu ThN, TN về phương diện cấu trúc hình thức vừa có biến tấu về
nội dung ý nghĩa. Điều quan trọng là những ThN, TN ấy dù được biến tấu ở phương
diện nào thì chúng cũng lấp lánh chất phù sa của vùng sông nước Cửu Long, chúng
góp phần quan trọng để tạo nên tên tuổi một Sơn Nam trên văn đàn của văn học Việt
Nam hiện đại. Và như đã nói, bất kì một cách diễn đạt, cách vận dụng nào cũng
không đơn thuần là chuyện hình thức mà nó còn có cả nội dung. Cách vận dụng
ThN, TN trong sáng tác của Sơn Nam đã mang đến trên từng trang văn của ông những
giá trị biểu đạt to lớn và góp phần tạo nên phong cách ngôn ngữ tác giả.
Tài liệu tham khảo:
1. Hoàng Anh, Về
cách sử dụng thành ngữ- tục ngữ trên báo chí, T/c Ngôn ngữ & Đời sống,
số 10, 2003, tr. 10- 12
2. Nguyễn Đức Dân, Vận dụng tục
ngữ, thành ngữ và danh ngôn trên báo chí, T/c Ngôn ngữ, số 10, 2004, tr.
01-07.
3. Chu Xuân Diên - Lương
Văn Đang - Phương Tri, Tục ngữ Việt Nam, Nxb KHXH, H., 1975.
4. Vũ Dung - Vũ Thuý Anh - Vũ
Quang Hào, Từ điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam, Nxb Văn hoá, H., 1995.
5. Nguyễn Thái Hoà, Tục
ngữ Việt Nam - cấu trúc và thi pháp, Nxb KHXH, H., 1997.
6. Triều Nguyên, Khảo
luận về tục ngữ người Việt, Nxb Giáo dục, H., 2006.
7. Nguyễn Văn Nở, Tục ngữ
- ngữ cảnh và hình thức thể hiện, TC Ngôn ngữ, số 2, 2007, tr.53 – 64.
Tác phẩm Sơn Nam
1. Hương rừng Cà Mau (tập truyện ngắn, 934 trang),
Nxb Trẻ, 2008.
2. Bà Chúa Hòn (tiểu thuyết, 434 trang), Nxb
Trẻ, 2005.
3. Hình bóng cũ (truyện vừa – in cùng với tập truyện
Biển cỏ miền Tây, 386 trang), Nxb Trẻ, 2006.
4. Xóm Bàu Láng (truyện dài, 396 trang), Nxb Trẻ,
2007.
5. Đồng bằng sông Cửu Long – Nét sinh hoạt xưa & Văn
minh miệt vườn (2 quyển biên khảo in chung, 423 trang); Nxb Trẻ, 2007.
* Bài
đã đăng trong Tạp chí Ngôn ngữ & Đời sống.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét