Hàn Mặc Tử - Lãng mạn siêu hình
Những dòng rướm máu...
Thơ tôn giáo của Hàn Mặc Tử
Thơ siêu thực của Hàn Mặc Tử
Cái gì đằng sau thơ siêu thực H.M.T.
Chơi Giữa Mùa Trăng
Lãng mạn chưa bao giờ siêu thực thế
Thơ tôn giáo của Hàn Mặc Tử
Thơ siêu thực của Hàn Mặc Tử
Cái gì đằng sau thơ siêu thực H.M.T.
Chơi Giữa Mùa Trăng
Lãng mạn chưa bao giờ siêu thực thế
Những dòng rướm máu...
Tìm hiểu đặc tính siêu thực trong văn chương Trung bộ, dĩ nhiên cần xem xét thơ Hàn Mặc Tử.(1)
Hoài Thanh bảo Ðiêu tàn của Chế Lan Viên là “một niềm kinh dị”. Ðem so với Ðiêu tàn, những bài Ðau thương, chẳng hạn, kinh dị hơn nhiều lắm. Vẫn có ý kiến cho rằng đấy chẳng qua là sản phẩm của một đầu óc bị chấn động vì bệnh tật. Mặt khác, không ít người đọc thơ lại nhiệt liệt ca ngợi chính những dòng chữ “như dính máu”, gây rùng rợn, hoang mang nọ.
Thơ của Hàn Mặc Tử sau Gái quê (1936) quả lắm khi lạ hơn lạ. Không mong hiểu được rành mạch, riêng rẽ từng câu, từng đoạn, thậm chí từng bài thơ đầy vẻ siêu thực kia đâu. Cố gắng, nhưng chỉ dám mong nắm bắt được phần nào cái bản chất của toàn mảng thơ...
Thơ tôn giáo của Hàn Mặc Tử
Xuân như ý chứa nhiều bài ca ngợi Chúa, Ðức Mẹ. Vũ Ngọc Phan bảo: “Thơ tôn giáo đã ra đời với Hàn Mặc Tử.”
Ô hay, thế bao nhiêu thơ về Phật giáo suốt nghìn năm trước đấy không phải là thơ sao?
Hoài Thanh chú trọng hướng khác: “Hình như trong các thi phẩm xưa nay có tính cách tôn giáo không có gì giống như vậy. Hàn Mặc Tử đã dựng riêng một ngôi đền để thờ Chúa.” Trong đền, nhà phê bình quan sát thấy có “đầy dẫy những kinh cầu nguyện, những hương đức hạnh, hoa phẩm tiết, nhạc thiêng liêng, cùng ánh trăng, ánh thơ. Nhất là ánh thơ.”
Nếu chỉ có thế, sao phải dựng riêng?
Yến Lan bình luận: “Anh là một con chiên ngoan đạo. Tuy nhiên, chất Ðạo (thanh khiết, thiêng liêng) trong thơ Anh đã bị chất Ðời (đau yếu, bệnh tật) lấn áp.”
Ðời khổ, đa số tín đồ vào nhà thờ cầu nguyện. Hàn Mặc Tử lập riêng một nhà thờ, bằng thơ. Trước Chúa, đa số tín đồ khép nép tay chân, thở than kín đáo. Hàn Mặc Tử vung múa dữ dội:
“Và trong tay nắm một nạm hào quang...”,
la hét om sòm:
“Hỡi Sứ thần Thiên chúa Gabriel,
(...)
Người có nghe xôn xao muôn tinh tú?
Người có nghe náo động cả muôn trời?
Người có nghe thơ mầu nhiệm ra đời”,
rồi khăng khăng chất vấn:
“Phượng Trì! Phượng Trì! Phượng Trì! Phượng Trì!
Thơ tôi bay suốt một đời chưa thấu,
Hồn tôi bay đến bao giờ mới đậu
Trên triều thiên ngời chói vạn hào quang?”!
Hoài Thanh viết: “Xuân như ý rõ ràng là tập thơ hay nhất của Hàn Mặc Tử.”
Yến Lan bất đồng: “Suy cho cùng, thơ về Chúa, về Ðức Mẹ (...) của Hàn Mặc Tử (...) khó (...) thâm nhập vào tâm hồn người đọc có tín ngưỡng hay không có tín ngưỡng.”
Dường như Yến Lan có lý.
Người đọc tín đồ đọc thứ thơ “chất Ðạo (...) bị (...) chất Ðời (...) lấn áp”, làm sao thưởng thức nó trọn vẹn được?
Còn người đọc không phải tín đồ đạo Chúa, không tin Chúa, mà đọc thứ thơ ca ngợi Chúa, làm sao “thâm nhập” nó được để thấy nó hay?
Thơ siêu thực của Hàn Mặc Tử
Tôn giáo là siêu thực.
Thơ tôn giáo là thơ siêu thực.
Ngoài thơ siêu thực tôn giáo, Hàn Mặc Tử còn làm những bài cũng có nội dung “siêu” nhưng không hề thiêng liêng.
Thế là thế nào?
Siêu thực là siêu việt thực tại, nghĩa là vượt quá thực tại.
Sau khi vượt quá thực tại, nhân loại có hai lối tư duy.
Kẻ quen tư duy tôn giáo thì suy tưởng ngay theo hướng nhất định: hoặc Phật hoặc Chúa hoặc...
Người quen tư duy phi - tôn giáo thì suy tưởng không theo hẳn hướng nào.
Cùng là nghĩ ngợi về cái không thấy được, nhưng một đằng thuộc về thần học, một đằng thuộc về triết học.
Thơ tôn giáo nhằm phát huy niềm tin.
Thơ siêu thực (tức siêu thực phi - tôn giáo) nhằm bày tỏ thắc mắc, xúc cảm của thi sĩ trước những cái nằm ngoài thực tại.
Hai thứ thơ khác nhau như thế, liệu một người có thể làm được cả hai hay không?
Rõ ràng là có thể, vì ai cũng biết Hàn Mặc Tử vừa làm thơ ca ngợi Chúa vừa làm thơ ca ngợi... Trăng!
Hãy thử tìm hiểu thơ Trăng của Hàn.
Trước khi Hàn Mặc Tử gặp nạn, thơ ông dường như vắng đạo, nhưng đã chứa khá nhiều trăng. Trong Lệ Thanh thi tập đầu đời, có câu nổi tiếng:
“Bóng nguyệt leo song sờ sẫm gối”,
mà nhiều người, như Hoài Thanh, cho là “vẩn đục”. Thi sĩ làm thơ luật Ðường, nên “trăng là nguyệt”(2). Nguyệt quấn quýt hoa, nguyệt sờ hoa chăng nữa, chuyện bình thường và cũ rích như thơ Mít thơ Quạt, chi mà đục, trong.
Sang Gái quê, nguyệt càng lẳng lơ:
“Ô kìa, bóng nguyệt trần truồng tắm,
Lộ cái khuôn vàng dưới đáy khe”
và thường khi chỉ xưng “trăng” thân mật:
“Trăng nằm sóng soải trên cành liễu,
Ðợi gió đông về để lả lơi”. Hình ảnh mới, nhưng nội dung vẫn cũ ít nhất hàng thế kỷ. Từ 1936 về trước, trăng trong thơ Hàn Mặc Tử là trăng thế tục, trăng chung của tất cả mọi người.
Chỉ sau khi “đau thương” khởi sự, trăng mới dần dần trở nên riêng tư, bí ẩn, huyền diệu, thơ trăng mới đạt mức lạ lùng. Không hiểu sao, cũng từ đấy, “trăng thôi là nguyệt”(3).
Yến Lan bảo trăng chủ trì cả hơi thơ lẫn tứ thơ Hàn Mặc Tử. Thi sĩ ngậm trăng, cắn trăng, uống trăng, ọe ra trăng, “dìm hồn xuống một vũng trăng”, “ăn vận toàn trăng”, đuổi theo trăng, né mình tránh trăng rụng, nhảy xuống giếng vớt xác trăng v.v. Cả trời đất bao la bấy giờ dường như chỉ trăng là quan trọng, mà thời gian chỉ còn đáng kể lúc “ban khuya”:
“Tôi đi trong áng sương mờ
Tìm con trăng lạc ngoài bờ bến kia
Xứ yêu bát ngát, tôi lìa
Dò xem ý tứ ban khuya, tôi liều”.
Trong Ðau thương, những dòng bình tĩnh như trên rất hiếm. Trời đất ấy, ánh trăng ấy, tuy vậy không phải hoàn toàn hỗn độn, mơ hồ, mà có ít nhất hai đặc tính rõ rệt, rất lạ.
Thứ nhất, trăng Hàn Mặc Tử có mùi. Mùi trăng khi quanh quẩn tầm gần:
“Thơ em cũng giống lòng em vậy
Là nghĩa thơm tho như ánh trăng”,
khi lan tỏa khắp Mênh Mông:
“Như hương trăng đằm thắm cõi không gian”.
Thứ hai, nó có thể phát tiếng:
“tiếng trăng reo vang vang như tiếng châu báu vỡ lở”,
hoặc có thể vang thành tiếng:
“Ðang khi mầu nhiệm phủ ban đêm
Có thứ gì rơi giữa khoảng im
Rơi tự thượng tầng không khí xuống
Tiếng vang nhè nhẹ dội vào tim”.
Ngay cả sao, rất bé nhỏ so với trăng, tuy không mùi nhưng vẫn có tiếng:
“Trăng sao đắm đuối trong sương nhạt,
(...)
Cả trời say nhuộm một màu trăng,
Và cả lòng tôi chẳng nói rằng.
Không một tiếng gì nghe động chạm,
Dẫu là tiếng vỡ của sao băng...”.
Sao “bơi” trong dòng đen đặc, khi dào dạt xôn xao, khi yên tĩnh:
“Sông Ngân đã im lìm không tiếng sóng”.
Người thường như chúng ta dĩ nhiên không mong ngửi được mùi trăng thơm tho, nghe được tiếng trăng reo, tiếng sao vỡ, tiếng sóng Ngân Hà. Hoài Thanh phàn nàn: “Trời đất này thực của riêng Hàn Mặc Tử, tôi không hiểu được và chắc cũng không bao giờ ai hiểu được.” Trần Thanh Mại cố cắt nghĩa: “Hàn Mặc Tử có một thính giác đặc biệt (...) nghe cả (...) tiếng chạm của hai đường tơ ánh sáng...”
Thính giác bén nhạy, e không đơn giản vậy đâu. Ðất trời, trăng sao của Hàn Mặc Tử không hoàn toàn lộn xộn, vô nghĩa, mà dường như phần nào tương ứng với một quan niệm thơ tân kỳ.
Giữa những cơn đau dữ dội thường xuyên, thi sĩ vẫn còn chút tỉnh táo, đủ để trình bày vội vã cái ý của mình.
Trong thư đề tháng 6/1939, gửi cho M. (không rõ là ai): “Thơ là sự ham muốn vô biên những nguồn khoái lạc trong trắng của một cõi trời cách biệt.”
Trong lời giới thiệu tập Tinh huyết của Bích Khê (1939), Hàn Mặc Tử giải thích rõ ràng hơn: “Sự say mê, tìm kiếm những nguồn hoan lạc vô biên đã dần dần đẩy thi nhân vào bờ bến của Huyền diệu (...) thi nhân chú trọng về âm thanh và màu sắc (...) nhạc lúc bấy giờ cũng không còn là nhạc nữa. Nó đã bay ra hương, ra hoa, ra thơm, ra mát, ra ngọt, ra ngào, ra gì mê tơi, run rẩy, hay âm thầm nức nở, lanh lảnh như giọng trời, mơn man như ân tình đòi hỏi...”.
Thơ, như thế, có khả năng “Bắt cái vô hình trở nên hữu hình, khiến cái chết trở nên sống, cho vật câm không còn là câm nữa”...
Cái gì đằng sau thơ siêu thực Hàn Mặc Tử (4)
Tin Chúa, nên khổ quá thì kêu Chúa. Nhưng sao lại từ ngắm trăng cách bình thường chuyển qua say trăng hơn say gái?
Cái trăng Bình Ðịnh có gì khác lạ? Thị xã Qui Nhơn phải chăng nơi chốn không bình thường?
Trong lời tựa cho tuyển thơ văn cuối cùng của mình (1988), Chế Lan Viên ngỏ lời tri ân “quê nuôi” và tâm sự: “khi tôi lên bảy thì cả gia đình chuyển vào Bình Ðịnh (...) Tôi đã gặp cả một vùng, một trung tâm thơ, trung tâm văn học là Qui Nhơn.” Ở đấy, ông gặp “sự ham đi tìm cái mới, sự không chấp nhận sáo mòn của các thi sĩ (...) Tôi đã chịu ảnh hưởng (...) tốt đẹp”.
“Trung tâm thơ”, thời ấy, có lối sinh hoạt văn nghệ riêng. Hoàng Diệp, một bạn thân của Hàn Mặc Tử, kể: “... ở Qui Nhơn (...) Những đêm trăng sáng, màu trăng hoang dại, huyền hoặc, thường quyến rũ chúng tôi đi ngủ biển. Chế Lan Viên, Yến Lan và tôi... hội họp tại nhà Hàn Mặc Tử, rồi đem ra (drap), mền đi ngủ biển chỉ cách nhà chàng độ 200 thước. Những đêm ấy là những đêm mưa tầm tã, lụt ngập trời. Nhưng mưa ở đây là mưa sao, lụt ở đây là lụt trăng. Chúng tôi bị trăng vây phủ tứ bề, ngăn hết nẻo đường...”.
Bị trăng vây bủa mà bên mình có anh thơ Quách Tấn, em thơ Chế Lan Viên, bạn thơ Yến Lan v.v. thì còn chịu được. Nhưng suốt thời kỳ Hàn Mặc Tử trốn lánh để khỏi bị bắt vào trại Quy Hòa, đâu phải đêm nào anh em bè bạn cũng cùng đi ngủ biển với thi sĩ bất hạnh được. Bao nhiêu đêm trăng lụt sao mưa Hàn Mặc Tử phải đắm đuối một mình trên cát? Một người cùi đơn độc, thui thủi, giữa bao la trăng...
“Tiêu dao đến nỗi bẽ bàng,
Ði trong hiu quạnh gặp toàn bơ vơ”. Ði suốt đêm, gặp toàn... không ai cả, nhưng
“Tiếng gà gáy rụng trăng đầu hạ,
Tôi hoảng hồn lên, giận sửng sờ!”.
Lại Yến Lan: “Tình yêu trắc trở. Anh dựa vào tình bè bạn. Cô đơn, tù túng quá, Anh dựa vào cái mà thiên nhiên đã cho Anh nhiều nhất, dễ dàng tiếp cận nhất, là trăng.” Căn bệnh quái ác ảo hóa, hư vô hóa gần tất cả đời sống, chỉ để lại cho kẻ-vốn-khát-yêu chứa chan một thứ ánh sáng lờn lợt, mơ hồ...
Ðời thi sĩ dù khổ tột độ, tự nó cũng không làm nên thơ hay. Phải có tài, thứ tài thích hợp.
Chế Lan Viên nhận xét: “Tử có rất sớm (...) cái khả năng (...) tâm tưởng tâm hồn hóa (...) thế-tục-hóa, da-thịt-hóa (...) ma-quái-hóa (...) nhờ có một cái cốt (...) một cấu trúc tâm hồn thế nào đó”.
Cái cốt khác thường ấy giúp Hàn Mặc Tử “đi về, qua lại giữa (...) thực và hư... rất thoải mái”.
Rất tiện lợi nữa. Bệnh tật ảo hóa thực tại, thì thi sĩ thực hóa ánh trăng. Bệnh tật cướp đi những khao khát tình cảm bằng xương bằng thịt, thì thi sĩ bắt ánh trăng huyền ảo đền bù:
“Tôi lại gần bên, ồ! lạ thường!
Nường trăng, Ô! chính là Thương Thương!”.
Thương là trăng, trăng là Thương. Mà Thương chẳng qua cũng chỉ giả danh, tình mới đích thị thực danh:
“Tôi say tình cũng như tôi say trăng”.
Hay “tôi say trăng cũng như tôi say tình”, cũng thế. Tình, trăng, trăng, tình, đi, về, qua, lại.
Chế Lan Viên nhận định rất đúng: “Hàn Mặc Tử không phải là nhà thơ siêu thực. Trước sau anh vẫn là lãng mạn (...) dùng nhiều yếu tố siêu thực”.
Lãng mạn siêu thực là Hàn Mặc Tử bồng bột khi bơi trăng tắm sao.
Mặt khác, cũng những khi ấy, thỉnh thoảng lại xuất hiện một Hàn Mặc Tử khác, trầm ngâm:
“Tối hôm nay muôn sao bơi nhấp nhánh.
Sông Mê hà đưa đẩy sóng triền miên...”,
triết lý cổ điển:
“Chao ôi! ghê quá trong tư tưởng,
Một vũng cô liêu cũ vạn đời!”.
Ngay giữa tập thánh thi, giữa những dòng sôi nổi ca tụng Ðức Mẹ, giữa chói lọi hào quang, vẫn lạc vào hoặc chút “cô liêu” cũ kỹ:
“Trời Hàn giang đêm nay không sóng,
Lòng cô liêu đồng vọng làm chi?” hoặc những dòng nước mắt vừa bàng hoàng vừa tỉnh táo:
“Hôm nay trời lửng lơ trời,
Dòng sông ánh sáng sẽ trôi hoa vàng.
Tôi ngồi ở bến Hàn giang,
Khóc thôi mây nước bàng hoàng suốt đêm”.
Khi viết những câu thơ ấy, Hàn nghĩ gì? Có phải, như Chế Lan Viên khóc người anh thơ sáu bảy mươi năm trước: “Tôi tưởng tượng ra cái phút cuối cùng của Tử. Có phải Tử nghĩ đến (...) những cái có thật mà mình không về với nữa, cũng như (...) đến nơi không biết có thật bao giờ, mà mình sắp phải trở về”.(5)
Những câu thơ chừng mực lạc lõng như gợi thủa đầu lành lặn, bình an, lại như nhắc kết thúc bi thảm không còn xa nữa.
Hàn Mặc Tử mất năm 28 tuổi. Một cuộc đời ngắn ngủi quá. Và cũng dài lê thê.
Ðọc những câu như:
“... Một khối tình nức nở giữa âm u,
Một hồn đau rã lần theo hương khói,
Một bài thơ cháy tan trong nắng dọi,
Một lời run hồi hộp giữa không trung
Cả niềm yêu, ý nhớ, cả một vùng
Hòa thành vũng máu đào trong ác lặn”,
ta tưởng tượng sống mà mỗi “ác lặn” lại thấy một “vũng máu đào” như thế thì mỗi ngày, nhất là mỗi đêm, hẳn phải dài bằng bao nhiêu ngày bao nhiêu đêm của những kiếp người may mắn hơn.
Ðời sống vốn quý, nhưng trong những trường hợp nào đó, “cái phút cuối cùng” nó đến sớm có lẽ là hay...
Chơi Giữa Mùa Trăng
Miên man về thơ siêu thực của Hàn Mặc Tử, chợt nhớ Hàn còn có văn siêu thực.
Chơi Giữa Mùa Trăng rất đỗi thơ, óng ánh kỳ ảo như viên ngọc lớn, như chính tâm hồn và tài năng của người nghệ sĩ bất hạnh đã “kết tinh ở bao thanh sắc lạ”:
“Trăng là ánh sáng? Nhất là trăng giữa mùa thu, ánh sáng càng thêm kỳ ảo, thơm thơm, và nếu người thơ lắng nghe một cách ung dung, sẽ nhận thấy có nhiều miếng nhạc say say gió xé rách lả tả... Và rơi đến đâu, chạm vào thứ gì là chỗ ấy, thứ ấy vang lên tuy chẳng một ai thấy rõ sức rung động (...)
Sông? Là một giải lụa bạch, không, là một đường trăng trải chiếu vàng, hai bên bờ là động cát và rừng xanh và hoang vu và thanh tịnh. Chị tôi và tôi đồng cầm một mái chèo con, nhẹ nhàng lùa những dòng vàng trôi trên mặt nước.
Chị tôi cười nả nớt, tiếng cười trong như thủy tinh và thanh khiết lạ thường. Luôn luôn cứ hỏi tôi và đố tôi cho kỳ được: “Này chị đố em nhé, trăng mọc dưới nước hay mọc trên trời, và chúng mình đi thuyền trên trời hay dưới nước?” Tôi ngước mắt ngó lên trời rồi ngó xuống nước và cũng cười đáp lại: “Cả và hai chị ạ.” Sướng quá, chao ôi, hai chị em lại thỉnh thoảng rú lên cười làm náo động luồng tinh khí của hạo nhiên. (...) Thuyền đi êm ái quá, chúng tôi cứ ngờ là đi trong vũng chiêm bao, và say sưa và ngây ngất vì ánh sáng, hai chị em như đê mê, không còn biết là có mình và nhận mình là ai nữa. Huyền ảo khởi sự. Mỗi phút trăng lên mỗi cao, khí hậu cũng tăng sức ôn hòa lên mấy độ, và trí tuệ, và mộng, và thơ, và nước, và thuyền dâng lên, đồng dâng lên như khói... (...)
(...) “Thôi rồi! Trí ơi! Con trăng nó bị vướng trên cành trúc kia kìa, thấy không? Nó gỡ mãi mà không sao thoát được, biết làm thế nào, hở Trí?” Tôi cười: “Hay là chị em ta cho thuyền đỗ vào bến này, rồi ta trèo lên động cát với tay gỡ hộ cho trăng thoát nạn.” Hai chị em liền giấu thuyền trong một bụi hoa lau bông vàng phơi phới, rồi cùng lạc vào một đường lối rất lạ, chân dẫm lên cát mà cứ ngỡ là bước trên phiến lụa. Nước suối chảy ở hang đá trắng, tinh khiết như mạch nước ngọc tuyền, chồm lên những vừng lá, hễ trông đến là kinh hãi vì ngó giống con bạch hoa xà như tạc...
Sao đêm nay kiều diễm như bức tranh linh động thế này? Tôi muốn hỏi xem chị tôi có thấy ngọt ngào trong cổ họng như vừa uống xong môt ngụm nước lạnh, mát đến tê hết cả lưỡi và hàm răng? Chị tôi làm thinh, mà từng lá trăng rơi lên xiêm áo như những mảnh nhạc vàng (...)
Ánh sáng tràn trề, ánh sáng tràn lan, chị tôi và tôi đều ngả vạt áo ra bọc lấy, như bọc lấy đồ châu báu (...)
(...) “A ha, chị Lễ ơi, chị là trăng mà em đây cũng là trăng nữa!”.”
Lãng mạn chưa bao giờ siêu thực thế
Trăng, trước Hàn Mặc Tử chưa bao giờ lãng mạn cách lạ lùng như trên, mà sau Hàn Mặc Tử, càng về sau e càng kém lãng mạn, bất cứ cách gì. E rồi chỉ còn thứ trăng... ô nhiễm.
Thơ văn siêu thực của Hàn Mặc Tử không chứa thắc mắc siêu hình như thơ Chế Lan Viên, cảm xúc vũ trụ như thơ Huy Cận, cảm xúc thời gian như tác phẩm Võ Phiến. Nó chất đầy khát khao lãng mạn mang dáng màu siêu thực.
“Ðau thương” thăng hoa, đã góp thêm vào “vườn văn đầy hương sắc”(6) một đóa màu... trăng, thơm tho, đằm thắm, vang vang...
Tìm hiểu đặc tính siêu thực trong văn chương Trung bộ, dĩ nhiên cần xem xét thơ Hàn Mặc Tử.(1)
Hoài Thanh bảo Ðiêu tàn của Chế Lan Viên là “một niềm kinh dị”. Ðem so với Ðiêu tàn, những bài Ðau thương, chẳng hạn, kinh dị hơn nhiều lắm. Vẫn có ý kiến cho rằng đấy chẳng qua là sản phẩm của một đầu óc bị chấn động vì bệnh tật. Mặt khác, không ít người đọc thơ lại nhiệt liệt ca ngợi chính những dòng chữ “như dính máu”, gây rùng rợn, hoang mang nọ.
Thơ của Hàn Mặc Tử sau Gái quê (1936) quả lắm khi lạ hơn lạ. Không mong hiểu được rành mạch, riêng rẽ từng câu, từng đoạn, thậm chí từng bài thơ đầy vẻ siêu thực kia đâu. Cố gắng, nhưng chỉ dám mong nắm bắt được phần nào cái bản chất của toàn mảng thơ...
Thơ tôn giáo của Hàn Mặc Tử
Xuân như ý chứa nhiều bài ca ngợi Chúa, Ðức Mẹ. Vũ Ngọc Phan bảo: “Thơ tôn giáo đã ra đời với Hàn Mặc Tử.”
Ô hay, thế bao nhiêu thơ về Phật giáo suốt nghìn năm trước đấy không phải là thơ sao?
Hoài Thanh chú trọng hướng khác: “Hình như trong các thi phẩm xưa nay có tính cách tôn giáo không có gì giống như vậy. Hàn Mặc Tử đã dựng riêng một ngôi đền để thờ Chúa.” Trong đền, nhà phê bình quan sát thấy có “đầy dẫy những kinh cầu nguyện, những hương đức hạnh, hoa phẩm tiết, nhạc thiêng liêng, cùng ánh trăng, ánh thơ. Nhất là ánh thơ.”
Nếu chỉ có thế, sao phải dựng riêng?
Yến Lan bình luận: “Anh là một con chiên ngoan đạo. Tuy nhiên, chất Ðạo (thanh khiết, thiêng liêng) trong thơ Anh đã bị chất Ðời (đau yếu, bệnh tật) lấn áp.”
Ðời khổ, đa số tín đồ vào nhà thờ cầu nguyện. Hàn Mặc Tử lập riêng một nhà thờ, bằng thơ. Trước Chúa, đa số tín đồ khép nép tay chân, thở than kín đáo. Hàn Mặc Tử vung múa dữ dội:
“Và trong tay nắm một nạm hào quang...”,
la hét om sòm:
“Hỡi Sứ thần Thiên chúa Gabriel,
(...)
Người có nghe xôn xao muôn tinh tú?
Người có nghe náo động cả muôn trời?
Người có nghe thơ mầu nhiệm ra đời”,
rồi khăng khăng chất vấn:
“Phượng Trì! Phượng Trì! Phượng Trì! Phượng Trì!
Thơ tôi bay suốt một đời chưa thấu,
Hồn tôi bay đến bao giờ mới đậu
Trên triều thiên ngời chói vạn hào quang?”!
Hoài Thanh viết: “Xuân như ý rõ ràng là tập thơ hay nhất của Hàn Mặc Tử.”
Yến Lan bất đồng: “Suy cho cùng, thơ về Chúa, về Ðức Mẹ (...) của Hàn Mặc Tử (...) khó (...) thâm nhập vào tâm hồn người đọc có tín ngưỡng hay không có tín ngưỡng.”
Dường như Yến Lan có lý.
Người đọc tín đồ đọc thứ thơ “chất Ðạo (...) bị (...) chất Ðời (...) lấn áp”, làm sao thưởng thức nó trọn vẹn được?
Còn người đọc không phải tín đồ đạo Chúa, không tin Chúa, mà đọc thứ thơ ca ngợi Chúa, làm sao “thâm nhập” nó được để thấy nó hay?
Thơ siêu thực của Hàn Mặc Tử
Tôn giáo là siêu thực.
Thơ tôn giáo là thơ siêu thực.
Ngoài thơ siêu thực tôn giáo, Hàn Mặc Tử còn làm những bài cũng có nội dung “siêu” nhưng không hề thiêng liêng.
Thế là thế nào?
Siêu thực là siêu việt thực tại, nghĩa là vượt quá thực tại.
Sau khi vượt quá thực tại, nhân loại có hai lối tư duy.
Kẻ quen tư duy tôn giáo thì suy tưởng ngay theo hướng nhất định: hoặc Phật hoặc Chúa hoặc...
Người quen tư duy phi - tôn giáo thì suy tưởng không theo hẳn hướng nào.
Cùng là nghĩ ngợi về cái không thấy được, nhưng một đằng thuộc về thần học, một đằng thuộc về triết học.
Thơ tôn giáo nhằm phát huy niềm tin.
Thơ siêu thực (tức siêu thực phi - tôn giáo) nhằm bày tỏ thắc mắc, xúc cảm của thi sĩ trước những cái nằm ngoài thực tại.
Hai thứ thơ khác nhau như thế, liệu một người có thể làm được cả hai hay không?
Rõ ràng là có thể, vì ai cũng biết Hàn Mặc Tử vừa làm thơ ca ngợi Chúa vừa làm thơ ca ngợi... Trăng!
Hãy thử tìm hiểu thơ Trăng của Hàn.
Trước khi Hàn Mặc Tử gặp nạn, thơ ông dường như vắng đạo, nhưng đã chứa khá nhiều trăng. Trong Lệ Thanh thi tập đầu đời, có câu nổi tiếng:
“Bóng nguyệt leo song sờ sẫm gối”,
mà nhiều người, như Hoài Thanh, cho là “vẩn đục”. Thi sĩ làm thơ luật Ðường, nên “trăng là nguyệt”(2). Nguyệt quấn quýt hoa, nguyệt sờ hoa chăng nữa, chuyện bình thường và cũ rích như thơ Mít thơ Quạt, chi mà đục, trong.
Sang Gái quê, nguyệt càng lẳng lơ:
“Ô kìa, bóng nguyệt trần truồng tắm,
Lộ cái khuôn vàng dưới đáy khe”
và thường khi chỉ xưng “trăng” thân mật:
“Trăng nằm sóng soải trên cành liễu,
Ðợi gió đông về để lả lơi”. Hình ảnh mới, nhưng nội dung vẫn cũ ít nhất hàng thế kỷ. Từ 1936 về trước, trăng trong thơ Hàn Mặc Tử là trăng thế tục, trăng chung của tất cả mọi người.
Chỉ sau khi “đau thương” khởi sự, trăng mới dần dần trở nên riêng tư, bí ẩn, huyền diệu, thơ trăng mới đạt mức lạ lùng. Không hiểu sao, cũng từ đấy, “trăng thôi là nguyệt”(3).
Yến Lan bảo trăng chủ trì cả hơi thơ lẫn tứ thơ Hàn Mặc Tử. Thi sĩ ngậm trăng, cắn trăng, uống trăng, ọe ra trăng, “dìm hồn xuống một vũng trăng”, “ăn vận toàn trăng”, đuổi theo trăng, né mình tránh trăng rụng, nhảy xuống giếng vớt xác trăng v.v. Cả trời đất bao la bấy giờ dường như chỉ trăng là quan trọng, mà thời gian chỉ còn đáng kể lúc “ban khuya”:
“Tôi đi trong áng sương mờ
Tìm con trăng lạc ngoài bờ bến kia
Xứ yêu bát ngát, tôi lìa
Dò xem ý tứ ban khuya, tôi liều”.
Trong Ðau thương, những dòng bình tĩnh như trên rất hiếm. Trời đất ấy, ánh trăng ấy, tuy vậy không phải hoàn toàn hỗn độn, mơ hồ, mà có ít nhất hai đặc tính rõ rệt, rất lạ.
Thứ nhất, trăng Hàn Mặc Tử có mùi. Mùi trăng khi quanh quẩn tầm gần:
“Thơ em cũng giống lòng em vậy
Là nghĩa thơm tho như ánh trăng”,
khi lan tỏa khắp Mênh Mông:
“Như hương trăng đằm thắm cõi không gian”.
Thứ hai, nó có thể phát tiếng:
“tiếng trăng reo vang vang như tiếng châu báu vỡ lở”,
hoặc có thể vang thành tiếng:
“Ðang khi mầu nhiệm phủ ban đêm
Có thứ gì rơi giữa khoảng im
Rơi tự thượng tầng không khí xuống
Tiếng vang nhè nhẹ dội vào tim”.
Ngay cả sao, rất bé nhỏ so với trăng, tuy không mùi nhưng vẫn có tiếng:
“Trăng sao đắm đuối trong sương nhạt,
(...)
Cả trời say nhuộm một màu trăng,
Và cả lòng tôi chẳng nói rằng.
Không một tiếng gì nghe động chạm,
Dẫu là tiếng vỡ của sao băng...”.
Sao “bơi” trong dòng đen đặc, khi dào dạt xôn xao, khi yên tĩnh:
“Sông Ngân đã im lìm không tiếng sóng”.
Người thường như chúng ta dĩ nhiên không mong ngửi được mùi trăng thơm tho, nghe được tiếng trăng reo, tiếng sao vỡ, tiếng sóng Ngân Hà. Hoài Thanh phàn nàn: “Trời đất này thực của riêng Hàn Mặc Tử, tôi không hiểu được và chắc cũng không bao giờ ai hiểu được.” Trần Thanh Mại cố cắt nghĩa: “Hàn Mặc Tử có một thính giác đặc biệt (...) nghe cả (...) tiếng chạm của hai đường tơ ánh sáng...”
Thính giác bén nhạy, e không đơn giản vậy đâu. Ðất trời, trăng sao của Hàn Mặc Tử không hoàn toàn lộn xộn, vô nghĩa, mà dường như phần nào tương ứng với một quan niệm thơ tân kỳ.
Giữa những cơn đau dữ dội thường xuyên, thi sĩ vẫn còn chút tỉnh táo, đủ để trình bày vội vã cái ý của mình.
Trong thư đề tháng 6/1939, gửi cho M. (không rõ là ai): “Thơ là sự ham muốn vô biên những nguồn khoái lạc trong trắng của một cõi trời cách biệt.”
Trong lời giới thiệu tập Tinh huyết của Bích Khê (1939), Hàn Mặc Tử giải thích rõ ràng hơn: “Sự say mê, tìm kiếm những nguồn hoan lạc vô biên đã dần dần đẩy thi nhân vào bờ bến của Huyền diệu (...) thi nhân chú trọng về âm thanh và màu sắc (...) nhạc lúc bấy giờ cũng không còn là nhạc nữa. Nó đã bay ra hương, ra hoa, ra thơm, ra mát, ra ngọt, ra ngào, ra gì mê tơi, run rẩy, hay âm thầm nức nở, lanh lảnh như giọng trời, mơn man như ân tình đòi hỏi...”.
Thơ, như thế, có khả năng “Bắt cái vô hình trở nên hữu hình, khiến cái chết trở nên sống, cho vật câm không còn là câm nữa”...
Cái gì đằng sau thơ siêu thực Hàn Mặc Tử (4)
Tin Chúa, nên khổ quá thì kêu Chúa. Nhưng sao lại từ ngắm trăng cách bình thường chuyển qua say trăng hơn say gái?
Cái trăng Bình Ðịnh có gì khác lạ? Thị xã Qui Nhơn phải chăng nơi chốn không bình thường?
Trong lời tựa cho tuyển thơ văn cuối cùng của mình (1988), Chế Lan Viên ngỏ lời tri ân “quê nuôi” và tâm sự: “khi tôi lên bảy thì cả gia đình chuyển vào Bình Ðịnh (...) Tôi đã gặp cả một vùng, một trung tâm thơ, trung tâm văn học là Qui Nhơn.” Ở đấy, ông gặp “sự ham đi tìm cái mới, sự không chấp nhận sáo mòn của các thi sĩ (...) Tôi đã chịu ảnh hưởng (...) tốt đẹp”.
“Trung tâm thơ”, thời ấy, có lối sinh hoạt văn nghệ riêng. Hoàng Diệp, một bạn thân của Hàn Mặc Tử, kể: “... ở Qui Nhơn (...) Những đêm trăng sáng, màu trăng hoang dại, huyền hoặc, thường quyến rũ chúng tôi đi ngủ biển. Chế Lan Viên, Yến Lan và tôi... hội họp tại nhà Hàn Mặc Tử, rồi đem ra (drap), mền đi ngủ biển chỉ cách nhà chàng độ 200 thước. Những đêm ấy là những đêm mưa tầm tã, lụt ngập trời. Nhưng mưa ở đây là mưa sao, lụt ở đây là lụt trăng. Chúng tôi bị trăng vây phủ tứ bề, ngăn hết nẻo đường...”.
Bị trăng vây bủa mà bên mình có anh thơ Quách Tấn, em thơ Chế Lan Viên, bạn thơ Yến Lan v.v. thì còn chịu được. Nhưng suốt thời kỳ Hàn Mặc Tử trốn lánh để khỏi bị bắt vào trại Quy Hòa, đâu phải đêm nào anh em bè bạn cũng cùng đi ngủ biển với thi sĩ bất hạnh được. Bao nhiêu đêm trăng lụt sao mưa Hàn Mặc Tử phải đắm đuối một mình trên cát? Một người cùi đơn độc, thui thủi, giữa bao la trăng...
“Tiêu dao đến nỗi bẽ bàng,
Ði trong hiu quạnh gặp toàn bơ vơ”. Ði suốt đêm, gặp toàn... không ai cả, nhưng
“Tiếng gà gáy rụng trăng đầu hạ,
Tôi hoảng hồn lên, giận sửng sờ!”.
Lại Yến Lan: “Tình yêu trắc trở. Anh dựa vào tình bè bạn. Cô đơn, tù túng quá, Anh dựa vào cái mà thiên nhiên đã cho Anh nhiều nhất, dễ dàng tiếp cận nhất, là trăng.” Căn bệnh quái ác ảo hóa, hư vô hóa gần tất cả đời sống, chỉ để lại cho kẻ-vốn-khát-yêu chứa chan một thứ ánh sáng lờn lợt, mơ hồ...
Ðời thi sĩ dù khổ tột độ, tự nó cũng không làm nên thơ hay. Phải có tài, thứ tài thích hợp.
Chế Lan Viên nhận xét: “Tử có rất sớm (...) cái khả năng (...) tâm tưởng tâm hồn hóa (...) thế-tục-hóa, da-thịt-hóa (...) ma-quái-hóa (...) nhờ có một cái cốt (...) một cấu trúc tâm hồn thế nào đó”.
Cái cốt khác thường ấy giúp Hàn Mặc Tử “đi về, qua lại giữa (...) thực và hư... rất thoải mái”.
Rất tiện lợi nữa. Bệnh tật ảo hóa thực tại, thì thi sĩ thực hóa ánh trăng. Bệnh tật cướp đi những khao khát tình cảm bằng xương bằng thịt, thì thi sĩ bắt ánh trăng huyền ảo đền bù:
“Tôi lại gần bên, ồ! lạ thường!
Nường trăng, Ô! chính là Thương Thương!”.
Thương là trăng, trăng là Thương. Mà Thương chẳng qua cũng chỉ giả danh, tình mới đích thị thực danh:
“Tôi say tình cũng như tôi say trăng”.
Hay “tôi say trăng cũng như tôi say tình”, cũng thế. Tình, trăng, trăng, tình, đi, về, qua, lại.
Chế Lan Viên nhận định rất đúng: “Hàn Mặc Tử không phải là nhà thơ siêu thực. Trước sau anh vẫn là lãng mạn (...) dùng nhiều yếu tố siêu thực”.
Lãng mạn siêu thực là Hàn Mặc Tử bồng bột khi bơi trăng tắm sao.
Mặt khác, cũng những khi ấy, thỉnh thoảng lại xuất hiện một Hàn Mặc Tử khác, trầm ngâm:
“Tối hôm nay muôn sao bơi nhấp nhánh.
Sông Mê hà đưa đẩy sóng triền miên...”,
triết lý cổ điển:
“Chao ôi! ghê quá trong tư tưởng,
Một vũng cô liêu cũ vạn đời!”.
Ngay giữa tập thánh thi, giữa những dòng sôi nổi ca tụng Ðức Mẹ, giữa chói lọi hào quang, vẫn lạc vào hoặc chút “cô liêu” cũ kỹ:
“Trời Hàn giang đêm nay không sóng,
Lòng cô liêu đồng vọng làm chi?” hoặc những dòng nước mắt vừa bàng hoàng vừa tỉnh táo:
“Hôm nay trời lửng lơ trời,
Dòng sông ánh sáng sẽ trôi hoa vàng.
Tôi ngồi ở bến Hàn giang,
Khóc thôi mây nước bàng hoàng suốt đêm”.
Khi viết những câu thơ ấy, Hàn nghĩ gì? Có phải, như Chế Lan Viên khóc người anh thơ sáu bảy mươi năm trước: “Tôi tưởng tượng ra cái phút cuối cùng của Tử. Có phải Tử nghĩ đến (...) những cái có thật mà mình không về với nữa, cũng như (...) đến nơi không biết có thật bao giờ, mà mình sắp phải trở về”.(5)
Những câu thơ chừng mực lạc lõng như gợi thủa đầu lành lặn, bình an, lại như nhắc kết thúc bi thảm không còn xa nữa.
Hàn Mặc Tử mất năm 28 tuổi. Một cuộc đời ngắn ngủi quá. Và cũng dài lê thê.
Ðọc những câu như:
“... Một khối tình nức nở giữa âm u,
Một hồn đau rã lần theo hương khói,
Một bài thơ cháy tan trong nắng dọi,
Một lời run hồi hộp giữa không trung
Cả niềm yêu, ý nhớ, cả một vùng
Hòa thành vũng máu đào trong ác lặn”,
ta tưởng tượng sống mà mỗi “ác lặn” lại thấy một “vũng máu đào” như thế thì mỗi ngày, nhất là mỗi đêm, hẳn phải dài bằng bao nhiêu ngày bao nhiêu đêm của những kiếp người may mắn hơn.
Ðời sống vốn quý, nhưng trong những trường hợp nào đó, “cái phút cuối cùng” nó đến sớm có lẽ là hay...
Chơi Giữa Mùa Trăng
Miên man về thơ siêu thực của Hàn Mặc Tử, chợt nhớ Hàn còn có văn siêu thực.
Chơi Giữa Mùa Trăng rất đỗi thơ, óng ánh kỳ ảo như viên ngọc lớn, như chính tâm hồn và tài năng của người nghệ sĩ bất hạnh đã “kết tinh ở bao thanh sắc lạ”:
“Trăng là ánh sáng? Nhất là trăng giữa mùa thu, ánh sáng càng thêm kỳ ảo, thơm thơm, và nếu người thơ lắng nghe một cách ung dung, sẽ nhận thấy có nhiều miếng nhạc say say gió xé rách lả tả... Và rơi đến đâu, chạm vào thứ gì là chỗ ấy, thứ ấy vang lên tuy chẳng một ai thấy rõ sức rung động (...)
Sông? Là một giải lụa bạch, không, là một đường trăng trải chiếu vàng, hai bên bờ là động cát và rừng xanh và hoang vu và thanh tịnh. Chị tôi và tôi đồng cầm một mái chèo con, nhẹ nhàng lùa những dòng vàng trôi trên mặt nước.
Chị tôi cười nả nớt, tiếng cười trong như thủy tinh và thanh khiết lạ thường. Luôn luôn cứ hỏi tôi và đố tôi cho kỳ được: “Này chị đố em nhé, trăng mọc dưới nước hay mọc trên trời, và chúng mình đi thuyền trên trời hay dưới nước?” Tôi ngước mắt ngó lên trời rồi ngó xuống nước và cũng cười đáp lại: “Cả và hai chị ạ.” Sướng quá, chao ôi, hai chị em lại thỉnh thoảng rú lên cười làm náo động luồng tinh khí của hạo nhiên. (...) Thuyền đi êm ái quá, chúng tôi cứ ngờ là đi trong vũng chiêm bao, và say sưa và ngây ngất vì ánh sáng, hai chị em như đê mê, không còn biết là có mình và nhận mình là ai nữa. Huyền ảo khởi sự. Mỗi phút trăng lên mỗi cao, khí hậu cũng tăng sức ôn hòa lên mấy độ, và trí tuệ, và mộng, và thơ, và nước, và thuyền dâng lên, đồng dâng lên như khói... (...)
(...) “Thôi rồi! Trí ơi! Con trăng nó bị vướng trên cành trúc kia kìa, thấy không? Nó gỡ mãi mà không sao thoát được, biết làm thế nào, hở Trí?” Tôi cười: “Hay là chị em ta cho thuyền đỗ vào bến này, rồi ta trèo lên động cát với tay gỡ hộ cho trăng thoát nạn.” Hai chị em liền giấu thuyền trong một bụi hoa lau bông vàng phơi phới, rồi cùng lạc vào một đường lối rất lạ, chân dẫm lên cát mà cứ ngỡ là bước trên phiến lụa. Nước suối chảy ở hang đá trắng, tinh khiết như mạch nước ngọc tuyền, chồm lên những vừng lá, hễ trông đến là kinh hãi vì ngó giống con bạch hoa xà như tạc...
Sao đêm nay kiều diễm như bức tranh linh động thế này? Tôi muốn hỏi xem chị tôi có thấy ngọt ngào trong cổ họng như vừa uống xong môt ngụm nước lạnh, mát đến tê hết cả lưỡi và hàm răng? Chị tôi làm thinh, mà từng lá trăng rơi lên xiêm áo như những mảnh nhạc vàng (...)
Ánh sáng tràn trề, ánh sáng tràn lan, chị tôi và tôi đều ngả vạt áo ra bọc lấy, như bọc lấy đồ châu báu (...)
(...) “A ha, chị Lễ ơi, chị là trăng mà em đây cũng là trăng nữa!”.”
Lãng mạn chưa bao giờ siêu thực thế
Trăng, trước Hàn Mặc Tử chưa bao giờ lãng mạn cách lạ lùng như trên, mà sau Hàn Mặc Tử, càng về sau e càng kém lãng mạn, bất cứ cách gì. E rồi chỉ còn thứ trăng... ô nhiễm.
Thơ văn siêu thực của Hàn Mặc Tử không chứa thắc mắc siêu hình như thơ Chế Lan Viên, cảm xúc vũ trụ như thơ Huy Cận, cảm xúc thời gian như tác phẩm Võ Phiến. Nó chất đầy khát khao lãng mạn mang dáng màu siêu thực.
“Ðau thương” thăng hoa, đã góp thêm vào “vườn văn đầy hương sắc”(6) một đóa màu... trăng, thơm tho, đằm thắm, vang vang...
Tất cả các chỗ trích dẫn trong bài này đều rút từ các sách
sau đây:
Thơ Hàn Mặc Tử, nxb. Ðại Nam tái bản ở Mỹ.
Thơ Hàn Mặc Tử, Sở Văn hóa - Thông tin Nghĩa-Bình, VN, in lần 2, 1988.
Hàn Mặc Tử - Thơ và đời, nxb. Văn Học, VN, 1993.
Chế Lan Viên - Thơ văn chọn lọc, Sở Văn hóa và Thông tin Nghĩa-Bình, Qui Nhơn, 1988.
Hoài Thanh, Thi nhân Việt Nam.
Vũ Ngọc Phan, Nhà văn hiện đại.
Văn xuôi lãng mạn Việt Nam (1930-1945), nxb. Khoa Học Xã Hội, VN, 1990.
Thơ Bích Khê, Sở Văn hóa và Thông tin Nghĩa Bình, VN, 1988.
(1) Xem bài Ðất Nào Văn Nấy, bài Một Miền, Ba Dấu, và các bài về Chế Lan Viên, Huy Cận, Võ Phiến.
(2) Lời trong bài Nguyệt Ca của Trịnh Công Sơn.
(3) Xem trên.
(5) Chế Lan Viên, “Kỷ niệm về Hàn Mặc Tử”, báo Người Mới, số 5, 23-11-1940, in lại trong tuần báo Văn Nghệ, Việt Nam, số 25, 19-6-2004.
(6) Nguyễn Hiến Lê có tác phẩm tên Hương sắc trong vườn văn.
Thơ Hàn Mặc Tử, nxb. Ðại Nam tái bản ở Mỹ.
Thơ Hàn Mặc Tử, Sở Văn hóa - Thông tin Nghĩa-Bình, VN, in lần 2, 1988.
Hàn Mặc Tử - Thơ và đời, nxb. Văn Học, VN, 1993.
Chế Lan Viên - Thơ văn chọn lọc, Sở Văn hóa và Thông tin Nghĩa-Bình, Qui Nhơn, 1988.
Hoài Thanh, Thi nhân Việt Nam.
Vũ Ngọc Phan, Nhà văn hiện đại.
Văn xuôi lãng mạn Việt Nam (1930-1945), nxb. Khoa Học Xã Hội, VN, 1990.
Thơ Bích Khê, Sở Văn hóa và Thông tin Nghĩa Bình, VN, 1988.
(1) Xem bài Ðất Nào Văn Nấy, bài Một Miền, Ba Dấu, và các bài về Chế Lan Viên, Huy Cận, Võ Phiến.
(2) Lời trong bài Nguyệt Ca của Trịnh Công Sơn.
(3) Xem trên.
(5) Chế Lan Viên, “Kỷ niệm về Hàn Mặc Tử”, báo Người Mới, số 5, 23-11-1940, in lại trong tuần báo Văn Nghệ, Việt Nam, số 25, 19-6-2004.
(6) Nguyễn Hiến Lê có tác phẩm tên Hương sắc trong vườn văn.
Thu Tứ
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét