Kiếp sau xin chớ làm người - Nguyễn Công Trứ
Tổng quan con người, tác phẩm
- Từ “Chém cha” đến “Ð... mẹ”
- Một thân, ba bốn nợ
- Trả nợ, mở đường
Tuyển thơ văn, tác phẩm
- Hàn nho phong vị phú
- Nợ phong lưu
- Cầm kỳ thi tửu 2
- Chơi xuân kẻo hết xuân đi
- Duyên gặp gỡ
- Vịnh chữ tình
- Thú thanh nhàn
- Tự thuật 1
- Ðời người thấm thoắt
- Chí khí anh hùng
- Vịnh đồng tiền
- Thích chí ngao du
- Chữ nhàn
- Thoát vòng danh lợi
- Tuổi già cưới vợ hầu
- Kiếp sau xin chớ...
TỔNG QUAN CON NGƯỜI, TÁC PHẨM
Từ “Chém cha” đến “Ð... mẹ”
Cuộc đời Nguyễn Công Trứ lúc đầu “khó” đến nỗi ông phải ra tay “chém cha cái khó”. Ông chém bằng chữ nghĩa, thành một bài phú độc đáo. Phú dài nên chỉ một, còn thơ ngắn nên trong thời bạch diện thư sinh Nguyễn Công Trứ “hàn nho phong vị thi” đều đều...
“Bạn” lâu năm với khó, tất nhiên thấm lẽ đời. Ðã vậy, sau khi thi đậu ra làm việc nước, Nguyễn Công Trứ lại “lên quan xuống lính” liên miên, có lần xuống tận... lính thú. Những lúc ông thất thế, lẽ đời thừa dịp thấm sâu thêm, khiến ông rốt cục trở thành một người hiểu đời kỹ ít ai bằng. Dạ chất chứa, ông không nén mà cho thoát ra thành cả một chùm “nhân tình thế thái thi”. Khác với lời than nghèo khi xưa dù sao còn “thanh”, Nguyễn Công Trứ trong hoạn hải ba đào có lúc không ngại văng hẳn “tục”:
“Ð... mẹ nhân tình đã biết rồi
Lạt như nước ốc bạc như vôi”!
(Thế kỷ 19 mà đã như thế kỷ 21 nhỉ. Không biết phải ngược về bao xa thì mới gặp được thứ nhân tình ít “lạt, bạc” hơn?)
Một thân, ba bốn nợ
“Ðã biết rồi” như ông, chắc đa số trở nên bi quan, yếm thế. Nhưng Nguyễn Công Trứ thì không. Ðời thế nào ông chém văng cho xứng, xong tiếp tục vui vẻ sống với đời.
Ðược thế, ấy bởi ông quan niệm là mình mắc “nợ”. Không phải một nợ, mà ít nhất hai, có lẽ ba, thậm chí bốn!
Trước tiên, ai cũng biết, là cái nợ công danh hay nợ tang bồng hay nợ nam nhi hay nợ bút nghiên hay nợ cầm thư. Ðại khái, đã trót sinh ra làm đàn ông con trai thông minh tài giỏi hơn người thì “phải có danh gì với núi sông”, tức làm nên sự nghiệp đáng kể.
Thứ hai, là “nợ phong lưu”. Nợ này không phải ai muốn mắc thì mắc, mà chỉ những bậc “tài tình” (như ông) mới “vướng”. Nợ phong lưu ngược hẳn với nợ công danh, vì một đằng là nợ làm, một đằng là nợ... chơi. Nợ phong lưu cũng chính là nợ nhàn và gồm cơ bản bốn món: “Cầm kỳ thi tửu, đường ăn chơi mỗi vẻ mỗi hay”.
Thứ ba, là nợ văn chương. Tuy “thi” nằm trong nợ phong lưu, nhưng thiết tưởng trường hợp Nguyễn Công Trứ nó có vị trí đặc biệt, đáng được ra đứng riêng. Vì cầm, kỳ, tửu không nghe nói ông xuất chúng, trong khi ông làm thơ thì khỏi nói.
Sau cùng, là nợ... giăng hoa, nợ “chữ tình”. A, đây cũng là thứ nợ hay chọn mặt. Nó ưa “trói buộc kẻ hào hoa”, người “tài tử”, “trai anh hùng”, chứ không phải bạ ai nó cũng sinh sự. Gặp Nguyễn Công Trứ, nó ra tay lia lịa khiến ông phải thích chí tự ca rằng “anh hùng hà xứ bất giang sơn”!
Nợ tùm lum, đầy đầu đầy cổ, “như chúa Chổm”, nhưng Nguyễn Công Trứ lại không chịu trả lối lần lượt, hết nợ này xong đến nợ khác. Ðể cho chắc ăn (!), ông trả tất cả cùng một lúc! Tưởng tượng một người vừa xôi kinh nấu sử, vừa thơ phú văn chương, vừa đi hát cô đầu, vừa rượu tì tì, vừa cờ liên miên, vừa làm gì đó “ngoài đồng” khiến “thuyền quyên ứ hự”! Người đó rốt cuộc rồi cũng thi đậu, ra làm quan, để vừa cai trị dân hay đánh giặc hay khẩn hoang, vừa tiếp tục cầm kỳ thi tửu... sắc, đến năm 73 tuổi còn cưới hầu non!
Trả nợ, mở đường
Nguyễn Công Trứ sống lâu, đến 80 tuổi, và sống khỏe lâu, đến ít nhất 73, nên nợ nào ông cũng trang trải sòng phẳng. Về nợ văn chương, ông trả bằng 1 bài phú, 52 bài thơ Ðường luật, 63 bài hát nói, 21 đôi câu đối và 2 bản tuồng.
Thơ Ðường luật và thơ hát nói nhiều xấp xỉ. Thế là Nguyễn Công Trứ hát nói nhiều lắm, nhiều hơn hẳn cả người trước lẫn người sau ông. Thực ra, nhắc người trước cho phải phép chứ hát nói như một thể thơ đa dụng thì Nguyễn Công Trứ chính là ông tổ, có ai trước ông đâu mà so với sánh? Ông mở ra cả một con đường văn chương rực rỡ dài hơn một thế kỷ, đến khi nó tuyệt lộ người ta trông lại thấy ông vẫn “to” nhất. Và “cao” vào bậc nhất.
Nguyễn Công Trứ làm thơ Ðường luật cũng hay lắm. Lúc nào ông “luật” lúc nào ông “hát”? Nói chung, than nghèo vịnh đời thì luật, còn nhắc nợ nọ nợ kia thì hát. “Trầm” luật, “bổng” hát. Cùng một con người, khi trầm khi bổng, trầm nên thơ hay, bổng càng nên thơ hay...
Sau đây ta hãy thưởng thức lại một số tác phẩm.
TUYỂN THƠ VĂN
Hàn nho phong vị phú
Nho nghèo không hiếm chút nào. Nho nghèo có tài văn chương thơ phú cũng không thực hiếm: ngoài Nguyễn Công Trứ, còn có Tú Xương, Tản Ðà v.v.
Trong số “hàn nho” giỏi văn thơ, chắc chắn NCT hay kể lể, than thở nhất: nào “Phận anh nghèo”, “Vịnh cảnh nghèo”, “Than cảnh nghèo”, “Tết nhà nghèo”, “Vui cảnh nghèo” v.v. Sợ thơ vắn tắt, không nói hết được “phong vị” của “cái khó”, ông còn làm hẳn một bài phú để tả cho... kỹ. Bài “phú nghèo”, mà chữ nghĩa mới giàu sao!
Khác Tú Xương và Tản Ðà nghèo đến chết, NCT rồi có lúc “ngất ngưởng”.
Từng khó ơi là khó như ông, cái lúc “dễ” nó thấm thía nói sao cho xiết.
Chém cha cái khó, chém cha cái khó,
Khôn khéo mấy ai, xấu xa một nó.
Lục cực bày hàng sáu, rành rành kinh huấn chẳng sai,
Vạn tội lấy làm đầu, ấy ấy ngạn ngôn hẳn có.
Kìa ai: bốn vách tường mo, ba gian nhà cỏ,
Đầu kèo mọt tạc vẽ sao, trước cửa nhện giăng màn gió.
Phên trúc ngăn nửa bếp nửa buồng,
Ống nứa đựng đầu kê đầu đỗ.
Đầu giường tre, mối dũi quanh co,
Góc tường đất, trùn lên lố nhố.
Bóng nắng giọi trứng gà bên vách, thằng bé tri trô,
Hạt mưa xoi hang chuột trong nhà, con mèo ngấp ngó .
Trong cũi, lợn nằm gặm máng, đói chẳng buồn kêu,
Đầu giàn, chuột lóc khua niêu, buồn thôi lại bỏ.
Ngày ba bữa, vỗ bụng rau bịch bịch, người quân tử ăn chẳng cầu no,
Đêm năm canh, an giấc ngáy kho kho, đời thái bình cửa thường bỏ ngỏ.
Ấm trà góp, lá bàng lá gối, pha mùi chát chát chua chua,
Miếng trầu têm, vỏ mận vỏ dà, buồn miệng nhai nhai nhổ nhổ.
Áo vải thô nặng trịch, lạnh làm mền, nực làm gối, bốn mùa thay đổi bấy nhiêu,
Khăn lau giắt đỏ lòm, giải làm chiếu, vận làm quần, một bộ ăn chơi quá thú.
Đỡ mồ hôi: võng lác, quạt mo,
Chống hơi đất: dép da, guốc gỗ.
Miếng ăn sẵn, cà non mướp luộc, ngon khéo là ngon,
Đồ chơi nhiều quạt, sậy điếu tre, của đâu những của.
Đồ chuyên trà, ấm đất sứt vòi,
Cuộc uống rượu, be sành chắp cổ.
Đồ cổ khí, bức tranh treo trên vách, khói bay lem luốc, mầu thủy mạc mờ mờ,
Của tiểu đồng, pho sách gác đầu giàn, gián nhấm lăm nhăm, dấu thổ châu đo đỏ.
Cỗ bài lá ba đời cửa tướng, hàng văn hàng sách lờ mờ,
Bàn cờ săng, bảy kiếp nhà ma, chữ nhật chữ điền xiêu xó.
Lộc nhĩ điền, lúa chất đầy rương,
Phương tịch cốc, khoai vừa một rỏ.
Tiêu dụng lấy chi mà phao phóng, thường giữ ba cọc ba đồng,
Mùa màng dành để có bao nhiêu, chừng độ một triêng một bó,
Mỏng lưng, xem cũng không giầu,
Nhiều miệng, lấy chi cho đủ.
Đến bữa, chưa sẵn bữa, con trẻ khóc dường ong,
Qua kỳ, lại hẹn kỳ, nhà nợ kêu như ó. Thuốc men rắp bòn chài gỡ bữa, song nghĩ câu “ý dã”, thế nào cho đáng giá lương y,
Thầy bà mong dối trá kiếm ăn, lại nghĩ chữ “dũng như”, phép chi được nối danh pháp chủ.
Quẻ dã hạc, toan nhờ lộc thánh, trút muối bỏ bể, ta chẳng bõ bèn,
Huyệt chân long, toan bán đất trời, ngôi mả táng cha, tìm còn chửa chộ.
Buôn bán, rắp theo nghề đỏ, song lạ mặt, chúng hòng rước gánh, mập mờ nên hàng chẳng có lời,
Bạc cờ, toan gỡ cơn đen, chưa sẵn lưng, làng lại giành nơi, hỏi gạn mãi dạm không ra thổ.
Gấp khúc lươn, nên ít kẻ yêu vì,
Gương mắt ếch, biết vào đâu mượn mõ.
Đến lúc niên chung nguyệt quý, lấy chi tiêu đồng nợ đồng công?
Gặp khi chân sẩy đường cùng, nên phải tới cửa này cửa nọ.
Thân thỉ to to nhỏ nhỏ, ta đã mỏi cẳng ngồi trì,
Dần dà nọ nọ kia kia, nó những vuốt râu làm bộ.
Thầy tớ sợ men tìm đến cửa, ngảnh mặt cúi đầu,
Chị em e vất lấm vào lưng, chìa môi nhọn mỏ.
Láng giềng ít kẻ tới nhà,
Thân thích chẳng ai nhìn họ.
Mất việc, toan dở nghề “cơ tắc”, tủi con nhà mà hổ mặt anh em,
Túng đường, mong quyết chí “cùng tư”, e phép nước chưa nên gan sừng sỏ.
Cùng con cháu, thuở nói năng chuyện cũ, dường ngâm câu “lạc đạo vong bần”,
Gặp anh em, khi bàn bạc sự đời, lại đọc chữ “vi nhân bất phú”.
Tất do thiên, âu phận ấy là thường,
Hữu kỳ đức, ắt trời kia chẳng phụ.
Tiếc tài cả, phải phận ngưu bản trúc, dấu xưa ông Phó ông Hề,
Cần nghiệp nho, khi tạc bích tụ huỳnh, thuở trước chàng Khuông chàng Võ.
Nơi thành hạ, gieo cần câu cá, kìa kìa người quốc sĩ Hoài Âm,
Chốn lý trung, xách thớt chia phần, nọ nọ đấng mưu thần Dương Võ.
Khó ai bằng Mãi Thần, Mông Chính, cũng có khi ngựa cưỡi dù che,
Giàu ai bằng Vương Khải, Thạch Sùng, cũng có hội tường xiêu ngói đổ.
Mới biết: khó bởi tại trời, giàu là có số.
Dầu ai ruộng sâu trâu nái, đụn lúa kho tiền, cũng bất quá thủ tài chi lỗ.(T1)
Nợ phong lưu
“Chơi là lãi”. Nhưng chơi thì tốn. Tốn mà không sẵn, thì phải vay. Tức vay để lấy lãi!
Vay trả “nợ phong lưu” không nhất thiết là vay tiền bạc của ai. Nguyễn Công Trứ hẳn chủ yếu vay vào cái vốn thời gian của chính ông. Nghĩa là ông vừa làm vừa chơi chứ không “ky ky cóp cóp” làm.
Cớ sao NCT bị lãi “ám”? Chắc do ông sớm thấm cái nghịch ngợm oái ăm của “tay chú thợ trời”. Biết chú ấy hay dở trò, hễ có được tí “mặt” là ông chơi, sợ nhỡ “ra hề” không kịp chơi...
“Suy mới biết ở đời ai cũng hớ”, mà đâu phải ai cũng!
Suy mới biết ở đời ai cũng hớ,
Vì tài tình nên vướng nợ phong lưu.
Kho trời chung tiêu phí thấm vào đâu,
Chơi là lãi dẫu chưa giầu nhưng chẳng kiết.
Giả giả vay vay lâu cũng hết,
Ky ky cóp cóp chắc hơn ai.
Chỉ chịu thua tay chú thợ trời, Khéo tỉ mỉ nặn ra người làm múa rối.
Nào nhục nào vinh nào hiển hối,
Mặt ra hề thay đổi mấy mươi phen.
Chẳng gì hơn rượu thánh thơ tiên,
Trời đất ghét ghen chi với hắn.
Thế sự phù vân hà túc vấn,
Thiên kim táng tận hoàn phục lai.
Hay chơi trời cũng chiều người. (T2)
Cầm kỳ thi tửu 2
“Thơ hát nói”, cái tên mới ngộ. Vừa thơ, vừa hát, vừa nói!
Tên ngộ mà hay. Hay vì quả nhiên khi đọc bài thơ hát nói ta có cảm tưởng mình đang nói, “nói lối”! (1)
Nói lối thì “rắn rỏi mạnh mẽ”, như:
“Thú xuất trần tiên vẫn là ta
Sánh Hoàng Thạch, Xích Tùng, ờ cũng đáng!”
Rắn, mạnh, là một Nguyễn Công Trứ. Lịch lãm, đài các là một Nguyễn Công Trứ nữa.
“Tài tình dễ mấy xưa nay!”!
Cầm kỳ thi tửu,
Ðường ăn chơi mỗi vẻ mỗi hay.
Ðàn năm cung réo rắt tính tình đây,
Cờ đôi nước rập rình xe ngựa đó.
Thơ một túi phẩm đề câu nguyệt lộ,
Rượu ba chung tiêu sái cuộc yên hà.
Thú xuất trần tiên vẫn là ta,
Sánh Hoàng Thạch, Xích Tùng, ờ cũng đáng!
Thơ rằng: Cầm tứ tiêu nhiên, kỳ tứ sảng,
Thi hoài lạc hỹ, tửu hoài nồng.
Một chữ nhàn giá lại đáng muôn chung,
Người ở thế dẫu trăm năm là mấy!
Sách có chữ “Nhân sinh thích chí”,
Ðem ngàn vàng chác lấy cuộc chơi.
Chơi cho lịch mới là chơi,
Chơi cho đài các cho người biết tay.
Tài tình dễ mấy xưa nay!(T3)
Chơi xuân kẻo hết xuân đi
Ai biết tuổi ca dao. Nhưng chắc cái câu:
“Chơi xuân kẻo hết xuân đi
Cái già xồng xộc nó thì tới nơi”
đã ra đời trước khi Nguyễn Công Trứ hát nói như sau đây. Chắc cụ Nguyễn “chịu” nó quá nên dùng luôn một nửa làm tên bài thơ của mình...
“Lãi” mỗi người lấy một cách. Những cách “lắm công phu” của Uy Viễn tướng công, có phải cứ ai muốn bắt chước là bắt chước được đâu.
Gẫm cho kỹ đến bất nhân là tạo vật,
Ðã sinh người lại hạn lấy năm.
Kể chi thằng lên bảy đứa lên năm,
Dẫu ba vạn sáu nghìn ngày là mấy chốc!
Lại mang lấy lợi danh vinh nhục,
Cuộc đời kia lắm lúc bi hoan.
E đến khi hoa rữa trăng tàn,
Xuân một khắc dễ nghìn vàng đổi chác!
Tế suy vật lý tu hành lạc,
An dụng phù danh bạn thử thân.
Song bất nhân mà lại chí nhân,
Hạn lấy tuổi để mà chơi lấy.
Cuộc hành lạc bao nhiêu là lãi đấy,
Nếu không chơi thiệt ấy ai bù!
Nghề chơi cũng lắm công phu. (T4) Duyên gặp gỡ
Ông nói vậy, chứ cứ lấy ngay ông mà xét thì “tướng giỏi” gặp “vua sáng” có phải chuyện dễ đâu. Mà gặp chăng nữa, vua cũng hay nghi nghi ngờ ngờ khiến tướng phải lên voi xuống chó vô cùng mệt mỏi.
Còn tài tử với giai nhân, chuyện “tế ngộ” cũng khó lắm vì giai nhân thường có lối đòi đến “thiên kim” khiến tài tử thiếu “tài” đành ôm hận.
Gặp “liễu hoa”, sợ đợi “duyên chỉ thắm (...) dần dần đưa lại” thì lâu, “chúa xuân” nhân dịp “giữa đồng” bèn tự ý “xe” cho thật “gần”:
“Giang sơn một gánh giữa đồng
Thuyền quyên ứ hự, anh hùng nhớ chăng”!
“Anh hùng hà xứ bất giang sơn”, xứ nào đây, nào đây... Nhớ rồi, nhớ chứ, một trong bao nhiêu cái “duyên gặp gỡ” của tôi ơi!
Minh quân lương tướng tao phùng dị,
Tài tử giai nhân tế ngộ nan.
Trai anh hùng gặp gái thuyền quyên,
Trong nhất kiến tiền duyên như đã.
Tỳ bà hữu hạnh phùng Tư mã,
Quân tử đa tình cánh khả lân.
Nọ mấy người tài tử giai nhân,
Duyên chỉ thắm bỗng dần dần đưa lại.
Dầu nghìn dặm băng sơn quế hải,
Ðã tình duyên xe lại cũng nên gần.
Liễu hoa vừa gặp chúa xuân,
Châu Trần còn có Châu Trần nào hơn.
Anh hùng hà xứ bất giang sơn!(T5)
Vịnh chữ tình
Nhà nho tối ngày tụng “nam nữ thụ thụ bất thân” mà cũng “chi chi với tình” sao?
Ấy, nho Tàu chính cống còn tình túi bụi dưới “Mái tây”, nữa là nho ta! Văn hóa truyền thống của ta vốn thoải mái về quan hệ nam nữ hơn Nho giáo nhiều.(2)
Nhà nho Việt sống ở làng Việt, lúc nào xôi kinh để đi thi thì xôi, còn hễ hết xôi, buông kinh bước ra ngoài thì tha hồ mắc vào lưới tình của cô hàng xóm, cô cấy lúa, cô tát nước, cô hàng nước, cô bán chiếu, cô dệt vải v.v.
Dĩ nhiên nhà nho chưa làm quan thì có dễ quan hệ lăng nhăng hơn nhà nho đã làm quan. Hơn bốn mươi tuổi Nguyễn Công Trứ mới xuất chính, hẳn nhờ thế mà cuộc đời tình ái của ông vô số kỷ niệm...
Cái tình là cái chi chi
Dầu chi chi cũng chi chi với tình
Ða tình là dở
Ðã mắc vào đố gỡ cho ra
Khéo quấy người một cái tinh ma
Trói buộc kẻ hào hoa biết mấy!
Ðã gọi người nằm thiên cổ dậy
Lại đưa hồn lúc ngũ canh đi
Nực cười thay lúc phân kỳ
Trong chẳng nói biết bao nhiêu biệt lệ
Tình huống ấy dẫu bút thần khôn vẽ
Càng tài tình càng ngốc càng si
Cái tình là cái chi chi.
Thú thanh nhàn
“... thùng thùng đôi tiếng trống”...
Ơ, cái trống chầu bé tí teo chứ có phải trống cái trống trận đâu mà kêu to thế?!(3)
Ờ, có lẽ tiếng trống bé nó hóa to nhờ “cơn đắc ý” đang nổi như bão trong lòng người.
“Nhân sinh quý thích chí”(4). Nay cứ hãy “thùng thùng” lấy lãi (5), còn “một mai” có “bẻ quế thiềm cung”, “đánh (được) miếng đỉnh chung” nào chăng, hậu tính!
Nhàn trung thụy giác tam can nhật
Vắt chân ngồi bạn với khách cầm ca
Cuộc tỉnh say bầu rượu chén trà
Cơn đắc ý thùng thùng đôi tiếng trống
Bạch tuyết thanh cao, oanh yến lộng
Quân thiều hưởng triệt, cổ chung minh
Này tiếng đàn tinh tính tính tình tinh
Thú vui thú ném ngang vành tráng sĩ
Cõi nhân sinh thích chí
Lúc thái bình hà nhật bất xuân phong
Của trần hoàn không có có không
Kho vô tận không không rồi lại có
Chữ tài ấy ăn chơi, ở đủ!
Xôi kinh rồi đánh miếng đỉnh chung
Một mai bẻ quế thiềm cung
Trăng đưa đàn nguyệt, sấm rầm trống lôi
Trăm năm đài các lạ đời!(T7)
Tự thuật 1
Nguyễn Công Trứ có lúc “thế này” nhưng rồi có lúc “thế khác”, nhất về cuối đời ở hẳn trong cái thế khác. Ông may hơn chán vạn quân tử, anh hùng.
Chưa chán ru mà quấy mãi đây
Nợ nần dan díu mấy lâu nay
Mang danh tài sắc cho nên nợ
Quen thói phong lưu hóa phải vay
Quân tử lúc cùng thêm thẹn mặt
Anh hùng khi gấp cũng khoanh tay
Còn trời còn đất còn non nước
Có lẽ ta đâu mãi thế này?
- Từ “Chém cha” đến “Ð... mẹ”
- Một thân, ba bốn nợ
- Trả nợ, mở đường
Tuyển thơ văn, tác phẩm
- Hàn nho phong vị phú
- Nợ phong lưu
- Cầm kỳ thi tửu 2
- Chơi xuân kẻo hết xuân đi
- Duyên gặp gỡ
- Vịnh chữ tình
- Thú thanh nhàn
- Tự thuật 1
- Ðời người thấm thoắt
- Chí khí anh hùng
- Vịnh đồng tiền
- Thích chí ngao du
- Chữ nhàn
- Thoát vòng danh lợi
- Tuổi già cưới vợ hầu
- Kiếp sau xin chớ...
TỔNG QUAN CON NGƯỜI, TÁC PHẨM
Từ “Chém cha” đến “Ð... mẹ”
Cuộc đời Nguyễn Công Trứ lúc đầu “khó” đến nỗi ông phải ra tay “chém cha cái khó”. Ông chém bằng chữ nghĩa, thành một bài phú độc đáo. Phú dài nên chỉ một, còn thơ ngắn nên trong thời bạch diện thư sinh Nguyễn Công Trứ “hàn nho phong vị thi” đều đều...
“Bạn” lâu năm với khó, tất nhiên thấm lẽ đời. Ðã vậy, sau khi thi đậu ra làm việc nước, Nguyễn Công Trứ lại “lên quan xuống lính” liên miên, có lần xuống tận... lính thú. Những lúc ông thất thế, lẽ đời thừa dịp thấm sâu thêm, khiến ông rốt cục trở thành một người hiểu đời kỹ ít ai bằng. Dạ chất chứa, ông không nén mà cho thoát ra thành cả một chùm “nhân tình thế thái thi”. Khác với lời than nghèo khi xưa dù sao còn “thanh”, Nguyễn Công Trứ trong hoạn hải ba đào có lúc không ngại văng hẳn “tục”:
“Ð... mẹ nhân tình đã biết rồi
Lạt như nước ốc bạc như vôi”!
(Thế kỷ 19 mà đã như thế kỷ 21 nhỉ. Không biết phải ngược về bao xa thì mới gặp được thứ nhân tình ít “lạt, bạc” hơn?)
Một thân, ba bốn nợ
“Ðã biết rồi” như ông, chắc đa số trở nên bi quan, yếm thế. Nhưng Nguyễn Công Trứ thì không. Ðời thế nào ông chém văng cho xứng, xong tiếp tục vui vẻ sống với đời.
Ðược thế, ấy bởi ông quan niệm là mình mắc “nợ”. Không phải một nợ, mà ít nhất hai, có lẽ ba, thậm chí bốn!
Trước tiên, ai cũng biết, là cái nợ công danh hay nợ tang bồng hay nợ nam nhi hay nợ bút nghiên hay nợ cầm thư. Ðại khái, đã trót sinh ra làm đàn ông con trai thông minh tài giỏi hơn người thì “phải có danh gì với núi sông”, tức làm nên sự nghiệp đáng kể.
Thứ hai, là “nợ phong lưu”. Nợ này không phải ai muốn mắc thì mắc, mà chỉ những bậc “tài tình” (như ông) mới “vướng”. Nợ phong lưu ngược hẳn với nợ công danh, vì một đằng là nợ làm, một đằng là nợ... chơi. Nợ phong lưu cũng chính là nợ nhàn và gồm cơ bản bốn món: “Cầm kỳ thi tửu, đường ăn chơi mỗi vẻ mỗi hay”.
Thứ ba, là nợ văn chương. Tuy “thi” nằm trong nợ phong lưu, nhưng thiết tưởng trường hợp Nguyễn Công Trứ nó có vị trí đặc biệt, đáng được ra đứng riêng. Vì cầm, kỳ, tửu không nghe nói ông xuất chúng, trong khi ông làm thơ thì khỏi nói.
Sau cùng, là nợ... giăng hoa, nợ “chữ tình”. A, đây cũng là thứ nợ hay chọn mặt. Nó ưa “trói buộc kẻ hào hoa”, người “tài tử”, “trai anh hùng”, chứ không phải bạ ai nó cũng sinh sự. Gặp Nguyễn Công Trứ, nó ra tay lia lịa khiến ông phải thích chí tự ca rằng “anh hùng hà xứ bất giang sơn”!
Nợ tùm lum, đầy đầu đầy cổ, “như chúa Chổm”, nhưng Nguyễn Công Trứ lại không chịu trả lối lần lượt, hết nợ này xong đến nợ khác. Ðể cho chắc ăn (!), ông trả tất cả cùng một lúc! Tưởng tượng một người vừa xôi kinh nấu sử, vừa thơ phú văn chương, vừa đi hát cô đầu, vừa rượu tì tì, vừa cờ liên miên, vừa làm gì đó “ngoài đồng” khiến “thuyền quyên ứ hự”! Người đó rốt cuộc rồi cũng thi đậu, ra làm quan, để vừa cai trị dân hay đánh giặc hay khẩn hoang, vừa tiếp tục cầm kỳ thi tửu... sắc, đến năm 73 tuổi còn cưới hầu non!
Trả nợ, mở đường
Nguyễn Công Trứ sống lâu, đến 80 tuổi, và sống khỏe lâu, đến ít nhất 73, nên nợ nào ông cũng trang trải sòng phẳng. Về nợ văn chương, ông trả bằng 1 bài phú, 52 bài thơ Ðường luật, 63 bài hát nói, 21 đôi câu đối và 2 bản tuồng.
Thơ Ðường luật và thơ hát nói nhiều xấp xỉ. Thế là Nguyễn Công Trứ hát nói nhiều lắm, nhiều hơn hẳn cả người trước lẫn người sau ông. Thực ra, nhắc người trước cho phải phép chứ hát nói như một thể thơ đa dụng thì Nguyễn Công Trứ chính là ông tổ, có ai trước ông đâu mà so với sánh? Ông mở ra cả một con đường văn chương rực rỡ dài hơn một thế kỷ, đến khi nó tuyệt lộ người ta trông lại thấy ông vẫn “to” nhất. Và “cao” vào bậc nhất.
Nguyễn Công Trứ làm thơ Ðường luật cũng hay lắm. Lúc nào ông “luật” lúc nào ông “hát”? Nói chung, than nghèo vịnh đời thì luật, còn nhắc nợ nọ nợ kia thì hát. “Trầm” luật, “bổng” hát. Cùng một con người, khi trầm khi bổng, trầm nên thơ hay, bổng càng nên thơ hay...
Sau đây ta hãy thưởng thức lại một số tác phẩm.
TUYỂN THƠ VĂN
Hàn nho phong vị phú
Nho nghèo không hiếm chút nào. Nho nghèo có tài văn chương thơ phú cũng không thực hiếm: ngoài Nguyễn Công Trứ, còn có Tú Xương, Tản Ðà v.v.
Trong số “hàn nho” giỏi văn thơ, chắc chắn NCT hay kể lể, than thở nhất: nào “Phận anh nghèo”, “Vịnh cảnh nghèo”, “Than cảnh nghèo”, “Tết nhà nghèo”, “Vui cảnh nghèo” v.v. Sợ thơ vắn tắt, không nói hết được “phong vị” của “cái khó”, ông còn làm hẳn một bài phú để tả cho... kỹ. Bài “phú nghèo”, mà chữ nghĩa mới giàu sao!
Khác Tú Xương và Tản Ðà nghèo đến chết, NCT rồi có lúc “ngất ngưởng”.
Từng khó ơi là khó như ông, cái lúc “dễ” nó thấm thía nói sao cho xiết.
Chém cha cái khó, chém cha cái khó,
Khôn khéo mấy ai, xấu xa một nó.
Lục cực bày hàng sáu, rành rành kinh huấn chẳng sai,
Vạn tội lấy làm đầu, ấy ấy ngạn ngôn hẳn có.
Kìa ai: bốn vách tường mo, ba gian nhà cỏ,
Đầu kèo mọt tạc vẽ sao, trước cửa nhện giăng màn gió.
Phên trúc ngăn nửa bếp nửa buồng,
Ống nứa đựng đầu kê đầu đỗ.
Đầu giường tre, mối dũi quanh co,
Góc tường đất, trùn lên lố nhố.
Bóng nắng giọi trứng gà bên vách, thằng bé tri trô,
Hạt mưa xoi hang chuột trong nhà, con mèo ngấp ngó .
Trong cũi, lợn nằm gặm máng, đói chẳng buồn kêu,
Đầu giàn, chuột lóc khua niêu, buồn thôi lại bỏ.
Ngày ba bữa, vỗ bụng rau bịch bịch, người quân tử ăn chẳng cầu no,
Đêm năm canh, an giấc ngáy kho kho, đời thái bình cửa thường bỏ ngỏ.
Ấm trà góp, lá bàng lá gối, pha mùi chát chát chua chua,
Miếng trầu têm, vỏ mận vỏ dà, buồn miệng nhai nhai nhổ nhổ.
Áo vải thô nặng trịch, lạnh làm mền, nực làm gối, bốn mùa thay đổi bấy nhiêu,
Khăn lau giắt đỏ lòm, giải làm chiếu, vận làm quần, một bộ ăn chơi quá thú.
Đỡ mồ hôi: võng lác, quạt mo,
Chống hơi đất: dép da, guốc gỗ.
Miếng ăn sẵn, cà non mướp luộc, ngon khéo là ngon,
Đồ chơi nhiều quạt, sậy điếu tre, của đâu những của.
Đồ chuyên trà, ấm đất sứt vòi,
Cuộc uống rượu, be sành chắp cổ.
Đồ cổ khí, bức tranh treo trên vách, khói bay lem luốc, mầu thủy mạc mờ mờ,
Của tiểu đồng, pho sách gác đầu giàn, gián nhấm lăm nhăm, dấu thổ châu đo đỏ.
Cỗ bài lá ba đời cửa tướng, hàng văn hàng sách lờ mờ,
Bàn cờ săng, bảy kiếp nhà ma, chữ nhật chữ điền xiêu xó.
Lộc nhĩ điền, lúa chất đầy rương,
Phương tịch cốc, khoai vừa một rỏ.
Tiêu dụng lấy chi mà phao phóng, thường giữ ba cọc ba đồng,
Mùa màng dành để có bao nhiêu, chừng độ một triêng một bó,
Mỏng lưng, xem cũng không giầu,
Nhiều miệng, lấy chi cho đủ.
Đến bữa, chưa sẵn bữa, con trẻ khóc dường ong,
Qua kỳ, lại hẹn kỳ, nhà nợ kêu như ó. Thuốc men rắp bòn chài gỡ bữa, song nghĩ câu “ý dã”, thế nào cho đáng giá lương y,
Thầy bà mong dối trá kiếm ăn, lại nghĩ chữ “dũng như”, phép chi được nối danh pháp chủ.
Quẻ dã hạc, toan nhờ lộc thánh, trút muối bỏ bể, ta chẳng bõ bèn,
Huyệt chân long, toan bán đất trời, ngôi mả táng cha, tìm còn chửa chộ.
Buôn bán, rắp theo nghề đỏ, song lạ mặt, chúng hòng rước gánh, mập mờ nên hàng chẳng có lời,
Bạc cờ, toan gỡ cơn đen, chưa sẵn lưng, làng lại giành nơi, hỏi gạn mãi dạm không ra thổ.
Gấp khúc lươn, nên ít kẻ yêu vì,
Gương mắt ếch, biết vào đâu mượn mõ.
Đến lúc niên chung nguyệt quý, lấy chi tiêu đồng nợ đồng công?
Gặp khi chân sẩy đường cùng, nên phải tới cửa này cửa nọ.
Thân thỉ to to nhỏ nhỏ, ta đã mỏi cẳng ngồi trì,
Dần dà nọ nọ kia kia, nó những vuốt râu làm bộ.
Thầy tớ sợ men tìm đến cửa, ngảnh mặt cúi đầu,
Chị em e vất lấm vào lưng, chìa môi nhọn mỏ.
Láng giềng ít kẻ tới nhà,
Thân thích chẳng ai nhìn họ.
Mất việc, toan dở nghề “cơ tắc”, tủi con nhà mà hổ mặt anh em,
Túng đường, mong quyết chí “cùng tư”, e phép nước chưa nên gan sừng sỏ.
Cùng con cháu, thuở nói năng chuyện cũ, dường ngâm câu “lạc đạo vong bần”,
Gặp anh em, khi bàn bạc sự đời, lại đọc chữ “vi nhân bất phú”.
Tất do thiên, âu phận ấy là thường,
Hữu kỳ đức, ắt trời kia chẳng phụ.
Tiếc tài cả, phải phận ngưu bản trúc, dấu xưa ông Phó ông Hề,
Cần nghiệp nho, khi tạc bích tụ huỳnh, thuở trước chàng Khuông chàng Võ.
Nơi thành hạ, gieo cần câu cá, kìa kìa người quốc sĩ Hoài Âm,
Chốn lý trung, xách thớt chia phần, nọ nọ đấng mưu thần Dương Võ.
Khó ai bằng Mãi Thần, Mông Chính, cũng có khi ngựa cưỡi dù che,
Giàu ai bằng Vương Khải, Thạch Sùng, cũng có hội tường xiêu ngói đổ.
Mới biết: khó bởi tại trời, giàu là có số.
Dầu ai ruộng sâu trâu nái, đụn lúa kho tiền, cũng bất quá thủ tài chi lỗ.(T1)
Nợ phong lưu
“Chơi là lãi”. Nhưng chơi thì tốn. Tốn mà không sẵn, thì phải vay. Tức vay để lấy lãi!
Vay trả “nợ phong lưu” không nhất thiết là vay tiền bạc của ai. Nguyễn Công Trứ hẳn chủ yếu vay vào cái vốn thời gian của chính ông. Nghĩa là ông vừa làm vừa chơi chứ không “ky ky cóp cóp” làm.
Cớ sao NCT bị lãi “ám”? Chắc do ông sớm thấm cái nghịch ngợm oái ăm của “tay chú thợ trời”. Biết chú ấy hay dở trò, hễ có được tí “mặt” là ông chơi, sợ nhỡ “ra hề” không kịp chơi...
“Suy mới biết ở đời ai cũng hớ”, mà đâu phải ai cũng!
Suy mới biết ở đời ai cũng hớ,
Vì tài tình nên vướng nợ phong lưu.
Kho trời chung tiêu phí thấm vào đâu,
Chơi là lãi dẫu chưa giầu nhưng chẳng kiết.
Giả giả vay vay lâu cũng hết,
Ky ky cóp cóp chắc hơn ai.
Chỉ chịu thua tay chú thợ trời, Khéo tỉ mỉ nặn ra người làm múa rối.
Nào nhục nào vinh nào hiển hối,
Mặt ra hề thay đổi mấy mươi phen.
Chẳng gì hơn rượu thánh thơ tiên,
Trời đất ghét ghen chi với hắn.
Thế sự phù vân hà túc vấn,
Thiên kim táng tận hoàn phục lai.
Hay chơi trời cũng chiều người. (T2)
Cầm kỳ thi tửu 2
“Thơ hát nói”, cái tên mới ngộ. Vừa thơ, vừa hát, vừa nói!
Tên ngộ mà hay. Hay vì quả nhiên khi đọc bài thơ hát nói ta có cảm tưởng mình đang nói, “nói lối”! (1)
Nói lối thì “rắn rỏi mạnh mẽ”, như:
“Thú xuất trần tiên vẫn là ta
Sánh Hoàng Thạch, Xích Tùng, ờ cũng đáng!”
Rắn, mạnh, là một Nguyễn Công Trứ. Lịch lãm, đài các là một Nguyễn Công Trứ nữa.
“Tài tình dễ mấy xưa nay!”!
Cầm kỳ thi tửu,
Ðường ăn chơi mỗi vẻ mỗi hay.
Ðàn năm cung réo rắt tính tình đây,
Cờ đôi nước rập rình xe ngựa đó.
Thơ một túi phẩm đề câu nguyệt lộ,
Rượu ba chung tiêu sái cuộc yên hà.
Thú xuất trần tiên vẫn là ta,
Sánh Hoàng Thạch, Xích Tùng, ờ cũng đáng!
Thơ rằng: Cầm tứ tiêu nhiên, kỳ tứ sảng,
Thi hoài lạc hỹ, tửu hoài nồng.
Một chữ nhàn giá lại đáng muôn chung,
Người ở thế dẫu trăm năm là mấy!
Sách có chữ “Nhân sinh thích chí”,
Ðem ngàn vàng chác lấy cuộc chơi.
Chơi cho lịch mới là chơi,
Chơi cho đài các cho người biết tay.
Tài tình dễ mấy xưa nay!(T3)
Chơi xuân kẻo hết xuân đi
Ai biết tuổi ca dao. Nhưng chắc cái câu:
“Chơi xuân kẻo hết xuân đi
Cái già xồng xộc nó thì tới nơi”
đã ra đời trước khi Nguyễn Công Trứ hát nói như sau đây. Chắc cụ Nguyễn “chịu” nó quá nên dùng luôn một nửa làm tên bài thơ của mình...
“Lãi” mỗi người lấy một cách. Những cách “lắm công phu” của Uy Viễn tướng công, có phải cứ ai muốn bắt chước là bắt chước được đâu.
Gẫm cho kỹ đến bất nhân là tạo vật,
Ðã sinh người lại hạn lấy năm.
Kể chi thằng lên bảy đứa lên năm,
Dẫu ba vạn sáu nghìn ngày là mấy chốc!
Lại mang lấy lợi danh vinh nhục,
Cuộc đời kia lắm lúc bi hoan.
E đến khi hoa rữa trăng tàn,
Xuân một khắc dễ nghìn vàng đổi chác!
Tế suy vật lý tu hành lạc,
An dụng phù danh bạn thử thân.
Song bất nhân mà lại chí nhân,
Hạn lấy tuổi để mà chơi lấy.
Cuộc hành lạc bao nhiêu là lãi đấy,
Nếu không chơi thiệt ấy ai bù!
Nghề chơi cũng lắm công phu. (T4) Duyên gặp gỡ
Ông nói vậy, chứ cứ lấy ngay ông mà xét thì “tướng giỏi” gặp “vua sáng” có phải chuyện dễ đâu. Mà gặp chăng nữa, vua cũng hay nghi nghi ngờ ngờ khiến tướng phải lên voi xuống chó vô cùng mệt mỏi.
Còn tài tử với giai nhân, chuyện “tế ngộ” cũng khó lắm vì giai nhân thường có lối đòi đến “thiên kim” khiến tài tử thiếu “tài” đành ôm hận.
Gặp “liễu hoa”, sợ đợi “duyên chỉ thắm (...) dần dần đưa lại” thì lâu, “chúa xuân” nhân dịp “giữa đồng” bèn tự ý “xe” cho thật “gần”:
“Giang sơn một gánh giữa đồng
Thuyền quyên ứ hự, anh hùng nhớ chăng”!
“Anh hùng hà xứ bất giang sơn”, xứ nào đây, nào đây... Nhớ rồi, nhớ chứ, một trong bao nhiêu cái “duyên gặp gỡ” của tôi ơi!
Minh quân lương tướng tao phùng dị,
Tài tử giai nhân tế ngộ nan.
Trai anh hùng gặp gái thuyền quyên,
Trong nhất kiến tiền duyên như đã.
Tỳ bà hữu hạnh phùng Tư mã,
Quân tử đa tình cánh khả lân.
Nọ mấy người tài tử giai nhân,
Duyên chỉ thắm bỗng dần dần đưa lại.
Dầu nghìn dặm băng sơn quế hải,
Ðã tình duyên xe lại cũng nên gần.
Liễu hoa vừa gặp chúa xuân,
Châu Trần còn có Châu Trần nào hơn.
Anh hùng hà xứ bất giang sơn!(T5)
Vịnh chữ tình
Nhà nho tối ngày tụng “nam nữ thụ thụ bất thân” mà cũng “chi chi với tình” sao?
Ấy, nho Tàu chính cống còn tình túi bụi dưới “Mái tây”, nữa là nho ta! Văn hóa truyền thống của ta vốn thoải mái về quan hệ nam nữ hơn Nho giáo nhiều.(2)
Nhà nho Việt sống ở làng Việt, lúc nào xôi kinh để đi thi thì xôi, còn hễ hết xôi, buông kinh bước ra ngoài thì tha hồ mắc vào lưới tình của cô hàng xóm, cô cấy lúa, cô tát nước, cô hàng nước, cô bán chiếu, cô dệt vải v.v.
Dĩ nhiên nhà nho chưa làm quan thì có dễ quan hệ lăng nhăng hơn nhà nho đã làm quan. Hơn bốn mươi tuổi Nguyễn Công Trứ mới xuất chính, hẳn nhờ thế mà cuộc đời tình ái của ông vô số kỷ niệm...
Cái tình là cái chi chi
Dầu chi chi cũng chi chi với tình
Ða tình là dở
Ðã mắc vào đố gỡ cho ra
Khéo quấy người một cái tinh ma
Trói buộc kẻ hào hoa biết mấy!
Ðã gọi người nằm thiên cổ dậy
Lại đưa hồn lúc ngũ canh đi
Nực cười thay lúc phân kỳ
Trong chẳng nói biết bao nhiêu biệt lệ
Tình huống ấy dẫu bút thần khôn vẽ
Càng tài tình càng ngốc càng si
Cái tình là cái chi chi.
Thú thanh nhàn
“... thùng thùng đôi tiếng trống”...
Ơ, cái trống chầu bé tí teo chứ có phải trống cái trống trận đâu mà kêu to thế?!(3)
Ờ, có lẽ tiếng trống bé nó hóa to nhờ “cơn đắc ý” đang nổi như bão trong lòng người.
“Nhân sinh quý thích chí”(4). Nay cứ hãy “thùng thùng” lấy lãi (5), còn “một mai” có “bẻ quế thiềm cung”, “đánh (được) miếng đỉnh chung” nào chăng, hậu tính!
Nhàn trung thụy giác tam can nhật
Vắt chân ngồi bạn với khách cầm ca
Cuộc tỉnh say bầu rượu chén trà
Cơn đắc ý thùng thùng đôi tiếng trống
Bạch tuyết thanh cao, oanh yến lộng
Quân thiều hưởng triệt, cổ chung minh
Này tiếng đàn tinh tính tính tình tinh
Thú vui thú ném ngang vành tráng sĩ
Cõi nhân sinh thích chí
Lúc thái bình hà nhật bất xuân phong
Của trần hoàn không có có không
Kho vô tận không không rồi lại có
Chữ tài ấy ăn chơi, ở đủ!
Xôi kinh rồi đánh miếng đỉnh chung
Một mai bẻ quế thiềm cung
Trăng đưa đàn nguyệt, sấm rầm trống lôi
Trăm năm đài các lạ đời!(T7)
Tự thuật 1
Nguyễn Công Trứ có lúc “thế này” nhưng rồi có lúc “thế khác”, nhất về cuối đời ở hẳn trong cái thế khác. Ông may hơn chán vạn quân tử, anh hùng.
Chưa chán ru mà quấy mãi đây
Nợ nần dan díu mấy lâu nay
Mang danh tài sắc cho nên nợ
Quen thói phong lưu hóa phải vay
Quân tử lúc cùng thêm thẹn mặt
Anh hùng khi gấp cũng khoanh tay
Còn trời còn đất còn non nước
Có lẽ ta đâu mãi thế này?
Đời người
thấm thoắt
Trong chưa đến ba vạn sáu nghìn ngày, Nguyễn Công Trứ đã sắm lắm vai: khi nhà nho “chém cha cái khó”, khi nhà quan “nên tay ngất ngưởng”, chưa kể nhà thơ, nhà rượu, nhà cờ, nhà cô đầu, nhà “tuổi già lấy vợ hầu (trẻ ơi là trẻ)”!...
Con tạo mà cho thêm “đất”, biết ông còn “chơi” đến những trò gì.
Nhân sinh ba vạn sáu nghìn thôi,
Vạn sáu tiêu nhăng đã hết rồi!
Nhắn con tạo hóa xoay thời lại,
Ðể khách tang bồng rộng đất chơi!
Chí khí anh hùng
“Ðường mây rộng thênh thênh cử bộ”, nhớ lúc đường đất chật bổ sấp bổ ngửa. “Làm nên đấng anh hùng đâu đấy tỏ”, nhớ lúc làm chưa nên, đâu đấy chưa ai chịu tỏ. “Nợ tang bồng trang trắng...”, nhớ lúc còn nợ như chúa chổm!
Ðọc thơ “vỗ tay reo” của Nguyễn Công Trứ, chạnh nhớ thơ “ngán đời” của Cao Bá Quát. Ðời sao, thơ vậy. Thế mới đủ “mùi” cho khách đọc thơ...
Vòng trời đất dọc ngang ngang dọc,
Nợ tang bồng vay trả trả vay.
Chí làm trai nam bắc đông tây,
Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể
Nhân sinh thế thượng thùy vô nghệ,
Lưu đắc đan tâm chiếu hãn thanh.
Ðã chắc rằng ai nhục ai vinh,
Mấy kẻ biết anh hùng thời vị ngộ.
Cũng có lúc mây tuôn sóng vỗ,
Quyết ra tay buồm lái với cuồng phong.
Chí những toan xẻ núi lấp sông,
Làm nên đấng anh hùng đâu đấy tỏ.
Ðường mây rộng thênh thênh cử bộ,
Nợ tang bồng trang trắng vỗ tay reo.
Thảnh thơi thơ túi rượu bầu! (T10)
Vịnh đồng tiền
Vào thời Nguyễn Công Trứ mà đồng tiền cũng to nhỉ. Tất nhiên to sao bằng bây giờ, khi con người ta hình như không còn biết đến bất cứ thứ giá trị nào khác.
Ðọc thơ tiền, thú nhất câu
“Dốc đáy túi, mặt Nguyễn lang ngơ ngác”!
Hôi tanh chẳng thú vị gì,
Thế mà ai cũng kẻ vì người yêu.
Tạo vật bất thị vô để sự
Bòn chài ra một thứ quấy chơi!
Ðủ vuông, tròn, tượng đất, tượng trời,
Khẳm họa phúc, yên nguy, tử hoạt.
Chốn kim môn, nơi tử thất,
Mặc phao tuồng, không kẻ phòng nhàn.
Ðương om sòm, chớp giật sấm ran,
Nghe xóc xách, lại gió hòa mưa ngọt.
Kẻ tài bộ đã vào phường vận đạt,
Không ngươi, cũng nát với cỏ cây.
Người yêm yêm đành một phận trầm mai,
Có gã, lại trở ra sừng gạc.
Dốc đáy túi, mặt Nguyễn lang ngơ ngác,
Trổng đầu giường, gan tráng sĩ bàu nhàu.
Ðể đoàn ấm á càu ràu, khiến lũ tài danh vơ vẩn.
Khả quái tầm thường a đổ vật,
Khước giao đáo để đại thần linh.
Ðương đồ, ai chẳng chuộng gia huynh,
Thù thế, kể lấy làm đệ nhất.
Tiếng xỏng xảnh đầy trong trời đất,
Thần cũng thông huống nữa là ai.
Long đồ nghĩ cũng nực cười!(T11)
Thích chí ngao du
“Người có biết ta hay thì chớ,
Chẳng biết ta, ta vẫn là ta.”
Hai câu thơ nói lên được nhiều quá.
Ngang tàng xót xa, “là ta” đó, ai ơi.
Ngâm cùng trăng gió vài câu kiểng,
Tính với giang sơn mấy chuyện đời.
Thú gì hơn nữa, thú ăn chơi?
Chi giàu có sang hèn là phận cả.
Ðủ lếu láo với người thiên hạ.
Tính đã quen đài các mấy lâu.
Ðàn một cung, cờ một cuộc, thơ một túi, rượu một bầu
Khi đắc chí ngao du, ờ cũng phải!
Thơ rằng: Ðạo thông thiên địa hữu hình ngoại,
Tứ nhập phong vân biến thái trung.
Hỏi giang sơn mấy mặt anh hùng?
Tri ngã giả, bất tri ngã giả.
Người có biết ta hay thì chớ,
Chẳng biết ta, ta vẫn là ta.
Linh khâm bảo hợp thái hòa,
Sạch không trần lụy ấy là thần tiên.
Ngang tàng lạc ngã tính thiên.(T12)
Chữ nhàn
Bài thơ này khiến ta nhớ vài văn thi nhân Việt Nam trước và sau Nguyễn Công Trứ. Câu “Thoắt sinh ra thì đà khóc chóe” nhắc “Ðã mang tiếng khóc bưng đầu mà ra” của tiền nhân Nguyễn Gia Thiều. Cái khổ áp chót nhắc “Trăm năm thơ túi rượu vò, nghìn năm thi sĩ tửu đồ là ai” của hậu sinh Nguyễn Khắc Hiếu. Rồi cái câu chót của khổ ấy lại được kẻ sinh sau nữa là Nguyễn Tuân chọn đặt ở đầu thiên truyện đắc ý của mình là Chùa Ðàn.
“Ai hay hát mà ai hay nghe hát”...
“Ngàn muôn năm” sau, Nguyễn kia Nguyễn nọ, ai, ai?!
Thị tại môn tiền náo,
Nguyệt lai môn hạ nhàn.
So lao tâm lao lực cũng một đàn.
Người nhân thế muốn nhàn sao được!
Nên phải giữ lấy nhàn làm chước
Dẫu trời cho, có tiếc, cũng xin nài.
Cuộc nhân sinh chừng bảy tám chín mười mươi,
Mười lăm trẻ, năm mươi già không kể.
Thoắt sinh ra thì đà khóc choé,
Trần có vui, sao chẳng cười khì?
Khi hỉ nộ, khi ai lạc, khi ái ố, lúc sầu bi,
Chứa chi lắm một bầu nhân dục!
Tri túc tiện túc, đãi túc hà thì túc,
Tri nhàn tiện nhàn, đãi nhàn hà thì nhàn?
Cầm kỳ thi tửu với giang san,
Dễ mấy kẻ xuất trần xuất thế?
Ngã kim nhật tại tọa chi địa,
Cổ chi nhân tằng tiên ngã tọa chi.
Ngàn muôn năm âu cũng thế ni,
Ai hay hát mà ai hay nghe hát.
Sông Xích Bích buông thuyền năm Nhâm Tuất,
Ðể ông Tô riêng một thú thanh tao.
Chữ nhàn là chữ làm sao?(T13)
Thoát vòng danh lợi
Khi “hát nói” bài này, Nguyễn Công Trứ “trót bước chân vào đám phồn hoa” hẳn không phải mới một lần.
Vào, ra, vào, ra... Lên, xuống, lên, xuống... Có lần xuống đến mức suýt mất chỗ đội nón!
“Sực nghĩ lại giật mình bao xiết kể”, “thân” hỡi “thân” ơi.
Chen chúc lợi danh đà chán ngắt,
Cúc tùng phong nguyệt mới vui sao!
Ðám phồn hoa trót bước chân vào,
Sực nghĩ lại giật mình bao kể xiết!
Quá giả, vãng nhi bất thuyết,
Cái hình hài làm thiệt cái thân chi!
Cuộc đời thử gẫm mà suy,
Bạn tùng cúc xưa kia là cố cựu.
Hẹn với lợi danh ba chén rượu,
Vui cùng phong nguyệt một bầu thơ.
Cuộc cổ kim so sánh tựa bàn cờ,
Riêng vui thú giang sơn phong nguyệt.
Mặc xa mã thị thành không dám biết,
Thú yên hà trời đất để riêng ta,
Nào ai ai biết chăng là!(T14)
Tuổi già cưới vợ hầu “Năm mươi năm trước xuân chừng hai ba”!
Xuân, hạ, thu qua tuốt rồi, giờ đã 73 tuổi... đông, “mái tuyết đã phau phau”, mà đi cưới “kẻ đào thơ (...) mảnh mảnh”. Cô dâu trẻ đến nỗi còn... run!
Thì sao chớ. “Cụ” rể là Nguyễn Công Trứ, nào phải... Việt kiều.
Già, nhưng “còn dẻo còn dai”, xin tân nhân chớ ngại!
Trẻ tạo hóa ngẩn ngơ lắm việc,
Già nguyệt ông cắc cớ trêu nhau!
Kìa những người mái tuyết đã phau phau,
Run rẩy kẻ đào thơ còn mảnh mảnh.
Trong trướng gấm ngọn đèn hoa nhấp nhánh,
Nhất tọa lê hoa áp hải đường.
Từ đây đà tạc đá ghi vàng,
Bởi đâu trước lựa tơ chắp chỉ.
Tân nhân dục vấn lang niên kỷ,
Ngũ thập niên tiền nhị thập tam.
Tình đã chung, lứa cũng phải vam,
Suốt kim cổ lấy làm vận sự.
Trong trần thế duyên duyên nợ nợ,
Duyên cũng đành mà nợ cũng đành.
Xưa nay mấy kẻ đa tình,
Lão Trần là một với mình là hai!
Càng già càng dẻo càng dai!(T15)
Kiếp sau xin chớ... (6)
Bài lục bát sau đây thật lạc lõng giữa đám đông thơ hát nói và thơ Ðường luật của Nguyễn Công Trứ. Có thực ông là tác giả nó chăng?
Mặt khác, cái tâm trạng vui khóc, buồn cười của một người rất trải đời, tâm trạng ấy mà đem gán cho ông thì hợp quá.
Giả sử Nguyễn Công Trứ trứ tác “sáu câu” này, tưởng không nên vin vào đó mà bắt ông kiếp sau phải làm cây thông!
Vì ông chán đấy, rồi yêu đời đấy. Kiếp sau, kiếp sau nữa, ông còn làm người để tiếp tục “hành lạc” kiếm “lãi”, tiếp tục “chơi cho đài các cho người biết tay”!
Ngồi buồn mà trách ông xanh
Khi vui muốn khóc buồn tênh lại cười
Kiếp sau xin chớ làm người
Làm cây thông đứng giữa trời mà reo
Giữa trời vách đá cheo leo
Ai mà chịu rét thì trèo với thông.
Trong chưa đến ba vạn sáu nghìn ngày, Nguyễn Công Trứ đã sắm lắm vai: khi nhà nho “chém cha cái khó”, khi nhà quan “nên tay ngất ngưởng”, chưa kể nhà thơ, nhà rượu, nhà cờ, nhà cô đầu, nhà “tuổi già lấy vợ hầu (trẻ ơi là trẻ)”!...
Con tạo mà cho thêm “đất”, biết ông còn “chơi” đến những trò gì.
Nhân sinh ba vạn sáu nghìn thôi,
Vạn sáu tiêu nhăng đã hết rồi!
Nhắn con tạo hóa xoay thời lại,
Ðể khách tang bồng rộng đất chơi!
Chí khí anh hùng
“Ðường mây rộng thênh thênh cử bộ”, nhớ lúc đường đất chật bổ sấp bổ ngửa. “Làm nên đấng anh hùng đâu đấy tỏ”, nhớ lúc làm chưa nên, đâu đấy chưa ai chịu tỏ. “Nợ tang bồng trang trắng...”, nhớ lúc còn nợ như chúa chổm!
Ðọc thơ “vỗ tay reo” của Nguyễn Công Trứ, chạnh nhớ thơ “ngán đời” của Cao Bá Quát. Ðời sao, thơ vậy. Thế mới đủ “mùi” cho khách đọc thơ...
Vòng trời đất dọc ngang ngang dọc,
Nợ tang bồng vay trả trả vay.
Chí làm trai nam bắc đông tây,
Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể
Nhân sinh thế thượng thùy vô nghệ,
Lưu đắc đan tâm chiếu hãn thanh.
Ðã chắc rằng ai nhục ai vinh,
Mấy kẻ biết anh hùng thời vị ngộ.
Cũng có lúc mây tuôn sóng vỗ,
Quyết ra tay buồm lái với cuồng phong.
Chí những toan xẻ núi lấp sông,
Làm nên đấng anh hùng đâu đấy tỏ.
Ðường mây rộng thênh thênh cử bộ,
Nợ tang bồng trang trắng vỗ tay reo.
Thảnh thơi thơ túi rượu bầu! (T10)
Vịnh đồng tiền
Vào thời Nguyễn Công Trứ mà đồng tiền cũng to nhỉ. Tất nhiên to sao bằng bây giờ, khi con người ta hình như không còn biết đến bất cứ thứ giá trị nào khác.
Ðọc thơ tiền, thú nhất câu
“Dốc đáy túi, mặt Nguyễn lang ngơ ngác”!
Hôi tanh chẳng thú vị gì,
Thế mà ai cũng kẻ vì người yêu.
Tạo vật bất thị vô để sự
Bòn chài ra một thứ quấy chơi!
Ðủ vuông, tròn, tượng đất, tượng trời,
Khẳm họa phúc, yên nguy, tử hoạt.
Chốn kim môn, nơi tử thất,
Mặc phao tuồng, không kẻ phòng nhàn.
Ðương om sòm, chớp giật sấm ran,
Nghe xóc xách, lại gió hòa mưa ngọt.
Kẻ tài bộ đã vào phường vận đạt,
Không ngươi, cũng nát với cỏ cây.
Người yêm yêm đành một phận trầm mai,
Có gã, lại trở ra sừng gạc.
Dốc đáy túi, mặt Nguyễn lang ngơ ngác,
Trổng đầu giường, gan tráng sĩ bàu nhàu.
Ðể đoàn ấm á càu ràu, khiến lũ tài danh vơ vẩn.
Khả quái tầm thường a đổ vật,
Khước giao đáo để đại thần linh.
Ðương đồ, ai chẳng chuộng gia huynh,
Thù thế, kể lấy làm đệ nhất.
Tiếng xỏng xảnh đầy trong trời đất,
Thần cũng thông huống nữa là ai.
Long đồ nghĩ cũng nực cười!(T11)
Thích chí ngao du
“Người có biết ta hay thì chớ,
Chẳng biết ta, ta vẫn là ta.”
Hai câu thơ nói lên được nhiều quá.
Ngang tàng xót xa, “là ta” đó, ai ơi.
Ngâm cùng trăng gió vài câu kiểng,
Tính với giang sơn mấy chuyện đời.
Thú gì hơn nữa, thú ăn chơi?
Chi giàu có sang hèn là phận cả.
Ðủ lếu láo với người thiên hạ.
Tính đã quen đài các mấy lâu.
Ðàn một cung, cờ một cuộc, thơ một túi, rượu một bầu
Khi đắc chí ngao du, ờ cũng phải!
Thơ rằng: Ðạo thông thiên địa hữu hình ngoại,
Tứ nhập phong vân biến thái trung.
Hỏi giang sơn mấy mặt anh hùng?
Tri ngã giả, bất tri ngã giả.
Người có biết ta hay thì chớ,
Chẳng biết ta, ta vẫn là ta.
Linh khâm bảo hợp thái hòa,
Sạch không trần lụy ấy là thần tiên.
Ngang tàng lạc ngã tính thiên.(T12)
Chữ nhàn
Bài thơ này khiến ta nhớ vài văn thi nhân Việt Nam trước và sau Nguyễn Công Trứ. Câu “Thoắt sinh ra thì đà khóc chóe” nhắc “Ðã mang tiếng khóc bưng đầu mà ra” của tiền nhân Nguyễn Gia Thiều. Cái khổ áp chót nhắc “Trăm năm thơ túi rượu vò, nghìn năm thi sĩ tửu đồ là ai” của hậu sinh Nguyễn Khắc Hiếu. Rồi cái câu chót của khổ ấy lại được kẻ sinh sau nữa là Nguyễn Tuân chọn đặt ở đầu thiên truyện đắc ý của mình là Chùa Ðàn.
“Ai hay hát mà ai hay nghe hát”...
“Ngàn muôn năm” sau, Nguyễn kia Nguyễn nọ, ai, ai?!
Thị tại môn tiền náo,
Nguyệt lai môn hạ nhàn.
So lao tâm lao lực cũng một đàn.
Người nhân thế muốn nhàn sao được!
Nên phải giữ lấy nhàn làm chước
Dẫu trời cho, có tiếc, cũng xin nài.
Cuộc nhân sinh chừng bảy tám chín mười mươi,
Mười lăm trẻ, năm mươi già không kể.
Thoắt sinh ra thì đà khóc choé,
Trần có vui, sao chẳng cười khì?
Khi hỉ nộ, khi ai lạc, khi ái ố, lúc sầu bi,
Chứa chi lắm một bầu nhân dục!
Tri túc tiện túc, đãi túc hà thì túc,
Tri nhàn tiện nhàn, đãi nhàn hà thì nhàn?
Cầm kỳ thi tửu với giang san,
Dễ mấy kẻ xuất trần xuất thế?
Ngã kim nhật tại tọa chi địa,
Cổ chi nhân tằng tiên ngã tọa chi.
Ngàn muôn năm âu cũng thế ni,
Ai hay hát mà ai hay nghe hát.
Sông Xích Bích buông thuyền năm Nhâm Tuất,
Ðể ông Tô riêng một thú thanh tao.
Chữ nhàn là chữ làm sao?(T13)
Thoát vòng danh lợi
Khi “hát nói” bài này, Nguyễn Công Trứ “trót bước chân vào đám phồn hoa” hẳn không phải mới một lần.
Vào, ra, vào, ra... Lên, xuống, lên, xuống... Có lần xuống đến mức suýt mất chỗ đội nón!
“Sực nghĩ lại giật mình bao xiết kể”, “thân” hỡi “thân” ơi.
Chen chúc lợi danh đà chán ngắt,
Cúc tùng phong nguyệt mới vui sao!
Ðám phồn hoa trót bước chân vào,
Sực nghĩ lại giật mình bao kể xiết!
Quá giả, vãng nhi bất thuyết,
Cái hình hài làm thiệt cái thân chi!
Cuộc đời thử gẫm mà suy,
Bạn tùng cúc xưa kia là cố cựu.
Hẹn với lợi danh ba chén rượu,
Vui cùng phong nguyệt một bầu thơ.
Cuộc cổ kim so sánh tựa bàn cờ,
Riêng vui thú giang sơn phong nguyệt.
Mặc xa mã thị thành không dám biết,
Thú yên hà trời đất để riêng ta,
Nào ai ai biết chăng là!(T14)
Tuổi già cưới vợ hầu “Năm mươi năm trước xuân chừng hai ba”!
Xuân, hạ, thu qua tuốt rồi, giờ đã 73 tuổi... đông, “mái tuyết đã phau phau”, mà đi cưới “kẻ đào thơ (...) mảnh mảnh”. Cô dâu trẻ đến nỗi còn... run!
Thì sao chớ. “Cụ” rể là Nguyễn Công Trứ, nào phải... Việt kiều.
Già, nhưng “còn dẻo còn dai”, xin tân nhân chớ ngại!
Trẻ tạo hóa ngẩn ngơ lắm việc,
Già nguyệt ông cắc cớ trêu nhau!
Kìa những người mái tuyết đã phau phau,
Run rẩy kẻ đào thơ còn mảnh mảnh.
Trong trướng gấm ngọn đèn hoa nhấp nhánh,
Nhất tọa lê hoa áp hải đường.
Từ đây đà tạc đá ghi vàng,
Bởi đâu trước lựa tơ chắp chỉ.
Tân nhân dục vấn lang niên kỷ,
Ngũ thập niên tiền nhị thập tam.
Tình đã chung, lứa cũng phải vam,
Suốt kim cổ lấy làm vận sự.
Trong trần thế duyên duyên nợ nợ,
Duyên cũng đành mà nợ cũng đành.
Xưa nay mấy kẻ đa tình,
Lão Trần là một với mình là hai!
Càng già càng dẻo càng dai!(T15)
Kiếp sau xin chớ... (6)
Bài lục bát sau đây thật lạc lõng giữa đám đông thơ hát nói và thơ Ðường luật của Nguyễn Công Trứ. Có thực ông là tác giả nó chăng?
Mặt khác, cái tâm trạng vui khóc, buồn cười của một người rất trải đời, tâm trạng ấy mà đem gán cho ông thì hợp quá.
Giả sử Nguyễn Công Trứ trứ tác “sáu câu” này, tưởng không nên vin vào đó mà bắt ông kiếp sau phải làm cây thông!
Vì ông chán đấy, rồi yêu đời đấy. Kiếp sau, kiếp sau nữa, ông còn làm người để tiếp tục “hành lạc” kiếm “lãi”, tiếp tục “chơi cho đài các cho người biết tay”!
Ngồi buồn mà trách ông xanh
Khi vui muốn khóc buồn tênh lại cười
Kiếp sau xin chớ làm người
Làm cây thông đứng giữa trời mà reo
Giữa trời vách đá cheo leo
Ai mà chịu rét thì trèo với thông.
(1)
Xem Một Kỳ Công Tổng Hợp của Phạm Thế Ngũ, trang gocnhin.net.
(2) Xem các bài Có Thần Và Thần (TT), Oai Như Gái Việt (TT), Quan Họ Và Nho Giáo (Vũ Ngọc Phan), trang gocnhin.net.
(3) Cao 15 phân, đường kính 15 phân. Xem bài Hát Ả Đào của Nguyễn Xuân Khoát.
(4) Câu đầu trong bài hát nói Nhân Sinh Thích Chí nổi tiếng không biết do ai làm.
(5) “Cuộc hành lạc bao nhiêu là lãi đấy”, trong bài Chơi Xuân Kẻo Hết Xuân Ði của NCT.
(6) Bài thơ này không có tên. Tên đây là tạm đặt.
(2) Xem các bài Có Thần Và Thần (TT), Oai Như Gái Việt (TT), Quan Họ Và Nho Giáo (Vũ Ngọc Phan), trang gocnhin.net.
(3) Cao 15 phân, đường kính 15 phân. Xem bài Hát Ả Đào của Nguyễn Xuân Khoát.
(4) Câu đầu trong bài hát nói Nhân Sinh Thích Chí nổi tiếng không biết do ai làm.
(5) “Cuộc hành lạc bao nhiêu là lãi đấy”, trong bài Chơi Xuân Kẻo Hết Xuân Ði của NCT.
(6) Bài thơ này không có tên. Tên đây là tạm đặt.
Ngoại trừ T2, tất cả chú thích thơ sau đây đều theo sách Thơ
văn Nguyễn Công Trứ, nxb. Văn Học, VN, 1983:
(T1) Lục cực: sáu điều khổ cực: chết non, ốm đau, lo lắng, nghèo đói, hèn yếu, tật cấu. Kinh huấn: điều dạy trong sách. Vạn tội: do câu tục ngữ Hán: vạn tội bất như bần: vạn tội chẳng gì bằng tội nghèo. Mọt tạc vẽ sao: mọt đục thành từng vết như sao. Trùn: giun. Lóc: nhảy lên, leo lên: “Cá lóc lên bờ nằm chờ nước đến” (ca dao). Người quân tử ăn...: do câu chữ Hán: quân tử thực vô cầu bão, ý nói: người quân tử chăm lo đạo lý, không lấy chuyện ăn ngon mặc đẹp làm điều. Cửa thường bỏ ngỏ: do câu chữ Hán: thái bình chi thế, ngoại hộ bất bế, ý nói: đời no ấm, cửa ngoài không cần đóng (không có trộm cướp).
Lá gối: tiếng địa phương, lá vối. Ðồ cổ khí: đồ xưa, đồ lâu đời để lại. Thủy mặc: vẽ bằng mực nho. Thổ châu: đất son ngày xưa dùng thay mực đỏ để chấm câu. Ba đời cửa tướng: thành ngữ, ý nói: lâu đời (ở cửa tướng suốt ba đời). Bảy kiếp nhà ma: thành ngữ, cũng có nghĩa là rất lâu (làm ma đến bảy kiếp). Chữ nhật chữ điền: đường kẻ trên bàn cờ thành những ô hình vuông, hình chữ nhật. Lộc nhĩ điền: hoa lợi ruộng đất (nhĩ điền: ruộng của anh). Tịch cốc: nhịn cơm, ý nói: khi nhịn cơm thì ăn khoai. Triêng: tiếng địa phương, nghĩa là gánh. Mỏng lưng: ít vốn. Ý dã: sách thuốc có câu: y giả, ý dã, làm thuốc là lấy ý mà đoán bệnh. Thầy bà: thầy đồng, bà cốt. Dũng như: các thầy cúng thường niệm câu chú: cấp cấp như tuân lệnh, chắc là “cấp như” mà chép sai. Pháp chủ: thầy phù thủy cao tay. Dã hạc: tên sách nói về bói toán. Huyệt chân long: huyệt rồng, ngôi đất có rồng chầu, phát đế vương (danh từ các thầy địa lý thường dùng). Chộ: tiếng địa phương, nghĩa là thấy. Nghề đỏ: nghề buôn bán phát tài. Rước gánh: đi đón gánh giùm cho những người đi chợ xa về; ở đây có nghĩa bị cướp, mất gánh. Sẵn lưng: sẵn vốn. Thổ: tiếng địa phương, nghĩa là nơi. Dạm không ra thổ: tìm không được chỗ cho vay. Gấp khúc lươn: như lươn cuộn khúc, ý nói gặp khó. “Anh hùng mà gấp khúc lươn, khi cuộn thì ngắn khi vươn thì dài” (ca dao). Mượn mõ: vay mượn. Niên chung nguyệt quý: năm cùng tháng tận, tức là ngày tết. Thân thỉ: năn nỉ, van nài. Ngồi trì: ngồi dai, không chịu về. Cơ tắc: sơ đắc đạo, đói thì... ăn trộm. Cùng tư: do chữ tiểu nhân cùng tư lạm: kẻ tiểu nhân cùng thì làm bậy. Lạc đạo vong bần: vui đạo quên nghèo. Vi nhân bất phú: làm điều nhân thì không giàu. Tất do thiên: lấy ở câu: phú quý tất do thiên mệnh: giàu sang là do mệnh trời. Hữu kỳ đức: lấy ở câu: hữu kỳ đức tất hữu kỳ phận: có đức ắt có phần. Phận ngưu bản trúc: chăn trâu, đắp đất. Ông Phó: Phó Duyệt, người đời Thương, lúc nghèo phải đi gánh đất làm thuê, sau làm tướng giúp vua Bàn Canh sửa sang việc nước. Ông Hề: Bách Lý Hề, người đời Chiến Quốc, lúc nghèo đi ở chăn trâu, sau làm tướng giúp Tần Công làm nên nghiệp bá. Tạc bích, tụ huỳnh: xoi vách, nhặt đom đóm. Chàng Khuông: Khuông Hành đời Hán, nhà nghèo ham học, không có đèn, phải xoi vách cho ánh sáng nhà bên cạnh chiếu sang mà đọc sách. Chàng Võ: Võ tử, tức Xa Dận, người đời Tấn, nhà nghèo không có đèn, phải bắt đom đóm bỏ vào túi cho có ánh sáng mà học. Quốc sĩ: người giỏi của một nước. Quốc sĩ Hoài Âm: chỉ Hàn Tín, người đất Hoài Âm, lúc nghèo khổ thường câu cá ở dưới thành đem ra bán ở chợ, không đủ nuôi thân, phải xin cơm ăn, bị người ngoài chợ làm nhục mà vẫn chịu nhịn, về sau làm đại tướng giúp Bái công (Lưu Bang) dựng cơ nghiệp nhà Hán. Mưu thần Dương Võ: chỉ Trần Bình, người đất Dương Võ, lúc nghèo làm mõ chia phần làng, về sau làm mưu thần cho Bái công, đồng thời với Hàn Tín. Mãi Thần: Chu Mãi Thần, người đời Hán, nhà nghèo mà ham học, về sau làm nên giàu sang. Mông Chính: Lã Mông Chính, người đời Tống, cũng thế. Vương Khải, Thạch Sùng: hai người giàu có, về sau nhà tan cửa nát, tục truyền Thạch Sùng chết hóa thành con mối cứ nghiến răng vì tiếc của. Thủ tài chi lỗ: đứa mọi giữ của.
(T2) Chuyện đời mây nổi hỏi làm gì, nghìn vàng hết sạch rồi lại có.
(T3) Phẩm đề: bình phẩm, “phẩm đề xin một vài lời thêm hoa” (Kiều). Câu nguyệt lộ: cây thơ tả trăng và sương. Chung: chén uống rượu. Tiêu sái: phóng khoáng, thanh cao. Cuộc yên hà: cuộc sống thanh nhàn ở chỗ sông núi. Tứ đàn thanh tao, nước cờ sáng suốt, câu thơ thích thú, chén rượu nồng. Chung: cái thùng đựng lương, giá muôn chung là rất giá trị. Ðài các: lịch sự, phong lưu.
(T4) Tế suy vật lý tu hành lạc, an dụng phù danh bạn thử thân: Xét cho kỹ thì ở đời cũng nên vui chơi, sao nỡ để công danh bó buộc thân mình. “Vật lý” là lẽ của sự vật, lẽ đời.
(T5) C. 1, 2: Vua giỏi và tướng tài gặp nhau dễ, trai tài và gái sắc gặp nhau khó. C. 5,6: Người gẩy đàn tỳ bà may mắn mới gặp ông Tư mã Giang Châu (xem bài Tỳ Bà Hành của Bạch Cư Dị). Quân tử là người đa tình nên lòng thương xót càng sâu sắc. Băng sơn quế hải: những chỗ xa xôi. Châu Trần: tên một thôn ở Trung Quốc ngày trước ở đó có hai họ Châu, Trần đời đời làm thông gia với nhau, thường dùng để chỉ việc kết hôn xứng đôi đẹp lứa: “Thực là tài tử giai nhân, Châu Trần còn có Châu Trần nào hơn” (Kiều). Anh hùng hà xứ bất giang sơn: đối với người anh hùng ở đâu cũng là giang sơn.
(T7) C. 1: Lúc nhàn ngủ dậy mặt trời đã lên cao ba con sào. C. 5, 6: Hát hay, đàn ngọt (thơ bạch tuyết giọng cao như oanh yến liệng), nhạc quân thiều tiếng vang như trống chiêng kêu. Hà nhật bất xuân phong: ngày nào mà không mát như có gió xuân. Xôi kinh rồi đánh miếng đỉnh chung: chăm học (xôi kinh nấu sử) rồi hưởng phú quý. “Bẻ quế thiềm cung”: thi đỗ, “thiềm cung” là cung trăng, “Những mong bẻ quế nên danh, mà đền công dưỡng sinh thành hai thân” (Phạm Tải Ngọc Hoa). Mặt trăng là đàn, tiếng sấm là trống.
(T10) C. 5, 6: Người ở trên đời ai không có nghề, cốt được tấm lòng son lưu truyền sử xanh.
(T11) Hôi tanh: chỉ đồng tiền có mùi tanh đồng. Tạo vật bất thị vô để sự: tạo vật vốn không phải không làm được việc gì (nói mỉa). Bòn chài: thu nhặt từng li từng tí, ở đây nghĩa là tìm ra được. Ðủ vuông, tròn...: tả đồng tiền hình tròn, có một lỗ vuông ở giữa. Tượng là tượng trưng; hình tròn tượng trưng trời, hình vuông tượng trưng đất. Khẳm họa phúc, yên nguy, tử hoạt: khẳm là đủ; tử hoạt là chết và sống; cả câu ý nói: đồng tiền có một sức mạnh ghê gớm, định đoạt vận mệnh con người. Kim môn, tử thất: cửa vàng, nhà tía, ý nói nơi quyền quý sang trọng. Mặc phao tuồng...: phao tuồng là lộng hành, phòng nhàn là cấm đoán, ý nói đồng tiền có thể ra vào tự do (ở những nơi quyền quý).
Yêm yêm: suy yếu, rã rời. Trầm mai: chìm mất, chìm nghỉm.
Sừng gạc: có sừng có gạc, ý nói mạnh mẽ, có thể chống lại kẻ thù. Dốc đáy túi...: Lấy tích Nguyễn Phu đời Tấn đi đến một đô thị lớn mà trong túi chỉ có một đồng tiền nên bẽn lẽn, ngơ ngác. Trổng đầu giường...: Ðầu giường tiền hết, tráng sĩ mất vẻ vui tươi (do câu chữ Hán: Sàng đầu kim tận, tráng sĩ vô nhan). Ðoàn ấm á: bọn người thay chủ đến nợ đòi tiền. Khả quái tầm thường a đổ vật: lạ thay cho cái vật tầm thường ấy, lấy tích Vương Di Phủ đời Tấn khinh tiền, không bao giờ nói đến tiếng “tiền”: một hôm, ông ngủ, người nhà chất tiền quanh giường ông nằm để thử xem lúc thức dậy, ông có phải nói đến tiền hay không. Quả nhiên, lúc dậy, ông hết sức ngạc nhiên, nhưng chỉ bảo người nhà sao không cất “cái vật tầm thường” ấy đi, chứ không nói đến tiếng “tiền”. Khước giao đáo để đại thần linh: nhưng sao lại thiêng liêng đến thế. Ðương đồ: đang trên đường đi, tức là đang sống. Gia huynh: anh, cũng như tiếng “ngươi” tiếng “gã” ở trên, đều chỉ đồng tiền.
Thù thế: tiếp đãi với người đời. Thần cũng thông: lấy tích Trương Diên Thưởng đời Ðường xử án: người bị tội hối lộ ông bốn vạn quan tiền, ông không nhận, sau hối lộ mười vạn quan, ông bảo nha thuộc thôi không tra án nữa, người ta hỏi, ông đáp: “Tiền đến mười vạn, thần cũng phải thông”. Long đồ: tức Bao Chứng (cũng gọi là Bao Công) người đời Tống làm chức Long đồ các học sĩ, xét án sáng suốt công minh, nhưng có lúc cũng muốn lấy tiền cho yên chuyện.
(T12) Kiểng: Cảnh. “Câu kiểng” là câu thơ vịnh cảnh. C. 7, 8: hai câu thơ của Trình Tử, nghĩa là “Ðạo thông ra ngoài các vật có hình trong trời đất, tứ vui nào khắp những trạng thái thay đổi của gió mây”. “Tri ngã giả, bất tri ngã giả: Kẻ biết ta hay kẻ không biết ta. “Linh khâm bảo hợp thái hòa”: Trong lòng luôn luôn giữ được thư thái. “Ngang tàng lạc ngã tính thiên”: Không kiềm chế cái tính tự nhiên của ta.
(T13) C. 1, 2: Chợ trước cửa thì ồn ào, trăng soi trước cửa thì thanh nhàn. Bầu nhân dục: lòng dục vọng của con người. C. 13, 14: Biết đủ thì đủ, đợi đủ khi nào cho đủ. Biết nhàn thì nhàn, đợi nhàn bao giờ cho nhàn. C. 17, 18: Chỗ ta ngồi ngày nay, người xưa đã ngồi trước ta rồi. C. 21, 22: Tô là Tô Ðông Pha, tác giả hai bài phú Tiền Xích Bích và Hậu Xích Bích tả tâm tình của nhà thơ khi bị biếm.
(T14) C. 5: Những việc đã qua không cần nói nữa.
(T15) C. 5, 6: Hoa lê ngồi áp đóa hải đường, hoa lê trắng chỉ người chồng tóc bạc, đóa hải đường chỉ người vợ trẻ. C. 7, 8: Người vợ mới muốn hỏi ông chồng bao nhiêu tuổi, trước đây 50 năm thì 23 tuổi (tức bây giờ 73). Vam: ăn khớp (tiếng địa phương). Lão Trần tức Trần Tu, đời Lê 73 tuổi đỗ tiến sĩ, vua gả cho vị công chúa 17 tuổi.
(T1) Lục cực: sáu điều khổ cực: chết non, ốm đau, lo lắng, nghèo đói, hèn yếu, tật cấu. Kinh huấn: điều dạy trong sách. Vạn tội: do câu tục ngữ Hán: vạn tội bất như bần: vạn tội chẳng gì bằng tội nghèo. Mọt tạc vẽ sao: mọt đục thành từng vết như sao. Trùn: giun. Lóc: nhảy lên, leo lên: “Cá lóc lên bờ nằm chờ nước đến” (ca dao). Người quân tử ăn...: do câu chữ Hán: quân tử thực vô cầu bão, ý nói: người quân tử chăm lo đạo lý, không lấy chuyện ăn ngon mặc đẹp làm điều. Cửa thường bỏ ngỏ: do câu chữ Hán: thái bình chi thế, ngoại hộ bất bế, ý nói: đời no ấm, cửa ngoài không cần đóng (không có trộm cướp).
Lá gối: tiếng địa phương, lá vối. Ðồ cổ khí: đồ xưa, đồ lâu đời để lại. Thủy mặc: vẽ bằng mực nho. Thổ châu: đất son ngày xưa dùng thay mực đỏ để chấm câu. Ba đời cửa tướng: thành ngữ, ý nói: lâu đời (ở cửa tướng suốt ba đời). Bảy kiếp nhà ma: thành ngữ, cũng có nghĩa là rất lâu (làm ma đến bảy kiếp). Chữ nhật chữ điền: đường kẻ trên bàn cờ thành những ô hình vuông, hình chữ nhật. Lộc nhĩ điền: hoa lợi ruộng đất (nhĩ điền: ruộng của anh). Tịch cốc: nhịn cơm, ý nói: khi nhịn cơm thì ăn khoai. Triêng: tiếng địa phương, nghĩa là gánh. Mỏng lưng: ít vốn. Ý dã: sách thuốc có câu: y giả, ý dã, làm thuốc là lấy ý mà đoán bệnh. Thầy bà: thầy đồng, bà cốt. Dũng như: các thầy cúng thường niệm câu chú: cấp cấp như tuân lệnh, chắc là “cấp như” mà chép sai. Pháp chủ: thầy phù thủy cao tay. Dã hạc: tên sách nói về bói toán. Huyệt chân long: huyệt rồng, ngôi đất có rồng chầu, phát đế vương (danh từ các thầy địa lý thường dùng). Chộ: tiếng địa phương, nghĩa là thấy. Nghề đỏ: nghề buôn bán phát tài. Rước gánh: đi đón gánh giùm cho những người đi chợ xa về; ở đây có nghĩa bị cướp, mất gánh. Sẵn lưng: sẵn vốn. Thổ: tiếng địa phương, nghĩa là nơi. Dạm không ra thổ: tìm không được chỗ cho vay. Gấp khúc lươn: như lươn cuộn khúc, ý nói gặp khó. “Anh hùng mà gấp khúc lươn, khi cuộn thì ngắn khi vươn thì dài” (ca dao). Mượn mõ: vay mượn. Niên chung nguyệt quý: năm cùng tháng tận, tức là ngày tết. Thân thỉ: năn nỉ, van nài. Ngồi trì: ngồi dai, không chịu về. Cơ tắc: sơ đắc đạo, đói thì... ăn trộm. Cùng tư: do chữ tiểu nhân cùng tư lạm: kẻ tiểu nhân cùng thì làm bậy. Lạc đạo vong bần: vui đạo quên nghèo. Vi nhân bất phú: làm điều nhân thì không giàu. Tất do thiên: lấy ở câu: phú quý tất do thiên mệnh: giàu sang là do mệnh trời. Hữu kỳ đức: lấy ở câu: hữu kỳ đức tất hữu kỳ phận: có đức ắt có phần. Phận ngưu bản trúc: chăn trâu, đắp đất. Ông Phó: Phó Duyệt, người đời Thương, lúc nghèo phải đi gánh đất làm thuê, sau làm tướng giúp vua Bàn Canh sửa sang việc nước. Ông Hề: Bách Lý Hề, người đời Chiến Quốc, lúc nghèo đi ở chăn trâu, sau làm tướng giúp Tần Công làm nên nghiệp bá. Tạc bích, tụ huỳnh: xoi vách, nhặt đom đóm. Chàng Khuông: Khuông Hành đời Hán, nhà nghèo ham học, không có đèn, phải xoi vách cho ánh sáng nhà bên cạnh chiếu sang mà đọc sách. Chàng Võ: Võ tử, tức Xa Dận, người đời Tấn, nhà nghèo không có đèn, phải bắt đom đóm bỏ vào túi cho có ánh sáng mà học. Quốc sĩ: người giỏi của một nước. Quốc sĩ Hoài Âm: chỉ Hàn Tín, người đất Hoài Âm, lúc nghèo khổ thường câu cá ở dưới thành đem ra bán ở chợ, không đủ nuôi thân, phải xin cơm ăn, bị người ngoài chợ làm nhục mà vẫn chịu nhịn, về sau làm đại tướng giúp Bái công (Lưu Bang) dựng cơ nghiệp nhà Hán. Mưu thần Dương Võ: chỉ Trần Bình, người đất Dương Võ, lúc nghèo làm mõ chia phần làng, về sau làm mưu thần cho Bái công, đồng thời với Hàn Tín. Mãi Thần: Chu Mãi Thần, người đời Hán, nhà nghèo mà ham học, về sau làm nên giàu sang. Mông Chính: Lã Mông Chính, người đời Tống, cũng thế. Vương Khải, Thạch Sùng: hai người giàu có, về sau nhà tan cửa nát, tục truyền Thạch Sùng chết hóa thành con mối cứ nghiến răng vì tiếc của. Thủ tài chi lỗ: đứa mọi giữ của.
(T2) Chuyện đời mây nổi hỏi làm gì, nghìn vàng hết sạch rồi lại có.
(T3) Phẩm đề: bình phẩm, “phẩm đề xin một vài lời thêm hoa” (Kiều). Câu nguyệt lộ: cây thơ tả trăng và sương. Chung: chén uống rượu. Tiêu sái: phóng khoáng, thanh cao. Cuộc yên hà: cuộc sống thanh nhàn ở chỗ sông núi. Tứ đàn thanh tao, nước cờ sáng suốt, câu thơ thích thú, chén rượu nồng. Chung: cái thùng đựng lương, giá muôn chung là rất giá trị. Ðài các: lịch sự, phong lưu.
(T4) Tế suy vật lý tu hành lạc, an dụng phù danh bạn thử thân: Xét cho kỹ thì ở đời cũng nên vui chơi, sao nỡ để công danh bó buộc thân mình. “Vật lý” là lẽ của sự vật, lẽ đời.
(T5) C. 1, 2: Vua giỏi và tướng tài gặp nhau dễ, trai tài và gái sắc gặp nhau khó. C. 5,6: Người gẩy đàn tỳ bà may mắn mới gặp ông Tư mã Giang Châu (xem bài Tỳ Bà Hành của Bạch Cư Dị). Quân tử là người đa tình nên lòng thương xót càng sâu sắc. Băng sơn quế hải: những chỗ xa xôi. Châu Trần: tên một thôn ở Trung Quốc ngày trước ở đó có hai họ Châu, Trần đời đời làm thông gia với nhau, thường dùng để chỉ việc kết hôn xứng đôi đẹp lứa: “Thực là tài tử giai nhân, Châu Trần còn có Châu Trần nào hơn” (Kiều). Anh hùng hà xứ bất giang sơn: đối với người anh hùng ở đâu cũng là giang sơn.
(T7) C. 1: Lúc nhàn ngủ dậy mặt trời đã lên cao ba con sào. C. 5, 6: Hát hay, đàn ngọt (thơ bạch tuyết giọng cao như oanh yến liệng), nhạc quân thiều tiếng vang như trống chiêng kêu. Hà nhật bất xuân phong: ngày nào mà không mát như có gió xuân. Xôi kinh rồi đánh miếng đỉnh chung: chăm học (xôi kinh nấu sử) rồi hưởng phú quý. “Bẻ quế thiềm cung”: thi đỗ, “thiềm cung” là cung trăng, “Những mong bẻ quế nên danh, mà đền công dưỡng sinh thành hai thân” (Phạm Tải Ngọc Hoa). Mặt trăng là đàn, tiếng sấm là trống.
(T10) C. 5, 6: Người ở trên đời ai không có nghề, cốt được tấm lòng son lưu truyền sử xanh.
(T11) Hôi tanh: chỉ đồng tiền có mùi tanh đồng. Tạo vật bất thị vô để sự: tạo vật vốn không phải không làm được việc gì (nói mỉa). Bòn chài: thu nhặt từng li từng tí, ở đây nghĩa là tìm ra được. Ðủ vuông, tròn...: tả đồng tiền hình tròn, có một lỗ vuông ở giữa. Tượng là tượng trưng; hình tròn tượng trưng trời, hình vuông tượng trưng đất. Khẳm họa phúc, yên nguy, tử hoạt: khẳm là đủ; tử hoạt là chết và sống; cả câu ý nói: đồng tiền có một sức mạnh ghê gớm, định đoạt vận mệnh con người. Kim môn, tử thất: cửa vàng, nhà tía, ý nói nơi quyền quý sang trọng. Mặc phao tuồng...: phao tuồng là lộng hành, phòng nhàn là cấm đoán, ý nói đồng tiền có thể ra vào tự do (ở những nơi quyền quý).
Yêm yêm: suy yếu, rã rời. Trầm mai: chìm mất, chìm nghỉm.
Sừng gạc: có sừng có gạc, ý nói mạnh mẽ, có thể chống lại kẻ thù. Dốc đáy túi...: Lấy tích Nguyễn Phu đời Tấn đi đến một đô thị lớn mà trong túi chỉ có một đồng tiền nên bẽn lẽn, ngơ ngác. Trổng đầu giường...: Ðầu giường tiền hết, tráng sĩ mất vẻ vui tươi (do câu chữ Hán: Sàng đầu kim tận, tráng sĩ vô nhan). Ðoàn ấm á: bọn người thay chủ đến nợ đòi tiền. Khả quái tầm thường a đổ vật: lạ thay cho cái vật tầm thường ấy, lấy tích Vương Di Phủ đời Tấn khinh tiền, không bao giờ nói đến tiếng “tiền”: một hôm, ông ngủ, người nhà chất tiền quanh giường ông nằm để thử xem lúc thức dậy, ông có phải nói đến tiền hay không. Quả nhiên, lúc dậy, ông hết sức ngạc nhiên, nhưng chỉ bảo người nhà sao không cất “cái vật tầm thường” ấy đi, chứ không nói đến tiếng “tiền”. Khước giao đáo để đại thần linh: nhưng sao lại thiêng liêng đến thế. Ðương đồ: đang trên đường đi, tức là đang sống. Gia huynh: anh, cũng như tiếng “ngươi” tiếng “gã” ở trên, đều chỉ đồng tiền.
Thù thế: tiếp đãi với người đời. Thần cũng thông: lấy tích Trương Diên Thưởng đời Ðường xử án: người bị tội hối lộ ông bốn vạn quan tiền, ông không nhận, sau hối lộ mười vạn quan, ông bảo nha thuộc thôi không tra án nữa, người ta hỏi, ông đáp: “Tiền đến mười vạn, thần cũng phải thông”. Long đồ: tức Bao Chứng (cũng gọi là Bao Công) người đời Tống làm chức Long đồ các học sĩ, xét án sáng suốt công minh, nhưng có lúc cũng muốn lấy tiền cho yên chuyện.
(T12) Kiểng: Cảnh. “Câu kiểng” là câu thơ vịnh cảnh. C. 7, 8: hai câu thơ của Trình Tử, nghĩa là “Ðạo thông ra ngoài các vật có hình trong trời đất, tứ vui nào khắp những trạng thái thay đổi của gió mây”. “Tri ngã giả, bất tri ngã giả: Kẻ biết ta hay kẻ không biết ta. “Linh khâm bảo hợp thái hòa”: Trong lòng luôn luôn giữ được thư thái. “Ngang tàng lạc ngã tính thiên”: Không kiềm chế cái tính tự nhiên của ta.
(T13) C. 1, 2: Chợ trước cửa thì ồn ào, trăng soi trước cửa thì thanh nhàn. Bầu nhân dục: lòng dục vọng của con người. C. 13, 14: Biết đủ thì đủ, đợi đủ khi nào cho đủ. Biết nhàn thì nhàn, đợi nhàn bao giờ cho nhàn. C. 17, 18: Chỗ ta ngồi ngày nay, người xưa đã ngồi trước ta rồi. C. 21, 22: Tô là Tô Ðông Pha, tác giả hai bài phú Tiền Xích Bích và Hậu Xích Bích tả tâm tình của nhà thơ khi bị biếm.
(T14) C. 5: Những việc đã qua không cần nói nữa.
(T15) C. 5, 6: Hoa lê ngồi áp đóa hải đường, hoa lê trắng chỉ người chồng tóc bạc, đóa hải đường chỉ người vợ trẻ. C. 7, 8: Người vợ mới muốn hỏi ông chồng bao nhiêu tuổi, trước đây 50 năm thì 23 tuổi (tức bây giờ 73). Vam: ăn khớp (tiếng địa phương). Lão Trần tức Trần Tu, đời Lê 73 tuổi đỗ tiến sĩ, vua gả cho vị công chúa 17 tuổi.
Thu Tứ
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét