Ngụ ngôn của những tiếng hót
của Phạm Tấn Hầu
- NXB Văn học 6/2011)
Tôi một mình, lũ pharixêu múa rối
Sống đến tận cùng, đâu phải chuyện chơi.
(Bôrix Patecnax)
Có thể giá trị đích thực của thơ là những gì mà tác giả đã
cảm nhận qua lăng kính của tri thức và của những cơn đau ẩn mình trong trái
tim bé nhỏ. Không giống như những người làm thơ khác thường tự đo đếm sự
thành danh của chính mình ở số lượng và trên các mặt báo,…Phạm Tấn Hầu đến với
thi ca từ cuối những thập niên sáu mươi, một số bài thơ anh đã đăng rải rác
trên báo Văn, Khởi Hành, Ý thức, Bách Khoa…nhưng mãi đến năm 1990 tác giả mới
ra mắt tập thơ “Thế giới anh đã ngõ lời” ở tuổi trên bốn mươi; ở tuổi này anh
được một số người trong nghề văn gọi là nhà thơ trẻ. Nhân đây, có đôi lời tản
mạn về cách nhìn chủ quan của một lớp người trong xã hội chúng ta (tự cho
mình là bề trên), đó là cách nhìn hạn hẹp đã góp phần không nhỏ vào việc hạn
chế sự trưởng thành của các thế hệ sau. Hãy nhìn lại quá khứ trong lĩnh vực
văn chương, khi một Vũ Trọng Phụng thành danh ở tuổi trẻ trên dưới hai mươi,
một Hàn Mạc Tử, Chế Lan Viên, Phạm Công Thiện,…là những tác giả để lại ấn tượng
mạnh ở lứa tuổi như vậy. Thực ra, với thi ca và nghệ thuật không có ranh giới
của tuổi tác, cũng không phân biệt người xuất hiện trước kẻ sau; vấn đề là xuất
hiện như thế nào, và càng không có đàn anh đàn em, áp phe chia chát như ở các
băng đảng,…điều trân quý trong mỗi người cầm bút là một tấm lòng! Và điều để
làm nên một thi sĩ thực thụ chính là trái tim vô úy! Tất cả những người thơ
như đang trôi vào dòng chảy cuồn cuộn của xã hội và những angten cảm thụ cùng
với khả năng ngôn từ cứ thế mà trào tuôn. Cũng như Rimbaud, một thi sĩ thấu
thị chỉ ở tuổi niên thiếu, nhưng với sự giao cảm cao xa và sự rung động ở tầng
thâm sâu của tâm hồn, chàng trai trẻ đó, sau này đã trở thành trung tâm điểm
khiến cho thế giới thi ca quay xung quanh tác phẩm mình. Thi ca và khoa học
cùng nhìn về một hướng nhưng con đường đến đích là khác nhau, thế giới của
các nhà khoa học là thế giới của kinh nghiệm lý trí, thế giới của cái nhìn
phóng chiếu ra bên ngoài. Trong khi đó thế giới thi ca vượt qua lý trí để đạt
đến thực tại của cá thể qua những cơn xúc cảm và sự tiếp nhận trực diện từ nội
tâm và ngoại cảnh.
Chưa bàn đến “Quay vòng với bụi” xuất hiện năm 1999, thiết
nghĩ với “Thế giới anh đã ngõ lời” xuất bản năm 1990 là quá đủ và chỉ chừng
đó thôi đã hình thành những mảng và khối của một nhà thơ, khi nghe “bản tin về
Paxtenắc” bị khai trừ ra khỏi hội, tác giả như đã cảm nhận được một vòng quay
của tương lai. Phẩm giá của nghệ thuật nói chung và của thi ca nói riêng
trong những xã hội bình thường sẽ tự khẳng định chính nó bởi bản lĩnh của tác
giả, không một ma lực nào có thể lay chuyển, uốn cong giá trị nghệ thuật theo
ý đồ khác, trừ khi có sự thỏa hiệp của tác giả.
Trong cách nhìn đó, “Những con chim của bóng tối” lại một lần
nữa cho người đọc nhìn rõ hơn gương mặt của thi nhân, khi tác giả đã ngõ lời
với thế giới hơn hai mươi năm qua. Nhưng thế giới vốn như vậy, không bao giờ
toàn mỹ vì không có sự hoàn hảo trong mỗi cá thể. Có chăng là sự đổi thay
trong cách nhìn và cách thể hiện ngôn từ của nhà thơ. Để rồi bóng tối trở
thành nơi trú ngụ của những linh hồn khát bay, khi màu đỏ bầm của máu trộn lẫn
với đêm đen, để sự căng thẳng đổ dồn về trái tim cho lũ chim thức trắng:
Đêm hôm trước đỏ bầm
Như máu dồn trong máu
Và lũ chim thức trắng
Vì ngày mai
Là tiếng hát khác
Bi kịch thay khi tương lai của loài chim lại là những chiếc
lồng nhỏ bé hơn cùng với sự mục nát.
Và chiếc lồng nhỏ bé
Hơn cả thân giam cầm
Và mục nát
Việc luận bàn về nghệ thuật ngôn từ có lẽ dành cho những
bài chuyên khảo về toàn bộ sự nghiệp của tác giả, ở đây chỉ nói đến tiết nhịp
và hình ảnh trong “Những con chim của bóng tối”. Thật ra, ngoài những hình ảnh
mới như cái chết của một thi sĩ, những người lính biển đảo, trang giấy lặng
im, khoảng trống trên đường phố,… thì một số hình ảnh trong tập thơ này là một
sự lặp lại của “Thế giới anh đã ngõ lời”, có thể đây là chủ ý của tác
giả như muốn nhắn nhủ với người đọc rằng, đã hơn hai mươi năm trôi qua, hình ảnh
của xã hội được phản chiếu qua hai tập thơ không mấy đổi thay, một xã hội đã
đóng khung các giá trị, vẫn là những phận người khổ ải, hình ảnh những con
chim thức trắng, không khí của sự im lặng, những khúc hát ru, những khoảng trống,
những con đường quê,… có chăng là sự đổi thay về nghệ thuật ngôn từ và tiết
nhịp, về những cái nhìn siêu nghiệm vượt qua rào cản duy lý, tạo ra những trường
xung động khiến người đọc phải trở trăn trong trường thức của tác giả. Không
gian thơ của Phạm Tấn Hầu trở nên thiêng liêng khi anh đã kiến tạo những hình
ảnh vượt qua sự thật đớn hèn, để đề cao giá trị của thi ca và tạo ra những vệt
loang rộng và sâu hơn trong thế giới thơ của chính mình. Và qua đó, tác giả
cho người đọc thấy được gương mặt bao quát của xã hội mà chúng ta đang tồn tại
với rất nhiều biến hiện. Vì vậy khi khẩu độ lăng kính của tác giả càng lớn
thì vẻ mặt của tác phẩm càng đa dạng và sâu thẳm, chúng ta hãy cùng tác giả
đi qua những “khoảng trống trên đường phố” cùng với đội quân bán rong,
những đoàn xiếc đói tuồng và những người cố bơm đầy hơi thành những tượng
đài.
Đó là bi kịch của những con người tự túm đầu mình kéo lên
mà bên trong chứa đầy những ngôn từ ngụy trá, rỗng tuếch,… và có lẽ điều mà
tác giả muốn nói còn nhiều hơn những câu chữ đang hiển hiện, khi sự gãy vỡ trở
thành điều không thể chối bỏ:
chẳng bao giờ trọn vẹn, tiếng kêu này bị chặn lại
bởi một tiếng kêu khác
những cao ốc hãm hiếp nhau
những người bị nạt nộ
và kẻ thích đi nạt nộ
Sự thất vọng khi đã trở thành nỗi tuyệt vọng, cũng là thời
khắc con người đối diện rõ nhất với chính mình, và đó chính là phút giây quyết
định một tương lai khác, khi họ mãi miết kiếm tìm mà không thể tìm thấy:
một cánh cổng, chiếc vé tàu của mình
cùng tay nãi ấm áp
bao bọc mối ước mơ
họ không có câu hỏi nào
cũng chẳng biết trả lời
vì đường phố này thừa thãi
nỗi xa lạ
Thật khủng khiếp khi mỗi con người đang tồn tại trong một
xã hội lại không thể tìm ra một cánh cổng, một con đường,… và kinh khiếp hơn
là sống mà không có câu hỏi nào… phải chăng khi sự vô cảm đã ngập tràn bởi những
kẻ thích đi nạt nộ đã khiến cho không khí sợ hãi trùm vây đến nỗi con người
không con biết hỏi và trả lời. Điều đó hãy để thời gian phán xét. Và rồi, dù
biết rằng tất cả sẽ qua đi. Nhưng ở đây, không phải qua bờ bên kia, bờ hy vọng
tươi sáng mà là qua những nhập nhoạng ảo mờ, như những thân phận cô quạnh
trong mưa gió âm u, để gợi lên trong tâm hồn thi nhân một chút lòng trắc ẩn
mà Phạm Tấn Hậu gọi đó là khoảng trống còn lại trong xã hội này, ôi thật trớ
trêu khi khoảng trống tội tình kia là nguyên cớ gia tăng nỗi đau cho những
tâm hồn còn biết xót thương.
Họ sẽ đi qua hàng cây xẫm tối kia
để trở thành chiếc bóng mờ
để tàn lá mong manh
quyện vào những sợi mưa mát lạnh
vỗ về
tấm lòng trắc ẩn
và đó là khoảng trống
còn lại trên đường phố này
để ta úp mặt
khóc.
Từ xưa đến nay, những người còn lương tri đã sống và giữ được
phẩm hạnh cuộc đời, đặc biệt trong lĩnh vực văn hóa nghệ thuật, mỗi người cầm
bút như phải mang vác một sứ mệnh mà bằng cách này hoặc cách khác như một
nghiệp dĩ phải đi cùng với những hoạt cảnh mà buộc người cầm bút phải tham dự,
nhưng, như đã nói trên, bản lĩnh của người nghệ sĩ thể hiện chính trong những
hoàn cảnh như vậy, đó là điều giúp cho mỗi chúng ta trưởng thành hơn trước mọi
cám dỗ và sự sợ hãi đang bủa vây. Vì thế, để ghi nhận và đánh giá chính xác một
nghệ sĩ là đánh giá vào những thời khắc cao trào của lịch sử và hãy nhìn
xuyên suốt vào tác phẩm của họ. Bây giờ, chúng ta cùng “ru khúc Hoàng Sa”
với nhà thơ Phạm Tấn Hầu để tưởng niệm những người lính đã ngã xuống vì Tổ quốc.
Ta tự Hoàng Sa mới thổi về
Mấy hồn lính thú thác xa quê
Không đảo không nhà không mộ chí
Theo sóng làm ma để thét gào
Người ở phương Nam ta phương Bắc
Tìm nhau qua tiếng hịch thiêng liêng
Gọi mỏm đá kia là tổ quốc
Biết bao lần đem máu tưới lên
Hỡi “những con chim của bóng tối” hãy kiên nhẫn “chờ đợi sự
im lặng”, dù biết rằng sự im lặng cuối cùng cũng bị nuốt chững: “và những
con đường luôn khép lại/ cây cũng tụm lại / tắt luôn tiếng rì rào / tựa
như đang chờ đợi/ để nuốt chững thêm sự im lặng / của chúng ta ».
Trong khoảng thời gian chờ đợi đó, chúng ta hãy băng qua khu “rừng Juliet” để
cùng “thắp sáng rừng tình nhân” và chứng thực một “sự dâng tặng“ đầy
thi vị đã thúc giục niềm khô khát bên trong trái tim người thơ:
những trái cây thật tròn đầy
rụng quanh niềm khao khát. Hỡi em
ta muốn một thế giới
chuyển động theo ý nghĩ
về em.
Như một cảm nghiệm về thế giới, cuối cùng là một sự lặng im
bao trùm khi mà cái chết là điều tất yếu và hư vô luôn ngự trị trong mỗi
chúng ta, dù trong “cái chết của một thi sĩ” như một tiên nghiệm của trực
giác về sống chết, nhưng tác giả như đang nhắc nhở chúng ta rằng, mỗi thời khắc
trôi qua, chúng ta đang nhích dần về phía lặng im vĩnh cửu:
Hãy im lặng
để nghe nỗi cô đơn đang xua đi
tất cả hình thái, tư duy, chữ nghĩa
ra khỏi phút dây hiện hữu này
và nghe mình trôi đi, chìm sâu
Và chính trong sự im lặng đó, mỗi chúng ta hãy bình thản ngắm
nhìn chiếc áo quen thuộc như trở thành một với chúng ta lần cuối cùng để bước
vào một thế giới khác:
Trần trụi và đơn độc
ta muốn ngắm mình
thật kỹ
trước khi phó mặt
cho sự khâm liệm
của hư vô.
Chúng ta có thể tìm thấy “những con chim của bóng tối” đang
ẩn núp đâu đó xung quanh ta và có thể ngay bên trong mỗi chúng ta đều có những
khát vọng được bay đang nằm im trong thẳm sâu để đợi chờ ngày tung cánh. Tôi
tin rằng ngày đó sẽ đến dù sớm hay muộn gì, vì khát vọng bay là khát vọng của
cả một dân tộc nói riêng và của loài người nói chung. Vì thế những chiếc lồng
bé nhỏ, chật chội và mục ruổng kia sẽ không giam cầm được khát vọng lớn lao của
cả nhân loại. Hỡi “những con chim của bóng tối” hãy đợi chờ ngày tung cánh.
Huế, 7-2011
|
Lê
Huỳnh Lâm
|
eva air vietnam
vé máy bay đi mỹ hãng eva
hang ve may bay korean
vé máy bay giá rẻ đi mỹ khuyến mãi
đặt vé máy bay đi canada
Những Chuyến Đi Cuộc Đời
Du Lich Tu Tuc
Tri Thức Du Lịch