Nét khúc xạ duy thực luận trong thơ tình
lãng mạn của thi sĩ Hư Vô
Chân dung thi sĩ Hư Vô
Trong bài thơ Uất kim hương,
Thi sĩ Hư Vô đã cho thế nhân một ý niệm, một định nghĩa về thơ tình lãng mạn như
là niềm tin vĩnh cửu vào giá trị đích thực của những sự kiện xảy ra trong cuộc
sống hằng ngày hơn là đi tìm chân lý hữu thể “Chân thiện Mỹ “của lời thơ:
Đừng hỏi những câu thơ vô
nghĩa
Vội vàng anh viết <<Qu’est – ce que l ‘amour?>>
Chữ anh viết, anh còn không hiểu
Tự điển nào cắt nghĩa nổi chữ yêu.
(Uất kim hương, Qu’est – ce que l’amour? Thơ Hư Vô)
Vội vàng anh viết <<Qu’est – ce que l ‘amour?>>
Chữ anh viết, anh còn không hiểu
Tự điển nào cắt nghĩa nổi chữ yêu.
(Uất kim hương, Qu’est – ce que l’amour? Thơ Hư Vô)
Nếu thế nhân lạc vào vườn thơ
tình lãng mạn của thi sĩ Hư Vô, nếu có thời gian mà ngâm vịnh theo bốn mùa của
đất trời để tìm hiểu nhiều khía cạnh về con người, lòng yêu thương, cảm xúc,
tình cảm …như là tìm về con người thực của chính mình (Hữu Tự Tại = Tiểu Ngã)
trước không gian bao la của vũ trụ, thì hỡi thế nhân xin hãy đừng ngần ngại
chi, mời vào lâu đài văn chương, đắm mình theo lời thơ, tiếng nhạc …của thơ
tình lãng mạn của thi sĩ Hư Vô để được tắm gội trong suối nguồn vô thức của
dòng sông biến dịch Heraclitus, và hiểu rằng đàng sau thân thể và tâm trí, con
người còn có một cái gì khác và chính cái khác này cấu tạo nên cái tôi đích thực
của mỗi cá nhân:
Con người là sinh vật cảm nhận được những biến chuyển của tâm linh và những biến động của vũ trụ và thường ghi nhớ bao nỗi niềm thương cảm chất ngất tình người để biết rằng con người đang hiện hữu: Sự quay nhìn về thời xưa cũ và soi mình vào quá khứ của thời gian để ghi nhận những nét diễm kiều, huy hoàng, rực rỡ … của những hoàng hôn dĩ vãng và đón nhận những bình minh rạng rỡ của ngày mai như là tình yêu mến những tâm hồn sinh động của thế nhân, được thi sĩ Hư Vô ghi lại bằng lời thơ như là ông đã khắc lên vũ trụ vạn lời yêu thương:
Con người là sinh vật cảm nhận được những biến chuyển của tâm linh và những biến động của vũ trụ và thường ghi nhớ bao nỗi niềm thương cảm chất ngất tình người để biết rằng con người đang hiện hữu: Sự quay nhìn về thời xưa cũ và soi mình vào quá khứ của thời gian để ghi nhận những nét diễm kiều, huy hoàng, rực rỡ … của những hoàng hôn dĩ vãng và đón nhận những bình minh rạng rỡ của ngày mai như là tình yêu mến những tâm hồn sinh động của thế nhân, được thi sĩ Hư Vô ghi lại bằng lời thơ như là ông đã khắc lên vũ trụ vạn lời yêu thương:
Cõi ta, như đã mơ hồ
Cõi em, từ độ hư vô tượng hình
Giật mình hồn vía phiêu linh
Cơn đau đã đến thình lình đó em
(Cõi hoang – Thơ Hư Vô)
Cõi em, từ độ hư vô tượng hình
Giật mình hồn vía phiêu linh
Cơn đau đã đến thình lình đó em
(Cõi hoang – Thơ Hư Vô)
Thi nhân đi tìm những bí ẩn
sinh động trong cuộc sống với không biết bao nhiêu ưu phiền, trầm luân…bao gồm
cả một dòng sông dĩ vãng, cả một thời xưa cũ, cả một dòng năm tháng đã trôi xa
…và nó vẫn hiện hữu và biến động để hình thành một tương lai với những ước mơ,
những kỳ vọng …cho một ngày mai tươi đẹp …
Mời thế nhân buông bỏ những ưu
phiền buồn khổ của kiếp nhơn sinh ngắn ngủi, hãy để tâm hồn mình lắng động mà
nghe lời thơ tạ tình thay hồn vô ngôn với những ẩn dụ vẫn hằng hiện hữu và mãi
trường tồn trong dòng sông biến dịch của sinh thức: tình yêu thương và những
tuyên ngôn của lòng trắc ẩn, chất chứa bao niềm thương cảm về sự hiện hữu của
con người trong vũ trụ bao la, dẫu biết rằng thời gian thì biến dịch, không
gian thì vô tận…và tất cả luôn luôn chuyển động ngoài tâm thức của con người nhưng
ý chí, tâm hồn, tình cảm….của con người thì nó vẫn hiện hữu và sừng sững như cội
thông già trên trường sơn lộng gió …
Thơ trải xuống em nằm phơi
nhan sắc
Chăn gối nghiêng đợi hơi thở tượng hình
Dựng lại trần gian riêng mình một cõi
Để cuộc đời muôn thuở vẫn còn trinh.
(Bài tình xuân muôn thuở – Thơ Hư Vô)
Chăn gối nghiêng đợi hơi thở tượng hình
Dựng lại trần gian riêng mình một cõi
Để cuộc đời muôn thuở vẫn còn trinh.
(Bài tình xuân muôn thuở – Thơ Hư Vô)
I – Ngôn Ngữ Thơ Hư Vô Với Ẩn
Dụ Văn Chương
1 – Vài nét về nhà thơ Hư Vô
Thi sĩ Hư Vô tên thật là
Hùng Võ, quê quán An Xuyên, tỉnh Cà Mau cuối trời Việt Nam, tuổi Kim Ngưu, nghề
nghiệp kiến trúc sư, tốt nghiệp viện đại học kiến trúc Saìgon. Đã có nhiều bài
viết đăng trên sách, báo, tạp chí văn chương…xuất bản tại Huê Kỳ, Gia Nã Đại,
Úc Đại Lợi… và trên những trang Web trên thế giới. Hiện là chủ biên trang thơ
trên bán tuần báo Việt Luận Úc Châu, Phó chủ bút Văn Đàn Đồng Tâm Huê Kỳ, chi
nhánh Úc Châu.
Những tác phẩm đã phát hành:
Thành Phố Anh Đến (thơ 1974), Chúng Mình Mất Hết , Chỉ Còn Nhau (thơ 2007), Tuyển
Tập 6 Nhà Thơ Úc Châu (thơ 2010, in chung với 5 tác giả khác), Người Tình Hư
Vô (thơ 2011) và CD Người Tình Hư Vô (2011, gồm 12 bài thơ Hư Vô, nhạc sĩ
Phạm Quang Ngọc phổ nhạc).
2 – Khái luận về ngôn ngữ thơ
Trong tác phẩm Văn Đàn Bảo
Giám của học giả Trần Trọng Kim xuất bản năm 1926 có bài thơ “Khóc Bằng Phi “của
thi hào Dục Tông (Hoàng đế Tự Đức) có hai câu thơ mà hồn thơ ngân vang lời yêu
thương miên viễn, ý thơ gợi bóng và hình quyện vào nhau trong một lời thơ mang
nặng âm hưởng Duy thực Luận với những nét đẹp tính thủy chung trong tình yêu diễm
ảo:
Đập cổ kính ra tìm thấy bóng
Xếp tàn y lại để dành hơi
Xếp tàn y lại để dành hơi
Hỡi thế nhân! hãy xếp tàn y
lại mà nghe tình yêu thăng hoa, tỏa mùi trinh nguyên ónh ánh, những ngại ngùng
thẹn thùng, da diết, quấn quít…của đôi tâm hồn son trẻ, có cùng một hướng nhìn
về tương lai…theo những bản tình ca dìu dịu; tràn ngập hương nồng của những nụ
hôn đầu đời không vướng bận những hạt bụi trần:
Có gì đâu để phân vân
Ta và em, hạt bụi trần, thế thôi
Đời sau, em được làm người
Đừng quên da thịt, một thời cõi ta…
(Cõi hoang – Thơ Hư Vô)
Ta và em, hạt bụi trần, thế thôi
Đời sau, em được làm người
Đừng quên da thịt, một thời cõi ta…
(Cõi hoang – Thơ Hư Vô)
3 -Vài nét về cấu trúc ngôn
ngữ thơ Hư Vô:
Ngày nay khoa ngữ học văn chương
đã xử dụng phương pháp đối chiếu ngôn ngữ để phân biệt ngôn ngữ văn học thông dụng
và ngôn ngữ thơ nhạc:
Ngôn ngữ văn học bao gồm ngôn ngữ đối thoại, thư từ, thông cáo, quyết định …. lấy ý niệm thực tế làm căn bản, mang tính thực dụng và đặt trên quan hệ viết và đọc vì thế phải rõ ràng, trong sáng, thực dụng … và ngôn ngữ thơ mang nặng tính trừu tượng với nhiều ẩn dụ, có tính hư cấu…vì thế nó những đặc tính sau :
Ngôn ngữ văn học bao gồm ngôn ngữ đối thoại, thư từ, thông cáo, quyết định …. lấy ý niệm thực tế làm căn bản, mang tính thực dụng và đặt trên quan hệ viết và đọc vì thế phải rõ ràng, trong sáng, thực dụng … và ngôn ngữ thơ mang nặng tính trừu tượng với nhiều ẩn dụ, có tính hư cấu…vì thế nó những đặc tính sau :
- Tính đích thực và hàm nghĩa
(Connotation): mang nặng nhiều cảm tính nhưng vô thủy vô chung, hiện hữu thực tế,
trường tồn và bất biến…nó phản ảnh chính nó bao gồm những ưu tư, phiền muộn, tương
đắc, lãng mạn, tha thiết, ray rức, cảm thông …
Lần đầu môi biết tìm môi
Nhọn tựa chiếc lá đâm chồi gai non
Đẹp như con gái Sàigòn
Đêm ngồi xõa tóc cho còn thơ ngây
(Lá đêm - Thơ Hư Vô)
Nhọn tựa chiếc lá đâm chồi gai non
Đẹp như con gái Sàigòn
Đêm ngồi xõa tóc cho còn thơ ngây
(Lá đêm - Thơ Hư Vô)
- Tính nghịch lý
(Paradox): Mang nặng tính trừu tượng, không cụ thể, thiếu tính thực dụng,
quy chiếu “tri và hành“…nên nó vươn mình theo óc tưởng tượng của thi nhân mặc
cho không gian có đổi thay, thời gian có lửng lờ trôi theo ngàn năm mây bay… nó
vẫn hiện hữu như từng hiện hữu: đây là một thực tế sinh động với muôn ngàn hệ lụy
….
Từ đêm tháng bảy môi trần
Em ngồi trang điểm dự phần dung nhan
Tim tôi cửa nẻo hoang tàn
Có em khép mở ngổn ngang một đời….
Cũng may còn nửa đời sau
Để mưa ngâu kịp bắc cầu em qua
Mong manh như dãy lụa là
Em từ huyền thoại bước ra muôn trùng
(Sinh nhật tháng bảy – Thơ Hư Vô)
Em ngồi trang điểm dự phần dung nhan
Tim tôi cửa nẻo hoang tàn
Có em khép mở ngổn ngang một đời….
Cũng may còn nửa đời sau
Để mưa ngâu kịp bắc cầu em qua
Mong manh như dãy lụa là
Em từ huyền thoại bước ra muôn trùng
(Sinh nhật tháng bảy – Thơ Hư Vô)
- Tính đa hiệu
(Plurisignation): Ngôn ngữ thơ dù được gieo mầm ở bất cứ khung trời nào và dù
phải trải qua bao tình huống khó khăn khắc nghiệt của thời tiết nó vẫn mãi cưu
mang những tình cảm của con người như: suy tư, cảm xúc, thương yêu ….và luôn
luôn được thi nhơn thẫm mỹ hóa bằng những thực hữu cho lời thơ thăng hoa vậy.
Trong ngôn ngữ thơ phải ẩn
tàng, chất chứa ngữ âm, điệu bộ, dáng dấp …của nhà thơ. Qua cảm xúc của thi
nhân, ngôn ngữ thơ mang đầy đủ nhạc điệu, tiết tấu, âm thanh .. được gói trọn vẹn
trong lời thơ cho nên ngôn ngữ thơ luôn luôn mang tính đồng nhứt, toàn diện, mạch
lạc, trong sáng ..
Tính thực dụng hay khả năng
cảm nhận qua những mẫu đối thoại, những tình tiết, những cảnh ngộ, những tâm
tình … của từng nhân vật được thi nhân diễn tả…và người đọc cảm nhận bằng trực
giác, tri giác, tình cảm…: Thì hồn thi ca sẽ xuất hiện như ngôn ngữ mà nó
được mô tả, nhưng nó cũng chính là nó…Vậy tính đa hiệu của ngôn ngữ thơ
dẫn người đọc đến ý niệm chủ định (intentionalism), cho nên chữ nghĩa thơ văn
mà nhà thơ Hư Vô xử dụng đầy tính“Duy Thực Luận“ phản ảnh những tình cảm, những
thương yêu, những cảm xúc…thật tuyệt vời với bao nhiêu sinh thức vẫn hiện hữu
trong con người …
Tám mươi năm, mẹ vẫn còn ngồi
đợi
Thằng con trở lại với cội với nguồn
Để thấy tóc mẹ trổ màu bông bưởi
Rụng xuống thơm tho, trắng cả góc vườn….
Tám mươi năm mẹ vẫn ngồi vá áo
Mắt nhạt nhòa theo mũi chỉ đường kim
Kim khâu cả đời chưa lành nỗi nhớ
Thì sợi chỉ nào vá nổi trái tim…
(Tám mươi năm , mẹ vẫn ngồi đợi - Thơ Hư Vô)
Thằng con trở lại với cội với nguồn
Để thấy tóc mẹ trổ màu bông bưởi
Rụng xuống thơm tho, trắng cả góc vườn….
Tám mươi năm mẹ vẫn ngồi vá áo
Mắt nhạt nhòa theo mũi chỉ đường kim
Kim khâu cả đời chưa lành nỗi nhớ
Thì sợi chỉ nào vá nổi trái tim…
(Tám mươi năm , mẹ vẫn ngồi đợi - Thơ Hư Vô)
Mẹ Việt Nam ơi! tám mươi năm
mẹ vẫn ngồi đợi, vẫn chờ những người con vong thân trên bờ ảo mộng duy vật, đã
gây không biết bao nhiêu chinh chiến điêu linh, bao hoang tàn đổ nát, bao hận
thù dân tộc…với hàng triệu thây người gục ngã…và bây giờ đây quê hương Việt Nam
mãi điêu linh khốn khổ… và đang đứng trên bờ hiểm họa diệt vong thì sợi chỉ nào
vá nổi trái tim của Mẹ! Mẹ Việt Nam ơi!…..: Thơ Hư Vô mang bầu nhiệt huyết sục
sôi niềm uất ức, nghẹn ngào, thương cảm mẹ Việt Nam và niềm hy vọng vẫn là ước
mơ những người con lầm đường lạc lối hãy quay về với cội nguồn dân tộc…
Thi nhân sống với niềm cảm
xúc dâng trào quyện vào với bao kỷ niệm của những tháng ngày dĩ vãng…được diễn
tả bởi những ngôn ngữ về dĩ vãng như: buị thời gian, đằng đẵng mấy mùa thu, héo
hon đợi chờ, thời ấu thơ, mơ ước của ngày xanh ….
Như dòng sông chia hai nhánh
rẽ
Lòng vẫn y nguyên những ngọt ngào
Mơ ước một lần, dù ít ỏi
Có em bên đời, sống chết như nhau
(Chúng mình mất hết, chỉ còn có nhau - Thơ Hư Vô)
Lòng vẫn y nguyên những ngọt ngào
Mơ ước một lần, dù ít ỏi
Có em bên đời, sống chết như nhau
(Chúng mình mất hết, chỉ còn có nhau - Thơ Hư Vô)
“Sống chết như nhau“, một ý
niệm về sự hiện hữu của thân xác và tâm linh được thi nhân xử dụng để diễn tả ý
niệm thời gian theo quy trình tạo dựng và phá hủy của mọi vật thể hữu hình: một
tri thức bắt đầu bằng trực giác và nó cũng chính là cảm giác.
Vào Duy Lý Luận của đại triết
gia Kant, Immanuel (1724 - 1804) thì đối tượng của trực giác là hiện tượng
(Erscheinung, Appearance) bao gồm yếu tố vật chất và hình thể của hiện tượng và
hình thể thuần tuý của cảm giác là không gian và thời gian mà không gian là
hình thức của tất cả cảm giác ngoại tại và thời gian là hình thức cảm giác nội
tại. Vậy căn cứ vào những yếu tố kể trên, mọi người thừa nhận rằng đại triết
gia Kant, Immanuel và ngay cả thi sĩ Hư Vô có cùng một nhận thức mang dấu ấn
Duy Lý Luận trong văn chương.
Quả thực vậy con người nhận
biết vạn vật qua hiện tượng (Erscheinung, Appearance) và trí năng
(understanding): vậy trí năng là khả năng suy tư các dữ kiện bằng ý niệm và kết
hợp với cảm giác tạo thành tri thức về các đối tượng: ngôn ngữ thơ của thi sĩ Hư
Vô mang dấu ấn Duy Lý Luận trong cuộc hành trình tìm kiếm giá trị đích thực của
Chân, Thiện, Mỹ là tìm về bản thể (substance) là phạm trù đầu tiên cùa mọi vât
thể:
Ta ngồi giữa lúc ta đi
Đường trần riêng một lối về, đó em
Mất nhau chưa kịp gọi tên
Trăng khuya mãn nguyệt, miếu đền bỏ hoang…
(Đợi trăng - Thơ Hư Vô)
Đường trần riêng một lối về, đó em
Mất nhau chưa kịp gọi tên
Trăng khuya mãn nguyệt, miếu đền bỏ hoang…
(Đợi trăng - Thơ Hư Vô)
Thi hào Trần tử Ngang xúc động
trước sự hửng hờ của thời gian: thời gian vẫn cứ quay đều, không ngừng nghỉ: một
sự yên lặng kinh hồn: như vạn lời thơ vô ngôn:
Tiền bất kiến cổ nhân
Hậu bất tri lai giả
Niệm thiên địa chi du du
Độc thương nhiên nhi thế hạ
Đăng U Châu Đài Ca thơ Trần tử Ngang
Dịch nghĩa:
Hậu bất tri lai giả
Niệm thiên địa chi du du
Độc thương nhiên nhi thế hạ
Đăng U Châu Đài Ca thơ Trần tử Ngang
Dịch nghĩa:
Ai người trước đã qua
Ai người sau sẽ tới
Ngẫm trời đất mông lung
Lòng ta rơi lệ thảm
Dịch thơ:
Ai người sau sẽ tới
Ngẫm trời đất mông lung
Lòng ta rơi lệ thảm
Dịch thơ:
Hướng về trước, người xưa vắng vẽ
Ngoảnh lại sau, quạnh quẽ cô đơn
Ô hay trời đất dài lâu
Lòng ta ngấn lệ, hạt sầu rụng rơi
(“Bài ca lên đài U Châu“ thơ TTN, VTV dịch)
Ngoảnh lại sau, quạnh quẽ cô đơn
Ô hay trời đất dài lâu
Lòng ta ngấn lệ, hạt sầu rụng rơi
(“Bài ca lên đài U Châu“ thơ TTN, VTV dịch)
Vậy căn cứ vào tính đa hiệu
của ngôn ngữ thơ, thơ của thi sĩ Hư Vô hàm chứa tính minh triết của những sự vật
hiện thưc và tính thực hữu của “Tiến trình thực hữu của những hiện thực“ (Ordre
des coexistences và “Tiến trình biến thể của những sự việc sẽ hiện hữu“ (Ordre
des successions possible) theo quy trình sinh diệt của thời gian. Ngôn ngữ thơ
Hư Vô phản ảnh những hình thái sinh động của trực giác có được qua kinh nghiệm,
xuất phát từ ý niệm chủ quan của chủ thể, được xếp vào loại lý tưởng siêu nhiên
(idéaltité hanscendantale) phát triển từ khối óc thông tuệ của một tâm hồn đầy
huệ khí và được chứng nghiệm bởi những cảm nhận với chiều sâu thẳm của cảm tính
tình cảm, tri thức được gạn lọc qua ý thức (donnée immediate de la conscience)
và thăng hoa cho lòng thương yêu tràn ngập con tim thế nhân vì thế nó vượt ra
khỏi phạm trù ngôn ngữ văn học và luận lý biện luận và phản biện; đây là hồn vô
ngôn của thơ Hư Vô, là thủ pháp văn chương ẩn hiện những nét đẹp thẫm mỹ của
ngôn ngữ (tính cân đối), vừa tinh anh trung thực như là chân lý hữu thể: Chân,
Thiện, Mỹ;
Ngồi xuống đi em, chiều đã
giáp
Cùng anh uống cạn chén bạc đầu
Ba muơi năm cũng đâu dài lắm
Chắc gì đã đủ để quên nhau
(Quán tao phùng – Thơ Hư Vô)
Cùng anh uống cạn chén bạc đầu
Ba muơi năm cũng đâu dài lắm
Chắc gì đã đủ để quên nhau
(Quán tao phùng – Thơ Hư Vô)
Thi phẩm Người Tình Hư Vô
II – Nét Khúc Xạ Trong Thơ
Tình Lãng Mạn của Hư Vô
Vào thế giới chữ nghĩa văn
chương của một nền văn hóa là con người mở một cuộc hành trình đi tìm “Chân,
Thiện, Mỹ “để làm phong phú đời sống tâm linh nhằm xây dựng hạnh phúc của cuộc
sống hiện tại và khai triển những ước mơ cho một ngày mai tươi đẹp. Trong tiến
trình đó, thi sĩ Hư Vô, đã xử dụng một bút pháp văn chương đầy tính khai phóng
để diễn tả những tư tưởng mới, đầy màu sắc của những hoa thơm, cỏ lạ …của
ngôn ngữ thơ…để tô điểm những cảm xúc tuyệt vời của thi nhân và trân trọng nó
cũng như hơi thở của chính mình nhằm ca ngợi sự tự do suy nghĩ, viết
lách…: mà tự do suy nghĩ và sáng tác chính là những tâm thức sinh động của
tất cả những hữu thể tự quy.
Nếu định nghĩa: “văn hóa là
tòan bộ những thụ đắc về văn chương, nghệ thuật, thủ công nghiệp, kỹ thuật,
khoa học, phong hóa, luật lệ, cơ chế, tục lệ truyền thống, cách suy nghĩ, cách ứng
xử và xử dụng thuộc mọi lãnh vực, những lễ nghi, những thần thoại và tin tưởng:
tạo nên một di sản cộng đồng và đặc tính của cả nước, một dân tộc hay một nhóm
sắc dân, một quốc gia …” Căn cứ vào định nghĩa nói trên và dựa vào sự khai
phóng ngôn ngữ thơ của Hư Vô , mọi người sẽ cảm nhận được lý tính văn học và những
ý nghĩa tốt đẹp văn chương và những tư tưởng trong sáng của suy tư, của ước mơ
… với mục đích hoàn thiện tâm linh của con người hay một cộng đồng thì có thể
nói, thi sĩ Hư Vô: một nhà thơ khiêm ái, đầy mẫn cảm và là một người hoạt động
văn hóa cộng đồng
Ghềnh khơi con nước động
tình
Mùa thu cởi áo, phơi hình hài em
Tơ vàng trải lối chưa quen
Ngại em dốc lạ, đường trơn khó vào…
(Người tình Hư Vô – Thơ Hư Vô)
Mùa thu cởi áo, phơi hình hài em
Tơ vàng trải lối chưa quen
Ngại em dốc lạ, đường trơn khó vào…
(Người tình Hư Vô – Thơ Hư Vô)
Vào thu, muôn lá vàng bay và
cây sẽ trơ trụi lá trong đông tàn lạnh lẻo: Nhưng cây vẫn sống và em vẫn sống,
em phải sống cho dù em phải thay áo mùa thu, hơi thu khẽ lạnh khi gió heo mây về
và vào những ngày đông tàn lạnh lẻo và khi niềm cô đơn đã lên ngôi: Cây phải
thay lá và đổi màu lá theo bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông: Để cây sống còn, và cây
vẫn sống và nó chính là nó: thơ Hư Vô: Hồn Vô Ngôn.
Thơ Hư Vô: Hồn Vô Ngôn và
Duy Thực Luận của triết gia Aristotle có cùng luận lý triết học và cả hai cùng
có một nền móng tư tưởng về “cái chung của hữu thể sự vật“ . Duy thực Luận của
đại triết gia Aristotle đặt “cái chung của hữu thể sự vật“ trên các phạm trù bất
biến và tri thức cảm giác của con người vào cái chung trong các phạm trù : “bản
thể, phẩm chất, số lượng, liên hệ nhân quả, không gian, thời gian, vị trí, trạng
thái , tác động và thụ động”.
Và nếu mọi người cảm nhận rằng
tri thức của con người được hình thành như là bản thể của Đại Ngã, thì con người
khi đã hiểu hay đã giác ngộ được thân phận nhỏ bé, sự hiện hữu vô thường, cái
có và không, quy luật sinh diệt, cái chết ở một ngày mai …tất cả thuộc về tương
lai vô định, tức là con người đã thoát ra khỏi Tiểu Ngã mê lầm mà hòa nhịp cộng
hưởng cùng Đại Ngã mà Đại Ngã chính là nguyên nhân vận hành vũ trụ, có quyền
năng trên sự sống của vạn vật: Đó chính là lẽ sinh tồn của vũ trụ,
Thơ Hư Vô đã thoát ra khỏi
Tiểu Ngã của chính thi nhân và quyện vào Đại Ngã vũ trụ: Triết gia Aristotle, đại
tiền bối và nhà thơ Hư Vô, tiểu hậu sinh, cùng quy chiếu vào Đại Ngã và cả hai
có cùng nhân sinh quan nhóm màu Duy Thực Luận:
Bàng hoàng ta hất tung giấc
mộng
Vẫn thấy em còn giữa mênh mông
Hồn phách chia lìa đêm lạnh cóng
Thật có em, thật có ta không?
(Sắc không–Thơ Hư Vô)
Vẫn thấy em còn giữa mênh mông
Hồn phách chia lìa đêm lạnh cóng
Thật có em, thật có ta không?
(Sắc không–Thơ Hư Vô)
1 - Vẻ Đẹp Văn Chương Qua
Chân Lý Hữu Thể Của Nhà Thơ Hư Vô
Những trang thơ tình lãng mạn
của Hư Vô hiển lộ những nét chấm phá đầy tính khai phóng trong ngôn ngữ thơ và ẩn
hiện tinh thần Duy Lý Luận văn chương của Ammunuel, Kant và lại có
cùng bản thể Duy Thực Luận của Aristotle: Đó chính là những nỗi đam mê đầy
cảm xúc tự quy khi tư tưởng của thi nhân trải dài theo không gian vô hạn và thời
gian vô định của vũ trụ,và những cảm xúc tuyệt vời này chính là món quà vô giá
mà thi nhân Hư Vô hiến dâng cho đời :
Một đóa dã quỳ ai đánh rớt
Nằm phơi lăn lóc lối tình nhân
Tôi biết ngày mai em sẽ khóc
Cho người khách lạ tưởng chưa thân…
(Quán tình nhân – Thơ Hư Vô)
Nằm phơi lăn lóc lối tình nhân
Tôi biết ngày mai em sẽ khóc
Cho người khách lạ tưởng chưa thân…
(Quán tình nhân – Thơ Hư Vô)
Và nếu men vào nền văn chương
của nhân loại, mọi người đã rõ, đại thi hào Wordsworth, William ( 1770 – 1850 )
một thi nhân vĩ đại trong nền văn học nước Anh (một đế quốc mà mặt trời không
bao giờ lặn = The empire on wich the sun never sets) thì nhận ra rằng thi hào
đã để lại nhiều tác phẩm văn chương vô cùng giá trị: The prelude, The excursion
, Description of the scenery of the lakes in North Angland, The white Doe of
Rylstone, Letter to a friend of Burns, The river Dudlon , yarrow revisited,
poems chiefly of early and late years ….
Với tính khai phóng văn chương
và biệt tài xử dụng ngôn ngữ thơ, thi hào Wordworth, William đã diễn tả niềm cảm
xúc tuyệt vời trước những nét hùng vỹ, uy linh của núi rừng xanh thẳm, của những
huyền diệu kỳ bí của thiên nhiên, và như những vần thơ:
All things that love the sun
are out of doors,
The sky rejoices in the morning ‘s birth,
The grass is bright with raindrops; – on the moors
Thehare is running races in her mirth …
The sky rejoices in the morning ‘s birth,
The grass is bright with raindrops; – on the moors
Thehare is running races in her mirth …
Thi hào Wordsworth, William
đã khai sinh một trời thơ trữ tình lãng mạn của nền văn chương nhân loại, ông
đã dẫn dắt thế nhân vào khung trời mộng mơ huyền diệu với biết bao nguồn cảm
xúc với một văn phong đặc biệt mà cho đến mấy thế kỷ sau, một kẻ hậu sinh, thi
sĩ Hư Vô cũng có cùng niềm cảm xúc, có cùng nguồn suối suy tư và biệt tài xử dụng
ngôn ngữ thơ đầy nét tương đồng và mỗi người một vẻ:
Bàn tay mấy ngón tình nhân
Ngón nào đeo nhẫn đợi lần hứa hôn
Nhẫn tôi liễu óng tơ tròn
Kề em nhan sắc còn thơm da người..
(Đêm mơ Thánh nữ – Thơ Hư Vô)
Ngón nào đeo nhẫn đợi lần hứa hôn
Nhẫn tôi liễu óng tơ tròn
Kề em nhan sắc còn thơm da người..
(Đêm mơ Thánh nữ – Thơ Hư Vô)
Thi hào Wordsworth William
và kẻ hậu sinh Hư Vô đã xử dụng ngôn ngữ thơ vô cùng chính xác, chuẩn mực,
trong sáng và thuần nhất về nội dung và hình thức văn tự. Về nôi dung là chất
liệu căn bản, là bản thể bất biến của chính nó…và về hình thức, ngôn ngữ thơ phải
mang đầy đủ tính cân đối, tính trong sáng và thẩm mỹ … như vẻ đẹp của một loài
hoa, vẻ oai linh của núi rừng xanh thẳm, vẻ kiêu hùng của người lính chiến, vẻ
đẹp đài cát quý phái của những mệnh phụ đầy hấp lực… và nó được xem là biểu tượng
của chân lý nhưng nó vẫn không phải là chân lý vì chân lý không dựa vào ngôn ngữ
mà có được, và chân lý tự nó tỏa ánh hào quang rực rỡ như hai vừng nhật nguyệt
trong sáng trên bầu trời xanh thẳm: Nó trường tồn và bất biến
Em về soi lại dung nhan cũ
Thấy có còn tôi giữa muôn trùng
Từ đêm rượu ướt đôi môi đỏ .
Nhỏ xuống hư vô dấu nguyệt trần …
(Lưng nguyệt – Thơ Hư Vô)
Thấy có còn tôi giữa muôn trùng
Từ đêm rượu ướt đôi môi đỏ .
Nhỏ xuống hư vô dấu nguyệt trần …
(Lưng nguyệt – Thơ Hư Vô)
Vẻ đẹp trong chân lý hữu thể
của ngôn ngữ thơ Hư Vô chính là một nhân sinh quan sinh thực, ẩn tàng trong cuộc
sống trầm lặng của thế nhân vì thế con người muốn khám phá, thưởng ngoạn
những vẻ đẹp kỳ bí của thiên nhiên, của đất trời bao la, của những thăng trầm của
cuộc đời … thì ít nhất cũng phải sống trọn vẹn, đầy tình nghĩa .. cho hiện tại
sinh thực và không nhìn về dĩ vãng với bao niềm luyến tiếc của một thời quá khứ
mà bất mãn với hiện tại đầy nhiêu khê trắc trở của cuộc đời và vẽ vời một tương
lai không thực cho một ngày mai mờ ảo .
Vậy qua ngôn ngữ thơ Hư Vô,
nếu muốn tìm về chân lý hữu thể, mọi người đều phải có một cái nhìn vô cùng
khách quan, trung thực, chính xác…về cái Tiểu Ngã, bản thân tự quy, cái nhân
sinh quan hiện thực vào cuộc sống của chính mình, cho mình về mọi khía cạnh của
cuộc sống hiện tại và tương lai của chính mình:
Bài thơ viết nửa đời còn
dang dở
Bởi anh quên tóc em chẻ bên nào
Tìm nhau theo dấu mòn ngày tháng cũ
Trăng quên tròn, biết tóc chẻ về đâu!….
Về đâu trăng chơi vơi bờ bến
Lối em qua bóng ngã bên nào
Anh nghiêng xuống nỗi buồn mọc nhánh
Bài thơ viết tiếp nửa đời sau…
(Mái tóc ngang đời – Thơ Hư Vô)
Bởi anh quên tóc em chẻ bên nào
Tìm nhau theo dấu mòn ngày tháng cũ
Trăng quên tròn, biết tóc chẻ về đâu!….
Về đâu trăng chơi vơi bờ bến
Lối em qua bóng ngã bên nào
Anh nghiêng xuống nỗi buồn mọc nhánh
Bài thơ viết tiếp nửa đời sau…
(Mái tóc ngang đời – Thơ Hư Vô)
Nếu có người tìm kiếm hồn thơ
Hư Vô mà giống như vô tình nhìn mặt nước hồ thu êm đềm, không một gợn sóng tung
tăng thì có cảm nghĩ thi sĩ Hư Vô, một kiến trúc sư, một họa đồ sư hơn là một
nhà phân tâm học hay một thi nhân mang nhiều ấn dấu Duy Thực Luận vì lời
thơ đã nhóm màu triết học khi đi tìm chân lý hữu thể với một tâm thức sinh thực
bằng một văn phong độc đáo như đã trình bày ở trên và cũng chính nó đã mang
tính khoa học thực dụng để diễn tả một bản thể tự quy trên con đường tìm về
Chân – Thiện – Mỹ: Hồn thi nhân cũng giống như lời thơ rồi sẽ lướt qua bao biển
dâu khổ lụy, bao nỗi thăng trầm của thế giới vô thường, biến động của không
gian, của thời gian… và hy vọng rằng nó sẽ mãi mãi trường tồn
trong vũ trụ nhân luân, khá đẹp thay!
Nửa đêm pha rượu vào nhan sắc
Vườn khuya đã động khúc nguyệt cầm
Mùa thu như thoáng chiêm bao tới
Theo bước em qua lối thăng trầm..
(Lưng nguyệt – Thơ Hư Vô)
Vườn khuya đã động khúc nguyệt cầm
Mùa thu như thoáng chiêm bao tới
Theo bước em qua lối thăng trầm..
(Lưng nguyệt – Thơ Hư Vô)
2 – Vào cõi Hư Vô
Thơ tình lãng mạn của thi sĩ
Hư Vô thể hiện tình yêu mến thiên nhiên, những nét đẹp hùng vỹ của quê hương,
những ân tình giữa những con người với nhau…, thi nhân đã cho người đọc những
cảm giác bùi ngùi, nhớ nhung, thương tiếc… những giọt máu nhỏ xuống thành thơ
…thi nhân đã mời thế nhân vào cõi Hư Vô… Để: trả em nhan sắc buồn vô tội của
những mùa thu lá bay ngập 36 phố phường …. quê hương yêu dấu
Tôi vẽ em, mùa Thu Hà Nội
Lá bàng trôi tím mặt Hồ Gươm
Em bước qua bóng còn ở lại
Để tôi mắc nợ những con đường .….
Tôi vẽ em, mùa Thu phố lạ
Chờ nghe hương cốm ngọt môi quen .
Để nước mắt chia vào hai ngả
Chảy thành giọt máu xuống đời em ..
(Tôi vẽ em mùa thu – Thơ Hư Vô)
Lá bàng trôi tím mặt Hồ Gươm
Em bước qua bóng còn ở lại
Để tôi mắc nợ những con đường .….
Tôi vẽ em, mùa Thu phố lạ
Chờ nghe hương cốm ngọt môi quen .
Để nước mắt chia vào hai ngả
Chảy thành giọt máu xuống đời em ..
(Tôi vẽ em mùa thu – Thơ Hư Vô)
Thi Sĩ Hư Vô và Nữ Sĩ Thụy
Khuê
Nếu chúng ta đi tìm hiểu gía
trị đích thực của cuộc sống mà vào cõi mù không của tâm thức và rồi phải từ biệt
nó để ra đi và đi vào cõi hư vô ….và nếu luận gía trị đích thực này bằng
ngôn ngữ “sắc -sắc, không – không“ theo kinh “Trí Huệ Đáo Bỉ Ngạn“
của Phật Giáo Đại Thừa thì chúng ta nhận biết rằng “sắc“ ám chỉ sự vật và
“không“ám chỉ hữu thể, thì thế nhân nhận diện được những ẩn dụ tuyệt vời trong
thơ tình lãng mạn của thi sĩ Hư vô trong cõi chân không vô thức:
Tôi lần mò giữa hư không
Trượt chân vấp xuống cuối dòng nhân gian
Vườn em xưa đã lỡ làng
Trăng khuya quay mặt sang ngang ngửa đời….
Đường trần mất lối dấu yêu
Bóng tôi đổ dốc ngược chiều trăm năm….
Ngày em tóc xõa theo chồng
Có nghe sám hối động phòng cô dâu?
(Chân không - Thơ Hư Vô)
Trượt chân vấp xuống cuối dòng nhân gian
Vườn em xưa đã lỡ làng
Trăng khuya quay mặt sang ngang ngửa đời….
Đường trần mất lối dấu yêu
Bóng tôi đổ dốc ngược chiều trăm năm….
Ngày em tóc xõa theo chồng
Có nghe sám hối động phòng cô dâu?
(Chân không - Thơ Hư Vô)
Và nếu một mai không còn một
ai cùng ta chung bước đồng hành và cuộc hành trình đơn lẻ thì thế nhân cảm nhận
nỗi cô đơn tận cùng của một kiếp người, thi sĩ Hư vô đã cho chúng ta hiểu những
thấm thía của nỗi cô đơn của tâm hồn trước những mênh mông của không gian vô hạn
và thời gian vô định; Suy luận theo phân tâm học thì tiềm thức (vô thức) chi phối,
điều khiển ý thức, thì chúng ta hiểu rằng chân lý của hữu thể không phải là ý
thức, mà nó cũng không phải là tiềm thức (vô thức). Hữu thể không tìm thấy
trong chủ thể dù là ý thức hay vô thức cho nên thơ của thi sĩ Hư Vô như niềm vô
thức trào dâng mời gọi một ý thức tuyệt vời để ta được cùng em mãi sánh bước
bên nhau để ngàn năm mãi mãi yêu em ….tình nhân ơi! đã tới cuối đường cùng: một
sinh lộ mới cho cuộc hành trình của một ngày mai tươi sáng, mà hiện tại là dĩ
vãng của ngày mai :
Ta thầm ước kim đồng hồ quay
ngược
Cho nụ hôn còn được kéo dài thêm
Sân ga nhỏ, hắt hiu buồn man dại
Từng chuyến tàu đang chạy tới vô biên….
Ta vẫn biết xoay lưng là vĩnh biệt
Tình nhân ơi! đã tới cuối đường cùng….
Tay ta ngắn, vuốt chưa dài sợi tóc
Vói cả đời không giáp một mùi hương….
Tàu chở bể dâu, biết đâu bờ bến ,
Đường trăm năm còn có lối quay về?!
(Tình nhân ơi, đã tới cuối đường cùng - Thơ Hư Vô)
Cho nụ hôn còn được kéo dài thêm
Sân ga nhỏ, hắt hiu buồn man dại
Từng chuyến tàu đang chạy tới vô biên….
Ta vẫn biết xoay lưng là vĩnh biệt
Tình nhân ơi! đã tới cuối đường cùng….
Tay ta ngắn, vuốt chưa dài sợi tóc
Vói cả đời không giáp một mùi hương….
Tàu chở bể dâu, biết đâu bờ bến ,
Đường trăm năm còn có lối quay về?!
(Tình nhân ơi, đã tới cuối đường cùng - Thơ Hư Vô)
Và nếu một mai thế nhân ghi
nhận những huyền diệu văn chương trong thơ tình lãng mạn mà thi nhân đã cống hiến
cho đời thì những vần thơ chất chứa bao nỗi niềm, bao yêu thương, bao tâm sự của
những thi nhân…qua những bài thơ tình lãng mạn mãi mãi được mọi người tìm đọc,
suy gẫm, ca tụng …và mọi người rồi sẽ tự quay lại suy tư, hoài niệm cho tình cảm
chân thành, những ngang trái trong tình yêu của chính bản thân mình, thì hỡi cố
nhân ơi! người đang ở phương trời nào và có thấu cho hồn ta sẽ trôi dạt về đâu,
khi ta mãi nhớ thương hình bóng của cố nhân:
Mưa dầm gió bấc cố nhân ơi!
Áo rét nàng đan lỡ hẹn rồi
Sông lạnh khi nàng ra giũ lụa
Vớt giùm trong nước lấy hồn tôi
(Gởi Cố Nhân – Thơ Nguyễn Bính)
Áo rét nàng đan lỡ hẹn rồi
Sông lạnh khi nàng ra giũ lụa
Vớt giùm trong nước lấy hồn tôi
(Gởi Cố Nhân – Thơ Nguyễn Bính)
Khi nhà thơ gởi vào thi ca
niềm tâm sự u hoài của một cuộc tình say đắm là thi nhân đã trải rộng hồn mình
theo đất trời bao la như vạn lời than vãn, như là những thổn thức thật tuyệt vời
của con tim đang ấm nồng vì đang yêu và muốn được yêu: Đó chính là nét đặc trưng
của lời thơ tiếng nhạc quyện vào nhau; Thơ và nhạc là hai chị em song sinh, cho
nên khi thế nhân tỏ lòng yêu thương và mong muốn được bên kia đáp trả là lúc
đang khổ lụy vì yêu hay say đắm khi được yêu thì tình thơ lai láng và ý nhạc
ngân vang:
Quấn vào nhau đêm đang bùng
lửa
Đắm cuồng si theo phím nguyệt cầm
Đừng để mất nhau thêm lần nữa
Cuộc đời đâu dễ có trăm năm.
(Trăng mật – Thơ Hư Vô)
Đắm cuồng si theo phím nguyệt cầm
Đừng để mất nhau thêm lần nữa
Cuộc đời đâu dễ có trăm năm.
(Trăng mật – Thơ Hư Vô)
Những trở ngại về gia cảnh,
tôn giáo, chiến tranh… là những ngang trái, những nghịch cảnh có thể là những
nguyên nhân của sự không trọn vẹn cho một cuộc tình; để niềm thương nhớ mãi là
nỗi nhớ nhung ray rức, Xuân Diệu, một nhà thơ trong trường phái thi ca lãng mạn
cũng là nòi tình như thi sĩ Hư Vô, vương mang mùi tục lụy của thế nhân, và có
thể đồng bệnh tương lân …
Nằm đêm anh cứ thương em
Rơi nghiêng nước mắt một bên gối nằm
Thế này cho hết trăm năm
Đến muôn năm vẫn âm thầm thương em
(Nằm đêm Anh cứ thương Em – Thơ Xuân Diệu)
Rơi nghiêng nước mắt một bên gối nằm
Thế này cho hết trăm năm
Đến muôn năm vẫn âm thầm thương em
(Nằm đêm Anh cứ thương Em – Thơ Xuân Diệu)
Và trong cõi hư vô, từ thủa
khai thiên, nỗi buồn giao phối vẫn còn nguyên hình hài
…Tìm nhau một cuộc trầm luân
Biển xa mất dấu mưa trần trụi đau ….
…Tìm nhau một cuộc trầm luân
Biển xa mất dấu mưa trần trụi đau ….
… Gọi tên em, gọi tình nhân
Từ đêm mông mị hóa thân ta về
Hình như đâu phải cơn mê
Bởi da thịt đã cận kề chiêm bao …
(Gọi tên em, tình nhân – Thơ Hư Vô)
Từ đêm mông mị hóa thân ta về
Hình như đâu phải cơn mê
Bởi da thịt đã cận kề chiêm bao …
(Gọi tên em, tình nhân – Thơ Hư Vô)
3 – Thay lời kết
Những tri thức dẫu mang nhiều
những dấu ấn nhọc nhằn của cuộc sống, những oan khiên của tình yêu, những bi lụy
và hoan ca của hạnh phúc….là những chất liệu của thơ tình lãng mạn và nó chỉ được
thăng hoa khi tâm tình đã được phơi bày trên Dòng Sông Biến Dịch của tư tưởng của
con người: Thi nhân đã hiến dâng cho đời những án thơ văn , những nhạc khúc diễm
tình…trên con đường đi tìm chân lý hữu thể của tình yêu: Phía bên này của Dòng
Sông Biền Dịch; thi nhân với lời thơ chất chứa không biết bao nhiêu say đắm,
yêu thương, nhớ nhung ….mà không bút mực nào có thể diễn tả cái hồn vô ngôn của
tình yêu …khi mất em rồi, xa em rồi:
Mất em rồi, đời anh kể bỏ
Nói năng gì cũng chỉ thất ngôn
Cho em dăm bài thơ viết dở
Mang theo chồng làm của hồi môn.
(Phá sản – Thơ Hư Vô)
Nói năng gì cũng chỉ thất ngôn
Cho em dăm bài thơ viết dở
Mang theo chồng làm của hồi môn.
(Phá sản – Thơ Hư Vô)
Bên kia bờ Bĩ Ngạn, thời
gian vẫn cứ lững lờ trôi, không gian sẽ thay màu…định mệnh của cuộc đời vẫn cứ
như những làn sóng xô đẩy nhau về chân trời vô định…và những tình cảm thương
yêu trong thơ tình lãng mạn chỉ còn là những nối kết của tình yêu, nuối tiếc,
hoài mong, nhung nhớ…để thế nhân mãi đi tìm “Chân Dung Tình Yêu“
Thương em mái tóc xõa dài
Chải trăm năm một hình hài đời sau
Này em, bước tới bể dâu
Chải chung hai nhánh cùng đau một lần
(Chải tóc- Thơ Hư Vô)
Chải trăm năm một hình hài đời sau
Này em, bước tới bể dâu
Chải chung hai nhánh cùng đau một lần
(Chải tóc- Thơ Hư Vô)
Nếu ánh sáng mặt trời chạm
vào vùng không gian có nhiều hơi nước thì nó sẽ khúc xạ nhiều lần và phát tán
phổ quang thành “cầu vồng hay mống hoặc ráng“ với bảy màu tổng hợp: đỏ, cam,
vàng, lục, lam, chàm, tím và thế nhân dựa vào đó mà tiên đoán thời tiết:
Mống dài trời lụt, mống cụt
trời mưa
Ráng mở gà trời gió, ráng máu chó trời mưa …
Ráng mở gà trời gió, ráng máu chó trời mưa …
Thơ tình lãng mạn của Hư Vô
khi vào vùng trời thương nhớ…thì nó cũng bị luồng địa nhiệt (Năng lượng từ
lòng đất: từ lõi hay trung tâm trái đất nhiệt độ từ 5.000 đến 7.000 độ C) làm
khúc xạ nhiều lần để vào “Duy Thực Luận“ và cho thế nhân bao lời thơ ngọt ngào
để ngợi ca tình yêu dẫu mai kia dù có thế nào thì tình yêu mãi mãi ngự trị
trong lòng nhân thế và mãi mãi không bao giờ thay đổi:
Tình yêu rất dịu dàng, rất rực
rỡ, rất ngọt ngào, rất hạnh phúc, rất vui tươi …nhưng nó vô cùng mong manh như
sợi nắng vàng của những bình minh muôn chim ca hát, như ánh trăng huyền diệu để
tiếng nhạc lời ca của 12 tình khúc do nhạc sĩ Phạm Quang Ngọc phổ từ thơ của Hư
Vô mãi ngân vang trong lòng nhân thế:
Buồn ngang vết cắt da đau
Bóng em hóa hạt bụi đào ngây ngô
Này em, ôm sát hư vô
Chải vào hoang phế hương bồ kết xưa …
(Chải tóc - Thơ Hư Vô)
Bóng em hóa hạt bụi đào ngây ngô
Này em, ôm sát hư vô
Chải vào hoang phế hương bồ kết xưa …
(Chải tóc - Thơ Hư Vô)
Châu Đại Dương, Vùng Biển Mặn
Vương Thiên Vũ
(Lão Đưa Đò Trên Dòng Sông Biến Dịch).
Vương Thiên Vũ
(Lão Đưa Đò Trên Dòng Sông Biến Dịch).
- Áo Hạ Vàng (Phạm Quang Ngọc phổ nhạc) Ca Sĩ Mai Thiên Vân (Youtube 1)
- Áo Hạ Vàng (Phạm Quang Ngọc phổ nhạc) Ca Sĩ Mai Thiên Vân (Youtube 2)
- Áo Hạ Vàng (Phạm Quang Ngọc phổ nhạc). Ca Sĩ Hòa Hiếu (Audio)
- Bài Tình Xuân Muôn Thuở (Trần Chương Lương phổ nhạc) . Ca Sĩ Quốc Duy (Youtube)
- Bím Tóc Hoa Vàng (Phạm Quang Ngọc phổ nhạc). Ca Sĩ Huy Bảo (Youtube)
- Cà Phê Đời (Phạm Quang Ngọc phổ nhạc). Ca Sĩ Đình Nguyên (Youtube)
- Còn Có Chút Em (Anh Bằng phổ nhạc). Ca sĩ Diệu Hiền (Youtube)
- Chúng Mình Mất Hết Chỉ Còn Nhau (Phạm Quang Ngọc phổ nhạc). Lã Anh Dũng (Youtube)
- Chải Tóc (Anh Bằng phổ nhạc). Ca Sĩ Mạnh Tuấn (Youtube)
- Dáng Thơ (Dáng Thơ phổ nhạc). Ca Sĩ Nhật Thanh (Youtube)
- Dòng Sông MùaThu (Phạm Quang Ngọc phổ nhạc). Ca Sĩ Mai Thiên Vân (Youtube)
- Dường Như Đã Chông Chênh (Lê Phú phổ nhạc). Ca Sĩ Diệu Hiền (Video)
- Dường Như Đã Chông Chênh (Lê Phú phổ nhạc). Ca Sĩ Nghiêm Lệ (Video)
- Em Qua Cầu Sương Trắng (Cung Nhật phổ nhạc). Ca sĩ Đình Nguyên (Audio)
- Em Vẫn Chờ…(Như Ngọc Hoa phổ nhạc). Ca Sĩ Vy Thảo (Youtube)
- Em Về Vướng Gót Mùa Thu (Mai Phạm phổ nhạc). Ca Sĩ Châu Thùy Dương (Audio)
- Gọi Tên Em, Tình Nhân (Phùng Việt Dũng phổ nhạc). Ca Sĩ Quốc Duy (Audio)
- Giọt Mưa Hạ Lan (Phạm Quang Ngọc phổ nhạc). Ca Sĩ Bích Hà (Youtube)
- Khúc Tình Thiên Thu (Hoàng Thanh Tâm phổ nhạc). Ca Sĩ Diệu Hiền (Audio)
- Khúc Tình Thiên Thu (Hoàng Thanh Tâm phổ nhạc). Ca Sĩ Diệu Hiền (Youtube)
- Lưng Nguyệt (Như Ngọc Hoa phổ nhạc). Ca Sĩ Nhật Huy (Youtube)
- Mái Tóc Ngang Đời (Phạm Quang Ngọc phổ nhạc). Ca Sĩ Đình Nguyên (Audio)
- Một Ngày Trăm Năm (Phạm Quang Ngọc phổ nhạc). Ca Sĩ Bích Hà (Youtube)
- Một Ngày Trăm Năm (Trần Chương Lương phổ nhạc). Ca Sĩ Quốc Duy (Audio)
- Một Ngày Trăm Năm (Trần Chương Lương phổ nhạc). Ca Sĩ Quốc Duy (Youtube)
- Như Không (Mai Đằng phổ nhạc). Ca sĩ Châu Thùy Dương (Audio)
- Phơi Áo Tình Nhân Ngày Giáp Tết (Anh Bằng phổ nhạc). Ca Sĩ Thụy Long (Youtube)
- Tên Em Việt Nam, Diễn ngâm Đào Thúy (Youtube)
- Tên Em, Việt Nam (Mai Đằng phổ nhạc). Ca sĩ Châu Thùy Dương (Audio)
- Thoáng Hương Phai (Phạm Quang Ngọc phổ nhạc). Ca Sĩ Hà My (Youtube)
- Trần Thiện Thanh, Giòng Nhạc Một Thời Chinh Chiến (Anh Bằng Thụy Long (Youtube)
- Vỉa Hè Tuổi Thơ (Phùng Việt Dũng phổ nhạc). Ca Sĩ Châu Thùy Dương (Audio)
- Vườn Xuân (Viễn Trình phổ nhạc). Ca Sĩ Thụy Long – Diệu Hiền (Youtube)
- Đêm Mơ Thánh Nữ (Phùng Việt Dũng phổ nhạc). Ca sĩ Quốc Duy (Audio)
- Đêm Mơ Thánh Nữ (Phùng Việt Dũng phổ nhạc). Ca Sĩ Quốc Duy (Youtube)
Vương Thiên Vũ
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét