Một chút nhớ về Văn nghệ Châu Đốc và
Tôi đã nghe biết Nhóm Khai Phá Châu Đốc từ nhiều năm trước
khi tôi về dạy học tại Châu Đốc. Tôi đã đọc tạp chí Khai Phá và vài tập thơ của
Ngô Nguyên Nghiễm như Dấu Chân Gió Ngược, 1964, Ngọn Gió Hơi cuồng, 1966,
chung với Lưu Nhữ Thụy. Hình thức và nội dung thật độc
đáo của tạp chí Khai Phá và lối viết của các cây bút Khai Phá làm những người
trẻ làm văn nghệ chúng tôi đặc biệt chú ý.
Thời đó, thời cuối thập niên sáu mươi và đầu thập niên bảy
mươi, các tỉnh Miền tây nam phần, cùng với thủ đô Sài gòn và các tỉnh trên toàn
quốc đã có những sinh hoạt văn nghệ thật rầm rộ. Theo sự ghi nhận của cây bút
Lê Cần Thơ thì: “Nhiều nhóm văn nghệ hoạt động sôi nổi, tiếng tăm nhờ có phương
tiện truyền thông như các báo, đặc san, đài phát thanh; chẳng hạn , một nhóm văn
nghệ ở Đại học Sư phạm Sài gòn với tờ Chỗ Đứng (Trần văn Chi, Nguyễn Cát Đông
...); Tạp chí Tham Dự ở Vĩnh Long (Việt Chung Tử, Nguyễn Sinh Từ, Nguyễn Bạch
Dương); nhóm Sóng Việt ở Cần Thơ (Chu Tấn, Trần Kiên Thảo ...); Văn đoàn Về Nguồn
ỏ Cần Thơ (Lê Trúc Khanh, Huyền Vân Thanh, Kiều Diễm Phượng, Lê Hà Uyên,Hà Huy
Thanh, Nguyễn Hoài Vọng ...) với tạp chí Khơi Dòng và chương trình phát thanh Cần
Thơ; nhóm Khai Phá ở Châu Đốc (Ngô Nguyên Nghiễm, Trịnh Bửu Hoài, Lưu Nhữ Thụy,
Nguyễn Thành Xuân...) với tạp chí và NXB Khai Phá ....” (Trích Lê Cần Thơ, tác
phẩm chưa xuất bản)
Thật sự tôi còn gặp vài nhà thơ khác nữa của vùng năm non bảy
núi địa linh nhơn kiệt này. Thi sĩ Thần Liên Lê Văn Tất cùng với thi sĩ Liêm
Châu, thi sĩ Duy Phương ...đã làm phong phú thêm cho văn hóa Châu Đốc, nói
riêng, qua những áng thơ, đặc biệt là thơ Đường và các biên khảo về Châu Đốc.
Các anh em Khai Phá thì trẻ hơn so với các thi sĩ thành danh trên đây. Khoảng đầu
năm 1970, Ngô Nguyên Nghiễm đang học trường Dược, Lưu Nhữ Thụy, còn là một họa
sĩ, đang học QGHC, Trịnh Bửu Hoài vừa rời ghế nhà trường, làm công chức tại tỉnh
nhà. Trước 1975 Nxb Khai Phá in Thơ Kinh Tự (1971), biên khảo, Thiên Thu Ca
(1972), Người Hành Giả Và Khúc Trường Ca Sinh Tử của Ngô Nguyên Nghiễm
(1974); Thơ Tình (1974) và Người Hành Hương và Tình Yêu (1974) của Trịnh Bửu
Hoài; Nam Hoa (1971) và Lên Đồi Hứng Bát Trăng Vàng (1974) của Nguyễn Thành
Xuân. Gần đây tôi được biết Trịnh Bửu Hoài, cây bút ăn khách của giới trẻ VN
bây giờ, đã in mấy mươi tập thơ và truyện, đa số là về tình yêu. Ngô Nguyên
Nghiễm thì 13 năm sau ngày tháng Tư 1975, anh mới xuất hiện trở lại, không phải
trên báo chí mà bằng những tập thơ, như: Tổ Ấm (1988), Hiến Dâng Cát Bụi
(1989), Hương Lửa (1990), Chớp Bể Mưa Nguồn (1992). Như từ bao giờ, thơ Ngô
Nguyên Nghiễm luôn là những vần thơ khai phá. Thơ Ngô Nguyên Nghiễm có cái
phong vị của những bài cổ thi, cái hương vị của núi non, sông nước ẩn tàng
trong những câu thơ đột phá như trong Sáng Tạo, Thế Kỷ Hai Mươi ...thời
đó, như:
Chất ngất trên mi một tấm lòng
Mang ngày tháng trồng đầy sân nhỏ
Có mái tranh và người tựa cửa
Chập chờn gậy trúc gác canh khuya
(Tổ Ấm)
Mang ngày tháng trồng đầy sân nhỏ
Có mái tranh và người tựa cửa
Chập chờn gậy trúc gác canh khuya
(Tổ Ấm)
Hay:
Nửa đêm rượu rót chưa đầy
Bóng trăng rớt xuống ngang mày khách xưa
Có trăng , trời vẫn đổ mưa
Có mây, đất vẫn đong đưa nỗi buồn
(Bài thơ rượu vàng)
Bóng trăng rớt xuống ngang mày khách xưa
Có trăng , trời vẫn đổ mưa
Có mây, đất vẫn đong đưa nỗi buồn
(Bài thơ rượu vàng)
Những tháng ngày ở Châu Đốc tôi không làm sao quên được. Bên
tách trà bốc khói, những chiều mưa nhẹ nhàng miền núi tôi được đối ẩm với người
thi sĩ tàn phế Lê văn Tất để nghe Lý Bạch, Đổ Phủ ... và nghe thơ Thần Liên.
Còn từ thi sĩ Liêm Châu, vốn là một nhà giáo đạo mạo, tôi học được rất nhiều điều
về Thất sơn huyền bí và về những năm tháng kháng chiến của ông. Gần gũi với
chúng tôi nhứt là nhà văn Huỳnh Phan . Chúng tôi ra trường cùng khóa ở ĐHSP-SG;
về Châu Đốc ngụ cùng nhà trọ. Huỳnh Phan được biết tới qua loạt bài Câu Chuyện
Thầy Trò đăng thường kỳ trên Bách Khoa, sau được nhà Trí Đăng in thành sách. Đầu
năm 1972 chúng tôi in tập thơ chung Áo Mây Bay; nghe nói anh Huỳnh Phan mất trước
năm 1990 tại Long Xuyên.Thêm một người khá gần gũi với chúng tôi la nhà thơ Duy
Phương. Nói là gần gũi vì anh Duy Phương không lớn hơn chúng tôi và nhóm Ngô
Nguyên Nghiễm là bao nhiêu, thơ anh là thơ tình, thơ viết về quê hương dân tộc
đủ thể loại, và ....nhà anh ở Cồn Tiên, bên kia sông Châu Đốc, là nơi tụ họp
vui chơi của chúng tôi những khi Ngô Nguyên Nghiễm và Lưu Nhữ Thụy nghỉ lễ về
nhà. Những buổi như vậy, anh Duy Phương thật là sảng khóai, anh ngâm thơ không
biết mệt, càng say càng hay. Phụ họa có Lưu Nhữ Thụy, lúc nào cũng sôi nổi. Còn
Ngô Nguyên Nghiễm, thật sự là con nhàgiàu- đẹp trai- học giỏi, tuy là lớn người,
lớn vóc, nhưng lúc nào cũng nói năng nhỏ nhẹ, ít khi nào cười lớn tiếng. Trịnh
Bửu Hoài còn hiền hơn con gái với nét mặt đẹp và nụ cười thư sinh. Bây giờ tôi
không thể hình dung lại gương mặt của Nguyễn Thành Xuân, không nhớ là lúc đó
tôi có từng gặp anh hay không; hay lúc đó anh mãi đi hứng bát trăng vàng trên đồi,
trên núi. Dĩ nhiên những quán cà phê tại chợ Châu Đốc cũng là nơi gặp gỡ thường
xuyên của chúng tôi và nhóm Ngô Nguyên Nghiễm. Chuyện văn nghệ văn gừng nói
hoài không hết.
Cũng như nói về thơ Ngô Nguyên Nghiễm trên vài trang giấy thì
không thấm vào đâu.
Nguyễn Cát Đông
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét