Núi Ngọc Nữ nằm ở phía tây nam thành phố Thanh Hóa, trong quần
thể núi Kỳ Lân- Ngọc Nữ - Chùa Đại Bi. Đây là cảnh đẹp nổi tiếng từ lâu của xứ
Thanh. Lê Thánh Tông, vị vua anh minh bậc nhất của triều đại phong kiến Việt
Nam, chuộng Nho giáo, giỏi thơ văn, yêu thích phong cảnh đẹp, đặc biệt là nơi
sơn thủy hữu tình đã nhiều lần qua đây làm thơ, ngâm vịnh…
Trong “Hồng Đức quốc âm thi tập” có 5 bài vịnh về núi thì
trong đó có đến 2 bài thơ vịnh về núi Ngọc Nữ. Bài thứ nhất có tên Núi goá:
Toà đá ai đem đặt giữa đồng
Dáng hình Ngọc nữ lựa người trông
Phau phau da đá pha màu phấn
Phơi phới mưa xuân phủi bụi hồng
Ngày ngắm gương ô đáy nước
Đêm cài lược thỏ trên không
Xuân thu ướm hỏi bao chăng tá
Bài thơ theo luật thơ Đường biến
thể với kết cấu: Đề, thực, luận, kết quen thuộc, thể thất ngôn bát cú, luật trắc
vần bằng chặt chẽ. Hai câu đầu tả tổng thể, phác hoạ cho người đọc sự hình dung
khái quát về vẻ đẹp của núi Ngọc nữ nhưng ở từng câu đã thể hiện những cung bậc
của cảm xúc.
Câu phá đề: "Toà
đá ai đem đặt giữa đồng ", giới thiệu trực khởi về núi Ngọc nữ, là sự
trầm trồ ngưỡng mộ: "Toà". Câu thừa đề nâng cao lên dẫn người đọc
liên tưởng tới dáng hình và vẻ đẹp mỹ miều của Ngọc nữ. Trong Truyện Kiều, để
thể hiện lúc Kiều đẹp nhất, Nguyễn Du cũng đã sử dụng chữ "toà" này:
Toà thiên nhiên!
Câu hỏi tu từ thể
hiện sự ngỡ ngàng trước cảnh thiên nhiên mà như có bàn tay con người xây đắp tạo
dựng một cách có nghệ thuật. Câu thơ được thể hiện theo luật trắc vần bằng hợp
lý: đá, đặt, giữa. Câu thừa đề, nâng cao lên một bước, dẫn người đọc liên tưởng
tới dáng hình và vẻ đẹp mỹ miều của Ngọc nữ. Là sự tiếp nối cái ngỡ ngàng:"Dáng
hình Ngọc nữ lựa người trông". Ở câu này, Lê Thánh Tông đã thổi hồn
cho đá. Từ ‘lựa’ là từ cổ, thuộc về động từ, nghĩa là ‘tựa’. Ngọc nữ như là một
cô gái đang tựa người, đứng ngắm cảnh non nước hay là ai đi qua cũng phải dừng
chân ngắm nhìn Ngọc nữ? Bút pháp nghệ thuật ‘ý tại ngôn ngoại’, chỉ một câu
nhưng cho ta cách hiểu khác không kém phần biểu cảm. Nếu như câu đề là những
nét khái quát tổng thể về dáng núi hình Ngọc nữ với những cảm xúc ngỡ ngàng trầm
trồ thì sang câu thực là sự thăng hoa của cảm hứng nghệ thuật. Tác giả tả chi
tiết vẻ đẹp của Ngọc nữ qua các cặp từ láy và đối nhau về từ loại, về ý và về
chữ kết hợp với nghệ thuật đảo trật tự chữ trong câu hiệu quả:
Phơi phới mưa xuân phủi bụi hồng
Từ "phau
phau" ở đây ý muốn nói đến màu trắng nhưng không phải là trắng muốt,
trắng tinh hay trắng bạch mà là màu trắng phau của da thịt. Màu trắng này mang
vẻ bàng bạc của thời gian hay thời gian đã đánh phấn điểm tô cho Ngọc nữ? Từ
"phơi phới" đầu câu sau đối lại từng ý, từng từ trong câu cũng đối lại
một cách tài tình giữa tĩnh và động; giữa hiện thực và lãng mạn: hiện thực và
tĩnh là phau phau và lãng mạn và động là phơi phới…Con người đứng giữa đồng
nhuốm màu thời gian, dáng Ngọc nữ như muốn bay lên với hương sắc mùa xuân.
"Bụi hồng" là từ cổ mà ta cũng đã từng gặp sau này trong Truyện
Kiều của Nguyễn Du: "Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia"; hay: "Hồng
trần bụi cuốn chinh an" (Chinh phụ ngâm- Đoàn Thị Điểm).
Ngày ngắm gương ô đáy nước
Đêm cài lược thỏ trên không
Nghệ thuật đối ở cả hai cặp “thực” và “luận” đều
rất nhuần nhuyễn. Câu thứ năm, sáu là hai câu luận biến thể chỉ còn sáu chữ mỗi
câu, bình về núi Ngọc nữ, bình về nàng tiên nữ của núi đá, vần đối nhau trên trắc
dưới bằng, trên bằng dưới trắc. Cách đối nhau về ý, vừa có chất thơ vừa có chất
họa như vậy, tác giả phải có sự phối hợp nghệ thuật hài hòa lắm mới có thể có
được sự miêu tả tinh tế dường ấy. Nàng Ngọc nữ được thiên nhiên ban phát những
đặc ân mà người thường không thể có, tạo nên một vẻ tinh khôi cao quý, thần
tiên. Trong văn thơ cổ, người ta quan niệm rằng: Trên mặt trời có con quạ đen
(gọi mặt trời là vầng kim ô); trong mặt trăng có con thỏ ngọc (gọi mặt trăng là
ngọc thỏ: "Hỏi con ngọc thỏ bao nhiêu tuổi"- Hồ Xuân Hương).
Nàng Ngọc nữ hàng ngày ngắm vầng kim ô, soi ngắm mình nơi đáy nước và khi màn
đêm bao phủ, giữa đồng không, một toà đá cũng đủ cao chạm trăng để rồi cái vầng
trăng non chưa tròn đầy ấy như một cái lược cài trên tóc Ngọc nữ ? Hai câu luận
đã thổi hồn cho núi, làm cho hình ảnh nàng tiên Ngọc nữ sống động. Nhìn chung,
bốn câu giữa bài đều là những câu tả, thế nhưng ở hai câu trên là những đặc ân
mà nàng Ngọc nữ được "ban", còn hai câu tiếp theo là nét yểu điệu mà
Ngọc nữ thể hiện: Ngày ngắm soi, đêm cài lược. Nếu hai câu đầu là câu hỏi tu từ
thì câu kết là câu hỏi để khẳng định:
Chành chạnh bền gan chẳng lấy chồng?
Lê Thánh Tông đã mượn ý thơ của Nguyễn
Trãi khi hỏi cô hàng chiếu "xuân thu phỏng độ bao nhiêu tuổi" để hỏi
nàng Ngọc nữ: Nàng đã đứng đây bao nhiêu năm tháng, bao nhiêu thế kỷ, bao nhiêu
tuổi mà vẫn trinh tiết bền gan chẳng lấy chồng, mãi mãi vẫn là một cô trinh nữ
Bài thơ khép lại nhưng âm hưởng vẫn còn
lắng đọng trong lòng người đọc những cảm xúc trong trẻo, tinh khôi, thần tiên
mà tài thơ xuất chúng của vua Lê Thánh Tông mang tới. Bài thơ Núi goá (vịnh về
núi Ngọc nữ) có bản dịch gọi là Quả sơn nhưng câu cuối bài thơ "Chành chạnh
bền gan chẳng lấy chồng" cho phép chúng ta hiểu theo nghĩa thứ hai
(Quả sơn) tức là đứng riêng một mình, cô đơn lẻ loi.
vé máy bay eva airlines
vé máy bay đi mỹ hãng nào rẻ nhất
số điện thoại hãng korean air
vé máy bay đi mỹ là bao nhiêu
mua vé máy bay đi canada
Cuoc Doi La Nhung Chuyen Di
Du Lich Tu Tuc
Tri Thuc Du Lich