Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm
Ở thế nhiều phen
Ðêm nguyệt trà mai
Ðêm thanh nguyệt bạc
Kìa nước nọ không
Ðun một nồi hương
Bui một lòng người
Mượn đắp lấy hơi
Anh hùng ôm hận
Lơ lửng bên sông
NGUYỄN BỈNH KHIÊM
Uống rượu gốc cây
Tréo cẳng hiên mai
Nguyễn Trãi (1380-1442) và Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585) cuộc đời và tâm sự rất khác nhau. Nhưng lại giống nhau ở chỗ cùng có làm thơ tiếng Việt vào cái thời mà hiếm trí thức Việt chịu sáng tác bằng tiếng mẹ đẻ. Những bài thơ tiên phong đáng trân trọng của Người Côn Sơn và Người Am Mây Trắng về nội dung có chỗ tương phản đáng chú ý. Vì số tác phẩm liên hệ không nhiều, để tiện đối chiếu ở đây xin bàn về cả hai trong một lần.
Nguyễn Trãi cáo quan về Côn Sơn năm 58 tuổi, với tâm trạng chán nản cực độ về chính sự và lòng người. Bài Ở Thế Nhiều Phen, làm khi mới ngoài 40 tuổi, cho thấy rõ điều đó. Ngoài ra, những câu thơ sau đây cũng cho thấy rõ điều đó:
“Góc thành nam lều một gian
No nước uống thiếu cơm ăn
(...)
Triều quan chẳng phải ẩn chẳng phải
Góc thành nam lều một gian”,
“Lan huệ chẳng thơm thì chớ
Nỡ chi lại phải chốn tanh tao”,
“Khó ngặt qua ngày, xin sống!”
Sen giữa bùn vẫn cốt cách:
“Khó khăn phải đạo, cháo càng ngon”,
vẫn tinh thần:
“Có xạ tự nhiên mùi ngát bay
Lọ là đứng gió vung tay”,
“Nước càng tuôn đến, biển càng cả,
Ðất một trùng thêm, núi một cao”.
Nhưng hoàn cảnh khó rồi khó thêm. Người có nhân cách cao bắt đầu trăn trở nên tiếp tục ở hay nên về:
“Cốt lãnh hồn thanh chăng khứng hóa”,
“Lưng khôn uốn, lộc nên từ”.
Ngẫm đi nghĩ lại, Nguyễn quyết định “từ”:
“Rũ bao nhiêu bụi, bụi lầm
Giơ tay áo đến tùng lâm”.
Về đến rừng tùng Côn Sơn, Nguyễn bắt đầu vui cảnh, “vui đạo quên nghèo” , thơ những bài như Ðun Một Nồi Hương, Ðêm Thanh Nguyệt Bạc, Kìa Nước Nọ Không. Nhưng, ít nhất trong một hai năm, Nguyễn chưa quên hẳn được chuyện cũ, nên trong thơ gió mây trăng núi vẫn thi thoảng có chen đời, chen người, như những bài Ðêm Nguyệt Trà Mai, Bui Một Lòng Người.
Lẽ ra rồi tất cả sẽ nguôi ngoai. Oan nghiệt. Người đã lui mà đời vẫn “tới”. Không đầy hai năm sau khi Nguyễn Trãi xin về trí sĩ, vua Lê Thái Tông tỏ ý muốn trọng dụng vị lão thần. Nguyễn vui vẻ nhận lời. Ðể chỉ vỏn vẹn ba năm sau đó, bị tru di tam tộc!
So với đời Nguyễn Trãi, đời Nguyễn Bỉnh Khiêm suông sẻ lắm. Trước năm 45 tuổi, thấy nước loạn lạc, Nguyễn ở ẩn. Năm 45 tuổi đi thi, đỗ Trạng Nguyên, làm quan, bảy năm sau cáo quan, về tiếp tục ở ẩn, 43 năm nữa mới qua đời. Tính ra, Nguyễn này sống gần trăm năm thì ở ẩn sơ sơ cũng gần hết trăm năm!
Kể từ khi đỗ Trạng đến khi chết, hàng nửa thế kỷ, Nguyễn Bỉnh Khiêm lúc nào cũng được trọng vọng. Nước chia Mạc, Nguyễn, Trịnh, thì cả Mạc, Nguyễn, lẫn Trịnh tương truyền đều từng xin ý kiến chủ am Mây Trắng về chuyện trọng đại nhất của mình.
Người chuyên sống xa “chốn lao xao”, “chốn xôn xao”, thơ tự nhiên cũng trăm phần trăm vô tư:
“Khát uống trà mai hương ngọt ngọt
Giấc nằm hiên nguyệt gió hiu hiu”.
Trở lại với Nguyễn “Số Ðen”. Ðời càng bất như ý, càng dễ nẩy cảm xúc mạnh. Cảm xúc càng mạnh, nghệ phẩm càng dễ hay. Có lẽ một phần vì thế mà thơ Nguyễn Trãi trội hơn thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Về hình thức, thơ Nguyễn Trãi lắm bài câu sáu chữ chen giữa câu bảy chữ, có khi nhiều hơn câu bảy chữ.
Những câu sáu nhiều lúc khiến thơ có một phong cách rắn rỏi khác thường rất hợp với tính tình, tâm trạng người làm thơ!
Ở đây, hình thức thơ hợp với nội dung đến nỗi ta tự hỏi liệu cái nội dung ấy có thể diễn bằng bất cứ thể thơ hoàn chỉnh nào cho hiệu quả hơn được chăng. Thậm chí, ta tự hỏi liệu cái nội dung ấy không biết có nhà thơ nào viết thành thơ hay hơn được chăng!
Cuối cùng, xin lưu ý thơ trong Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi và Bạch Vân quốc ngữ thi của Nguyễn Bỉnh Khiêm không có nhan đề. Tất cả nhan đề trong bài viết này đều do người chọn tạm đặt.
Ở thế nhiều phen
Người tuổi “ngoại tư mươi” dù sống một cuộc đời bình thường thì cũng đã từng trải, già dặn lắm rồi. Huống gì Nguyễn Trãi là người hẳn đã sống một cuộc đời đầy trôi nổi, va chạm. Khi làm bài thơ này, ông chắc chắn đã hết sức quen thuộc với nhân tình thế thái. Quen và chán đến tận cổ, cho nên:
“Phượng những tiếc cao, diều hãy lượn”.
Tiếc cao, muốn tiếp tục lượn, nhưng vì đại nghĩa phượng đành sà xuống thấp, đáp lẫn với gà.
Nguyễn Trãi ngoài bốn mươi thì khởi nghĩa Lam Sơn đang ở vào khoảng giữa. Ngay trong kháng chiến, “hoa” đã “hay héo”. Kháng chiến thành công, hoa càng thường xuyên ủ rủ, để đến khoảng mười năm sau đó thì rời Thăng Long về ẩn tại Côn Sơn...
Ở thế nhiều phen thấy khóc cười
Năm nay tuổi đã ngoại tư mươi
Lòng người một sự yêm chưng một
Ðèn khách mười thu lạnh hết mười
Phượng những tiếc cao, diều hãy lượn
Hoa thì hay héo, cỏ thường tươi
Ai ai đều có hai con mắt
Xanh bạc dầu chưng mặt chúng ngươi.(1)
Đêm nguyệt trà mai
“Trà mai” là thứ trà gì mà trước Nguyễn Trãi uống rồi sau Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng uống: “Khát uống trà mai hương ngọt ngọt”? Chắc không làm mất ngủ vì có thể uống ban đêm, có phải thực trà không? Có phải thức uống ưa thích của ẩn sĩ không?
Bài thơ này hẳn làm ở Côn Sơn, khi người làm đã thôi “đeo khổ nhục”...
Trà mai đêm nguyệt dậy xem bóng
Phiến sách ngày xuân ngồi chấm câu
Dưới công danh đeo khổ nhục
Trong dầy dãi có phong lưu.
Đêm thanh nguyệt bạc
Bài thơ này tiếng Việt có mấy chỗ lạ. Có chỗ đoán được, như “khóm” là xóm, “đó” là đỏ; có chỗ thì chịu, như “tằm ôm lúc nhúc”. Ngoài ra, thơ dùng “trì” Tàu thay vì “ao” Việt...
Thời gian và lịch sử cản trở ta thưởng thức trọn vẹn thơ xưa của ta. Nhưng tuy không được trọn, niềm vui khi đọc thơ vẫn đáng kể. Ta có thể “thấy” được những hình ảnh, “nghe” được những âm thanh, “ngửi” được những mùi hương của buổi chiều nơi cái xóm chài hẻo lánh nào đó chứ. Nhất là hai câu
“Ðêm thanh nguyệt bạc khách lên lầu” và
“Dặng dõi cầm ve lầu tịch dương”
rất gợi, sờ sờ bóng dáng, tâm sự người viết nên câu...
Tằm ôm lúc nhúc thuyền đầu bãi
Hào chất so le khóm cuối làng
Nuớc biếc non xanh thuyền gối bãi
Ðêm thanh nguyệt bạc khách lên lầu
Thạch lựu hiên còn phun thức đó
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương
Lao xao chợ cá làng ngư phủ
Dặng dõi cầm ve lầu tịch dương.(2)
Kìa nước nọ không
Sáng sớm sương kín mặt hồ, xuống thuyền chèo mấy nhát ngoảnh lại không thấy bờ đâu, gác chèo, không biết mình đang trên hồ hay trong mây!
Trời nghi ngút nước mênh mông
Hai ấy cùng xem một thức cùng
Lẻ có chim bay cùng cá nhảy
Mới hay kìa nước nọ hư không.
Ðun một nồi hương
“Ở thế nhiều phen thấy khóc cười”. Nguyễn Trãi chán thấy, xin được thôi ở.
“Rũ bao nhiêu bụi, bụi lầm
Giơ tay áo đến tùng lâm”.
Ra khỏi triều đình, giũ bụi khỏi áo, rồi giơ tay áo lên mà đứng trên mây bay về rừng thông như một ông tiên!
Tiên về núi thì
“Dầu phải dầu chăng mặc thế
Ðắp tai biếng mảng sự vân vân”.
Nghe chi “sự vân vân” nữa, phải quá.
Trong “con am” thanh vắng, kẻ ở ẩn khi ra xem hoa nở trước sân, khi vào thăm nồi hương đang sôi riu riu cạnh giường. Ngắm đẹp ngửi thơm, tất có làm thơ. Hễ nên thơ đắc ý:
“Ngâm được câu thần, dửng dửng ca”.
Chỉ kết bạn với vượn với chim, chỉ gẩy đàn, đọc sách, xem hoa, ngửi hương, thi thoảng dửng dửng ca, thế mà ngày tháng trên non rồi cũng không được “trường”.
Giậu thưa thưa, hai khóm cúc
Giường thấp thấp, một nồi hương
Vượn chim kết bạn non nước quạnh
Cầm sách cùng nhau ngày tháng trường.
Bui một lòng người Chiều hôm đủng đỉnh dạo núi, “trông thế giới phút chim bay”, trông non non nước nước mây mây cây cây trăng trăng gió gió...
Dễ tưởng người đi dạo sắp hóa mây hóa gió trôi bay xa khỏi chốn “bụi lầm”. Nhưng không, người trông mây “thuộc” núi, trông gió “hay” cây, rồi người nghĩ đến một cái hết sức khó thuộc khó hay:
“Bui một lòng người cực hiểm thay!”.
Ðời trót đã bước vào, không phải cứ hễ bước ra là quên ngay được.
Ðủng đỉnh chiều hôm dắt tay
Trông thế giới phút chim bay
Non cao non thấp mây thuộc
Cây cứng cây mềm gió hay
Nước mấy trăm thu còn vậy
Nguyệt bao nhiêu kiếp nhẫn này
Ngoài chưng mọi chốn đều thông hết
Bui một lòng người cực hiểm thay!(3)
Mượn đắp lấy hơi
Thời Nguyễn Trãi mà văn chương trí thức đã lãng mạn vậy sao. Sao không, trước Nguyễn Trãi nhiều trăm năm, Lý Bạch bên Tàu đã có thơ thẩn rằng từ ngày em đi chăn gấp để giữa giường không dùng, ba năm rồi mà hương còn phảng phất (bài Ký Viễn)...
Nhưng quả thực Nguyễn Trãi không hay nhắc đến “khách lầu hồng” trong thơ mình đâu. Hình như chỉ có một lần này thôi. Hẳn làm khi chưa cùng Thị Lộ về ở Côn Sơn...
Loàn đan ướm hỏi khách lầu hồng
Ðầm ấm thì thương kẻ lạnh lùng
Ngoai ấy dầu còn áo lẻ
Cả lòng mượn đắp lấy hơi cùng.(4)
Anh hùng ôm hận
“Sông lặng lặng”, “lá xao xao”, trên trời treo một mảnh băng, dưới đất dựng một cái bóng...
Tứ Nguyễn Trãi, lời Xuân Diệu, tưởng Nguyễn Trãi có sống dậy mà đọc, chắc cũng phải ưng!(5)
Kim cổ không cùng, sông lặng lặng
Anh hùng ôm hận, lá xao xao
Quay về một bóng lan can tựa
Trăng sáng như băng trời biếc treo.
Lơ lửng bên sông
Về bài thơ nổi tiếng sau đây, Hoài Thanh viết: “... đã có lúc chúng ta ngờ không biết có phải thơ Nguyễn Trãi không vì lời thơ hình như quá mới. Nhưng sau khi đọc tập thơ nôm Nguyễn Trãi, tôi lại nghĩ bài thơ này ý thơ cũng rất có thể bắt nguồn từ thơ Nguyễn Trãi.”(6) Tức sau cũng như trước, Hoài Thanh vẫn thấy “lời (...) hình như quá mới”, do đó thơ khó lòng là của...
Theo một số nhà nghiên cứu, thể lục bát chỉ mới xuất hiện vào cuối thế kỷ 15, sau khi Nguyễn Trãi qua đời. Có thể khi Nguyễn Trãi còn sống, lục bát đã phôi thai. Nhưng lời Lơ Lửng Bên Sông lại không giống thứ lời phôi thai. Cho nên nếu quả thực lục bát chỉ mới khoảng 500 năm tuổi thì đây không phải là thơ Nguyễn Trãi.
Không biết ai đã “vay” tứ cũ để làm thơ “mới” thế này.
Chiếc thuyền lơ lửng bên sông
Biết đem tâm sự ngỏ cùng ai hay
Chắc chi thiên hạ đời nay
Mà đem non nước làm rầy chiêm bao
Ðã buồn về trận mưa rào
Lại đau về nỗi ào ào gió đông
Mây trôi nước chảy xuôi dòng
Chiếc thuyền hờ hững trên sông một mình.
Uống rượu gốc cây Bạch Vân quốc ngữ thi văn bản tam sao thất bổn, có thể nhiều sai sót...
Bài sau đây có lẽ được nhiều người biết nhất. Tắm mát rồi ngồi gốc cây... khà, ở ẩn như Trạng Trình tưởng những kẻ lăn lộn theo phú quý không khỏi có lúc ước ao.
Một mai một cuốc một cần câu
Thơ thẩn dù ai vui thú nào
Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn người đến chốn lao xao
Thu ăn măng trúc đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen hạ tắm ao
Rượu đến cội cây ta sẽ uống
Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao.
Tréo cẳng hiên mai
Cái ông già ưa ăn măng, ăn giá, tắm hồ sen, tắm ao, ưa ngồi uống rượu dưới gốc cây, cái ông đó chắc đã đạt đạo nên mới hóa hồn nhiên như trẻ thơ, mới dựa “cửa trúc vỗ tay cười khúc khích”, mới nằm “hiên mai tréo cẳng hát nghêu ngao”.
Ủa, ai nói Nguyễn Bỉnh Khiêm nằm tréo cẳng trước hiên? Chưa ai nói, mình nói thử chơi. Ngồi mà tréo cẳng thì ra dáng ngang tàng, còn nằm mà tréo cẳng thì ra dáng thoải mái. Trạng Trình ưa thoải mái, chứ đâu có ngang, vậy chắc ông đã nằm...
Tưởng tượng người “nép mình qua trước chốn xôn xao”, người ấy về đến am Mây Trắng bèn nằm khểnh trước hiên hát chơi, hát một lúc thì “mấy sự bên tai gió thoảng ào”, người luôn tiện chợp mắt! Sống như vậy, trách nào sống đến sơ sơ 95 tuổi!
Nép mình qua trước chốn xôn xao
Mấy sự bên tai gió thoảng ào
Cửa trúc vỗ tay cười khúc khích
Hiên mai tréo cẳng hát nghêu ngao
Lo le đã vậy thời dầu vậy
Vặt vãnh màng bao sá quản bao
Chẳng hết trung cần hai chữ ấy
Nhờ ơn đất rộng cậy trời cao.
(1) Yêm (yếm): chán; xanh bạc: người xứng đáng thì mình nhìn
bằng mắt xanh, người không xứng đáng thì mình nhìn bằng mắt trắng.
(2) Khóm: xóm; đó: đỏ?; trì: ao; tiễn: đưa (theo Xuân Diệu, trong Ba thi hào dân tộc, nxb. Thanh Niên, VN, 2000).
(3) Bui: duy.
(4) Loàn đan: lăng loàn, mạo muội; cả lòng: rộng lòng (theo Hoài Thanh, trong Tuyển tập Hoài Thanh, tập II, nxb. Văn Học, VN, 1982, tr. 41).
(5) Bài này từ Ức Trai thi tập (Hán văn), Xuân Diệu dịch, in trong sách đã dẫn.
(6) Hoài Thanh, sách đã dẫn.
(2) Khóm: xóm; đó: đỏ?; trì: ao; tiễn: đưa (theo Xuân Diệu, trong Ba thi hào dân tộc, nxb. Thanh Niên, VN, 2000).
(3) Bui: duy.
(4) Loàn đan: lăng loàn, mạo muội; cả lòng: rộng lòng (theo Hoài Thanh, trong Tuyển tập Hoài Thanh, tập II, nxb. Văn Học, VN, 1982, tr. 41).
(5) Bài này từ Ức Trai thi tập (Hán văn), Xuân Diệu dịch, in trong sách đã dẫn.
(6) Hoài Thanh, sách đã dẫn.
Thu Tứ
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét