Liên hệ dân ca - Ca dao
Dân Ca Cổ
Dân Ca Cổ (Ancient folk songs) còn tồn tại, nghĩa
là còn thấy có ít nhiều sinh hoạt trong đời sống Việt Nam vào khoảng đầu thế kỷ
20, gồm các loại hát như ru, lý, hò, ví, xẩm v.v... thường là những câu thơ
truyền miệng (oral poetry) được hát lên với nhạc điệu và nhịp điệu khác nhau,
tùy theo địa phương và công dụng của bài hát hoặc của loại hát. Dân ca cổ vẫn
được coi là sáng tác tập thể của nhân dân, của vô danh, dù đã có thuyết cho rằng
nó cũng phải bắt đầu từ một người nào đó, trong một thời đại nào đó, rồi vì có
giá trị cho nên đã được lưu truyền bằng cửa miệng và trở thành gia tài của tập
thể.
Dân Ca Mới
Dân Ca Mới (New folk songs) phát sinh vào giữa thập
niên 40 sau khi nền nhạc mới, được gọi là nhạc cải cách (về sau gọi là tân nhạc)
vừa ra đời và chịu ảnh hưởng của nhạc Âu Tây, rồi vì muốn cho tân nhạc có dân tộc
tính cho nên một số nhà cải cách thời đó đã quay về nghiên cứu dân ca cổ để khởi
sự từ cái vốn cũ, sáng tác những bản nhạc mà họ gọi là dân ca cải biên, dân ca
phát triển, dân ca phục hồi hay dân ca mới.
Bây giờ chúng ta hãy cùng nhau đi vào kho tàng của
dân ca cổ để tìm hiểu gia tài quý báu đó, trước khi đi tới dân ca mới.
Mối Liên Hệ
Dân Ca Cổ và Ca Dao
Trong ngành nghệ thuật bình dân cổ truyền Việt Nam,
đã có một sự liên hệ chặt chẽ giữa dân ca và ca dao. Dân ca cổ, như đã nói
trên, thường là thơ truyền miệng được hát lên. Muốn hiểu kỹ dân ca cổ, phải
nghiên cứu văn học dân gian trong đó có thi ca truyền miệng.
Thơ truyền miệng Việt Nam trong dĩ vãng đã mang
nhiều tên như ca dao, phong dao, đồng dao... và đã được nhiều học giả sưu tập,
nghiên cứu và san định. Ta thử đọc lại một số công trình biên khảo đó để xem
các vị tiền bối đã định nghĩa ca dao ra sao?
Ðịnh Nghĩa
Ca Dao
Theo Ôn
Như Nguyễn Văn Ngọc (Hà Nội 1928)
Vào khoảng đầu của thế kỷ 20, thơ truyền miệng
cũng đã được ghi chép lại bằng chữ Hán, chữ Nôm, chữ Quốc ngữ và cả bằng Pháp
ngữ nữa. Nhưng phải đợi tới công trình của một vị Thanh Tra Tiểu Học kiêm biên
khảo gia chuyên về Cổ Học Hà Nội, thì ta mới thấy được sự phong phú của nền thi
ca truyền miệng nước ta. Năm 1928, ông Nguyễn Văn Ngọc hiệu Ôn Như, cho xuất bản
hai tập sách có tính cách sưu tập thơ truyền miệng nhan đề là Tục Ngữ Phong
Dao. Tập Một gồm trên 6,500 câu ông gọi là phương ngôn tục ngữ. Tập hai gồm
trên 850 bài chia ra hai phần, phần trên là Phong Dao và phần dưới là Câu Ðố.
Trong bài Tựa của Tập Một, ông nói mục đích là:
"...
Chỉ vụ thu thập cho được nhiều câu, không phân thế nào là thành ngữ, mê ngữ,
phương ngôn, đồng dao, ca dao hay phong dao gì cả".
Ôn Như tiên sinh cũng không cắt nghĩa các danh từ
mà người xưa đã dùng để chỉ định từng loại thơ truyền miệng. Dường như công việc
phân định mấy chục ngàn câu thơ ra thành từng loại thành ngữ, mê ngữ, lý ngữ
cũng không phải là dễ dàng gì!. Tuy nhiên, theo thiển ý, khi sắp xếp công trình
sưu tầm của mình để in ra làm hai Tập, đặt cho cái tên chung là Tục Ngữ Phong
Dao, trong bài TỰA lại nói rõ là chia những bài thuộc về thể phương ngôn, tục
ngữ, phong dao phụ thêm các câu đố, ngoài ra lại còn đưa thêm những danh từ có
vẻ rất chuyên môn như thành ngữ, lý ngữ, mê ngữ, sấm ngữ, đồng dao... thì tác
giả cũng đã làm một công việc phân loại rồi đó.
Cứ theo như ông đã viết trong bài Tựa, thì thơ
truyền miệng Việt Nam được gọi là phương ngôn, tục ngữ, phong dao, câu đố, và
trong đó có những câu lý ngữ, sấm ngữ, mê ngữ. Hơn nữa, cũng trong bài Tựa đó,
ông còn cho chúng ta biết rằng "một số bài thơ truyền miệng đã được cho hẳn
là bài hát xẩm, hát chèo, hát huê tình, hát ru em". Những bài này thì ai
cũng biết là bài hát của dân gian, nghĩa là dân ca.
Ôn Như tiên sinh không muốn phân loại và định
nghĩa mà đã làm cả hai công việc đó. Tuy chỉ đả động đến chữ ca dao trong bài Tựa
mà thôi, và dùng danh từ phong dao trong hai tập sách, nhưng ông cũng đã khẳng
định là trong phong dao, có bài được cho hẳn là hát xẩm, hát chèo, như đã nói
trên. Trong công việc tìm về con đường dân ca hôm nay, tôi chỉ xin ghi nhận một
định nghĩa tiềm tàng mà cách đây 50 năm, Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc đã đưa ra trong
phần bài Tựa của hai tập sưu tầm về tục ngữ, phong dao Việt Nam:
"... Trong phong dao có bài
hát của dân gian..."
Nói một cách khác, dân ca có thể chắc chắn được
thoát thai từ phong dao.
Muốn hiểu vì sao Ôn Như tiên sinh dùng danh từ
phong dao hơn là ca dao, ta phải coi danh sách các tài liệu mà tiên sinh đã
tham khảo, đa số là công trình nghiên cứu về phong tục Việt Nam, dựa vào phương
pháp san định Kinh Thi của Khổng Tử. Kinh Thi gồm có bốn phần mà phần đầu là Quốc
Phong, chỉ định những bài ca dao của dân các nước chư hầu do nhạc quan của nhà
vua sưu tập lại. Chữ "phong" đây có nghĩa là "gió", ý nói
bài hát có thể rung cảm lòng người như gió làm rung động các vật.
Cũng cần nói thêm là những câu tục ngữ, phong dao
đã được tác giả xếp đặt theo mẫu tự a b c, dễ dàng cho công việc tìm tòi của
người đọc. Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc không chia những câu thơ truyền miệng mà ông
sưu tập được thành những mục thuộc phạm vi phản ảnh xã hội như các nhà biên khảo
sau này, thường chú trọng tới ảnh hưởng qua lại giữa ca dao và nhân dân, nhân
dân và ca dao.
Tài liệu mà Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc đã tham khảo:
Nôm:
- An Nam Phong Thổ Hoại (Thiên Bản cư sĩ - Trần
Tất Văn).
- Thanh Hóa Quan Phong Sử (Vương Duy Trinh).
- Việt Nam Phong Sử (Nguyễn Văn Mại, bản dịch:
Tạ Quang Phát).
- Ðại Nam Quốc Túy (Sự Sư Trai - Ngô Giáp Ðậu).
Nôm dịch ra Hán:
- Nam Phong Giải Trào (Liêu Am Trần tiên sinh - Ngô Hạo Phu).
Nôm + Quốc ngữ:
- Quốc Phong Thi Tập Hộp Thái (Mộng Liên Ðinh
- Hy Lượng Phủ).
- Nam Quốc Phương Ngôn - Tục Ngữ Bi Lục (Vô
Danh).
Quốc ngữ dịch ra Pháp văn:
- Tục ngữ An Nam (Triệu Hoàng Hà).
Quốc ngữ:
- Nam Ngạn Trích Cầm (Phạm Quang Sán, nxb Mạc
Ðình Tư).
- Gương Phong Tục (Ðoàn Duy Bình, Ðông Dương Tạp
Chí số 161, 164).
Theo cuốn
Việt Nam tự điển (Hà Nội 1931)
Muốn hiểu rõ hơn người xưa đã định nghĩa ca dao ra
sao và có ràng buộc dân ca vào ca dao hay không, tôi tìm về cuốn VIỆT NAM TỰ ÐIỂN
do ban Văn Học trong Hội Khai Trí Tiến Ðức tại Hà Nội soạn thảo và ấn hành
1931. Tôi tra chữ "ca dao".
Ca dao = câu hát phổ thông trong nhân gian.
Ca = bài hát thành khúc.
Dao = câu hát ngắn độ một vài câu.
Tra chữ "dân ca" thì không có. Danh từ
dân ca có lẽ chỉ được khai sinh trong giai đoạn phát triển của Tân Nhạc vào khoảng
giữa thập niên 40, khi các nhà soạn nhạc trẻ tuổi muốn quay về nguồn và khởi sự
công việc sưu tầm nghiên cứu dân nhạc cổ truyền để từ đó sáng tác ra những nhạc
phẩm có tinh thần dân tộc... Nhưng tôi hiểu được rằng, qua cuốn VIỆT NAM TỰ ÐIỂN
này, các vị Hàn Lâm trong Hội Khai Trí Tiến Ðức Hà Nội, cách đây nửa thế kỷ đã
có một định nghĩa khá rõ ràng:
"...Ca dao là câu hát phổ
thông trong dân gian..."
Câu hát phổ thông trong dân gian hiện nay được
chúng ta gọi là Dân Ca.
Về danh từ "tục ngữ" thì cuốn Tự Ðiển
này đã có một định nghĩa hơi sơ sài.
Tục ngữ = câu thành ngữ người ta thường nói.
Nhưng cuốn Việt Nam Tự Ðiển này lại có thể giúp
cho chúng ta hiểu được những danh từ mà Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc đã nói đến nhưng
không giải thích:
Sấm ngữ = lời tiên tri.
Mê ngữ = câu đố.
Lý ngữ = lời phải trái.
Chúng ta hãy đọc lại những trang sách có sự định
nghĩa ca dao của các công trình biên khảo trước đây của các tác giả khác.
Theo Dương
Quảng Hàm (Hà Nội 1941)
Trong cuốn VIỆT NAM VĂN HỌC SỬ YẾU, in tại Hà Nội
vào năm 1941, Dương Quảng Hàm viết: "... Trước khi có văn chương bác học,
đã có một nền văn chương dân truyền khẩu, tức là tục ngữ và ca dao..."
Cụ Dương có lẽ là người đầu tiên trong thế kỷ này
đã phân loại và định nghĩa một cách rất phân minh những gì được coi là thi ca
truyền miệng của nền văn chương bình dân Việt Nam, trong một cuốn sách có tính
chất sư phạm. Trước hết, cụ giảng về tục ngữ:
TỤC NGỮ = Tục ngữ nghĩa đen là "lời nói"
(ngữ), theo "thói quen lâu đời (tục), có thể hiểu là: "câu nói gọn ghẽ, có ý nghĩa,
lưu hành từ đời xưa rồi do cửa miệng người đời truyền đi".
Tục ngữ còn được gọi là:
ngạn ngữ (ngạn = lời xưa truyền lại).
phương ngôn (tục ngữ chỉ thông dụng trong một địa
phương mà thôi).
Cụ Dương cũng còn cho biết nguồn gốc của tục ngữ:
* tự xuất phát từ cửa miệng của một người rồi vì
có ý nghĩa, nhất là có vần có điệu nên được truyền tụng và trở thành tục ngữ.
Ví dụ: ăn cây nào rào cây nấy.
* có khi là thi ca có tác giả nhưng vì ý đúng lời
hay mà trở thành tục ngữ. Ví dụ: thương người như thể thương thân (Nguyễn
Trãi, trong Gia Huấn Ca)
* Tục ngữ còn có thêm cái tên là "thành ngữ",
nghĩa là câu nói ngắn có sẵn, không thi vị. Ví dụ: dốt đặc cán mai - nói toạc
móng heo.
Cụ Dương không đả động gì đến sấm ngữ, mê ngữ, lý ngữ.
Sau khi đã giảng dạy về tục ngữ, cụ Dương lập luận
về ca dao:
CA DAO = CA là hát - DAO là bài hát không có
chương khúc, bài hát lưu hành trong dân gian.
Dương Quảng Hàm đã khẳng định : "Ca dao là bài hát lưu hành
trong dân gian" thì ta có thể nói gọn lại = CA DAO là DÂN
CA. Hơn nữa, viết về tục ngữ, cụ cũng đã cho biết: "Tục ngữ có khi là thi ca có
tác giả". Như vậy, ta có thể tin rằng ca dao cũng có
thể là thi ca có tác giả.
Theo cụ Dương:
* Ca dao còn được gọi là phong dao vì tả tính
tình, phong tục, tập quán, tín ngưỡng.
* Ca dao cũng là đồng dao, vì là bài hát của trẻ
con, kể cả ru trẻ.
* Ca dao còn bao gồm cả những bài hát của người
lao động, như: chèo thuyền, đẩy xe kéo gỗ, cầy cấy, bài hát dạy đời, bài hát dạy
điều thường thức (canh nông, sản xuất, thiên văn, thời tiết).
* Ca dao còn là bài hát phong tình.
Ðịnh nghĩa như vậy, tựu trung Dương Quảng Hàm đều
cho ca dao là bài hát cả. Là xã hội ca, nhi đồng ca, lao động ca, luân lý ca, kể
cả ái tình ca nữa!
Theo cụ Dương, các thể thơ được dùng trong ca dao
là:
- lục bát chính thức
- lục bát biến thể
- song thất lục bát chính thức
- song thất lục bát biến thể
- thơ bốn chữ (nói lối)
- gồm tất cả các thể nói trên.
Dương Quảng Hàm tham khảo những sách, báo sau đây
để giảng dạy về Tục Ngữ và Ca Dao. Dù những sách báo này vẫn là những tài liệu
mà Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc đã nghiên cứu để viết hai tập TỤC NGỮ PHONG DAO kể
trên, nhưng cụ Dương thì cho rằng ca dao là bài hát và phong dao thì dùng để tả
tính tình, phong tục, tập quán.
Các sách báo tham khảo:
- Phạm Quỳnh: Tục Ngữ Phong Dao, Nam Phong Tập
VIII số 46, trang 253-272.
- Phan Khôi, Tục Ngữ Phong Dao Và Ðịa Vị Của Nó
Trong Văn Học, Tao Ðàn Tạp Chí, tập 1 số 9, 10, 11.
- Hoàng Ngọc Phách, Xét Tâm Lý Người Thôn Quê Bằng
Câu Hát, Nam Phong Tập XV số 88, trang 311-322.
- Minh Trúc, Hát Quan Họ, Trung Bắc Tân Văn số 4,
5, 6,10, 12, 14,18.
- Nguyễn Văn Huyên, Chants Alternés Des Garcons
Et Des Filles En Annam - Geuthner, Paris 1934.
- Georges Cordier, Essai Sur La Littérature
Annamite: La Chanson, Revue Indochinoise 1920, Hanoi.
- Nguyễn Văn Mại, Việt Nam Phong Sử, Nam Phong Tập
VII số 41, trang 415-425.
- Ðông Châu và Ðồ Nam, Việt Nam Tổ Quốc Túy Ngôn,
Nam Phong, các tập XXX, XXXI, XXXII, XXXIII, XXXIV, XXXVI.
- Phạm Quang Sán, Bài Phú Phương Ngôn, Nam Phong
Tập VII, số 42.
- Paulus Của, Tục Ngữ Cổ Ngữ Gia Ngôn, Nam Phong
Tập VII, số 42.
- Paulus Của, Recueil De Chansons Populaires,
Saigon 1904.
- Nguyễn Văn Vĩnh, Trẻ Con Hát Trẻ Con Chơi, Tứ
Dân Văn Uyển, số 1.
- Nguyễn Can Mộng, Ngạn Ngữ Phong Dao, Tứ Dân Văn
Uyển, số 16, 18, và 22.
Theo Nguyễn
Trọng Lực (Saigon 1949)
Năm 1949, nhà sách Vĩnh Bảo Saigon cho phát hành một
cuốn sách thuộc loại "Sách Hiểu Biết" cũng có tính chất giáo dục do
Nguyễn Trọng Lực viết nhan đề TIẾNG NÓI ÐỒNG RUỘNG, trong đó tác giả coi Ca Dao
Tục Ngữ Việt Nam như là "tinh hoa của nước nhà".
Ông chọn lọc một số lớn ca dao về nghề nông trong
đó có những câu "ca dao cổ" và cả những câu ông gọi là "ca dao mới"
mà ông nói rõ ràng là do các ông Nguyễn Công Tiễu, Nguyễn Hải Khoát, Nguyễn Gia
Huy, Trần Tuấn Khải sáng tác, được đăng trên các báo chuyên về canh nông như Vệ
Nông Báo, Thần Nông Báo và lưu hành trong những năm 1923-1933 (trang 74). Dù
ngoài bìa ông dùng bút hiệu Nguyễn Trọng Lực nhưng trong phần LỜI KẾT LUẬN, ta
lại thấy ông ký là Nguyễn Công Huân. Chúng tôi được biết Nguyễn Công Huân là
con của Nguyễn Công Tiễu, một viên chức cao cấp trong sở Canh Nông thời đó.
Tuy cuốn sách chỉ có mục đích ghi lại các câu ca
dao cổ và mới nói đến nghề nông, nhưng trong phần CA DAO MỚI, ông Nguyễn Trọng
Lực (hay Nguyễn Công Huân?) có ghi lại một vài câu có tính cách thời sự và
chính trị, chẳng hạn:
Hoàng
trùng đi, vi trùng lại,
Nghĩ đi
nghĩ lại, Vi hại hơn Hoàng!
Hồi đó vừa có nạn sâu ăn lúa (hoàng trùng) lại vừa
có bệnh dịch tả (vi trùng) làm nông dân điêu đứng, nhưng câu ca dao này ngụ ý
chỉ trích hai ông Tổng Ðốc tỉnh Hà Ðông là Vi Văn Ðịnh và Hoàng Trọng Phu, làm
quan dưới thời Pháp thuộc.
Dưới thời Nhật chiếm đóng và bắt dân chúng trồng
đay, đã có câu ca dao mà Nguyễn Trọng Lực gọi là "câu hát":
Ai ơi khổ
nhất giồng đay,
Giồng đay,
đay nghiến có hay nổi gì?
Phá ngô bỏ
ruộng mà đi,
Nhổ cây
đay đắng có khi rũ tù.
Qua cuốn biên khảo này, ta lại có thêm định nghĩa
và xuất xứ của ca dao:
* Ca dao là "câu hát" và có những câu do
các tác giả nổi tiếng đương thời soạn ra.
* Ca dao còn phản ảnh thời sự và chính trị nữa.
Cuốn biên thảo về "ca dao và nghề nông"
này cũng rất có ích lợi cho những người muốn nghiên cứu về ảnh hưởng qua lại giữa
nông dân Việt Nam và ca dao.
Theo Hoa Bằng
(Hà Nội 1952)
Trong cuốn DÂN TỘC TÍNH TRONG CA DAO do nhà xuất bản
Võ Ðất ấn hành Hà Nội vào năm 1952, tác giả Hoa Bằng định nghĩa:
Ca = hát ngân vài giọng ra, khúc hát hợp với nhạc.
Dao = hát trộn, không hiệp với nhạc, kéo dài giọng
nói, trẻ con làm cũng được, gọi là "đồng dao".
Hoa Bằng còn đưa ra danh từ "dân dao"
nghĩa là ca dao do "dân chúng làm ra".
Theo Thuần
Phong (Hà Nội, trong thập niên 50)
Thuần Phong, tác giả cuốn CA DAO GIẢNG LUẬN in tại
Hà Nội, năm?, định nghĩa ca dao giống như Hoa Bằng, và thêm danh từ "tục
diêu (dao)" mà ông giảng là "những câu tục ngữ bằng thơ lục
bát". Cả hai vị vừa kể trên đây đều cho là "có sự liên hệ chặt chẽ giữa
ca dao và những câu hát của dân chúng" (tức là dân ca vậy).
Sau khi tác phẩm của Dương Quảng Hàm được coi là
sách giáo khoa và được giảng dạy tại các trường Trung Học thì ta thấy các bực
giáo sư rất chú ý đến ca dao. Hầu hết những sách biên khảo về ca dao sau này đều
do các nhà giáo viết ra.
Theo Ðào
Văn Hội (Saigon 1961)
Tác giả đã viết cuốn sách PHONG TỤC MIỀN NAM QUA MẤY
VẦN CA DAO vào năm 1958 nhưng phải đợi đến 1961 mới được nhà xuất bản Khai Trí ấn
hành tại Saigon. Ngay trong phần NHẬN XÉT CHUNG VỀ CA DAO, Ðào Văn Hội đã khẳng
định:
"Ca dao tức là những câu
hát thông thường của dân gian".
Trong phần cuối, ông còn ghi lại một số ca dao mà
ông gọi là "câu hát vặt", trong đó có những "câu hát trẻ
em". Như vậy là chúng ta có thêm một định nghĩa nữa ràng buộc ca dao vào
dân ca: Ca dao là câu hát của dân gian (tức là dân ca) trong đó có nhi đồng ca.
Theo Minh
Hương (Saigon 1962)
Trong cuốn HOA ÐỒNG CỎ NỘI xuất bản tại Saigon năm
1962, Minh Hương đã định nghĩa : "Thi Ca Truyền Miệng Việt Nam gồm có Tục
Ngữ, Ca Dao, Lời Hát Dặm, Bài Vè... của tác giả vô danh".
Không nói rõ ca dao là "bài hát", nhưng
trong bài TỰA của cuốn sách này, ông viết: "Dân gian xưa nay đã sáng tác
nhiều câu ví, câu dặm, câu hò, bài vè." Với những định nghĩa đó, đương
nhiên ông cũng đã cho ca dao là câu hát của dân gian. Vả lại trong số 1,000 câu
thơ truyền miệng mà ông sưu tập trong cuốn sách, một số câu ca dao đã được hát
lên thành ra những bài "lý" hay bài "hò".
Trong cuốn HOA ÐỒNG CỎ NỘI này tôi còn thấy tác giả
ghi lại những lời ca (ca dao) của những bài như: lý toan tính, lý bánh bò, lý
hoa thơm, lý bỏ bìa, lý bông sậy, lý con quạ, lý chim khuyên, hò mái ngởi, hát
quan họ... và một điệu chèo là điệu Tò Vò...
Nếu như trước đây, các nhà chuyên khảo về thi ca
bình dân đã khởi sự làm công việc góp nhặt, xếp loại, phân tích phần nào kho
tàng tục ngữ ca dao rồi thì tác giả Minh Hương, với cuốn HOA ÐỒNG CỎ NỘI này,
đã làm công việc đó một cách kỹ lưỡng hơn.
Ông đã chia ra nhiều tiết mục như:
- Miếng Ăn,
- Tình Cảm,
- Thuật Sống,
- Tín Ngưỡng và Tập Quán,
- Thiên Nhiên,
- Loài Vật,
- Thuật Diễn Tả,
- Nụ Cười...
... Và đưa tục ngữ ca dao vào từng tiết mục đó với
mục đích tối hậu là cho người đọc "thấy được cả một nền thi ca nhân văn, đề
cao khả năng và giá trị của con người tự do". Ông mời mọc đọc giả cùng ông
mở một cuộc hành trình mà ông gọi là "tìm về nguồn cội Việt Nam".
Theo Tổ
Văn Học Dân Gian (Hà Nội 1963)
Các nhà khảo cứu của Tổ Chức Văn Học Dân Gian,
trong cuốn CA DAO VIỆT NAM TRƯỚC CÁCH MẠNG do Viện Văn Học Hà Nội xuất bản năm
1963 đã định nghĩa:
Ca = câu thành khúc điệu.
Dao = câu không thành khúc điệu.
Dân Ca = bài hát có nhạc điệu nhất định.
Họ còn khẳng định: "... hầu hết Dân Ca Việt Nam là ca
dao có khúc điệu, có tiếng đệm, tiếng lót". Ðến đây thì ta đã có một định nghĩa gắn chặt
dân ca vào ca dao.
Theo Phạm
Văn Diêu (Saigon, trong thập niên 60)
Vào đầu thập niên 60, trong cuốn VĂN HỌC TRUYỀN KHẨU
VIỆT NAM ấn hành tại Saigon, Phạm Văn Diêu đã cho rằng: "Tục ngữ, ca dao
tuy có từ lâu đi, nhưng chỉ được các nhà nho ghi chép lại vào cuối thời nhà Lê,
đầu thời nhà Nguyễn bằng cả hai thứ chữ Nôm và chữ Hán".
Phạm Văn Diêu kể ra những cuốn như:
- Nam Phong Giải Trào của Trần Liễu An, cuốn này
được Liễu Văn Ðường in lại năm 1910.
- Nam Phong Ngữ Ngạn Thi của Trần Liễu An và Ngô
Hạo Phu, dịch tục ngữ ra thơ Hán theo kiểu Kinh Thi.
- Quốc Phong Thi Hộp Thái và Quốc Phong Thi Diễn
Ca, do Mộng Liên Ðình Thi biên soạn bằng chữ Nôm và chữ Hán.
- Ðại Nam Quốc Tuý của Ngô Giác Ðậu.
- Nam Phong Thi Tập in thi Duy Tân.
- Nam Quốc Phương Ngôn Tục Ngữ Bi Lục của Quan
Văn Dương, 1914.
Rồi ông cũng nói đến công trình của những nhà biên
khảo ghi chép ca dao tục ngữ khác như:
- Câu Hát Góp của Paulus Của, in bằng quốc ngữ tại
Saigon, 1910.
- Gương Phong Tục của Ðào Duy Ðình.
- Câu Hát Ðối và Câu Hát Huê Tình, do Ðặng Lễ
Nghi chép, in tại Saigon trong những năm 1915 và 1917.
- Câu Hát Ðối Ðáp của Ðặng Trọng Quờn, Saigon
1915.
- Ngạn Ngữ Sư Loại Lược Biên của Ưng An, Huế 1922.
- Nguyệt Hoa Vấn Ðáp và Trống Quân Ðối Ca của Vũ
Huy Thụ, in tại Hà Nội trong những năm 1923 và 1927.
Phạm Văn Diêu còn nói tới công trình của Ôn Như
Nguyễn Văn Ngọc qua hai tập TỤC NGỮ PHONG DAO mà ông cho là: "giản dị, tiến bộ nhất so với
những sách biên khảo về ca dao từ trước tới nay".
Trong kho tàng Văn Học Truyền Khẩu, gồm Tục Ngữ,
Ca Dao và Truyện Cổ, Phạm Văn Diêu cho rằng : "... ca dao là hình thức diễn xuất
tự nhiên nhất, và là tiếng thơ bình dân được hát lên". Tác giả còn kể ra nhiều loại ca dao được hát lên ba
miền như: "hát soan, hát trống quân, hát quan họ, hát dặm, hò mái nhì, hò
huê tình vân vân..."
Qua những tài liệu dẫn kể, cũng như qua sự nhận định
riêng của mình, tác giả cuốn VĂN HỌC TRUYỀN KHẨU đã bỏ hẳn danh từ phong dao và
minh định ca dao là bài hát, dù trong phần định nghĩa ông cũng dẫn Từ Nguyên,
Khang Hy Từ Ðiển ra để giải thích chữ "ca dao" như các nhà biên khảo
khác. Duy chỉ có phần nói đến nguồn gốc của ca dao, thì ông Diêu cho rằng:
"... ca dao không hẳn là do quảng
đại quần chúng soạn ra".
Ca dao có thể có tác giả là các nhà nho thủa xưa,
vốn là cấp "hàn nho", sống gần gũi với nhân dân hầu hết thuộc vào hạng
"tiểu nông". Tuy là hai giai cấp khác nhau, nhưng giữa nhà nho và
nông dân đã không có gì là cách biệt cả. Theo ông, khi xưa các nhà nho thường
"... cầm đầu các nhóm để đi thi
hát và chính trong những cuộc hát thi này mà những câu ca dao hay những câu hát
mới mẻ đã được ứng khẩu soạn ra".
Phạm Văn Diêu (mà nhiều người đã biết ông là cháu
của Thủ Tướng Phạm Văn Ðồng) còn nói: "... Từ năm 1946 đến 1964, chính
quyền Cộng Sản đã lợi dụng uy tín của ca dao và chủ trương cho các văn nghệ sĩ
có tân học lãnh nhiệm vụ tuyên truyền chủ nghĩa và đưng lối qua ca dao, do đó
cái gọi là thi ca bình dân, là văn nghệ của đại chúng đã nghiễm nhiên là của
đám người có học vấn, đồng thời cũng là văn nghệ sĩ như Tố Hữu, Nguyễn Ðình
Thi, Thanh Tịnh... chế tác ra!"
Phạm Văn Diêu kết luận: "... Vậy nền văn học truyền khẩu
trong dân gian mà người ta thưng gọi là văn chương bình dân, và cũng để chỉ tục
ngữ và ca dao, chung quy là một nền văn học thích hợp với quần chúng chất phác
và hồn hậu, nhưng chữ bình dân hoặc chữ dân gian cần phải được hiểu là nhu cầu
tâm lý bình dân hay là biểu thị tâm lý dân gian mà thôi".
Như vậy, ta có định nghĩa của Ông như sau:
Ca dao là dân ca
Dân ca là do tác giả, phản ảnh tâm trạng của dân
chúng, tạo ra.
Theo Nguyễn
Trúc Phượng (Saigon 1964)
Trong cuốn VĂN HỌC BÌNH DÂN, ấn hành tại Saigon
1964, tác giả này đã định nghĩa: "... Ca dao là câu hát hay bài
hát ngắn, lưu dụng truyền khẩu trong trí thức bình dân, mô tả tính tình, phong
tục, tập quán, hình ảnh quê hương Việt Nam". Và ông cũng đưa ra những cái tên
"phong dao, đồng dao "do Dương Quảng Hàm đã lập luận trước ông gần 20
năm, kể cả danh từ "dân dao" mà tác giả Hoa Bằng đã nói đến trước đây.
Ðịnh nghĩa "ca dao là câu hát hay bài hát
ngắn", ông còn chia ca dao ra nhiều loại như:
"... hát keo, trống quân, giã gạo, đưa đò, hát quan họ, hát đúm, hát văn,
hát cách, hát nhịp bẩy, hát xẩm, hát giao duyên, hát bồng mạc, sa mạc, hát lý,
hò, nhi đồng ca". Tất cả những loại hát này đã được chúng ta hiểu theo
danh từ hiện đại là dân ca.
Trong 445 trang sách, chúng ta thấy ông đã dành 50
trang cho truyện cổ. 50 trang cho những câu ca dao (theo ông) đã "trở
thành bài hát". Còn lại 300 trang với khoảng 2,000 câu ca dao (theo ông)
được coi như thuần túy thì tôi nhận thấy một số câu đã trở thành dân ca như :
"cây trúc xinh, lý bỏ bìa, lý quay tơ, lý bánh bò, hò mái ngời, lý cú rũ,
hát trống quân, lý triền triện, hò rố khuầy, lý ru con, hò ru con, hò ru con lối
Huế, trấn thủ lưu đồn, ví đò đưa, ví phượng vải..."
Nguyễn Trúc Phượng, trong cuốn Văn Học Bình Dân
này, cũng xếp loại ca dao vào nhiều mục, như:
- Ý Chí Con Người, trong đó ông kể ra những câu
ca dao có tính chất chống đối, đả phá của người đàn bà Việt Nam thi "nam
tôn nữ ti" khi xưa. Ông còn xếp đặt ca dao vào những mục:
- Phản ảnh Ðời Sống Tinh Thần,
- Ðời Sống Vật Chất,
- Hình Ảnh Gia Ðình,
- Tình Yêu và Hôn Nhân...
Ông nhấn mạnh tới những bài ca dao nói lên lòng ái
quốc chân thành, và mong rằng tác phẩm của mình có thể đóng góp vào việc
"xây dựng một đời sống thăng bằng, đạo đức, tươi vui, thoải mái."
Theo Nguyễn
Tấn Long và Phan Canh (Saigon 1969)
Trong cuốn biên khảo THI CA BÌNH DÂN VIỆT NAM, do
nhà xuất bản Sống Mới Saigon ấn hành năm 1969, hai tác giả này đã bỏ rất nhiều
công ra để sưu tập, phân loại các bài ca dao phản ảnh từng bộ mặt của xã hội Việt
Nam khi xưa. Hai ông còn ghi lại một số câu ca dao ra đi năm 45, đây rõ ràng là
thứ thơ truyền miệng chống Pháp và Nhật, ca tụng sự trở về với quê hương dân tộc:
Tưởng rằng
tầu lặn tầu bay,
Nên anh bỏ
việc cấy cầy mà đi,
Biết rằng
cu lít cu ly,
Thà rằng cứ
nhà quê với nàng!
Nhà quê có
họ có hàng,
Có hàng có
xóm nhỡ nhàng có nhau.
Châm biếm những người bỏ đồng quê chạy theo vật chất
phù phiếm làm nô lệ cho Pháp:
Ðồn vui
thăm thú thị thành,
Kiếm ăn
cũng khó công danh ra gì!
Ra mà lãnh
chức cu ly,
Thà về quê
cũ giữ nghề canh nông.
Mảng vui
cơm tấm ổ rơm
Tuy rằng
cũ kỹ mà thơm sạch lòng
Hơn ai gạo
tấm lầu hồng,
Ðem thân
luồn cúi vào vòng lợi danh
Cậu kia cắp
sách đi đâu,
Cậu học chữ
Tầu hay học chữ Tây?
Học chữ
Tây không tiền, không việc,
Học chữ Tầu
ai biết ai nghe?
Chi bằng về
chốn thôn quê,
Cấy cầy
còn được no nê tối ngày.
Ca dao chống Nhật:
Ai ơi khổ
nhất trồng đay...
(câu này đã được Nguyễn Trọng Lực ghi lại)...
Mấy năm
thiếu gạo vì ai?
Làm dân ta
chết mất hai triệu người!
Ta thì
khóc, nó thì cười,...
Tầu cười,
Tây khóc, Nhật no,
Việt Nam hết
gạo chết co đầy đường"
(Nạn đói Ất Dậu)
Thời kháng chiến, có ca dao cổ động tăng gia sản
xuất:
Muốn cho
dân mạnh nước giàu,
Tăng gia sản
xuất để cầu tự do.
Khuyên em
chớ quản nhọc nhằn,
Cầy sâu cuốc
bẫm nuôi tầm ươm tơ,
Bao giờ Ðộc
Lập Tự Do,
Cả nhà ta
mới cơm no áo lành
Ca dao chống nạn mù chữ:
Rủ nhau đi
học i tờ,
Xem kinh,
đọc báo, coi thơ dễ dàng.
Cô kia vừa
đẹp vừa ròn,
Cô không
biết chữ ai còn lấy cô?
Rủ nhau đi
học i o,
Mỗi ngày một
chữ con bò cũng thông.
Hai tác giả này đã cho ta thấy ca dao là phản ảnh
trung thực của xã hội. Thời đại nào cũng có những câu ca dao mang cả tinh thần
chống đối lẫn tinh thần xây dựng.
Theo Vũ Ngọc
Phan (Hà Nội 1978)
Trong những năm gần đây, người nghiên cứu văn học
truyền miệng hay văn học bình dân đã bắt đầu ràng buộc chặt chẽ ca dao vào dân
ca. Trong cuốn sách biên khảo nhan đề TỤC NGỮ - CA DAO - DÂN CA VIỆT NAM do
nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội Hà Nội ấn hành năm 1978, Vũ Ngọc Phan đã đưa ra nhận
định: "ranh giới giữa ca dao và dân
ca không rõ (rệt)". Rồi ông cũng định nghĩa:
Ca dao = thơ 4 hoặc 5 chữ, lục bát, song thất lục
bát, chỉ ngâm lên nguyên câu, không có chữ đệm, chữ lót.
Dân ca = ca dao hát lên có chữ đệm, thành khúc điệu,
chỉ thông dụng trong một địa phương mà thôi.
Tổng Kết
Chúng tôi đã chọn một số sách biên khảo về văn
chương bình dân hay nói rõ hơn, về thi ca truyền miệng, xuất bản tại Việt Nam
trong vòng 50 năm, từ công trình của Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc (1928) cho tới khảo
luận của Vũ Ngọc Phan (1978) để rút ra một kết luận riêng cho việc dẫn dắt tuổi
trẻ Việt Nam trở về con đường dân ca như chúng tôi mong muốn.
Tục ngữ là
gì?
Trước hết, các vị tiền bối đã cho ta thấy trong phạm
vi tục ngữ mà các cụ định nghĩa là "câu nói có ý nghĩa, dễ nhớ vì có vần có
điệu, lưu hành bằng cách truyền khẩu từ đi này qua đi khác", có nhiều danh
từ cũng có chung một định nghĩa như tục ngữ. Chẳng hạn:
ngạn ngữ = lời xưa truyền lại.
thành ngữ = câu nói có sẵn, không thi vị người ta
quen dùng.
Trong tục ngữ lại còn có cả:
sấm ngữ = lời tiên tri.
mê ngữ = câu đố.
lí ngữ = lời phải trái.
Và cũng trong gia đình tục ngữ, người xưa còn có
thêm:
phương ngôn = tục ngữ của một địa phương.
châm ngôn = câu nói khuyên răn đi.
Ca dao là
gì?
Còn chữ "ca dao" mà các cụ định nghĩa là: "bài hát ngắn lưu hành trong dân gian" (tức là dân ca theo quan niệm
thời nay) thì ngoài danh từ đó ra còn có:
phong dao = câu hát dân gian, tả phong tục tập
quán.
đồng dao = bài hát của trẻ em (nhi đồng ca).
dân dao = ca dao do dân chúng làm ra.
Cuối cùng, lại có cả một danh từ, có vẻ như là câu
nói tắt của hai chữ "tục ngữ -- ca dao":
tục diêu (dao) = tục ngữ bằng thơ lục bát.
Ai sáng
tác ca dao?
Một giả thuyết rất hấp dẫn được đưa ra, mà Phạm
Văn Diêu là người cả quyết nhất, chủ trương: Ca dao là thi ca truyền miệng có
tác giả chứ không hẳn chỉ là của quần chúng vô danh.
Hơn nữa, dù là của quần chúng vô danh hay của tác
giả, ta vẫn thấy công dụng của ca dao là: Ca dao làm ra để hát, ngoài những
câu hay những bài có tính chất mô tả tình phong tục tập quán còn là những câu
hát về thời tiết, về thời sự, tóm tắt lại là những câu hát, những bài hát có
dính dấp đến chính trị, có tính chất tuyên truyền nữa.
Dân ca cổ
= Ca dao
Mối liên hệ giữa dân ca cổ và ca dao là: Toàn thể
hình thức thơ truyền miệng hoặc một bộ phận trong đó là ca dao, không hoàn toàn
trở thành những bài hát dân gian, tức dân ca, nhưng ta có thể nói rằng một phần
lớn dân ca cổ đều xuất xứ từ ca dao. Nếu các vị tiền bối của chúng ta chỉ mới
khẳng định là có một sự liên hệ rất chặt chẽ giữa ca dao và dân ca qua những
tác phẩm vừa được nêu ra thì qua phần tới của tiểu luận này, chúng ta sẽ tìm hiểu
sự liên hệ đó ra sao với phương pháp nhạc học thuần lý.
Ta có thể lập luận một cách rõ ràng hơn nữa về sự
liên hệ giữa ca dao và dân ca:
Theo truyền thống văn học nghệ thuật bình dân Việt
Nam, thơ không tách rời khỏi nhạc. Lời thơ đầu tiên có thể là câu hát đầu tiên.
Như vậy, giữa dân ca và ca dao không có ranh giới. Có phân biệt thì chỉ là khi
nói tới ca dao, ta nghĩ đó là thơ dân gian. Khi nói tới dân ca, ta nghĩ đó là một
thể loại ca nhạc. Hiểu theo cách thông thường:
Ca dao là
dân ca tước bỏ đi những tiếng đệm, tiếng láy.
Dân ca là
ca dao đã trở thành câu hát, bài hát, điệu hát.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét