Đến muộn
Tranh: Nguyễn Quang Huân
Gió thốc lên khiến cho những chiếc lá yếu ớt còn bám trên cây
rụng xuống. Không phải là một cái chết kiêu hãnh đồng loạt như tôi đã mường tưởng.
Những chiếc lá cuối mùa còn lại cố bám lấy dòng sinh khí từ cành cây khô kia
cũng không thể cưỡng nổi luật đào thải khắc nghiệt của tạo hoá. Gió mùa này se
sắt lắm người bước chân ra đường phải lo khăn áo phủ dầy thì làm sao chiếc lá
vàng ở trên cao kia có thể chống chỏi qua đến mùa đông. Từng chiếc lá rơi rơi
buồn bã…
Cây cỏ ráo hoảnh đi vẻ mượt mà của tháng trước sau một trận
bão lớn đi qua thành phố. Chỉ còn lại những đoá hoa tím vàng nhỏ xíu cánh lá mỏng
mảnh mọc lan trên mặt đất bình thản chống trả với thiên nhiên. Mặc kệ mưa sa
bão táp, hoa lá chao nghiêng vẫn đẹp đến lạ kỳ.
Cuộc đời không phải là tàn phá mà phải là gây dựng. Những
cánh hoa mỏng mảnh đã dậy cho tôi điều ấy dù đã rất nhiều lần chỉ muốn buông
tay phó mặc cho vận đời may rủì. Thế nên dù đã ở một bên khoá trái của cánh cửa
ký ức nhưng lòng vẫn thấy bơ vơ, hoang mang khi nghe những giai điệu của một bản
nhạc về cuộc đời, tình yêu, tình bạn.
Có một nơi chốn tôi đã sống qua dù chỉ một năm ngắn ngủi
trong thời niên thiếu. Rất nhiều những hồi ức từ nơi chốn ấy bây giờ nhớ lại vẫn
đủ để khóc cười. Một tập thể nhỏ xíu ngót hơn ba mươi người. Ở vào thưở hai chữ
tiết kiệm, phấn đấu được dùng để che lấp đi cái kham khổ, thiếu thốn của xã hội
thì một lớp học trong thành phố với con số ít ỏi ấy quả là một xa xỉ hiếm hoi.
Nhưng nhờ thế mà tôi đã có được sự bình yên và những kỷ niệm khó quên trong một
năm cuối của tuổi học trò.
Nằm ngay trước cổng con đường đi vào cư xá. Ngôi trường mới
xây vẫn còn mang nét bình dị của lối kiến trúc đơn giản thường thấy. Cổng trường
rộng, bờ rào bao quanh và hai bên là những lớp học chỉ vỏn vẹn ba tầng lầu quét
vôi vàng ệch. Cái lớp vôi vàng ấy rất dễ dính vào người mỗi khi lơ đãng tựa người
vào. Thành lan can ngoài cửa lớp là tường gạch xen kẽ với những chấn song be bé
vừa đủ đế cho đứa học trò nghịch ngợm đưa chân vào ngo ngoe. Đôi khi sút cả dép
rơi xuống dưới sân trường lại phải hò nhau, một đứa đứng canh một đứa hì hụi chạy
xuống sân đem nó về với khổ chủ.
Chỉ là chiếc dép có quý giá gì đâu mà lạ. Chỉ vì sợ bọn con
trai cuống chân, gặp gì cũng đá mà chiếc dép bị mất oan tội nghiệp. Thưở ấy tôi
có bạn. Những người bạn ngây thơ thương yêu nhau bằng tình yêu trong sáng nên
đôi dép của tôi không bao giờ lẻ bạn. Chẳng biết vì thương đôi dép thưở nghèo
khó hay vì bạn bè cũng nghèo như nhau nên chẳng ai nỡ làm cho đôi dép bị lẻ
đôi.
Đấy là những ngày xưa âm thầm thương khó bạn bè chia nhau từng
miếng ổi, viên me ngào đường dấm dúi chuyền tay dưới bàn học. Bây giờ biết bao
đủ đầy mà không sao tìm ra được cái tình ân cần thương mến như thế. Chao ơi là
thương nhớ.
Nhắc đến cái bàn học của tôi, dãy bàn đầu tiên, chỗ ngồi cũng
đầu tiên là một chỗ ngồi bất tiện nhất của lũ học trò nhưng lại được ưu ái dành
cho một “ma mới” là tôi. Ngay tầm mắt của thầy thì lấy đâu mà quậy phá, ngay cả
cái trò rất ư mạo hiểm là quay cóp thì cũng quên đi. Cũng cùng một dãy bàn như
thế, thỉnh thoảng trong giờ thi khi liếc nhìn qua phía bọn con trai tôi không
nén khỏi chút thầm ganh tỵ. Ôi những khuôn mặt khoác áo “thầy tu” mà trong bụng
lại chứa một bầu… tài liệu! Chẳng hiểu thầy cô biết không, hay có biết cũng giả
lơ cho bọn trẻ. Tôi thương nhất thầy Cảo dạy môn Sử. Thầy hay cười, thường xuề
xòa thông cảm cho sự vất vả của đám học trò cuối cấp khi chúng tôi chạy theo thầy
xin xỏ đề thi. Đến giờ tôi vẫn còn nhớ như in miệng cười thật hiền, giọng nói
chậm rãi và khuôn mặt luôn cho tôi một cảm giác bình yên khi nhớ đến. Có lẽ cả
quãng đời học trò chưa có một thầy giáo nào để lại cho tôi ấn tượng nhẹ nhàng
hiền hoà như thế. Và nếu Bụt có thật trong các câu chuyện cổ tích thì thầy cũng
đã là một ông Bụt cho quãng đời học sinh của tôi. Còn tôi chỉ mãi là một cô Tấm
suốt đời sàng sẩy những hạt thóc ký ức rơi vãi nên luôn trễ nãi trước những
cuộc hẹn hò.
Ngược lại với vẻ chậm rãi thong dong của thầy Cảo là thầy
Thương dạy Toán và cũng là thầy Chủ Nhiệm của lớp tôi. Thầy làm gì cũng nhanh,
đi đứng như có phép đằng vân. Vừa đứng trên bục giảng, thoắt đã thấy thầy ở cuối
lớp rồi. Điểm đặc biệt của thầy khi gọi tên bọn con trai hay bắt đầu bằng chữ
“ông”.Ông A, ông T, ông Đ, ông Q … thế là bọn con gái lớp tôi cũng nương theo
thầy cho cả lũ con trai mười sáu, mười bảy lên chức “ông” hết! Gọi riết thành
thói quen chẳng ai muốn sửa. Đến bây giờ ai cũng chớm chớm hai thứ tóc trên đầu
nhìn lại nhau mới thấy mình cũng đang sắp thành ông, thành bà hết cả rồi. Thời
gian trôi nhanh có từ khước ai đâu.
Kể về thầy Thương có nhiều điều rất thú vị, riêng điều này
thì tôi nhớ kỹ. Trong bài thi, thầy thường rộng rãi hơn khi cho điểm bọn con
gái. Chả là lớp tôi học ban Toán, con gái trong lớp đếm lèo tèo trên đầu ngón
tay nên đám con trai có phần lấn lướt. Tôi thương lắm những điểm cộng thêm rất
rộng lòng của thầy. Riêng tôi, một đứa học trò đã từng đem đến cho thầy sự phiền
nhiễu mà chưa bao giờ nhận lại một lời khiển trách từ thầy. Hình như thầy đã hiểu
tôi hơn tất cả những người khác, hơn cả chính tôi hiểu về tôi. Cái ranh giới rất
gần giữa tự ái và lòng tự trọng đó đã làm khổ tôi nhiều lần trong cuộc đời. Mỗi
lần nghĩ đến điều này tôi chỉ muốn khóc, chỉ muốn được bé dại vô tư sống như
ngày nào, để đừng phải tự quay quắt với những câu hỏi “tại sao?”.
Tôi đang sống như một kẻ đứng bên lề muộn màng trước những
cuộc vui mà lòng vẫn không nguôi thương nhớ nên bài hát của một người bạn học
năm xưa viết nên với bao câu hỏi mãi day dứt trong tôi. Chỉ còn một tiếng
không vô vọng.
Sao không đến với nhau sớm hơn một chút
Cho ta nói với nhau ước mơ còn lại
Sao không giữ lấy nhau lâu hơn mọi lúc
Để lòng ta bớt cô đơn trên đường về.
Chiều xuống, lời hát khiến lòng người nghiêng đi một nỗi cô
đơn ngậm ngùi…
Đến Muộn
Nhạc sĩ: Nguyễn Đình Trung
Nguyên Tú My
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét