Những tình khúc vượt thời gian
của Nhạc sĩ Phạm Duy
Hôm nay mình giới thiệu đến các bạn các ca khúc: “Cô Hái
Mơ”, “Cây Đàn Bỏ Quên”, “Tình Kỷ Nữ”, “Khối Tình Trương Chi”, “Tiếng Bước Trên
Đường Khuya”, “Ngày Trở Về”, “Đưa Em Tìm Động Hoa Vàng”, “Kiếp Nào Có Yêu Nhau” của Nhạc
sĩ Phạm Duy.
Nhạc sĩ Phạm Duy (5 tháng 10 năm 1921 - 27 tháng 1 năm
2013), tên thật Phạm Duy Cẩn là một nhạc sĩ, ca sĩ, và nhà nghiên cứu
Âm Nhạc Việt Nam. Ông được coi như một trong những nhạc sĩ lớn nhất của nền Tân
Nhạc Việt Nam với lượng sáng tác đồ sộ cũng như đa dạng về thể loại, trong đó
có rất nhiều ca khúc trở nên kinh điển và quen thuộc với người Việt.
Nhạc của ông thường kết hợp những yếu tố của Âm Nhạc Cổ Truyền
Việt Nam với các trào lưu, phong cách mới, tạo nên nhiều tác phẩm có tính đột
phá, giàu ảnh hưởng đối với các nhạc sĩ thuộc nhiều thế hệ. Ngoài sáng tác và
biểu diễn, ông còn có những công trình khảo cứu về Âm Nhạc Việt Nam có giá trị.
Nhạc sĩ Phạm Duy
Ông từng giữ chức giáo sư nhạc ngữ tại Trường Quốc Gia Âm Nhạc
Sài Gòn. Với hơn 70 năm sự nghiệp, trải qua nhiều giai đoạn lịch sử quan trọng
của đất nước, ông được coi là cây đại thụ của nền Âm Nhạc Việt Nam. Tuy vậy bên
cạnh đó, các quan điểm nhìn nhận về ông cũng khác biệt, chủ yếu là do các vấn đề
chính trị.
Khởi đầu sự nghiệp âm nhạc trong gánh hát Đức Huy với vai trò
phó quản lý và ca sĩ hát lưu động. Từng tham gia Kháng chiến chống Pháp một thời
gian trước khi vào Miền Nam để tiếp tục tự do hoạt động âm nhạc. Nhạc sĩ Phạm
Duy là một tên tuổi lớn và đầy ảnh hưởng tại Miền Nam – Việt Nam với những hoạt
động tích cực dành cho cả âm nhạc và chính trị, và những hoạt động này còn tiếp
diễn sau giai đoạn 1975, khi ông di tản sang Hoa Kỳ. Vì lý do chính trị, nhạc của
ông bị cấm hoàn toàn tại Miền Bắc – Việt Nam sau 1954, và toàn Việt Nam sau
1975.
Năm 2005, sau nhiều lần về thăm quê hương, ông chính thức trở
về Việt Nam sống và từ đó, một số ca khúc của ông mới bắt đầu được phép phổ biến
lại. Tính cho tới tháng 1 năm 2014, có 244 ca khúc được cấp phép lưu hành
(trong số đó có 53 ca khúc ngoại quốc do ông đặt lời Việt), trong số khoảng một
ngàn sáng tác của ông.
Năm 1941, ông thành ca sĩ hát tân nhạc trong gánh hát cải
lương Đức Huy – Charlot Miều. Thời kỳ hát rong, Phạm Duy được gặp gỡ nhiều tên
tuổi lớn như thi sĩ Lưu Trọng Lư, nhạc sĩ Lê Thương, Lê Xuân Ái, Văn Đông… và
nhạc sĩ Văn Cao, người sau này trở thành bạn thân thiết trong đời sống lẫn
trong âm nhạc. Thời kỳ này, ngoài việc cùng Văn Cao la cà các chốn ăn chơi, thì
ông cũng giúp đỡ cho Văn Cao trong việc soạn nhạc, cùng Văn Cao sáng tác các
tác phẩm“Bến Xuân”, “Suối Mơ”.
Năm 1942, ông khởi nghiệp sáng tác nhạc với tác phẩm hoàn chỉnh
đầu tay là “Cô Hái Mơ”, phổ từ thơ Nguyễn Bính, trong thời kỳ Phong Trào
Tân Nhạc bắt đầu nở rộ.
Tới năm 1944, ông cho ra đời bài “Gươm Tráng Sĩ”, một ca
khúc gắn với sự tích Hồ Hoàn Kiếm, và là ca khúc đầu tiên được ông viết cả lời
lẫn nhạc. Bên cạnh đó là những bài nhạc tình lãng mạn đầu tay: “Cô Hái
Mơ”, “Cây Đàn Bỏ Quên”, “Khối Tình Trương Chi”, “Tình Kỹ Nữ”, “Tiếng Bước Trên
Đường Khuya”…
Nhạc sĩ Phạm Duy qua đời ngày 27 tháng 1 năm 2013 tại Sài
Gòn.
Dưới đây mình có các bài:
– Ngày trở về của Phạm Duy trong bối cảnh âm nhạc Việt Nam
– Nhạc sĩ Phạm Duy bỏ quên cây đàn ở đâu?
– Nhạc sĩ Phạm Duy bỏ quên cây đàn ở đâu?
Cùng với 17 clips tổng hợp các ca khúc “Cô Hái Mơ”, “Cây
Đàn Bỏ Quên”, “Tình Kỷ Nữ”, “Khối Tình Trương Chi”, “Tiếng Bước Trên Đường Khuya”,
“Ngày Trở Về”, “Đưa Em Tìm Động Hoa Vàng”, “Kiếp Nào Có Yêu Nhau” do các
ca sĩ xưa và nay diễn xướng để các bạn tiện việc tham khảo và thưởng thức.
Mời các bạn.
Túy Phượng
Ngày trở về của Phạm Duy
trong bối cảnh âm nhạc Việt Nam
Phạm Quang Tuấn
Việc nhạc sĩ Phạm Duy hồi hương gây nhiều tranh luận sôi nổi
trong cộng đồng Việt Nam hải ngoại cũng như ở trong nước. Hầu hết những bài báo
hải ngoại và một số bài báo trong nước nhìn việc này qua lăng kính chính trị. Một
số bài cũng nhìn vào khía cạnh tình cảm cá nhân của một ông già trở về quê
hương sinh sống. Tuy nhiên, bài này sẽ hoàn toàn không đề cập đến những khía cạnh
đó, mà sẽ tập trung vào mặt âm nhạc, văn hóa của chuyến hồi hương này.
Tự nó, việc Phạm Duy trở về không có ý nghĩa nhiều về mặt âm nhạc.
Nhưng nếu sự hồi hương của Phạm Duy dẫn tới việc nhạc của ông (sớm) được lưu
hành và phê bình, bàn luận ở trong nước, thì có thể sẽ có những hậu quả quan trọng
cho nền tân nhạc Việt Nam. Ðó mới là điều giới nhạc Việt Nam quan tâm.
Trước hết, tôi xin bàn về vị trí của nhạc Phạm Duy trong âm
nhạc Việt Nam. Nền tân nhạc Việt Nam thường được coi là “chính thức” khai sinh
khi nhạc sĩ Nguyễn Văn Tuyên đi khắp nước diễn thuyết và trình bày những ca
khúc của ông vào năm 1938, tuy rằng nhiều nhạc sĩ đã bắt đầu viết ca khúc theo
thang âm Âu châu vài năm trước đó, nhưng chưa có cơ hội phổ biến. Vậy cứ cho rằng
tân nhạc có một lịch sử khoảng 70 năm. Trong khoảng thời gian ngắn ngủi đó, ba
nhạc sĩ thường được coi là nổi bật nhất là Văn Cao, Phạm Duy và Trịnh Công Sơn.
Theo thiển ý, chỗ đứng của Văn Cao không vững vàng bên cạnh
hai người kia. Tuy ông là người đa tài, tiềm năng của ông đã không được thể hiện
xứng đáng vì những hoàn cảnh lịch sử, chính trị. Những tác phẩm của ông làm thời
trẻ còn quá cổ điển, quá Âu tây (dù đã dùng ngũ cung Việt Nam trong bài Thiên
thai), chưa phát huy đến nơi đến chốn tính thẩm mỹ Việt Nam, chưa độc sáng và
thoát ra khỏi cái khuôn mẫu “dĩ Âu vi trung”. Lê Thương mới thực sự là nhạc sĩ
đáng kể với những đóng góp vô cùng quan trọng và giàu tính dân tộc qua ba bản
Hòn Vọng Phu.
Nhưng Lê Thương hơi kém về lượng. Trịnh Công Sơn mới chính là
đối thủ của Phạm Duy về số lượng và tính cách độc sáng. Nếu Phạm Duy là người
đã đem dân ca VN vào nhạc, thì Trịnh Công Sơn là người đã đem hồn thơ, và quan
trọng hơn, đem những suy tư của người Việt trẻ đô thị, vào nhạc. Mỗi nhạc sĩ đã
sản xuất trên dưới một ngàn tác phẩm.
Trong nghệ thuật, cũng như trong khoa học, số lượng không phải
là điều quan trọng, mà quan trọng là sự đặc sắc và khai phá. Có những người có
thể viết cả ngàn bài thơ, bản nhạc, mà thế giới không biết họ là ai và cũng
không cần biết, vì những thơ nhạc đó chỉ là rập theo khuôn mẫu của kẻ khác. Có
những người (như Lê Thương trong tân nhạc hay Mendel trong khoa học) chỉ có vài
ba bản nhạc hay một khám phá mà đủ để có chỗ đứng trong lịch sử. Nhưng những
nghệ sĩ lớn thường có số lượng đồ sộ, vì nghệ thuật là cả cuộc đời của họ, và họ
không thể ngừng sáng tác. Và do đó Trịnh Công Sơn và Phạm Duy là hai cột trụ của
tân nhạc Việt Nam trong thế kỷ 20.
Tính cách của hai nhạc sĩ này hoàn toàn khác nhau. Trong khi
Trịnh Công Sơn tập trung vào một phong cách riêng, với những giai điệu dựa trên
âm giai E minor đặc thù của chiếc tây ban cầm, kể lể suy tư suốt mấy trăm tác
phẩm, thì Phạm Duy, trái lại, như một con bướm bay từ vườn này sang vườn khác.
Trịnh Công Sơn tinh khiết, Phạm Duy xác thịt. Trịnh Công Sơn là mặt trăng, Phạm
Duy là mặt trời. Trịnh Công Sơn trừu tượng, Phạm Duy cụ thể. Trịnh Công Sơn đơn
điệu đơn sắc, Phạm Duy đa điệu đa sắc đến cùng cực. Trịnh Công Sơn có chỗ đứng
vững chắc, Phạm Duy luôn luôn đi trong cuộc hành trình. Không có đề tài nào mà
Phạm Duy không thí nghiệm, từ cái dơ dáy của Tục Ca tới cái hồn nhiên của Bé Ca
và cái cao siêu của Ðạo Ca, thuần khiết của Thiền Ca. Phạm Duy như một đứa trẻ
năm tuổi, chạy chơi tung tăng trong vườn hoa của cuộc đời và của nghệ thuật,
khi thì bắt bướm, khi thì vọc bùn, hoàn toàn không cần biết cha mẹ răn đe la mắng,
cứ thích gì là làm nấy. Và may mắn cho chúng ta, một trong những cái Phạm Duy
thích làm là… viết ca khúc!
Nhưng điều đáng buồn là, trong khi Trịnh Công Sơn được chính
thức vinh danh, nhạc của ông được phê bình, bàn luận, in và phổ biến, thì nhạc
Phạm Duy bị cấm đoán, không ai được nói tới trong nước. Dĩ nhiên, một số ca
khúc Phạm Duy vẫn được hát trong các phòng trà, phòng khách. Nhưng khi sự lưu
hành hoàn toàn dựa vào thị hiếu của công chúng như vậy, mà không có sự phê bình
bàn luận chuyên nghiệp hỗ trợ, thì không thể bảo đảm rằng những tác phẩm giàu
nghệ thuật nhất, trong sự nghiệp âm nhạc đồ sộ và đa dạng của ông, có cơ hội được
sống.
Trong mọi bộ môn nghệ thuật, thị hiếu của công chúng không
bao giờ là thước đo của giá trị nghệ thuật. Những tác phẩm thực sự độc đáo và tầm
cỡ thường khó làm quen, và cần sự bàn luận, phê bình của những người có trình độ
để khơi óc tò mò của công chúng và nhẹ nhàng dẫn dắt họ đi vào tác phẩm. Thử hỏi
thời nay nếu chương trình trung học không dạy về Truyện Kiều thì sau vài chục
năm còn có ai cảm nhận nổi? Dĩ nhiên, khi công chúng đã được giới thiệu và tác
phẩm bắt đầu trở thành quen thuộc, thì nó sẽ đi vào lòng người một cách sâu đậm
và lâu dài hơn những tác phẩm kém giá trị.
Cũng vậy, thành phần nhạc Phạm Duy hiện được lưu hành một
cách tự phát và không chính thức chỉ là một phần nhỏ, vài chục bài tình ca, trong
một sự nghiệp đồ sộ và đa dạng. Ðó là những tác phẩm bắt tai nhất của Phạm Duy,
đánh vào những cảm xúc thông thường của lòng người bằng những kỹ thuật căn bản.
Những bản nhạc ngắn với cấu trúc ABA, âm giai trưởng hoặc thứ của Âu châu, trở
về chủ âm thường xuyên để ve vuốt lỗ tai, lời lẽ ướt át, tuy không đến nỗi “sến,”
nhưng thường cũng chỉ ở mức độ cảm nhận trung bình của thanh niên thiếu nữ
thành thị. Những tác phẩm đó, theo tôi, không cho một hình ảnh chính xác và đầy
đủ về nghệ thuật của Phạm Duy.
Nói chuyện về Phạm Duy với một người trẻ ở miền Bắc, hay sinh
ra ở miền Nam sau 1975, ta thường nghe những ý kiến như sau: “Có gì đâu,
chỉ vài bài tình ca lỗi thời”, “Tôi không thấy nhạc Phạm Duy hay ở chỗ nào,”
“Không làm tâm hồn tôi rung cảm gì cả”, thậm chí “Nhạc Phạm Duy nghe thấy
sến!”. Hẳn những thính giả miền Nam và hải ngoại ái mộ Phạm Duy nghe vậy sẽ rất
kinh ngạc, nhưng những người am hiểu một chút về sự cảm nhận âm nhạc và nghệ
thuật nói chung thì không ngạc nhiên với những phản ứng ấy. Chúng xuất phát từ
sự thiếu quen thuộc của những người mới chỉ nghe vài bản tình ca Phạm Duy.
Sự cảm nhận âm nhạc, nói cho cùng, dựa vào sự quen tai: về
phương diện âm thanh thì quen với cung cách giai điệu, thang âm, tiết tấu, tiến
trình hòa âm; về ca từ thì quen với từ ngữ, hình ảnh. Trừ phi có học lý thuyết
âm nhạc, cái mà hầu hết thính giả Việt Nam không có điều kiện, còn thì sự quen
tai là tất cả. Nghe đi nghe lại một số bản nhạc cho đến khi những đường nét
giai điệu hằn vào trong óc như vết rãnh của bánh xe bò trên đường đá, nhất là
khi đầu óc còn non nớt mềm dẻo và đá còn là đất, đó là tất cả sự đào tạo âm nhạc
của hầu hết thính giả Việt Nam.
Trong cái khung cảnh âm thanh rất hạn chế đó, yếu tố ca từ nổi
lên chiếm phần quan trọng. Mà ca từ thì tùy thuộc rất nhiều vào thời đại, vào bối
cảnh xã hội chính trị. Khi nhạc của một nhạc sĩ bị cấm đoán trong ba mươi năm,
qua một cuộc đổi đời về xã hội chính trị, sự cảm thụ tác phẩm của nhạc sĩ ấy
trong một thế hệ mới sẽ không dễ. Tân nhạc Việt Nam, do đó, là một tập hợp của
những phong trào, biến cố phù du. Bộ phận nào lỡ đánh rơi là mất, không tìm lại
được nữa. Sự cấm đoán nhạc Phạm Duy trong 30 năm qua, một sự nghiệp làm gạch nối
liên tục suốt từ những năm đầu của Tân nhạc cho đến bây giờ, do đó, là một vết
thương trầm trọng của tân nhạc VN.
Một lý do nữa của sự phù du của tân nhạc Việt Nam là nó bị
quá coi rẻ trong nền giáo dục âm nhạc. Trong khi nhạc cổ điển Tây Phương luôn
luôn được coi là tuyệt đỉnh nghệ thuật, ở cả miền Nam và miền Bắc trước và sau
thống nhất, và được giảng dạy trong các nhạc viện, và nhạc truyền thống dân tộc
cũng được chú trọng (tuy nhiều khi “phát triển” sai cách và bị ép theo khuôn mẫu
Tây phương), thì tân nhạc phổ thông hoàn toàn không được chú ý, kiểu như nhạc
jazz bị giới nhạc hàn lâm Tây phương lơ là coi rẻ trong đầu thế kỷ 20. Vì sự lơ
là đó mà hầu như không có một sự liên tục nào trong tân nhạc Việt, cứ mỗi thế hệ
lại chạy theo những thời trang mới nhất nhập cảng từ ngoại quốc, như một đám
bèo bọt trên sông đi từ vũng xoáy này sang vũng xoáy khác.
Muốn có một sự tiến bộ và mở mang liên tục, mỗi thế hệ nhạc
sĩ cần học hỏi từ các thế hệ đàn anh. Phải có những bài bàn luận, phê bình, khảo
cứu về cách viết nhạc, để xem những người đi trước đã có những sáng tạo gì về kỹ
thuật cũng như nội dung, những gì đặc sắc, những gì Việt Nam. Học hỏi để bắt
chước và phát huy những cái hay, hoặc để tránh bắt chước một cách vô tình nếu
ta muốn đi tìm con đường mới.
Hiện nay, thay vì học viết ca khúc từ các đàn anh nhạc sĩ Việt
Nam, các nhạc viên phải học từ các nhạc sĩ Âu châu thời cổ điển. Ðành rằng, ở một
trình độ căn bản, ca khúc Việt Nam cũng giống ca khúc thất cung Âu châu, nhưng
đó chỉ là trình độ nhập môn. Ca khúc xuất phát từ ngôn ngữ, mà tiếng Việt khác
hẳn với các loại tiếng Âu châu về âm thanh. Những ngũ cung các miền Việt Nam,
những luyến láy theo dấu của các địa phương VN, đem tới cho ca khúc Việt một sắc
thái đặc biệt không nước nào có.
Phổ thơ sang nhạc là một hoạt động căn bản của nhạc sĩ khắp
các nước, nhưng với các thể thơ Việt Nam dựa lên âm điệu lên xuống, luật bằng
trắc và những thể thơ riêng, hoạt động ấy có những vấn đề rất đặc biệt. Trải
qua mấy thế hệ, các nhạc sĩ tìm cách giải quyết và áp dụng nhiều cách khác
nhau. Mà về phương diện đó thì Phạm Duy là bực thầy. Thử xem ông phổ câu ca
dao:
Trèo lên cây bưởi hái hoa
và hớn hở nhắc đi nhắc lại chữ “trèo lên” để vươn
lên gần hai bát độ, ngân nga nũng nịu kéo dài dấu hỏi trong chữ “bưởi”, thì mới
thấy tài năng tuyệt diệu của ông trong cách biểu diễn tình cảm qua âm điệu và
làm chủ ngôn ngữ Việt Nam. Tác giả bài này đã bàn thêm về nghệ thuật phổ thơ của
Phạm Duy trong một bài khác [1].
Như đã nói ở trên, những tình ca ngăn ngắn của Phạm Duy viết
trong thời ở miền Nam, tuy rất thịnh hành và được lưu hành không chính thức vì
dân chúng quá thích nên không ngăn được, không thể coi là những đóng góp quan
trọng nhất của Phạm Duy. Không có tình ca Phạm Duy thì cũng có tình ca của nhiều
nhạc sĩ khác, còn mùi mẫn, ướt át cảm động hơn. Dĩ nhiên, nhiều người khác, kể
cả nhạc sĩ Phạm Duy, có thể không đồng ý với ý kiến này!
Vậy những bản nhạc nào biểu hiện cho sự đóng góp lâu dài của
Phạm Duy vào kho tàng âm nhạc Việt Nam? Tác phẩm của Phạm Duy quá đa dạng để mọi
người có thể đồng ý về sự lựa chọn. Riêng tôi, tạm để ra ngoài những tác phẩm
có tính cách thời sự khó lòng được lưu hành trong tương lai gần (tuy nhiều bài
rất giá trị về mặt nghệ thuật), và cũng xin tạm không nói đến Minh họa Kiều còn
cần thời gian để đánh giá, tôi xin đưa ra vài ví dụ tiêu biểu sau đây:
1. Dân ca (mới). Ðiều này ai cũng biết. Nét đặc biệt của Phạm
Duy là đã đem dân ca vào dòng chính của tân nhạc, với những âm điệu hấp dẫn, mới
mẻ mà vẫn đầy bản sắc Việt Nam. Tối thiểu, dân ca Phạm Duy là chiếc cầu để người
trẻ thành thị đi về với dân ca truyền thống nguyên thủy. Nhưng còn hơn nữa, dân
ca Phạm Duy làm thăng hoa dân ca truyền thống, làm nảy nở những tinh hoa của
nó.Nghe một bài dân ca Phạm Duy nhưÐố ai, Quê nghèo, Người về, Ngày trở về, Bài
ca sao, người thành thị không chút nào cảm thấy cố gắng phải “tìm về bản sắc
dân tộc” để “ra vẻ Việt Nam”, mà cảm thấy cái bản sắc ấy tự nhiên nảy nở throng
lòng họ và lôi cuốn họ, chẳng kém, hoặc còn hơn, là khi nghe một bản nhạc thời
trang ngoại quốc. Ít có nhạc sĩ VN khác nào làm được điều đó.
2. Những tình ca quê hương: cũng tương tự như dân ca, nhưng
phát triển thêm một nấc về tầm cỡ, nghệ thuật và cảm xúc. Cách phân loại của
tôi hơi khác với của Phạm Duy, tôi xin đặt vào loại này những bản như Về miền
Trung, Tình ca, Tình hoài hương, Chiều về trên sông… Ðây là những tác phẩm điêu
luyện, có tầm cỡ, độc đáo, bố cục chặt chẽ mà lại không khả đoán, ra ngoài
khuôn sáo của các bài hát bình thường, mang nhiều âm hưởng ngũ cung dân gian,
và tràn đầy tình quê hương, thích hợp và cần thiết cho mọi thế hệ người Việt.
3. Hai bài trường ca Trường ca Con đường cái quan và Mẹ Việt
Nam. Ðặc sắc nhất, theo thiển ý, là tác phẩm Mẹ Việt Nam. [2] 21 ca khúc trong
Trường ca này được dàn dựng chặt chẽ, nối kết với nhau bởi một ý tưởng rất đẹp
và sâu sắc, dùng chất liệu thần thoại và lịch sử của dân tộc, để nói lên những
khát vọng hòa bình, cảm thông và đoàn kết của cả một dân tộc. Không hiểu những
khát vọng phi chính trị, rất chính đáng và rất hợp thời này có được chính quyền
sớm hiểu và cho phép phổ biến không? Hay là vì nó xuất phát từ trong một trái
tim “ngoài vòng kiềm tỏa,” chứ không phải từ một ban tuyên giáo hay trường
chính trị nào đó, nên sẽ bị cấm đoán mãi? Nếu vậy thì thật đáng tiếc.
4. Mười bài Ðạo ca, phổ nhạc Phạm Thiên Thư. Về mặt âm nhạc
thuần túy, cũng như về mặt kết hợp giữa nhạc điệu và ca từ, tôi nghĩ rằng đây
là một kiệt tác của Phạm Duy. Ông đã dùng những kỹ thuật về tiến trình hòa âm
và chuyển thể của âm nhạc Tây phương một cách điêu luyện để diễn tả những tư tưởng
thiền và đạo rất Việt Nam.
5. Những bài khác có tính cách khai phá kỹ thuật, thử nghiệm
với những âm điệu lạ tai, nhưng vẫn thành công rực rỡ trong việc chuyển tải cảm
xúc: Ðường chiều lá rụng, Mộng du, Tóc mai sợi vắn sợi dài.
6. Những ca khúc phổ thơ sử dụng những kỹ thuật đặc sắc để
thích ứng với ngôn ngữ và thể điệu thơ Việt: Thuyền viễn xứ, Tiếng sáo thiên
thai, Nụ tầm xuân…
Không biết bao giờ nhạc Phạm Duy mới được chính thức lưu hành
và tự do bàn cãi tại Việt Nam. Nhưng một ngày qua mà chưa được hát, chưa được
bàn, là thêm một mất mát cho nền âm nhạc Việt Nam, vốn dĩ chưa có gì phong phú.
Chú thích:
[1] Phạm Quang Tuấn. Nghệ thuật phổ nhạc của Phạm Duy.
Thế Kỷ 21, đăng lại ở http://www.tuanpham.org/photho.htm.
[2] Phạm Quang Tuấn. Introduction to Phạm Duy’s “Mẹ Viet
Nam”, http://www.tuanpham.org/EnglishLyricsFull.htm#MVN0.
Nhạc sĩ Phạm Duy và nhạc sĩ Phạm Tuyên – Ảnh: Tiểu Vũ.
Nhạc sĩ Phạm Duy bỏ quên cây đàn ở đâu?
Nhiều tác phẩm âm nhạc của nhạc sĩ Phạm Duy đã ăn sâu vào
lòng công chúng yêu âm nhạc, trong đó có bài hát “Cây đàn bỏ quên” được ông
sáng tác từ lúc còn rất trẻ. Những bí mật thú vị ít ai biết đằng sau bài hát được
chính nhạc sĩ Phạm Duy chia sẻ lúc còn sinh thời trong đoạn video clip bên dưới
mà chúng tôi may mắn chứng kiến và ghi lại.
Nhạc sĩ Phạm Duy được coi là một trong những nhạc sĩ lớn của
nền Tân nhạc Việt Nam với số lượng sáng tác đồ sộ và đa dạng về thể loại, trong
đó có những bài đã trở nên rất quen thuộc với người. Để biết được hoàn cảnh ra
đời từng tác phẩm của ông vẫn là câu đố đối với những nhà nghiên cứu âm nhạc.
Phút trầm tư của người nghệ sĩ, nhạc sĩ tài hoa…
Vào ngày 18.8.2011, trong một chương trình giao lưu âm nhạc
mang tính dòng họ tổ chức ở TP. HCM. Nhạc sĩ Phạm Duy được mời đến dự với tư
cách là người con họ Phạm, cùng tham dự với ông có nhạc sĩ Phạm Tuyên từ Hà Nội
vào.
Trong đêm nhạc này con trai của nhạc sĩ Phạm Duy là ca sĩ Duy
Quang cũng đến tham dự và và hát hai bài hát của ông đó là bài Đưa em tìm động
hoa vàng và bài Cây đàn bỏ quên. Nhận thấy đây là dịp hiếm hoi mà khán giả bình
dân có dịp tiếp xúc trực tiếp với nhạc sĩ Phạm Duy. Đạo diễn chương trình là nhạc
sĩ Phạm Anh Cường đã có sáng kiến một cuộc giao lưu nhỏ với hai nhạc sĩ Phạm
Tuyên và Phạm Duy (phần này hoàn toàn không có trong kịch bản).
Cố nhạc sĩ Phạm Duy và cố nhạc sĩ
Phạm Anh Cường trong đêm nhạc
Họ Phạm.
MC là diễn viên Hồng Ánh, mời khán giả trẻ trong hội trường đặt
câu hỏi với hai vị nhạc sĩ. Bất ngờ một khán giả có tên là Phạm Thị Bích Huyền
đặt một câu hỏi rất hay với nhạc sĩ Phạm Duy về hoàn cảnh ra đời của bài hát
Cây đàn bỏ quên. Chị nêu lên thắc mắc:
“Chú là người đàn ông trong bài hát bỏ quên cây đàn ở nhà người
phụ nữ nào, hay là được hư cấu trong hoàn cảnh nào?”.
Nhận được câu hỏi, nhạc sĩ Phạm Duy hơi bất ngờ, ông dí dỏm:
“Cô rất đẹp nhưng hỏi câu hỏi khó quá!”, dù vậy ông cũng vui
vẻ trả lời câu hỏi “khó” đó cho vị khán giả này.
Nhạc sĩ Phạm Duy kể câu chuyện Cây Đàn Bỏ Quên
Nhạc sĩ Phạm Duy chia sẻ:
“Tôi làm bài hát ‘Cây đàn bỏ quên’ từ lúc mười tám đôi mươi
tuổi, lúc đó tôi tham lắm. Tôi đã được một người yêu tặng một bông hoa, để bông
hoa ấy trên cây đàn. Tôi tự hỏi, cô ấy yêu cây đàn hay yêu tôi? Bây giờ tôi già
rồi, chắc tôi không cần phải tự hỏi nữa. Cô đó cách đây 80 năm rồi, chắc đã yêu
cây đàn và yêu cả người già này nữa”.
Những tràng pháo tay được vang lên, mặc dù danh tánh người phụ
nữ trong bài hát vẫn không được nhạc sĩ tiết lộ, nhưng khán giả rất thỏa mãn với
cách trả lời của ông.
Hai nhạc sĩ Phạm Duy và Phạm Tuyên
Trong phần sau của câu chuyện, ông tâm sự về một bài hát ca
sĩ Duy Quang vừa trình bày:
“Tôi cho rằng bài hát “Đưa em tìm động hoa vàng” (phổ thơ Phạm
Thiên Thư sáng tác năm 1972) là bài hát thanh cao nhất trong thời điểm mà tôi
đang sống…”.
Nhạc sĩ Phạm Duy bây giờ đã thành người thiên cổ, nhưng tên
tuổi của ông sống mãi với những ca khúc bất hủ như: Bà mẹ Gio Linh, Mười hai lời
ru, Chiến sĩ vô danh. Tình ca, Về miền Trung, Tình hoài hương, Bà mẹ quê, Em bé
quê, Hẹn hò, Cỏ hồng, Ngày đó chúng mình, Cây đàn bỏ quên, Phượng yêu, Kiếp nào
có yêu nhau, Đừng xa nhau, Mưa rơi, Đường em đi, Tôi còn yêu tôi cứ yêu, Trả lại
em yêu, Giết người trong mộng…
Hàng ngàn tác phẩm âm nhạc của ông, những cảm hứng sáng tác,
hoàn cảnh ra đời của từng bài hát vẫn là điều gì đó bí ẩn để cho chúng ta tiếp
tục tìm tòi giải mã. Ngồi góp nhặt những phần đời hiếm hoi của ông lúc sinh thời
cũng chỉ là một chút gì rất nhỏ bé để khám phá một tâm hồn âm nhạc quá vĩ đại của
ông.
Cô Hái Mơ - Phạm Duy - Thơ Nguyễn Bính
Ca sĩ Hà Thanh
Tình Kỹ Nữ – Khánh Ly
Tiếng Bước Trên Đường Khuya – Khánh Ly
Cây Đàn Bỏ Quên – Duy Trác
Cây Đàn Bỏ Quên – Duy Quang
Cây Đàn Bỏ Quên – Quang Dũng
Cây Đàn Bỏ Quên – Quang Lê
Khối Tình Trương Chi – Thái Thanh
Khối Tình Trương Chi – Sĩ Phú
Khối Tình Trương Chi – Khánh Ly
Ngày Trở Về – Thái Thanh
Ngày Trở Về – Duy Khánh
Đưa Em Tìm Động Hoa Vàng – Thái Thanh
Đưa Em Tìm Động Hoa Vàng – Ngọc Hạ
Đưa Em Tìm Động Hoa Vàng – Mỹ Linh
Kiếp Nào Có Yêu Nhau – Thái Thanh
Kiếp Nào Có Yêu Nhau – Ngọc Hạ
hãng eva air có tốt không
phòng vé máy bay đi mỹ
korean airlines vietnam
giá vé máy bay đi mỹ giá rẻ
vé máy bay đi canada giá rẻ
Nhung Chuyen Di Cuoc Doi
Ngau Hung Du Lich
Tri Thức Du Lịch
vé máy bay eva air
giá vé máy bay đi mỹ giá rẻ
hàng không hàn quốc
giá vé máy bay đi mỹ khứ hồi
mua vé máy bay đi canada
Cuoc Doi La Nhung Chuyen Di
Ngẫu Hứng Du Lịch
Tri Thuc Du Lich