Nhà thơ Trần Dzạ Lữ (còn
ký Trần Yên Hồ) tên thật Trần văn Duận, sanh năm 1949, khởi làm thơ từ thập
niên 1960 và đã có thơ đăng trên các tạp chí Văn, Văn Học, Thời Tập, Khởi
Hành, v.v. Các tác phẩm Hát Dạo Bên Trời (NXB Trẻ, 1995) và Gọi
Tình Bên Sông (1997) được xuất bản sau hơn 30 năm góp mặt với làng thơ.
Mở đầu tậpHát Dạo Bên Trời, nhà thơ đã ghi: "được thai nghén trên 30
năm nay đứa con đầu ra đời và hiện đang đứng Hát Dạo Bên Trời ...".
Từng được đọc thơ ông từ
trước 1975 và mới đây sau khi đọc Hát Dạo Bên Trời (1995), chúng
tôi xin ghi lại một số nhận xét (phần thơ trích từ tập HDBT và một số tạp chí
trước 1975 cũng như trên mạng). Đọc thơ Trần Dzạ Lữ với những người từng theo
dõi văn chương, cũng là một cách hồi tưởng, sống lại những năm 1960, 1970 là
một thời nghệ thuật đáng nhớ của những con người từng sống ở miền Nam tự do.
Trước hết, thế giới thi ca
của Trần Dzạ Lữ là cả một khung trời tình yêu, bắt đầu với thơ tình một
thời học trò. Ở đây là những mối tình hoa mộng, lời hoa mà lòng gấm, lời đan
thanh mà lòng đã nhiều đam mê. Không gian học đường đã đóng khung những bước
chân chim non, những gót son thấp thoáng nơi sân trường và tản đi nhiều
phương khi tan trường về. Tình thuở môi hồng được viết thành thơ :
Anh chưa nhìn sao em đà
cúi mặt
Để buổi chiều bẽn lẽn ở
sau lưng?
Bước chân chim hình như
cũng ngại ngùng
Anh sửng sốt thả rơi tình,
ân hận...
(...)
Anh chưa nhìn sao em đà hấp tấp
Ướt mi chi cho xa lắc
trăng rằm?
Đến mây trời cũng ngừng cuộc
lang thang
Để bịn rịn theo ai về cuối
ngõ ...
(...)
Anh chưa nhìn sao em đà cúi mặt
Hay là anh giống hệt một
gã khờ?
Em - tháng giêng ngon cũng
vừa bay mất
Và cuối hồn anh còn chút
dư hương...
(Tặng người áo trắng)
Những hẹn hò khi tình đã
chín, những nuối tiếc vì tuổi học trò đơn sơ không tính toán, để phải "bây
giờ thu bên đời lận đận":
Sao không nói những khi
mình gặp gỡ
Những khi ngày còn chở mộng
qua sông,
Để bây giờ lòng chỉ mới hỏi
lòng
Mà đêm đã chia sầu tình
vanh vách
(...) Sao không nói những
khi trăng còn hẹn
Với lầu khuya say ngợp cả
đất trời
Để bây giờ trăng bỏ về
phương khác
Cho chim buồn kêu lẻ dưới
sương rơi
(...) Sao không nói những
khi mình vương vấn
Những chiều thu vàng thầm
bước theo nhau
Để bây giờ thu bên đời lận
đận
Lạ nhau rồi còn ai ngóng
ai đâu ...
(Sao không nói?)
Người tình ấy từng da diết,
rồi cũng có lúc chia phôi, tình chỉ còn trong nỗi nhớ:
Tháng giêng gợi nhớ môi
người,
Trong đêm tóc rối một trời
yêu thương.
Bây giờ thêm nhớ mùi hương,
Một giai nhân đã đổi đường
chim bay
(Khúc tháng giêng)
Tiếc nuối trên những dấu
chân xưa, nơi "phố chợ đó cũng hoang đường cổ tích":
Người đã xa như một vì sao
nhỏ
Cuối chân trời thương nhớ
vẫn chưa nguôi
Tôi đếm những mùa xuân qua
hút bóng
Nghe trong hồn hoa cỏ cũng
tàn phai ...
1967.
(Xuân lối cũ, HDBT tr. 12)
Tiếc hơn nữa mỗi khi mùa
Xuân lại đến rộn ràng, hoa quỳ vàng đã choán hết ký ức:
Dừng bên cầu hát quạnh/
Nghe mưa bụi qua hồn
Mới hay xuân trở lại/ Xui
nhớ người yêu thương
Mùa nào hoa quỳ nở/ Ta
trao nhau mộng đầu
Tuổi mười lăm mười bảy/
Em ngọt đời như dao
(...) Bây
giờ Tết rồi nhỏ/ Mình vẫn còn xa nhau
Chắc em quàng khăn nhớ/ Đợi
anh về, xôn xao!
Đừng có buồn nghe nhỏ/
Ở thị trấn hoa vàng
Có hồn anh theo nhỏ/ Tình
vẫn nồng trăm năm.
1975
(Mùa Xuân gửi thị trấn hoa
vàng HDBT tr. 38-39)
Thị trấn hoa vàng của mộng
đầu tình non xanh tuổi mười bảy. Hoa quỳ vàng nhắc nhở người yêu bé nhỏ:
Bên sông tình tự, nay gọi
tình bên sông:
Có một lần nhớ quá/ ra
sông đứng gọi tình
tình xa, người hoá lạ/
chiều mồ côi cánh chim...
Có một đời xưa quen/ đã
mù sa cổ tích
kỷ niệm sầu chia nhánh/ Địa
Ngục và Thiên Đàng
(...) Có đôi lần đứng
ngóng/ ngày tình nhân chia lìa
vỗ đàn mà hát hỏng/ nhớ
sum vầy xưa kia...
Có nhiều lúc chơi vơi/
hôn Cúc vàng thầm lặng
thương ơi tờ lụa mỏng/ em
biệt dạng bên trời.
1990
(Gọi tình bên sông, HDBT
tr. 59-60)
Bài thơ sau được dùng lại
làm chủ đề cho cả thi tập Gọi Tình Bên Sông xuất bản năm 1997.
Rồi cũng có "ngày vẫy
biệt khu rừng mơ tuổi nhỏ/ ta xuống đời, biết chắc đã xa em ..."
(tr. 29) để đi vào đời, "anh đi lẳng lặng bóng cò/ chỉ mang theo lá thư
hò hẹn xưa" (tr. 30).
Tình đã dở dang, sao đổi
ngôi, hay vật đã đổi sao đã dời:
Trên đời có sao đổi ngôi
Trong em kẻ lạ thay tôi đổi
tình
Tiếc công giữ mộng, canh
hình
Gương xưa đã vỡ sao lành
được em?
Chong đèn soi cổ tích đêm
Thấy trong tiền kiếp bóng
mình ngu ngơ...
1991
(Sao đổi ngôi, HDBT tr.
69).
Lẳng lặng một bóng, nhưng
đã là nòi tình thì tình vẫn đeo đuổi mãi, nhưng sau này thì theo thời thượng
vi tính:
Ngày xưa anh nhấp tình/
Bây giờ thì nhấp chuột
Dõi tìm trên vi tính/
Tình trôi vào vô minh...
Ấn tay vào bàn phím/ Anh
lại nhớ về em
Mang mang tà áo tím/ Thiếu
nữ qua sông buồn!
(...) Nhấp chuột - cũng
không vui / Nhấp tình - tình vời vợi...
Làm sao quên được người /
Nụ hoa đỏ trên môi?
Mùa xuân về dưới phố / Gác
trọ mình đơn côi! (Nhấp tình)
Tình ở Trần Dzạ Lữ rốt
cùng là tình Huế, tình với Huế, của Huế, của Huế hôm nay hoặc của quá
vãng, trong tâm tưởng, hoặc Huế của trống vắng thần khí. Huế nơi nhà thơ sinh
trưởng nhưng sống ở đó ngắn hơn Sài Gòn và những chân trời lận đận của chiến
tranh và thời hậu chiến bi ai. Nhớ nhất đôi mắt Huế, mắt của đam mê mời gọi một
thời và xa xôi thì nhung nhớ thành ám ảnh đời:
Dù ở đâu không thể nào lẫn
được
Đôi mắt em thăm thẳm mộng
bên trời
Mắt đợi chờ làm điếng cả hồn
tôi
Tình như rứa làm răng tôi
cất bước?
(...)
Dù đi đâu cũng không thể nào xa được
Mắt - Huế - xưa theo dõi
bóng giang hồ
Tôi phải trôi về những cơn
mơ
Áo - tím - Huế bay trong
chiều lụa - bạch
Đôi mắt ấy
thoạt nhìn như sắp khóc
Dẫu đời tôi hoá đá cũng
chao lòng
Mắt u buồn vẫn liếc dáng
thuỷ chung
Như mắt mạ chờ cha nơi phố
cũ...
Dù
ở đâu tôi không thể nào quên được
Mắt - Huế - em ngái ngút vẫn
đâm gần
Mắt níu đời quen cho đến
trăm năm
Tình như rứa làm răng tôi
cất bước?
"Đôi mắt em thăm thẳm
mộng bên trời" phải chăng là đôi mắt huyền của Tôn Nữ của một không gian
thi thoại lá ngọc cành vàng?
Xưa, em buồn trong Nội/ Mắt
ướt mấy cửa thành
Chiều chiều ra hong tóc/
Thấp thoáng mộng ngày xanh...
Ta, thường hay lui tới/
Dưới đường mưa âm thầm
Vì yêu đời Tôn Nữ/ Mong
em, cháy nỗi lòng...
Khi biết ta hàn sĩ / Giấu
nỗi sầu trăm năm
Em che tình mãi rộng/ Ru
nhau vào đời ngoan!
Yêu nhau như chim uyên/ Dắm
như ván trong thuyền
Dẫu búa rìu dư luận/ Bủa
vây ta và em
Những con đường thề thốt /
Lá thấp mùa sương quen
Dấu chân tình ta đẫm/ Tuyệt
vời phải không em?
Nhưng rồi tới một ngày/
Ta khăn gói ra đi
Mộng tàn trong đáy cốc/
Khôn xiết nỗi biệt ly...
Bỏ em sầu trong Nội/ Bỏ lại
một đoạn lòng
Ta đi làm lữ khách / Viễn
xứ hề long đong!
Ta, đứa lạc trong sương /
Mù thêm ngày cô đơn
Lắm lúc mơ vàng - đá/ Thấy
phai màu uyên ương...
(Tôn Nữ có chờ ta ?)
Tôn Nữ được nhà thơ nhiều
lần nhắc đến, như kỷ niệm đầu đời hay đã như nỗi nhớ khôn nguôi hoặc mùi
hương hằng tưởng nhớ. Tôn Nữ được trang trọng viết hoa, trở thành một cụm từ
dễ thương chỉ người đẽp miền sông Hương núi Ngự, ở các bài khác như : Gửi người
áo tím, Đêm mưa nghe tiếng đàn bầu, Cảnh tượng tháng Giêng, Ngày tàn cuộc,
Mùa Hạ về Thành Nội, v.v. :
Tìm đâu ra em hở/ Tôn Nữ
của ngày xưa
Một thời ai nghiêng nón/
Sửng sốt hồn trai tơ! ... 1995
(HDBT tr. 82), và v.v.
Tôn Nữ hay người nữ tên bắt
đầu bằng chữ H. ? H là 'Huế'?
Mình tan loãng vào nhau/
từ lúc nào không biết
em như là chiêm bao / mềm
trong anh cần thiết
thương lúc nào không biết
/ mà nghiêng ngửa hồn xưa
(...) nhưng rồi mình
xa nhau / bất ngờ như lúc đến
(...) năm năm em mật
đắng / vàng lạnh chiếu chăn người
năm năm anh gặm nhấm / dấu
ăn năn bên trời
bây giờ thu em ơi/ còn
đâu mà tan loãng
em đã thành dĩ vãng/ anh
là gíó trùng khơi. 1993
(Thơ Tặng H. khi Mùa Thu Đến,
HDBT tr. 73-74)
Người tình Thành Nội tha
thiết trở lại trong Bài thơ thứ hai cho người tình sâu cố xứ:
Hỡi người em lệ sầu mắt đỏ
Áo trắng dài trong nắng
vàng rung
Em biết không chiều nay
anh nhớ
Thân lạc xứ người hồn đau
gửi cố hương
Anh gửi hồn về thăm thành
nội
Ơi mùa thu nhả lá đổ sương
mù
Chiều xưa em hát như chim
hát
Giọng vàng lòng đá cũng mềm
luôn ...
Lòng đá cũng phải mềm thì
lòng trai sao thoát được lưới tình?
H. phải chăng là Huyền hay
Cúc Hoa,... và nàng áo tím?
Ừ nhỉ, mười năm sầu xa xứ
Cô-lữ-hành rung tiếng đàn
xưa
Nhớ ai như nhớ tình Tôn Nữ
Và màu áo tím huế trong mơ
...
1991
(Gửi người áo tím, HDBT
tr. 71).
Lưới tình bủa vây nhà thơ,
ngày kia, người đẹp Cúc Hoa bên cửa giáo đường Gia Kiệm đã làm lòng nhà thơ
nhói đau, vì con tim chợt hồi tưởng mối tình tưởng đã xa nhưng hãy hiện diện
dù đã mười lăm năm:
Nép mình bên cửa giáo đường
Ta chờ em giữa vô thường
trần gian
Mắt nai trôi giữa hồi
chuông
Hồn ta trôi giạt theo
hương tóc thề
Mười năm, làm cách chim di
Thèm khăn áo mộng đi về với
nhau
Nhưng em nào biết ta đau
Chiều Gia Kiệm có con tàu
thương ga?
Hồi chuông làm nhớ quê nhà
Môi cười làm nhớ Cúc Hoa tần
ngần...
1989
(Chiều Gia Kiệm, HDBT tr.
54)
Huế ở Trần Dzạ Lữ là Huế của
tâm hồn, Huế ở âm vang con chữ hơn là ngôn ngữ Huế sử dụng như với Hoàng Xuân
Sơn, một nhà thơ khác của đất Thần Kinh. Với Trần Dzạ Lữ, Huế là những mối
tình đam mê đầu đời và da diết, là không gian của những nơi tình tứ như Đồi Vọng
Cảnh:
Trên đồi Vọng Cảnh với em
Bao cay đắng cũng
hoá nên ngọt ngào
Sá gì đất thấp trời
cao
Ta bay trong mộng với
hào hoa xưa
Cho dù Huế chiều nay
mưa
Ta xin nghiêng bóng
che vừa tình em
Trên đồi chia một
trái sim
Nửa ta bối rối, nửa
em ngập ngừng ...
1995
(Trên đồi Vọng Cảnh, HDBT
tr. 81)
Tình của nơi Thành Nội những
mùa hoa phượng nở, khi mất rồi có tìm về thì cảnh đó cũng đã phai bóng người
xưa: "Bây chừ hoa phượng nở/ Rưng rưng chiều nội thành/ Ta về phơi
thương nhớ/ Bên đường kỷ niệm xanh”... (1995. Mùa Hạ về Thành Nội, HDBT tr.
82).
Huế là nơi chốn của những
kỷ niệm đầu đời thuở mới lớn, nơi đã chứng kiến những mối tình non dại. Những
bài của Trần Dzạ Lữ về Huế là những bàn tình ca trung thật nhất, vì Huế cũng
là nơi sinh trưởng nhưng người con xứ Huế thân yêu đã phải đi xa lang bạt
theo dòng đời. Những giây phút chạnh lòng, nhà thơ nhớ về quê xưa và nếu có
những dịp may, con đường xưa lối cũ dĩ nhiên làm con tim người trở về rộn
ràng, hàng cây, con đò,... và người con gái tên Huyền :
Ta trờ lại con đường mười
tám
Heo may về lướt thướt bên
cây
Những bầy chim trắng xưa
khuất bóng
Tóc mun ai thôi đổ sông
dài
Nắng
hanh vàng ơi chiều Đại Nội
Ta vô ra một bóng phiêu bồng
Dấu tích vẫn còn rêu phong
cũ
Mà tình kia quảy gánh long
đong
Toà
Khâm vẫn lầu cao còn đó
Nhưng em xưa nay đã xa rồi
Câu mái đẩy giờ ai buông
giọng
Mà nghe sầu cổ tích chơi
vơi
Ta trở lại,
nhớ Huyền xưa ơi!
Cốc cà phê Bưu Điện một thời...
Mai đi như gió-đời vô định
Biết dặn dò chi nữa hở người.
(Mùa Thu về cố xứ)
Mặt khác, 'Hát dạo bên trời'
có thể xem như chủ đề của tập thơ của hơn 30 năm trời lận đận phận người trong
thời ly loạn, chiến tranh. Nhà thơ từng triết lý rằng:
Ôm nửa vầng trăng lạnh/
ta về bên trời cao
hát điên đời hiu quạnh/
chống gậy nhìn mưa mau
Tuổi nay gần tam thập/ sống
lẻ như đá mòn
bằng hữu mù tăm tắp/ tình
nhân như dao đâm
Mấy năm
rồi không gặp/ hồn nứt nỗi âm thầm
nhất túy buồn thêm đậm /
ca ngâm vời cỏ cây
Cùng chỉ màu
khói sương/ ngẫm nghĩ hoài hương đỏ
mắt mờ đường chiêm bao/ Ngắt một cành hoa nhỏ
nhớ thu biếc hôm nào / hồn
ta chao chớn gió
nay biết về nơi đâu?
1973
(Hát dạo bên trời, HDBT
tr. 32)
Hát dạo trong cuộc đời, rồi
ca 'cô lữ' những bản nhạc đời:
Ta đứng lại bên đường xuân
hiu hắt
Nghe hồn mình như có bước
ai xưa
Gõ sung mà ca chuyện người
cô lữ
Mộng rất gần mà thực ở đâu
xa ...
1974
(Cô lữ ca, HDBT tr. 36)
Người lữ khách đó theo
dòng đời trôi nỗi. Đà Nẵng cũng là nơi của tình yêu, của môi má, của người
thân, nay trở về như 'lữ khách', nơi phải tất bật 'theo cơm áo' nhân sinh:
Đà Nẵng ơi ta là người về
muộn
cuối sân ga môi má ấy em
còn?
hay đã tắt nụ cười theo
cơm áo?
mộng tao phùng theo gió trắng
qua sông
(...)
Đà Nẵng ơi, làm sao có lại một thời
em mắt biếc đi qua trường
viện
ta chao về cánh chim chiền
chiện
hạnh phúc ghé vào là tấm
gương soi!
Đà Nẵng
ơi, thương quá một thời
thuở chị đẹp trang đời
lóng lánh
giọng Hoàng Oanh bắt đầu
ngày ráo tạnh
lúa ngoài đồng hương cốm
sinh sôi!
(Đà Nẵng, ngày ta về)
Cũng đành, như phận người,
ở một đất nước như Việt Nam từng đã được hơn một nhà văn đề cập đến. Một
buông xuôi bi thảm như thân phận nhược tiểu không tiếng nói:
Cũng đành người bỏ xa tôi
Để vun bên đó, để vơi bên
này
Chim giờ lệch cả đường bay
Trời xanh đã thẳm những
ngày hư hao!
Cũng đành buồn chuyện ca
dao
Trầu cau đôi ngã, nắng
nhàu, mưa xiên...
Cũng đành ngựa lạc, người
điên
Suối trôi cô độc, sông biền
biệt xa!
Tôi giờ "Trong cõi
người ta"
Chiều không, quán vắng, đường
xa độc hành...
(Cũng đành)
Thuở trời đất nổi cơn gió
bụi, có những lần về phép trở lại thành phố, người sĩ quan Truyền tin Trần Dzạ
Lữ lại phải lên đường bỏ người yêu ở lại nơi thị tứ hậu phương, nơi cũng đã
nhuốm mùi lửa đạn chiến tranh:
Em đừng hỏi ở rừng có gì lạ
có gì đâu xương rã với hồn
đau
và khi không tháng giêng
lên núi
đời đày ta và thần thánh
xa nhau
(...) Em đừng hỏi ở
rừng có gì lạ
có gì đâu ta từ buổi lên
đường
hôn chưa kịp em - bây giờ
hôn đất
thay chiếu giường bằng hầm
hố cô đơn
Em đừng
hỏi ở rừng có gì lạ
có gì đâu rừng rú điêu tàn
nai lạc dấu ngàn thương
trăng cũ
ta nhớ người quay quắt
trong sương.
1971
(Thư Gởi Người Ở Lại, HDBT
tr. 25-26)
Tâm sự đôi lúc đành gửi bạn
tri âm, như Cung Tích Biền, rằng phận chúng ta đã vậy, bước phiêu bồng đã mỏi,
thì sao không như Đỗ Phủ một thời Đường thi ? Vì:
Tôi sinh sau đẻ muộn/ sao
tâm sự giống ông
tình mây bay gió cuốn/
đau từng câu thơ Đường
Đã đi khắp xứ sở/ từng đụng
nỗi hàm oan
đời sống và trang kinh/
chưa bao giờ là một!
(...) Thà
say như Lý Bạch/ thà cuồng như Trí Thâm
tỉnh như tôi và ông/ chỉ
thêm mầm bệnh tật!
Nhưng mình mau nước mắt /
mặn nồng với cố hương
lẽ nào ta ngoảnh mặt/ trước
bức bách đời thường?
1990
(Gửi Đỗ Phủ, HDBT tr.
61-62)
Hết tâm sự đến nỗi nhung
nhớ những người bạn thơ, bạn văn một thời chữ nghĩa khác, những Huy Tưởng,
Nguyễn Mộng Giác, Vũ Hữu Định,...và cả những chốn vui bạn hữu như Quán cà
phê Làng Văn. Vì buồn nhớ nào hơn những khi một mình "Gối đầu lên hiu quạnh/ Ngước nhìn mắt sao khuya/ Tự dưng hồn lay động/ Có phải người xưa về? "
(Có phải, HDBT tr. 70).
Nhà thơ bỏ thế giới thi ca
cao quí để đối đầu với thực tế cuộc đời. Ở chợ đời, nhà thơ phải bươn chải với
đủ thứ 'nghề', phải vịn lấy để sống còn với đời:
Mười năm ở chợ không tri kỷ
Ta đứng thu thân một nỗi
buồn
Sáng bảnh mắt ra, ngồi độc
ẩm
Chiều về tra vấn lấy lương
tâm
(...) Ở chợ đông, sao hồn
cứ lạnh
Đốt thuốc hoài không ấm nửa
chiều?
Thiên hạ đùn nhau đi kiếm
sống
Nhân ái? Tang thương ngẫu lục
nhiều
Ta bán rau xanh, ngày mệt
lử
Đêm còn ngồi đọc sách
thánh hiền
Cố quên cơm áo - vòng danh
lợi
Sao đời nỡ hối thúc bên
lưng?
(...) Mười
năm ở chợ không tri kỷ
Gác chuyện văn chương thấy
chẳng đành
Nên ta độc thoại - Ta đây
nhỉ?
Thương nhớ xa xăm một bóng
hình.
1989
(Ở chợ, HDBT tr. 47-48)
Sau biến cố tháng Tư 1975,
nhà thơ lao động nhọc nhằn quá mà vẫn không nhìn thấy tương lai cũng như
không đủ cho hôm nay. Cuộc sống đa đoan đưa người thơ phiêu lưu đến những nơi
hiểm hốc, trở ra miền Trung đi tìm trầm tìm sống, lòng nao nao nhớ về Nam nơi
người thân sinh sống:
Trong đám đi tìm trầm/ Chốn
thấm sơn cùng cốc
Có người là nông dân/ Bỏ
cày lên mạn ngược
Có kẻ ở thị thành/ Bẻ bút
làm hảo lớn
Cũng có 'Anh hùng tận'/
Vác rựa lên sườn non
(...) Lại có người
xưng thánh/ Có kẻ là ma vương
Tất cả đều thượng sơn/ Cô
hồn chung một lũ
Ngày rừng chan mưa lũ /
Râu tóc ướt phiêu bồng...
Nói chung, đám tìm trầm / Vì
đói cơm rách áo
Người yêu coi như không/
Vợ con là gió thoảng
Chiều nay, qua Ba Lòng/
Vì đâu mà thương nhớ
Đâu phải giò phong lan/
Tim tím chiều quyến rũ
Cũng không phải chùn chân
/ Trước núi rừng muông thú
Nhưng tất cả "binh
đoàn"/ Đều rưng rưng nước mắt
Lúc leo qua con dốc/ Có
tên là Mạ ơi
Dốc còn cao mong đợi /
Tình còn sầu chơi vơi
Riêng ta, thì em ơi/ Nhớ
miền Nam tha thiết
Sài Gòn em có biết/ Nỗi
đau của mưa rừng
Không ngãi cũng tìm trầm/
Áo cơm đang nặng nợ.
1985
(Qua dốc Mạ Ơi ở Ba Lòng HDBT
tr. 43-44).
Xa 'cố xứ', tình cảnh lưu
lạc 'đêm mưa nghe tiếng đàn bầu' sao lòng không não nuột thương đau?
(...) Mưa, mù đường chiêm
bao/ Đàn bầu rung rung nhớ
Mở ngực đời cô lữ/ Chỉ là
vết tình đau
(...) Tiếng mưa lẫn tiếng
đàn/ Nhớ ai ngoài nội cũ
Bao năm rồi mẹ hử/ Con
chưa lần về thăm!
(...) Đêm nay, nghe đàn bầu/ Réo rắt, về gác lửng
Chợt hồn ta quay dựng/
Quê người? Quê xưa đâu? ...
1989
(HDBT tr 49-50).
Trong những cơn khốn cùng,
nhà thơ càng trân quý tình nghĩa tào khang của người vợ. Hình ảnh trở nên đẹp
dù trong tăm tối của ngõ cụt:
Ơi ngày ấy đắm cơn mê
Săm soi gương lược ta về với
nhau
Ngờ đâu tuổi mộng bay mau
Hai vai lại nặng mối sầu
áo cơm
... So dây đàn Thúy âm thầm
Mười lăm năm ấy đoạn trường
là bao
Ơi ngày ấy đã chiêm bao
Thôi em ráng bước qua cầu
cùng anh ...
1990
(Nói với vợ hiền, HDBT tr.
56)
"Anh trăn trở ngóng,
em mường tượng mong", làm người tình rồi vợ, người nữ đã xẻ chia vui buồn
cuộc đời. Hoàn cảnh khó nhăn, ngay cả ngày cưới em nhà thơ cũng không về được,
đành làm thơ xin lỗi gửi người em gái quê nhà 'chơn chất' "Hãy âm thầm
lo toan cuộc sống/ Cho chính mình, ấy là đã thương anh" (HDBT tr. 65).
Buồn, thất vọng, bất lực trước tàn nhẫn của cuộc đời, là những lúc nhà thơ đã
nghĩ đến người xa xưa của một cõi hư vô nào!
Nhìn chung, nhiều bài thơ
Trần Dzạ Lữ là những vần thơ hay, về Huế, về tình yêu, về cuộc lo toan sau
1975. Ông làm đủ loại thơ nhưng lục bát của ông có những nét rất riêng - những
vần thơ của cuối thập niên 1960 :
Tay tôi vuốt mặt theo
ngày
Chim bay về nhánh sầu cây
âm thầm
Hồn xưa vừa chín ăn năn
Em đi biển động đã trăm nỗi
buồn
Tôi về dáng thú buồn hơn
Trong hang mưa lạnh lưng
khom sợi chiều.
(Sợi chiều tà, HDBT tr.
17).
Hai hàng nến thắp áp quan
Người đi nhỏ giọt linh hồn
mai sau
Nụ cười sẽ tắt ngàn thâu
Vầng trăng, xiêm áo trên đầu
hư vô ...
1966
(Bài hư vô, HDBT, tr. 11)
Chiến tranh đã hiện diện
trong thơ Trần Dzạ Lữ một cách bình thường, thủ phận, như không lựa chọn;
bài Thầm hỏi trên tạp chí Văn (SG) số 138 (1969) là một điển hình:
Sao đêm chưa là đêm mở hội
Cho người về vui từng bước
chân chim
Cho người quên tuổi vàng chinh-chiến
Đã ba năm dong ruổi trên
ngàn
Sao đêm chưa là đêm mở hội
Cho mẹ già quên nỗi tủi chờ
con
Cho thiếu phụ quên đời
đá đợi
Đã bao năm cắn lệ thương
chồng
(...) Sao đêm chưa là đêm
mở hội
Cho tôi về bên ánh lửa đêm
đông
Hong thương nhớ những năm
dài quạnh quẽ
Bên mẹ già em gái hết buồn
trông.
Lời thơ hiền lành, kể cả
khi buồn tức tột cùng, lời hằn học nhẹ nhàng như thoáng qua, như khi 'trò
chuyện với gác lửng' trong khi vợ "Vì áo cơm mà em ra chợ/ Một hồn buồn
giữa cõi rau xanh/ Ngày văng tục trên miệng người láu cá/ Mà em thì líu lưỡi
bởi không quen ..." (HDBT tr. 45-46).
Ở Trần Dzạ Lữ, những hình ảnh Tôn Nữ,
Hoa quỳ, Tháng Giêng, Thành Nội, Thành phố Hoa Vàng,... có mặt thường xuyên;
đó là thành tố của một thế giới thơ lãng mạn, đam mê, mặc dù nhà thơ phải sống
"giữa một biển đời giàu chất quỉ, lắm dạng ma, luôn huyên náo, huyền động,
nồng cay trong từng lời mật ngọt ..." - nói như nhà văn Cung Tích Biền
trong lời Tựa cho tập Hát Dạo Bên Trời (tr. 8). Rồi những chữ dùng
của riêng nhà thơ: cuộc về, giấc ngủ ca dao, đắp chiếu thương đau, chở mộng
qua sông, mùa tôi dựng tóc lạnh màu thanh niên (Cảnh tượng tháng Giêng), v.v.
Như đã dẫn nhập, đọc thơ
Trần Dzạ Lữ đối với những người từng theo dõi văn chương, cũng là một cách hồi
tưởng, sống lại: hồi tưởng một thời đại tức thời gian. Xưa nay yếu tố thời gian
vốn được các nhà phân tích văn chương xem trọng, trong khi không gian thường
được xem như cái khung, cái vỏ vây quanh các định mệnh, nhân tố. Thực ra yếu
tố không gian cũng khá quan trọng trong thế giới nghệ thuật nhất là thi ca;
không gian liên hệ mật thiết với thực tại, cái sống, làm nền và nội dung cho
nghệ thuật. Huế, Thành Nội, Thành phố Hoa Vàng mà cả Sài Gòn, Đà Nẵng, Đà Lạt,
Ba Lòng, ... đã là những thành tố quan trọng trong sự nghiệp thơ của Trần Dzạ
Lữ; đọc thơ ông tức đọc không gian Huế (và những nơi chốn khác). Văn bản ấy
được người đọc khám phá như đã được miêu tả, bao gồm, nhắm đến, mơ tưởng đến,... Tùy tài năng tác giả mà ấn-bản thơ trở nên khác nào là một bản địa hình
táo bạo. Huế mà mọi người đã biết hoặc sẽ biết trong thực tại hoặc với các
nhà thơ Nam Trân, Hàn Mặc Tử,... chưa hẳn đã là khônggian Huế của nhà thơ họ
Trần. Thời-gian bao trùm, dĩ nhiên, nhưng phải bám vào một địa lý, nơi chốn,
để có thể hiện diện, thành hình ảnh. Các địa danh đó khiến cho tình ý, tâm sự
tác giả đã đầy nhưng như vẫn trống, đó là đặc tính đọc được của không gian
trong nghệ thuật, nhất là thi ca.
5-2008
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét