Thứ Bảy, 24 tháng 10, 2015

Chinh phụ ngâm khúc - Đặng Trần Côn

Chinh phụ ngâm khúc - Đặng Trần Côn 
- Thuở trời đất nổi cơn gió bụi
- Bịn rịn buổi tiễn đưa
- Người ở nhà lo nghĩ về người đi xa
- Than đôi lứa chia lìa
- Trách chinh phu lỡ hẹn
- Kể chuyện nhà: nuôi mẹ, dạy con
- Kể lể nỗi niềm nhớ nhung
- Khi mơ khi tỉnh dõi tìm dấu chàng
- Tiếc nhớ quẩn quanh
- Lo già, nguyện muôn kiếp bên chàng
- Mơ chinh phu khải hoàn
- Mơ lúc gặp lại chinh phu
Trong lời nhận xét chung về Cung oán chúng tôi có nhắc nhiều đến Chinh phụ.(1) Những chuyện đã nói ở đây xin được miễn nhắc lại, để ta có thể bàn ngay chuyện mới.
Có lẽ dễ tưởng rằng nỗi lòng người vợ có chồng chinh chiến xa xôi là một nội dung văn chương phổ thông khắp nơi trên mặt đất, nhưng thực ra không phải vậy! Người da trắng thời La-mã viễn chinh tưng bừng, rồi trong năm sáu trăm năm nay lại viễn chinh tưng bừng. Bao nhiêu Tây chồng vượt đại dương đi đánh... thế giới, mỗi lần đi vừa xa vừa lâu, Tây lại rất chịu khó viết tiểu thuyết, thế mà văn học Tây không có tác phẩm lớn nào về nỗi mong mỏi chồng của bao nhiêu Tây vợ! Viễn chinh mà không vượt biển thì đến nay vẫn chưa ai phá nổi thành tích của người Mông Cổ. Không nghe nói văn học Mông Cổ có kiệt tác như Chinh phụ. Rồi người Tàu tuy không đi đánh thật xa như Tây hay Mông Cổ nhưng những cuộc nam chinh của họ cũng đáng kể lắm, Tàu viết lách càng chịu khó hơn Tây, thế mà thật đông đảo văn thi nhân cũng chỉ để lại một số bài thơ ngắn chứ không người nào viết ra được thứ gì như Chinh phụ...
Vào thời Đặng Trần Côn ở Bắc Hà nhiều giặc giã, hẳn ông đã lấy cảm hứng từ những lần chúa Trịnh sai tướng mang quân đi đánh dẹp. “Chàng” đi không xa không lâu tí nào, thế mà lòng “thiếp” cảm sâu sắc đến nỗi có văn nhân mượn đem viết thành tác phẩm kích thích được văn nhân khác làm nên kiệt tác để đời. A, ở đây hoàn cảnh bé cảm xúc lớn mới là hay, chứ hay hớm gì chuyện xảy ra ngược lại! Và hễ có cảm xúc lớn rồi, ta cứ việc vay “đồ Tàu” mà dựng lên một cái “khung” thật hoành tráng cho xứng, chứ ngại gì!
Dân tộc Việt Nam không chỉ trường thi mà còn trường ca về nỗi lòng chinh phụ: Hòn Vọng Phu của Lê Thương đấy. Lời ca mới vĩ đại sao, và hiển nhiên tương ứng với cảm xúc trong lòng người chứ không liên quan gì đến thực tế sử địa.
Tuy Chinh phụ phác họa một hình ảnh lứa đôi quý tộc, nhưng cái tâm sự của “thiếp” cơ bản vượt giai cấp, đại khái cũng chính là nỗi niềm của vợ lính quèn.
Cuối cùng, vì khúc ngâm diễn một tâm sự chứ không phải kể một câu chuyện, khi đọc ta chớ sốt ruột chờ diễn biến. Và vì tình cảm nhớ nhung thì nhớ rồi lại nhớ, nên khi gặp chỗ lặp lại ta cũng chớ phàn nàn... Hay nhất cho ta người đọc, là cố tận cảm những lời hết sức gợi cảm trong bản dịch thơ tuyệt tác của Đoàn Thị Điểm hay Phan Huy Ích.
Cũng như đã làm đối với Cung oán ngâm khúc, chúng tôi lấy cảm nhận riêng mà tạm chia Chinh phụ ngâm khúc thành 12 đoạn như sau:
Thuở trời đất nổi cơn gió bụi

Hễ “cơn gió bụi nổi”, thì có người phải ra đi. Mà ra đi thì
“Xưa nay chinh chiến mấy ai về”.(2)
Nhưng Đặng Trần Côn không thơ tràng thiên về người “chinh chiến”, mà về kẻ ở lại nhà chờ người ấy.
“Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên”...
Truân chuyên nghĩa là khó nhọc, vất vả. Ô hay, chồng của “khách” mới..., chứ “khách” có đi đâu, có làm gì đâu, mà...
Truân chuyên không phải một lối. Muốn biết tại sao “má hồng” cũng vất vả vì “gió bụi”, xin “xem hồi sau sẽ rõ”!
Thuở trời đất nổi cơn gió bụi (1)
Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên
Xanh kia thăm thẳm tầng trên
Vì ai gây dựng cho nên nỗi này.
Trống Tràng Thành lung lay bóng nguyệt (5)
Khói Cam Tuyền mờ mịt thức mây
Chín tầng gươm báu trao tay
Nửa đêm truyền hịch định ngày xuất chinh.
Nước thanh bình ba trăm năm cũ (9)
Áo nhung trao quan vũ từ đây
Sứ trời sớm giục đường mây
Phép công là trọng niềm tây sá nào.
Bịn rịn buổi tiễn đưa
Ai đọc lại đoạn Chinh phụ này mà nẩy ý tìm hiểu những tên người, tên đất bên Tàu ấy, xin đừng!
Vì Hoài Thanh đã làm việc đó rồi và cho hay “tất cả đều chỉ có giá trị tượng trưng, có khi lấy ở đời Hán, lại có khi lấy ở đời Ðường, nhiều khi chẳng có quan hệ gì với nhau, thậm chí mâu thuẫn với nhau nữa”! 3)
Ta chỉ cần biết “chàng” chinh chiến xa xôi lắm. Và chính “thiếp” thì cũng chỉ cần biết có thế thôi.
Chinh phu ra đi oai hùng:
“Chí làm trai dặm nghìn da ngựa
Gieo Thái sơn nhẹ tựa hồng mao
Giã nhà đeo bức chiến bào
Thét roi cầu Vị ào ào gió thu”.
Rồi đoàn quân đi trong một không gian mênh mông, mây núi chập chùng, cũng rất hùng!
Nhưng người hùng cảnh hùng không làm quên được việc đi mà không biết ngày về, thực ra không biết có ngày về hay không. Tự nhiên, buổi tiễn đưa hết sức bịn rịn. Bịn rịn không lâu hóa “ngẩn ngơ”:
“Tiếng địch thổi nghe chừng đồng vọng
Hàng cờ bay trông bóng phất phơ
Dấu chàng theo lớp mây đưa
Thiếp nhìn rặng núi ngẩn ngơ nỗi nhà”.
Chinh phụ ngẩn người một lúc, rồi cũng cất bước:
“Chàng thì đi cõi xa mưa gió
Thiếp thì về buồng cũ chiếu chăn”.
Người đi kẻ về, chốc chốc:
“Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy
Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu
Ngàn dâu xanh ngắt một mầu
Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai”!
Ðường giong ruổi lưng đeo cung tiễn (13)
Buổi tiễn đưa lòng bận thê noa
Bóng cờ tiếng trống xa xa

Sầu lên ngọn ải oán ra cửa phòng.
Chàng tuổi trẻ vốn dòng hào kiệt (17)
Xếp bút nghiên theo việc đao cung
Thành liền mong tiến bệ rồng
Thước gươm đã quyết chẳng dong giặc trời.
Chí làm trai dặm nghìn da ngựa (21)
Gieo Thái sơn nhẹ tựa hồng mao
Giã nhà đeo bức chiến bào
Thét roi cầu Vị ào ào gió thu.
Ngòi đầu cầu nước trong như lọc (25)
Ðường bên cầu cỏ mọc còn non
Ðưa chàng lòng dặc dặc buồn
Bộ khôn bằng ngựa thủy khôn bằng thuyền.
Nước trong chảy lòng phiền chẳng rửa (29)
Cỏ xanh thơm dạ nhớ khó quên
Nhủ rồi nhủ lại cầm tay
Bước đi một bước giây giây lại dừng.
Lòng thiếp tựa bóng trăng theo dõi (33)
Dạ chàng xa ngoài cõi Thiên san
Múa gươm rượu tiễn chưa tàn
Chỉ ngang ngọn dáo vào ngàn hang beo.
Săn Lâu Lan rằng theo Giới Tử (37)
Tới Man Khê bàn sự Phục Ba
Áo chàng đỏ tựa ráng pha
Ngựa chàng sắc trắng như là tuyết in.
Tiếng nhạc ngựa lần chen tiếng trống (41)
Giáp mặt rồi phút bỗng chia tay
Hà Lương chia rẽ đường này
Bên đường trông lá cờ bay ngùi ngùi.
Quân trước đã gần ngoài doanh Liễu (45)
Kỵ sau còn khuất nẻo Tràng Dương
Quân đưa chàng ruổi lên đường
Liễu dương biết thiếp đoạn trường này chăng.
Tiếng địch thổi nghe chừng đồng vọng (49)
Hàng cờ bay trông bóng phất phơ
Dấu chàng theo lớp mây đưa
Thiếp nhìn rặng núi ngẩn ngơ nỗi nhà.
Chàng thì đi cõi xa mưa gió (53)
Thiếp thì về buồng cũ chiếu chăn
Ðoái trông theo đã cách ngăn
Tuôn mầu mây biếc trải ngần núi xanh.
Chốn Hàm Dương chàng còn ngoảnh lại (57)
Bến Tiêu Tương thiếp hãy trông sang
Khói Tiêu Tương cách Hàm Dương
Cây Hàm Dương cách Tiêu Tương mấy trùng.
Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy (61)
Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu
Ngàn dâu xanh ngắt một mầu
Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai.
Người ở nhà lo nghĩ về người đi xa
Đưa “chàng” đi rồi, “thiếp” về nhà, bắt đầu lo.
Trước tiên là lo “chàng” vất vả: “Chàng từ khi vào nơi gió cát”, hẳn lúc thì vượt “nội không muôn dặm xiết bao dãi dầu”, lúc thì “đứt thôi lại nối thấp đà lại cao”, trèo dốc mệt... không được nghỉ, và hẳn có lúc lại gặp “dòng nước sâu” đến nỗi “ngựa (cũng) nản chân bon”...
Nhưng “những người chinh chiến”, lo nhất cho họ là lo về tính mệnh. Cứ mỗi cơn binh lửa, là lại thêm biết bao nhiêu nấm mồ hoang:
“Non Kỳ mộ chỉ trăng treo
Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò.
Hồn tử sĩ gió ù ù thổi
Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi”...
“Chàng” ơi, “chàng” ơi!
Chàng từ khi vào nơi gió cát (65)
Ðêm trăng này nghỉ mát phương nao
Xưa nay chiến địa nhường bao
Nội không muôn dặm xiết bao dãi dầu.
Hơi gió lạnh người rầu mặt dạn (69)
Dòng nước sâu ngựa nản chân bon
Ôm yên gối chống đã chồn
Nằm vùng cát trắng ngủ cồn rêu xanh.
Nay Hán xuống Bạch thành đóng lại (73)
Mai Hồ vào Thanh Hải dòm qua
Hình khe thế núi gần xa
Ðứt thôi lại nối thấp đà lại cao.
Sương đầu núi buổi chiều như giội (77)
Nước lòng khe nẻo suối còn sâu
Não người áo giáp bấy lâu
Lòng quê qua đó mặt sầu chẳng khuây.
Trên trướng gấm thấu hay chăng nhẽ (81)
Mặt chinh phu ai vẽ cho nên
Tưởng chàng rong ruổi mấy niên
Chẳng nơi Hãn hải thì miền Tiêu quan.
Ðã trắc trở đòi ngàn xà hổ (85)
Lại lạnh lùng những chỗ sương phong
Lên cao trông thức mây lồng
Lòng nào là chẳng động lòng bi thương.
Chàng từ sang đông nam khơi nẻo (89)
Biết nay chàng tiến thảo nơi đâu
Những người chinh chiến bấy lâu
Nhẹ xem tính mệnh như màu cỏ cây.
Nức hơi mạnh ơn dày từ trước (93)
Trải chốn nghèo tuổi được bao nhiêu
Non Kỳ mộ chỉ trăng treo
Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò.
Hồn tử sĩ gió ù ù thổi (97)
Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi
Chinh phu tử sĩ mấy người
Nào ai mạc mặt nào ai gọi hồn.
Dấu binh lửa nước non như cũ (101)
Kẻ hành nhân qua đó chạnh thương
Phận trai già ruổi chiến trường
Chàng Siêu mái tóc điểm sương mới về.
Tưởng chàng trải nhiều bề nắng nỏ (105)
Ba thước gươm một cỗ nhung yên
Xông pha gió bãi trăng ngàn
Tên treo đầu ngựa giáo lan mặt thành.
Than đôi lứa chia lìa
Bịn rịn lúc tiễn đưa, lo lắng khi về đến nhà, bây giờ mới bắt đầu than thở về nông nỗi “đôi lứa” hãy còn “thiếu niên” mà không được “vui vầy cá nước”, mà phải “cách vời”...
Đã có duyên vợ chồng, lại người “trong cánh cửa” kẻ “ngoài chân mây”, “nỗi lòng biết ngỏ cùng ai”, nên “thôi sớm thôi hôm những sầu”...
Áng công danh trăm đường rộn rã (109)
Những nhọc nhằn nào đã nghỉ ngơi
Nỗi lòng biết ngỏ cùng ai
Thiếp trong cánh cửa chàng ngoài chân mây.
Trong cửa này đã đành phận thiếp (113)
Ngoài mây kia há kiếp chàng vay
Những mong cá nước vui vầy
Nào ngờ đôi ngả nước mây cách vời.
Thiếp chẳng tưởng ra người chinh phụ (117)
Chàng há từng học lũ vương tôn
Cớ sao cách trở nước non
Khiến người thôi sớm thôi hôm những sầu.
Chàng phong lưu đương chừng niên thiếu (121)
Sánh nhau cùng dan díu chữ duyên
Nỡ nào đôi lứa thiếu niên
Quan sơn để cách hàn huyên cho đành.
Trách chinh phu lỡ hẹn
Đoạn trước chinh phụ “than”, đoạn này chuyển sang “trách”.
Cái trách đây có chỗ lạ: “Hẹn cùng ta Lũng Tây nham ấy”, “Hẹn nơi nao Hán Dương cầu nọ”... Thế nghĩa là chồng ra trận rồi vợ chạy tứ tung để đợi gặp chồng? Chẳng những xưa kia phụ nữ Tàu không được tự do như thế, mà ngay bây giờ bất cứ ở đâu cái việc “hẹn” này cũng là hiếm.
“Bù lạ”, chinh phụ có lúc thốt lên những lời thật gợi cảm:
“Nay đào đã quyến gió đông
Phù dung lại đã bên sông bơ xờ”,
“Ngập ngừng gió thổi chéo bào
Bãi hôm tuôn dẫy nước trào mênh mông”...
Thuở lâm hành oanh chưa bén liễu (125)
Hỏi ngày về ước nẻo oanh ca
Nay quyên đã giục oanh già
Ý nhi lại gáy trước nhà líu lo.
Thuở đăng đồ mai chưa dạn gió (129)
Hỏi ngày về chỉ độ đào bông
Nay đào đã quyến gió đông
Phù dung lại đã bên sông bơ xờ.
Hẹn cùng ta Lũng Tây nham ấy (133)
Sớm đã trông nào thấy hơi tăm
Ngập ngừng lá rụng cành trâm
Buổi hôm nghe dậy tiếng cầm xôn xao.
Hẹn nơi nao Hán Dương cầu nọ (137)
Chiều lại tìm nào có tiêu hao
Ngập ngừng gió thổi chéo bào
Bãi hôm tuôn dẫy nước trào mênh mông.
Tin thường lại người không thấy lại (141)
Hoa dương tàn đã trải rêu xanh
Rêu xanh mấy lớp xung quanh
Sân đi một bước trăm tình ngẩn ngơ.
Thư thường tới người chưa thấy tới (145)
Bức rèm thưa lần dãi bóng dương
Bóng dương mấy buổi xuyên ngang
Lời sao mười hẹn chín thường đơn sai.
Kể chuyện nhà: nuôi mẹ, dạy con
Đoạn này chinh phụ kể... công: nào nuôi mẹ già, nào nuôi và dạy con thơ. Kể tí gọi là thôi, kẹp vào giữa “xót” và “nhớ” chinh phu.
“Mẹ già phơ phất mái sương”, “Con thơ măng sữa...”, “... buồn khi tựa cửa”, “... chờ bữa mớm cơm”, nghe như ca dao...
Thử tính lại diễn khơi ngày ấy (149)
Tiền sen này đã nẩy là ba
Xót người lần lữa ải xa
Xót người nương chốn Hoàng hoa dặm dài.
Tình gia thất nào ai chẳng có (153)
Kìa lão thân khuê phụ nhớ thương
Mẹ già phơ phất mái sương
Con thơ măng sữa vả đương phù trì.
Lòng lão thân buồn khi tựa cửa (157)
Miệng hài nhi chờ bữa mớm cơm
Ngọt bùi thiếp đã hiếu nam
Dạy con đèn sách thiếp làm phụ thân.
Nay một thân nuôi già dạy trẻ (161)
Nỗi quan hoài mang mể biết bao
Nhớ chàng trải mấy sương sao
Xuân từng đổi mới đông nào có dư.
Kể lể nỗi niềm nhớ nhung
Cái đoạn này dài đến non một phần tư tác phẩm. Nó dài là phải, vì nó diễn“nỗi nhớ nhung đau đáu”, tức cái cảm xúc chính trong lòng người chinh phụ.
“Lòng thiếp riêng bi thiết (...) nói chẳng nên lời”, nhưng may đã có thi sĩ đặt mình vào chỗ “thiếp” mà cảm miên man, viết nên lời lời gợi cảm...
Vợ nhớ chồng xa lúc nào chẳng nhớ, nhưng có lẽ dễ “chạnh” hơn về ban đêm, nhất những đêm có trăng, hoa, gió:
“Vài tiếng dế nguyệt soi trước ốc
Một hàng tiêu gió thốc ngoài hiên
Lá màn lay ngọn gió xuyên
Bóng hoa theo bóng nguyệt lên trước rèm.
Hoa giãi nguyệt nguyệt in một tấm
Nguyệt lồng hoa hoa thắm từng bông
Nguyệt hoa hoa nguyệt trùng trùng
Trước hoa dưới nguyệt trong lòng xiết đâu”...
Trong lòng người vốn chỉ có những thứ trừu tượng, nhưng lúc này những thứ ấy “nặng” và “đầy” đến nỗi bỗng hóa như vật chất:
“Sầu ôm nặng hãy chồng làm gối
Muộn ôm đầy hãy thổi làm cơm”!!!
Và chính vật chất bên ngoài cũng trở nên rất khác lạ:
“Sương như búa bổ mòn gốc liễu
Tuyết nhường cưa xẻ héo cành ngô”!!
Lạ và lạ đến đâu, thì người vợ “lẻ loi một bề” cũng không làm gì được ngoài để cho “lệ (...) nhỏ đôi”. Đêm đêm, một mình một bóng, đau đáu, đôi đôi, hết đôi này lại nhỏ tiếp đôi khác...
Kể năm đã ba tư cách diễn (165)
Mối sầu thêm nghìn vạn ngổn ngang
Ước gì gần gũi tấc gang
Giãi niềm cay đắng để chàng tỏ hay.
Thoa cung Hán thuở ngày xuất giá (169)
Gương lầu Tần dấu đã soi chung
Cậy ai mà gửi tới cùng
Ðể chàng thấu hết tấm lòng tương tư.
Nhẫn đeo tay mọi khi ngắm nghía (173)
Ngọc cài đầu thuở bé vui chơi
Cậy ai mà gửi tới nơi
Ðể chàng trân trọng dấu người tương thân.
Trải mấy xuân tin đi tin lại (177)
Tới xuân này tin hãy vắng không
Thấy nhàn luống tưởng thư phong
Nghe hơi sương sắm áo bông sẵn sàng.
Gió tây nổi không đường hồng tiện (181)
Xót cõi ngoài tuyết quyến mưa sa
Màn mưa trướng tuyết xông pha
Nghĩ thêm lạnh lẽo kẻ ra cõi ngoài.
Ðề chữ gấm phong thôi lại mở (185)
Gieo bói tiền tin dở còn ngờ
Trời hôm tựa bóng ngẩn ngơ
Trăng khuya nương gối bơ phờ tóc mai.
Há như ai hồn say bóng lẫn (189)
Bỗng thơ thơ thẩn thẩn như không
Trâm cài xiêm dắt thẹn thùng
Lệch vừng tóc rối lỏng vòng lưng eo.
Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước (193)
Ngoài rèm thưa rủ thác đòi phen
Ngoài rèm thước chẳng mách tin
Trong rèm dường đã có đèn biết chăng.
Ðèn có biết nhường bằng chẳng biết (197)
Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi
Buồn rầu nói chẳng nên lời
Hoa đèn kia với bóng người khá thương.
Gà eo óc gáy sương năm trống (201)
Hòe phất phơ rủ bóng bốn bên
Khắc trời đằng đẵng bấy niên
Mối sầu dằng dặc tựa miền bể xa.
Hương gượng đốt hồn đà mê mải (205)
Gương gượng soi lệ lại chứa chan
Sắt cầm gượng gảy ngón đàn
Dây uyên kinh đứt phím loan ngại chùng.
Lòng này gửi gió đông có tiện (209)
Nghìn vàng xin gửi đến non Yên
Non Yên dù chẳng tới miền
Nhớ chàng đằng đẵng đường lên bằng trời.
Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu (213)
Nỗi nhớ nhung đau đáu nào xong
Cảnh buồn người thiết tha lòng
Cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun.
Sương như búa bổ mòn gốc liễu (217)
Tuyết nhường cưa xẻ héo cành ngô
Giọt sương phủ bụi chim gù
Sâu tường kêu vẳng chuông chùa nện khơi.
Vài tiếng dế nguyệt soi trước ốc (221)
Một hàng tiêu gió thốc ngoài hiên
Lá màn lay ngọn gió xuyên
Bóng hoa theo bóng nguyệt lên trước rèm.
Hoa giãi nguyệt nguyệt in một tấm (225)
Nguyệt lồng hoa hoa thắm từng bông
Nguyệt hoa hoa nguyệt trùng trùng
Trước hoa dưới nguyệt trong lòng xiết đâu.
Ðâu xiết kể trăm sầu nghìn não (229)
Từ nữ công phụ xảo đều nguôi
Biếng cầm kim biếng đưa thoi
Oanh đôi thẹn dệt bướm đôi ngại thùa.
Mặt biếng tô miệng càng biếng nói (233)
Sớm lại chiều dòi dõi nương song
Nương song luống ngẩn ngơ lòng
Vắng chàng điểm phấn trang hồng với ai.
Biếng trang điểm lòng người sầu tủi (237)
Xót nỗi chàng ngoài cõi trùng quan
Khác gì ả Chức chị Hằng
Bến Ngân sùi sụt cung trăng chốc mòng.
Sầu ôm nặng hãy chồng làm gối (241)
Muộn ôm đầy hãy thổi làm cơm
Mượn hoa mượn rượu giải buồn
Sầu làm rượu nhạt muộn làm hoa ôi.
Gõ sênh ngọc mấy hồi không tiếng (245)
Ôm đàn tranh mấy phím rời tay
Xót người hành dịch bấy nay
Dặm xa thêm mỏi trắp đầy lại vơi.
Ca quyên ghẹo làm rơi nước mắt (249)
Trống tiều khua như đốt buồng gan
Võ vàng đổi khác dung nhan
Khuê ly mới biết tân toan dường này.
Nếm chua cay tấm lòng mới tỏ (253)
Chua cay này há có vì ai
Vì chàng lệ thiếp nhỏ đôi
Vì chàng thân thiếp lẻ loi một bề.
Khi mơ khi tỉnh dõi tìm dấu chàng
Có thế chứ. Đây không như một đoạn trước trong đó chinh phụ thân xông pha đi tìm gặp chinh phu. Đây thân vẫn ở nhà, trên giường, chỉ có hồn bay khắp nơi...
Hồn mà tìm nhất định phải thấy, thiếp chàng gặp nhau vui “muôn vàn”, nhưng qua “giờ mộng xuân” rồi thì:
“Khi mơ những tiếc khi tàn
Tình trong giấc mộng muôn vàn cũng (như) không”.
Hồn thiếp bay lên cao có lúc thấy cảnh gợi ghê:
“Khói mù nghi ngút ngàn khơi
Con chim bạt gió lạc loài kêu thương”.
“Kêu thương” nào chỉ “con chim”!
Ờ, mà lẽ nào chỉ có người ở nhà mới đêm đêm... cất cánh, hẳn “chàng” cũng...
“Yêu nhau nhớ dáng tưởng hình
Chiêm bao anh có một mình chăng anh?”(4)
Thân thiếp chẳng gần kề dưới trướng (257)
Lệ thiếp nào chút vướng bên khăn
Duy còn hồn mộng được gần
Ðêm đêm thường đến Giang Tân tìm người.
Tìm chàng thuở Dương Ðài lối cũ (261)
Gặp chàng nơi Tương Phố bến xưa
Xum vầy mấy lúc tình cờ
Chẳng qua trên gối một giờ mộng xuân.
Giận thiếp thân lại không bằng mộng (265)
Ðược gần chàng bến Lũng thành Quan
Khi mơ những tiếc khi tàn
Tình trong giấc mộng muôn vàn cũng không.
Vui có một tấm lòng chẳng dứt (269)
Vốn theo chàng giờ khắc nào nguôi
Lòng theo nhưng chửa thấy người
Lên cao mấy lúc trông vời bánh xe.
Trông bến nam bãi che mặt nước (273)
Cỏ biếc um dâu mướt màu xanh
Nhà thôn mấy xóm chông chênh
Một đàn cò đậu trước ghềnh chiều hôm.
Trông đường bắc đôi chòm quán khách (277)
Rườm rà cây xanh ngắt núi non
Lúa thành thoi thóp bên cồn
Nghe thôi ngọc địch véo von bên lầu.
Non đông thấy lá hầu chất đống (281)
Trĩ xập xòe mai cũng bẻ bai
Khói mù nghi ngút ngàn khơi
Con chim bạt gió lạc loài kêu thương.
Lũng Tây chảy nước dường uốn khúc (285)
Nhạn liệng không sóng giục thuyền câu
Ngàn thông chen chúc khóm lau
Cách ghềnh thấp thoáng người đâu đi về.
Trông bốn bể chân trời mặt đất (289)
Lên xuống lầu thấm thoắt đòi phen
Lớp mây ngừng mắt ngại nhìn
Biết đâu chinh chiến là miền Ngọc Quan.
Gậy rút đất dễ khôn học chước (293)
Khăn gieo cầu nào được thấy tiên
Lòng này hóa đá cũng nên
E không lệ ngọc mà lên trông lầu.
Tiếc nhớ quẩn quanh
Đoạn này nhớ mang màu tiếc:
“Thà khuyên chàng đừng chịu tước phong”.
Chinh phụ khe khẽ tiếc, rồi khe khẽ hỏi:
“Lòng chàng có cũng như lòng thiếp chăng”?
rồi khe khẽ “ví”:

“Lòng chàng ví cũng bằng như thế”...
Bao nhiêu bước thẫn thờ qua lại trên sân. Bao nhiêu đêm với chỉ trăng bên gối, thiếp đi, để “bừng mắt” thấy “sương gội cành khô”.
“Lạnh lùng thay (...)
Gió mây hiu hắt trên đầu tường vôi”...
Phải chi, phải không, chàng ơi.
Lúc ngoảnh lại ngắm màu dương liễu (297)
Thà khuyên chàng đừng chịu tước phong
Chẳng hay muôn dặm ruổi giong
Lòng chàng có cũng như lòng thiếp chăng.
Lòng chàng ví cũng bằng như thế (301)
Lòng thiếp nào dám nghĩ gần xa
Hướng dương lòng thiếp như hoa
Lòng chàng lẩn thẩn e tà bóng dương.
Bóng dương để hoa vàng chẳng đoái (305)
Hoa để vàng bởi tại bóng dương
Hoa vàng hoa rụng quanh tường
Trải xem hoa rụng đêm sương mấy lần.
Chồi lan nọ trước sân đã hái (309)
Ngọn tần kia bên bãi đưa hương
Sửa xiêm dạo bước tiền đường
Ngửa trông xem vẻ thiên chương thẫn thờ.
Bóng Ngân hán khi mờ khi tỏ (313)
Ðộ Khuê triền buổi có buổi không
Thức mây đòi lúc nhạt nồng
Chuôi sao Bắc Ðẩu thôi đông lại đoài.
Mặt trăng tỏ thường soi bên gối (317)
Bừng mắt trông sương gội cành khô
Lạnh lùng thay bấy nhiêu thu
Gió mây hiu hắt trên đầu tường vôi.
Lo già, nguyện muôn kiếp bên chàng
Đây cũng đoạn quan trọng. Vì xa nhau lâu thì người phụ nữ lo gì hơn lo già:
“Thoi đưa ngày tháng ruổi mau
Người đời thấm thoắt qua mầu xuân xanh”,
“Gái tơ mấy chốc hóa ra nạ dòng”...
Lo dẫn đến thương:
“Thương một kẻ phòng không luống giữ”.
Kẻ đáng thương ấy ngày ngày
“(...) dạo hài lối cũ rêu in
(...) Khá thương lỡ hết mấy phen lương thì”.
“Thời tốt” cứ theo nhau “lỡ hết” phen này đến phen kia, “e đến khi đầu bạc” mất!
Bạc đầu tất nhiên không chỉ mình “thiếp”, nên
“Thiếp rầu thiếp lại rầu chàng chẳng quên”.
“Rầu” mất màu tóc nhiều quá, có khi đâm lẩn thẩn, đòi thắng cả thời gian:
“Thiếp xin chàng chớ bạc đầu
Thiếp thì giữ mãi lấy màu trẻ trung”!
Nói hăng vậy, chứ thực ra cũng đã trù liệu đến thất bại hoàn toàn rồi. Nếu kiếp này “trời (...) để nhỡ nhàng”, thiếp chàng cứ “đấy đây” mãi, thì
“Thiếp xin về kiếp sau này
Như chim liền cánh như cây liền cành”.
Tội quá, cho “liền” liền đi, trời ơi!
Một năm một nhạt màu son phấn (321)
Trượng phu còn thơ thẩn miền khơi
Xưa sao hình ảnh chẳng rời
Bây giờ nỡ để cách vời Sâm Thương.
Chàng ruổi ngựa dặm trường mây phủ (325)
Thiếp dạo hài lối cũ rêu in
Gió xuân ngày một vắng tin
Khá thương lỡ hết mấy phen lương thì.
Xẩy nhớ khi cành Diêu đóa Ngụy (329)
Trước gió xuân vàng tía sánh nhau
Nọ thì ả Chức chàng Ngâu
Tới trăng thu lại bắc cầu sang sông.
Thương một kẻ phòng không luống giữ (333)
Thời tiết lành lầm lỡ đòi nau
Thoi đưa ngày tháng ruổi mau
Người đời thấm thoắt qua mầu xuân xanh.
Xuân thu để giận quanh ở dạ (337)
Hợp ly đành buồn quá khi vui
Oán sầu nhiều nỗi tơi bời
Vóc bồ liễu dễ ép nài chiều xuân.
Kìa Văn Quân mỹ miều thuở trước (341)
E đến khi đầu bạc mà thương
Mặt hoa nọ gã Phan lang
Sợ khi mái tóc điểm sương cũng ngừng
Nghĩ nhan sắc đương chừng hoa nở (345)
Tiếc quang âm lần lữa gieo qua
Nghĩ mệnh bạc tiếc niên hoa
Gái tơ mấy chốc hóa ra nạ dòng.
Gác nguyệt nọ mơ mòng vẻ mặt (349)
Lầu hoa kia phảng phất mùi hương
Trách trời sao để nhỡ nhàng
Thiếp rầu thiếp lại rầu chàng chẳng quên.
Chàng chẳng thấy chim uyên ở nội (353)
Cũng dập dìu chẳng vội phân trương
Chẳng xem chim yến trên rường
Bạc đầu không nỡ đôi đường rẽ nhau.
Kìa loài sâu hai đầu cùng sánh (357)
Nọ loài chim chắp cánh cùng bay
Liễu sen là thức cỏ cây
Ðôi hoa cũng sánh đôi dây cũng liền.
Ấy loài vật tình duyên còn thế (361)
Sao kiếp người nỡ để đấy đây
Thiếp xin về kiếp sau này
Như chim liền cánh như cây liền cành.
Ðành muôn kiếp chữ tình đã vậy (365)
Theo kiếp này hơn thấy kiếp sau
Thiếp xin chàng chớ bạc đầu
Thiếp thì giữ mãi lấy màu trẻ trung.
Xin làm bóng theo cùng chàng vậy (369)
Chàng đi đâu cũng thấy thiếp bên
Chàng nương vừng nguyệt phỉ nguyền
Mọi bề trung hiếu thiếp xin vẹn tròn.

Mơ chinh phu khải hoàn
Ấy là chinh phụ mơ chinh phu khải hoàn.
“Phân vinh thiếp cũng đượm chung hương trời”.
Xứng đáng lắm.
Đoạn này chán!
Lòng hứa quốc tựa son ngăn ngắt (373)
Sức tý dân dường sắt trơ trơ
Máu Thuyền Vu quắc Nhục Chi
Ấy thì bữa uống ấy thì buổi ăn.
Mũi đồng bác đôi lần hăm hở (377)
Ðã lòng trời gìn giữ người trung
Hộ chàng trăm trận nên công
Buông tên ải bắc treo cung non đoài.
Bóng kỳ xí giã ngoài quan ải (381)
Tiếng khải ca trở lại thần kinh
Ðỉnh non kia đá đề danh
Triều thiên vào trước cung đình dâng công.
Nước Ngân Hán việt đồng rửa sạch (385)
Khúc Nhạc Từ réo rắt lừng khen
Tài so Tần, Hoắc vẹn tuyền
Tên ghi gác Khói tượng truyền đài Lân.
Nền huân tướng đai cân rạng vẻ (389)
Chữ đồng hưu bia để nghìn đông
Ơn trên ấm tử thê phong
Phân vinh thiếp cũng đượm chung hương trời.
Mơ lúc gặp lại chinh phu
Ca khúc khải hoàn xong, chinh phụ chinh phu ca tiếp bài tái ngộ. Chao ơi mùi.
“Thiếp” “vì chàng điểm phấn đeo hương não nùng”, rồi đem “khăn lệ” và “thơ sầu” ra khoe. “Chàng” nâng niu vuốt ve từng tấm... nước mắt khô, rồi cứ đọc một câu sầu “chàng ơi” lại “đổi” bằng một câu vui “nàng ơi”, đổi đến đâu “khà” đến đấy cho đến khi “mọi lời” đã... uống sạch, nhả sạch!
Cái màn đọc-đổi-khà còn được diễn đi diễn lại “đòi phen”, mà “thiếp” không chỉ có ngồi nghe với “sẽ rót vơi lần lần từng chén” cho chàng đâu, mà còn tự mình “sẽ ca lần ren rén từng thiên” và hễ “liên ngâm” xong thì cũng cạn chén (tuy chắc không “khà”) để gọi là “đối ẩm”...
Có như thế thì may ra mới “bõ lúc xa sầu cách nhớ” được chứ!
Nhưng than ôi, tất cả mới chỉ là mơ ước. Bao giờ “khách má hồng” mới dứt “truân chuyên”, hỡi “thăm thẳm xanh kia”?
Thiếp chẳng dại như người Tô phụ (393)
Chàng hẳn không như lũ Lạc Dương
Khi về đeo quả ấn vàng
Trên khung cửi dám rẫy ruồng làm cao.
Xin vì chàng xếp bào cởi giáp (397)
Xin vì chàng giũ lớp phong sương
Vì chàng tay chúc chén vàng
Vì chàng điểm phấn đeo hương não nùng.
Mở khăn lệ chàng trông từng tấm (401)
Ðọc thơ sầu chàng thấm từng câu
Câu vui đổi lấy câu sầu
Rượu khà cùng kể trước sau mọi lời.
Sẽ rót vơi lần lần từng chén (405)
Sẽ ca lần ren rén từng thiên
Liên ngâm đối ẩm đòi phen
Cùng chàng lại kết mối duyên đến già.
Cho bõ lúc xa sầu cách nhớ (409)
Giữ gìn nhau vui thuở thanh bình
Ngâm nga mong mỏi chữ tình
Nhường này âu hẳn tài lành trượng phu.
(1) Xem bài Nguyễn Gia Thiều.
(2) “Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi”, câu chót bài Lương Châu Từ của Vương Hàn đời Đường, bản dịch Trần Quang Trân.
(3) “... Theo đoạn tiễn đưa thì hình như người chinh phu quê ở Hàm Dương và đi đánh dẹp ở Tiêu Tương nghĩa là đi từ bắc xuống nam. Người chinh phụ cũng có nói: “Chàng từ sang đông nam khơi nẻo”. Nhưng “trống Trường Thành” là ở phương bắc và sau này người chinh phụ gửi nhớ thương cũng lại hướng về non Yên ở phương bắc. Hai lần người thiếu phụ nhắc đến ngày chồng hẹn lúc ra đi nhưng lần thứ nhất là “nẻo quyên ca” tức là mùa hè, lần thứ hai lại là “độ đào bông” tức là mùa xuân; thế thì là mùa hè hay mùa xuân?”, Tuyển tập Hoài Thanh, tập II, nxb. Văn Học, VN, 1982, tr. 51.
(4) Bài Chiêm Bao Thỉnh Thoảng Em Về của Huy Cận: “Yêu nhau nhớ dáng tưởng hình/ Chiêm bao em có một mình chăng em?”.
 Thu Tứ
Theo http://www.gocnhin.net/




Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Cái còn lại hóa cái không

Cái còn lại hóa cái không Nhà thơ Tạ Bá Hương vừa được kết nạp hội viên Hội Nhà văn Việt Nam năm 2022. Anh tốt nghiệp Khóa 7 Trường Viết v...