Chủ Nhật, 27 tháng 9, 2015

Những tình khúc vượt thời gian của Nhạc sĩ Phạm Duy

Những tình khúc vượt thời gian 
của Nhạc sĩ Phạm Duy
Hôm nay mình giới thiệu đến các bạn các ca khúc: “Cô Hái Mơ”, “Cây Đàn Bỏ Quên”, “Tình Kỷ Nữ”, “Khối Tình Trương Chi”, “Tiếng Bước Trên Đường Khuya”, “Ngày Trở Về”, “Đưa Em Tìm Động Hoa Vàng”, “Kiếp Nào Có Yêu Nhau” của Nhạc sĩ Phạm Duy.
Nhạc sĩ Phạm Duy (5 tháng 10 năm 1921 - 27 tháng 1 năm 2013), tên thật Phạm Duy Cẩn là một nhạc sĩ, ca sĩ, và nhà nghiên cứu Âm Nhạc Việt Nam. Ông được coi như một trong những nhạc sĩ lớn nhất của nền Tân Nhạc Việt Nam với lượng sáng tác đồ sộ cũng như đa dạng về thể loại, trong đó có rất nhiều ca khúc trở nên kinh điển và quen thuộc với người Việt.
Nhạc của ông thường kết hợp những yếu tố của Âm Nhạc Cổ Truyền Việt Nam với các trào lưu, phong cách mới, tạo nên nhiều tác phẩm có tính đột phá, giàu ảnh hưởng đối với các nhạc sĩ thuộc nhiều thế hệ. Ngoài sáng tác và biểu diễn, ông còn có những công trình khảo cứu về Âm Nhạc Việt Nam có giá trị.
Nhạc sĩ Phạm Duy
Ông từng giữ chức giáo sư nhạc ngữ tại Trường Quốc Gia Âm Nhạc Sài Gòn. Với hơn 70 năm sự nghiệp, trải qua nhiều giai đoạn lịch sử quan trọng của đất nước, ông được coi là cây đại thụ của nền Âm Nhạc Việt Nam. Tuy vậy bên cạnh đó, các quan điểm nhìn nhận về ông cũng khác biệt, chủ yếu là do các vấn đề chính trị.
Khởi đầu sự nghiệp âm nhạc trong gánh hát Đức Huy với vai trò phó quản lý và ca sĩ hát lưu động. Từng tham gia Kháng chiến chống Pháp một thời gian trước khi vào Miền Nam để tiếp tục tự do hoạt động âm nhạc. Nhạc sĩ Phạm Duy là một tên tuổi lớn và đầy ảnh hưởng tại Miền Nam – Việt Nam với những hoạt động tích cực dành cho cả âm nhạc và chính trị, và những hoạt động này còn tiếp diễn sau giai đoạn 1975, khi ông di tản sang Hoa Kỳ. Vì lý do chính trị, nhạc của ông bị cấm hoàn toàn tại Miền Bắc – Việt Nam sau 1954, và toàn Việt Nam sau 1975.
Năm 2005, sau nhiều lần về thăm quê hương, ông chính thức trở về Việt Nam sống và từ đó, một số ca khúc của ông mới bắt đầu được phép phổ biến lại. Tính cho tới tháng 1 năm 2014, có 244 ca khúc được cấp phép lưu hành (trong số đó có 53 ca khúc ngoại quốc do ông đặt lời Việt), trong số khoảng một ngàn sáng tác của ông.
Năm 1941, ông thành ca sĩ hát tân nhạc trong gánh hát cải lương Đức Huy – Charlot Miều. Thời kỳ hát rong, Phạm Duy được gặp gỡ nhiều tên tuổi lớn như thi sĩ Lưu Trọng Lư, nhạc sĩ Lê Thương, Lê Xuân Ái, Văn Đông… và nhạc sĩ Văn Cao, người sau này trở thành bạn thân thiết trong đời sống lẫn trong âm nhạc. Thời kỳ này, ngoài việc cùng Văn Cao la cà các chốn ăn chơi, thì ông cũng giúp đỡ cho Văn Cao trong việc soạn nhạc, cùng Văn Cao sáng tác các tác phẩm“Bến Xuân”, “Suối Mơ”.
Năm 1942, ông khởi nghiệp sáng tác nhạc với tác phẩm hoàn chỉnh đầu tay là “Cô Hái Mơ”, phổ từ thơ Nguyễn Bính, trong thời kỳ Phong Trào Tân Nhạc bắt đầu nở rộ.
Tới năm 1944, ông cho ra đời bài “Gươm Tráng Sĩ”, một ca khúc gắn với sự tích Hồ Hoàn Kiếm, và là ca khúc đầu tiên được ông viết cả lời lẫn nhạc. Bên cạnh đó là những bài nhạc tình lãng mạn đầu tay: “Cô Hái Mơ”, “Cây Đàn Bỏ Quên”, “Khối Tình Trương Chi”, “Tình Kỹ Nữ”, “Tiếng Bước Trên Đường Khuya”…
Nhạc sĩ Phạm Duy qua đời ngày 27 tháng 1 năm 2013 tại Sài Gòn.
Dưới đây mình có các bài:
– Ngày trở về của Phạm Duy trong bối cảnh âm nhạc Việt Nam
– Nhạc sĩ Phạm Duy bỏ quên cây đàn ở đâu?
Cùng với 17 clips tổng hợp các ca khúc “Cô Hái Mơ”, “Cây Đàn Bỏ Quên”, “Tình Kỷ Nữ”, “Khối Tình Trương Chi”, “Tiếng Bước Trên Đường Khuya”, “Ngày Trở Về”, “Đưa Em Tìm Động Hoa Vàng”, “Kiếp Nào Có Yêu Nhau” do các ca sĩ xưa và nay diễn xướng để các bạn tiện việc tham khảo và thưởng thức.
Mời các bạn.
Túy Phượng
Theo Wikipedia
Ngày trở về của Phạm Duy 
trong bối cảnh âm nhạc Việt Nam
Phạm Quang Tuấn
Việc nhạc sĩ Phạm Duy hồi hương gây nhiều tranh luận sôi nổi trong cộng đồng Việt Nam hải ngoại cũng như ở trong nước. Hầu hết những bài báo hải ngoại và một số bài báo trong nước nhìn việc này qua lăng kính chính trị. Một số bài cũng nhìn vào khía cạnh tình cảm cá nhân của một ông già trở về quê hương sinh sống. Tuy nhiên, bài này sẽ hoàn toàn không đề cập đến những khía cạnh đó, mà sẽ tập trung vào mặt âm nhạc, văn hóa của chuyến hồi hương này.
Tự nó, việc Phạm Duy trở về không có ý nghĩa nhiều về mặt âm nhạc. Nhưng nếu sự hồi hương của Phạm Duy dẫn tới việc nhạc của ông (sớm) được lưu hành và phê bình, bàn luận ở trong nước, thì có thể sẽ có những hậu quả quan trọng cho nền tân nhạc Việt Nam. Ðó mới là điều giới nhạc Việt Nam quan tâm.
Trước hết, tôi xin bàn về vị trí của nhạc Phạm Duy trong âm nhạc Việt Nam. Nền tân nhạc Việt Nam thường được coi là “chính thức” khai sinh khi nhạc sĩ Nguyễn Văn Tuyên đi khắp nước diễn thuyết và trình bày những ca khúc của ông vào năm 1938, tuy rằng nhiều nhạc sĩ đã bắt đầu viết ca khúc theo thang âm Âu châu vài năm trước đó, nhưng chưa có cơ hội phổ biến. Vậy cứ cho rằng tân nhạc có một lịch sử khoảng 70 năm. Trong khoảng thời gian ngắn ngủi đó, ba nhạc sĩ thường được coi là nổi bật nhất là Văn Cao, Phạm Duy và Trịnh Công Sơn.
Theo thiển ý, chỗ đứng của Văn Cao không vững vàng bên cạnh hai người kia. Tuy ông là người đa tài, tiềm năng của ông đã không được thể hiện xứng đáng vì những hoàn cảnh lịch sử, chính trị. Những tác phẩm của ông làm thời trẻ còn quá cổ điển, quá Âu tây (dù đã dùng ngũ cung Việt Nam trong bài Thiên thai), chưa phát huy đến nơi đến chốn tính thẩm mỹ Việt Nam, chưa độc sáng và thoát ra khỏi cái khuôn mẫu “dĩ Âu vi trung”. Lê Thương mới thực sự là nhạc sĩ đáng kể với những đóng góp vô cùng quan trọng và giàu tính dân tộc qua ba bản Hòn Vọng Phu.
Nhưng Lê Thương hơi kém về lượng. Trịnh Công Sơn mới chính là đối thủ của Phạm Duy về số lượng và tính cách độc sáng. Nếu Phạm Duy là người đã đem dân ca VN vào nhạc, thì Trịnh Công Sơn là người đã đem hồn thơ, và quan trọng hơn, đem những suy tư của người Việt trẻ đô thị, vào nhạc. Mỗi nhạc sĩ đã sản xuất trên dưới một ngàn tác phẩm.
Trong nghệ thuật, cũng như trong khoa học, số lượng không phải là điều quan trọng, mà quan trọng là sự đặc sắc và khai phá. Có những người có thể viết cả ngàn bài thơ, bản nhạc, mà thế giới không biết họ là ai và cũng không cần biết, vì những thơ nhạc đó chỉ là rập theo khuôn mẫu của kẻ khác. Có những người (như Lê Thương trong tân nhạc hay Mendel trong khoa học) chỉ có vài ba bản nhạc hay một khám phá mà đủ để có chỗ đứng trong lịch sử. Nhưng những nghệ sĩ lớn thường có số lượng đồ sộ, vì nghệ thuật là cả cuộc đời của họ, và họ không thể ngừng sáng tác. Và do đó Trịnh Công Sơn và Phạm Duy là hai cột trụ của tân nhạc Việt Nam trong thế kỷ 20.
Tính cách của hai nhạc sĩ này hoàn toàn khác nhau. Trong khi Trịnh Công Sơn tập trung vào một phong cách riêng, với những giai điệu dựa trên âm giai E minor đặc thù của chiếc tây ban cầm, kể lể suy tư suốt mấy trăm tác phẩm, thì Phạm Duy, trái lại, như một con bướm bay từ vườn này sang vườn khác. Trịnh Công Sơn tinh khiết, Phạm Duy xác thịt. Trịnh Công Sơn là mặt trăng, Phạm Duy là mặt trời. Trịnh Công Sơn trừu tượng, Phạm Duy cụ thể. Trịnh Công Sơn đơn điệu đơn sắc, Phạm Duy đa điệu đa sắc đến cùng cực. Trịnh Công Sơn có chỗ đứng vững chắc, Phạm Duy luôn luôn đi trong cuộc hành trình. Không có đề tài nào mà Phạm Duy không thí nghiệm, từ cái dơ dáy của Tục Ca tới cái hồn nhiên của Bé Ca và cái cao siêu của Ðạo Ca, thuần khiết của Thiền Ca. Phạm Duy như một đứa trẻ năm tuổi, chạy chơi tung tăng trong vườn hoa của cuộc đời và của nghệ thuật, khi thì bắt bướm, khi thì vọc bùn, hoàn toàn không cần biết cha mẹ răn đe la mắng, cứ thích gì là làm nấy. Và may mắn cho chúng ta, một trong những cái Phạm Duy thích làm là… viết ca khúc!
Nhưng điều đáng buồn là, trong khi Trịnh Công Sơn được chính thức vinh danh, nhạc của ông được phê bình, bàn luận, in và phổ biến, thì nhạc Phạm Duy bị cấm đoán, không ai được nói tới trong nước. Dĩ nhiên, một số ca khúc Phạm Duy vẫn được hát trong các phòng trà, phòng khách. Nhưng khi sự lưu hành hoàn toàn dựa vào thị hiếu của công chúng như vậy, mà không có sự phê bình bàn luận chuyên nghiệp hỗ trợ, thì không thể bảo đảm rằng những tác phẩm giàu nghệ thuật nhất, trong sự nghiệp âm nhạc đồ sộ và đa dạng của ông, có cơ hội được sống.
Trong mọi bộ môn nghệ thuật, thị hiếu của công chúng không bao giờ là thước đo của giá trị nghệ thuật. Những tác phẩm thực sự độc đáo và tầm cỡ thường khó làm quen, và cần sự bàn luận, phê bình của những người có trình độ để khơi óc tò mò của công chúng và nhẹ nhàng dẫn dắt họ đi vào tác phẩm. Thử hỏi thời nay nếu chương trình trung học không dạy về Truyện Kiều thì sau vài chục năm còn có ai cảm nhận nổi? Dĩ nhiên, khi công chúng đã được giới thiệu và tác phẩm bắt đầu trở thành quen thuộc, thì nó sẽ đi vào lòng người một cách sâu đậm và lâu dài hơn những tác phẩm kém giá trị.
Cũng vậy, thành phần nhạc Phạm Duy hiện được lưu hành một cách tự phát và không chính thức chỉ là một phần nhỏ, vài chục bài tình ca, trong một sự nghiệp đồ sộ và đa dạng. Ðó là những tác phẩm bắt tai nhất của Phạm Duy, đánh vào những cảm xúc thông thường của lòng người bằng những kỹ thuật căn bản. Những bản nhạc ngắn với cấu trúc ABA, âm giai trưởng hoặc thứ của Âu châu, trở về chủ âm thường xuyên để ve vuốt lỗ tai, lời lẽ ướt át, tuy không đến nỗi “sến,” nhưng thường cũng chỉ ở mức độ cảm nhận trung bình của thanh niên thiếu nữ thành thị. Những tác phẩm đó, theo tôi, không cho một hình ảnh chính xác và đầy đủ về nghệ thuật của Phạm Duy.
Nói chuyện về Phạm Duy với một người trẻ ở miền Bắc, hay sinh ra ở miền Nam sau 1975, ta thường nghe những ý kiến như sau: “Có gì đâu, chỉ vài bài tình ca lỗi thời”, “Tôi không thấy nhạc Phạm Duy hay ở chỗ nào,” “Không làm tâm hồn tôi rung cảm gì cả”, thậm chí “Nhạc Phạm Duy nghe thấy sến!”. Hẳn những thính giả miền Nam và hải ngoại ái mộ Phạm Duy nghe vậy sẽ rất kinh ngạc, nhưng những người am hiểu một chút về sự cảm nhận âm nhạc và nghệ thuật nói chung thì không ngạc nhiên với những phản ứng ấy. Chúng xuất phát từ sự thiếu quen thuộc của những người mới chỉ nghe vài bản tình ca Phạm Duy.
Sự cảm nhận âm nhạc, nói cho cùng, dựa vào sự quen tai: về phương diện âm thanh thì quen với cung cách giai điệu, thang âm, tiết tấu, tiến trình hòa âm; về ca từ thì quen với từ ngữ, hình ảnh. Trừ phi có học lý thuyết âm nhạc, cái mà hầu hết thính giả Việt Nam không có điều kiện, còn thì sự quen tai là tất cả. Nghe đi nghe lại một số bản nhạc cho đến khi những đường nét giai điệu hằn vào trong óc như vết rãnh của bánh xe bò trên đường đá, nhất là khi đầu óc còn non nớt mềm dẻo và đá còn là đất, đó là tất cả sự đào tạo âm nhạc của hầu hết thính giả Việt Nam.
Trong cái khung cảnh âm thanh rất hạn chế đó, yếu tố ca từ nổi lên chiếm phần quan trọng. Mà ca từ thì tùy thuộc rất nhiều vào thời đại, vào bối cảnh xã hội chính trị. Khi nhạc của một nhạc sĩ bị cấm đoán trong ba mươi năm, qua một cuộc đổi đời về xã hội chính trị, sự cảm thụ tác phẩm của nhạc sĩ ấy trong một thế hệ mới sẽ không dễ. Tân nhạc Việt Nam, do đó, là một tập hợp của những phong trào, biến cố phù du. Bộ phận nào lỡ đánh rơi là mất, không tìm lại được nữa. Sự cấm đoán nhạc Phạm Duy trong 30 năm qua, một sự nghiệp làm gạch nối liên tục suốt từ những năm đầu của Tân nhạc cho đến bây giờ, do đó, là một vết thương trầm trọng của tân nhạc VN.
Một lý do nữa của sự phù du của tân nhạc Việt Nam là nó bị quá coi rẻ trong nền giáo dục âm nhạc. Trong khi nhạc cổ điển Tây Phương luôn luôn được coi là tuyệt đỉnh nghệ thuật, ở cả miền Nam và miền Bắc trước và sau thống nhất, và được giảng dạy trong các nhạc viện, và nhạc truyền thống dân tộc cũng được chú trọng (tuy nhiều khi “phát triển” sai cách và bị ép theo khuôn mẫu Tây phương), thì tân nhạc phổ thông hoàn toàn không được chú ý, kiểu như nhạc jazz bị giới nhạc hàn lâm Tây phương lơ là coi rẻ trong đầu thế kỷ 20. Vì sự lơ là đó mà hầu như không có một sự liên tục nào trong tân nhạc Việt, cứ mỗi thế hệ lại chạy theo những thời trang mới nhất nhập cảng từ ngoại quốc, như một đám bèo bọt trên sông đi từ vũng xoáy này sang vũng xoáy khác.
Muốn có một sự tiến bộ và mở mang liên tục, mỗi thế hệ nhạc sĩ cần học hỏi từ các thế hệ đàn anh. Phải có những bài bàn luận, phê bình, khảo cứu về cách viết nhạc, để xem những người đi trước đã có những sáng tạo gì về kỹ thuật cũng như nội dung, những gì đặc sắc, những gì Việt Nam. Học hỏi để bắt chước và phát huy những cái hay, hoặc để tránh bắt chước một cách vô tình nếu ta muốn đi tìm con đường mới.
Hiện nay, thay vì học viết ca khúc từ các đàn anh nhạc sĩ Việt Nam, các nhạc viên phải học từ các nhạc sĩ Âu châu thời cổ điển. Ðành rằng, ở một trình độ căn bản, ca khúc Việt Nam cũng giống ca khúc thất cung Âu châu, nhưng đó chỉ là trình độ nhập môn. Ca khúc xuất phát từ ngôn ngữ, mà tiếng Việt khác hẳn với các loại tiếng Âu châu về âm thanh. Những ngũ cung các miền Việt Nam, những luyến láy theo dấu của các địa phương VN, đem tới cho ca khúc Việt một sắc thái đặc biệt không nước nào có.
Phổ thơ sang nhạc là một hoạt động căn bản của nhạc sĩ khắp các nước, nhưng với các thể thơ Việt Nam dựa lên âm điệu lên xuống, luật bằng trắc và những thể thơ riêng, hoạt động ấy có những vấn đề rất đặc biệt. Trải qua mấy thế hệ, các nhạc sĩ tìm cách giải quyết và áp dụng nhiều cách khác nhau. Mà về phương diện đó thì Phạm Duy là bực thầy. Thử xem ông phổ câu ca dao:
Trèo lên cây bưởi hái hoa
và hớn hở nhắc đi nhắc lại chữ “trèo lên” để vươn lên gần hai bát độ, ngân nga nũng nịu kéo dài dấu hỏi trong chữ “bưởi”, thì mới thấy tài năng tuyệt diệu của ông trong cách biểu diễn tình cảm qua âm điệu và làm chủ ngôn ngữ Việt Nam. Tác giả bài này đã bàn thêm về nghệ thuật phổ thơ của Phạm Duy trong một bài khác [1].
Như đã nói ở trên, những tình ca ngăn ngắn của Phạm Duy viết trong thời ở miền Nam, tuy rất thịnh hành và được lưu hành không chính thức vì dân chúng quá thích nên không ngăn được, không thể coi là những đóng góp quan trọng nhất của Phạm Duy. Không có tình ca Phạm Duy thì cũng có tình ca của nhiều nhạc sĩ khác, còn mùi mẫn, ướt át cảm động hơn. Dĩ nhiên, nhiều người khác, kể cả nhạc sĩ Phạm Duy, có thể không đồng ý với ý kiến này!
Vậy những bản nhạc nào biểu hiện cho sự đóng góp lâu dài của Phạm Duy vào kho tàng âm nhạc Việt Nam? Tác phẩm của Phạm Duy quá đa dạng để mọi người có thể đồng ý về sự lựa chọn. Riêng tôi, tạm để ra ngoài những tác phẩm có tính cách thời sự khó lòng được lưu hành trong tương lai gần (tuy nhiều bài rất giá trị về mặt nghệ thuật), và cũng xin tạm không nói đến Minh họa Kiều còn cần thời gian để đánh giá, tôi xin đưa ra vài ví dụ tiêu biểu sau đây:
1. Dân ca (mới). Ðiều này ai cũng biết. Nét đặc biệt của Phạm Duy là đã đem dân ca vào dòng chính của tân nhạc, với những âm điệu hấp dẫn, mới mẻ mà vẫn đầy bản sắc Việt Nam. Tối thiểu, dân ca Phạm Duy là chiếc cầu để người trẻ thành thị đi về với dân ca truyền thống nguyên thủy. Nhưng còn hơn nữa, dân ca Phạm Duy làm thăng hoa dân ca truyền thống, làm nảy nở những tinh hoa của nó.Nghe một bài dân ca Phạm Duy nhưÐố ai, Quê nghèo, Người về, Ngày trở về, Bài ca sao, người thành thị không chút nào cảm thấy cố gắng phải “tìm về bản sắc dân tộc” để “ra vẻ Việt Nam”, mà cảm thấy cái bản sắc ấy tự nhiên nảy nở throng lòng họ và lôi cuốn họ, chẳng kém, hoặc còn hơn, là khi nghe một bản nhạc thời trang ngoại quốc. Ít có nhạc sĩ VN khác nào làm được điều đó.
2. Những tình ca quê hương: cũng tương tự như dân ca, nhưng phát triển thêm một nấc về tầm cỡ, nghệ thuật và cảm xúc. Cách phân loại của tôi hơi khác với của Phạm Duy, tôi xin đặt vào loại này những bản như Về miền Trung, Tình ca, Tình hoài hương, Chiều về trên sông… Ðây là những tác phẩm điêu luyện, có tầm cỡ, độc đáo, bố cục chặt chẽ mà lại không khả đoán, ra ngoài khuôn sáo của các bài hát bình thường, mang nhiều âm hưởng ngũ cung dân gian, và tràn đầy tình quê hương, thích hợp và cần thiết cho mọi thế hệ người Việt.
3. Hai bài trường ca Trường ca Con đường cái quan và Mẹ Việt Nam. Ðặc sắc nhất, theo thiển ý, là tác phẩm Mẹ Việt Nam. [2] 21 ca khúc trong Trường ca này được dàn dựng chặt chẽ, nối kết với nhau bởi một ý tưởng rất đẹp và sâu sắc, dùng chất liệu thần thoại và lịch sử của dân tộc, để nói lên những khát vọng hòa bình, cảm thông và đoàn kết của cả một dân tộc. Không hiểu những khát vọng phi chính trị, rất chính đáng và rất hợp thời này có được chính quyền sớm hiểu và cho phép phổ biến không? Hay là vì nó xuất phát từ trong một trái tim “ngoài vòng kiềm tỏa,” chứ không phải từ một ban tuyên giáo hay trường chính trị nào đó, nên sẽ bị cấm đoán mãi? Nếu vậy thì thật đáng tiếc.
4. Mười bài Ðạo ca, phổ nhạc Phạm Thiên Thư. Về mặt âm nhạc thuần túy, cũng như về mặt kết hợp giữa nhạc điệu và ca từ, tôi nghĩ rằng đây là một kiệt tác của Phạm Duy. Ông đã dùng những kỹ thuật về tiến trình hòa âm và chuyển thể của âm nhạc Tây phương một cách điêu luyện để diễn tả những tư tưởng thiền và đạo rất Việt Nam.
5. Những bài khác có tính cách khai phá kỹ thuật, thử nghiệm với những âm điệu lạ tai, nhưng vẫn thành công rực rỡ trong việc chuyển tải cảm xúc: Ðường chiều lá rụng, Mộng du, Tóc mai sợi vắn sợi dài.
6. Những ca khúc phổ thơ sử dụng những kỹ thuật đặc sắc để thích ứng với ngôn ngữ và thể điệu thơ Việt: Thuyền viễn xứ, Tiếng sáo thiên thai, Nụ tầm xuân…
Không biết bao giờ nhạc Phạm Duy mới được chính thức lưu hành và tự do bàn cãi tại Việt Nam. Nhưng một ngày qua mà chưa được hát, chưa được bàn, là thêm một mất mát cho nền âm nhạc Việt Nam, vốn dĩ chưa có gì phong phú.
Chú thích:
[1] Phạm Quang Tuấn. Nghệ thuật phổ nhạc của Phạm Duy. Thế Kỷ 21, đăng lại ở http://www.tuanpham.org/photho.htm.
[2] Phạm Quang Tuấn. Introduction to Phạm Duy’s “Mẹ Viet Nam”, http://www.tuanpham.org/EnglishLyricsFull.htm#MVN0.
Nhạc sĩ Phạm Duy và nhạc sĩ Phạm Tuyên – Ảnh: Tiểu Vũ.

Nhạc sĩ Phạm Duy bỏ quên cây đàn ở đâu?
Nhiều tác phẩm âm nhạc của nhạc sĩ Phạm Duy đã ăn sâu vào lòng công chúng yêu âm nhạc, trong đó có bài hát “Cây đàn bỏ quên” được ông sáng tác từ lúc còn rất trẻ. Những bí mật thú vị ít ai biết đằng sau bài hát được chính nhạc sĩ Phạm Duy chia sẻ lúc còn sinh thời trong đoạn video clip bên dưới mà chúng tôi may mắn chứng kiến và ghi lại.
Nhạc sĩ Phạm Duy được coi là một trong những nhạc sĩ lớn của nền Tân nhạc Việt Nam với số lượng sáng tác đồ sộ và đa dạng về thể loại, trong đó có những bài đã trở nên rất quen thuộc với người. Để biết được hoàn cảnh ra đời từng tác phẩm của ông vẫn là câu đố đối với những nhà nghiên cứu âm nhạc.
Phút trầm tư của người nghệ sĩ, nhạc sĩ tài hoa…
Vào ngày 18.8.2011, trong một chương trình giao lưu âm nhạc mang tính dòng họ tổ chức ở TP. HCM. Nhạc sĩ Phạm Duy được mời đến dự với tư cách là người con họ Phạm, cùng tham dự với ông có nhạc sĩ Phạm Tuyên từ Hà Nội vào.
Trong đêm nhạc này con trai của nhạc sĩ Phạm Duy là ca sĩ Duy Quang cũng đến tham dự và và hát hai bài hát của ông đó là bài Đưa em tìm động hoa vàng và bài Cây đàn bỏ quên. Nhận thấy đây là dịp hiếm hoi mà khán giả bình dân có dịp tiếp xúc trực tiếp với nhạc sĩ Phạm Duy. Đạo diễn chương trình là nhạc sĩ Phạm Anh Cường đã có sáng kiến một cuộc giao lưu nhỏ với hai nhạc sĩ Phạm Tuyên và Phạm Duy (phần này hoàn toàn không có trong kịch bản).
Cố nhạc sĩ Phạm Duy và cố nhạc sĩ 
Phạm Anh Cường trong đêm nhạc Họ Phạm.
MC là diễn viên Hồng Ánh, mời khán giả trẻ trong hội trường đặt câu hỏi với hai vị nhạc sĩ. Bất ngờ một khán giả có tên là Phạm Thị Bích Huyền đặt một câu hỏi rất hay với nhạc sĩ Phạm Duy về hoàn cảnh ra đời của bài hát Cây đàn bỏ quên. Chị nêu lên thắc mắc:
“Chú là người đàn ông trong bài hát bỏ quên cây đàn ở nhà người phụ nữ nào, hay là được hư cấu trong hoàn cảnh nào?”.
Nhận được câu hỏi, nhạc sĩ Phạm Duy hơi bất ngờ, ông dí dỏm:
“Cô rất đẹp nhưng hỏi câu hỏi khó quá!”, dù vậy ông cũng vui vẻ trả lời câu hỏi “khó” đó cho vị khán giả này.
Nhạc sĩ Phạm Duy kể câu chuyện Cây Đàn Bỏ Quên
Nhạc sĩ Phạm Duy chia sẻ:
“Tôi làm bài hát ‘Cây đàn bỏ quên’ từ lúc mười tám đôi mươi tuổi, lúc đó tôi tham lắm. Tôi đã được một người yêu tặng một bông hoa, để bông hoa ấy trên cây đàn. Tôi tự hỏi, cô ấy yêu cây đàn hay yêu tôi? Bây giờ tôi già rồi, chắc tôi không cần phải tự hỏi nữa. Cô đó cách đây 80 năm rồi, chắc đã yêu cây đàn và yêu cả người già này nữa”.
Những tràng pháo tay được vang lên, mặc dù danh tánh người phụ nữ trong bài hát vẫn không được nhạc sĩ tiết lộ, nhưng khán giả rất thỏa mãn với cách trả lời của ông.
Hai nhạc sĩ Phạm Duy và Phạm Tuyên
Trong phần sau của câu chuyện, ông tâm sự về một bài hát ca sĩ Duy Quang vừa trình bày:
“Tôi cho rằng bài hát “Đưa em tìm động hoa vàng” (phổ thơ Phạm Thiên Thư sáng tác năm 1972) là bài hát thanh cao nhất trong thời điểm mà tôi đang sống…”.
Nhạc sĩ Phạm Duy bây giờ đã thành người thiên cổ, nhưng tên tuổi của ông sống mãi với những ca khúc bất hủ như: Bà mẹ Gio Linh, Mười hai lời ru, Chiến sĩ vô danh. Tình ca, Về miền Trung, Tình hoài hương, Bà mẹ quê, Em bé quê, Hẹn hò, Cỏ hồng, Ngày đó chúng mình, Cây đàn bỏ quên, Phượng yêu, Kiếp nào có yêu nhau, Đừng xa nhau, Mưa rơi, Đường em đi, Tôi còn yêu tôi cứ yêu, Trả lại em yêu, Giết người trong mộng…
Hàng ngàn tác phẩm âm nhạc của ông, những cảm hứng sáng tác, hoàn cảnh ra đời của từng bài hát vẫn là điều gì đó bí ẩn để cho chúng ta tiếp tục tìm tòi giải mã. Ngồi góp nhặt những phần đời hiếm hoi của ông lúc sinh thời cũng chỉ là một chút gì rất nhỏ bé để khám phá một tâm hồn âm nhạc quá vĩ đại của ông.
Cô Hái Mơ - Phạm Duy - Thơ Nguyễn Bính 
 Ca sĩ Hà Thanh
Tình Kỹ Nữ – Khánh Ly
Tiếng Bước Trên Đường Khuya – Khánh Ly
Cây Đàn Bỏ Quên – Duy Trác
Cây Đàn Bỏ Quên – Duy Quang
Cây Đàn Bỏ Quên – Quang Dũng
Cây Đàn Bỏ Quên – Quang Lê
Khối Tình Trương Chi – Thái Thanh
Khối Tình Trương Chi – Sĩ Phú
Khối Tình Trương Chi – Khánh Ly
Ngày Trở Về –  Thái Thanh
Ngày Trở Về – Duy Khánh
Đưa Em Tìm Động Hoa Vàng – Thái Thanh
Đưa Em Tìm Động Hoa Vàng – Ngọc Hạ
Đưa Em Tìm Động Hoa Vàng – Mỹ Linh
Kiếp Nào Có Yêu Nhau – Thái Thanh
Kiếp Nào Có Yêu Nhau – Ngọc Hạ
Theo http://dotchuoinon.com/


2 nhận xét:

Thơ có cần thiết cho đời sống

Thơ có cần thiết cho đời sống? Trong kỷ nguyên nghe nhìn, thơ đang có khoảng cách với đời sống. Độc giả thèm khát những câu thơ tương tác ...