Những nhân vật đầu tiên
trong tiến trình chữ Quốc ngữ
Lâu nay, những người yêu tiếng Việt bình thường và một số tài
liệu khi nói đến chữ quốc ngữ thường cho rằng giáo sĩ Alexandre de Rhodes (thường
gọi là Đắc Lộ), tác giả cuốn Từ điển Việt - Bồ - La in tại La Mã năm 1651, là
ông tổ của chữ quốc ngữ.
Thế nhưng, sự thật chưa hẳn là vậy…
Ngay từ khi bập bẹ, chúng ta đã nói tiếng Việt, và hoàn toàn
không có gì khó khăn. Nhưng "tiếng Việt khó quá!" là ý kiến của rất
nhiều người phương Tây khi tiếp cận tiếng Việt.Tiếng Việt cấu trúc đơn giản; đơn âm không có
"thì", không có chia động từ, không có tiếp đầu ngữ, vĩ ngữ thì có gì
là khó?
Xin thưa, đối với người phương Tây, tiếng Việt khó ở chỗ phát
âm (nghe và nói).
Giáo sĩ Marini, người đã từng đến Đàng Trong những thập niên
đầu thế kỷ 17, viết: "Khi đọc, người Việt không cần phải thay đổi tiếng mà
vẫn làm cho một tiếng ấy có nhiều nghĩa khác nhau, bởi vì họ chỉ cần lên giọng
hoặc hạ giọng tùy theo cường độ và nhịp điệu" (Lịch sử chữ quốc ngữ, Đỗ
Quang Chính, NXB Tôn Giáo 2012, trang 15).Đây là một nhận xét cực kỳ "mới" mà người Việt
chúng ta không bao giờ để ý. Chỉ cần thay đổi chút xíu khẩu âm và không thay đổi
khẩu hình thì các chữ "ca, cà, cá, cả" mang nghĩa khác nhau một trời
một vực.
Nửa cuối thế kỷ 16, các giáo sĩ thừa sai Dòng Tên (Jésu) đã bắt
đầu đến châu Á truyền đạo. Một trong những nơi họ đến ban đầu chính là Trung Quốc,
nơi mà trước đó vài thế kỷ, Maco Polo, nhà buôn người Ý, đã đến và mang về nhiều
đồ vật lạ lùng của phương Đông.
Dòng Tên là một dòng tu trí thức của đạo Thiên Chúa. Tất cả
những giáo sĩ của dòng này đều có trình độ tiến sĩ, nếu ai không đạt được bằng
cấp ấy thì buộc phải rời dòng.
Những giáo sĩ này xuất thân từ những nước sử dụng chữ viết
La tinh nên khi đến những nước sử dụng chữ tượng hình đã gặp khó khăn trong việc
truyền đạo. Do là những trí thức có trình độ cao, họ nhanh chóng học nói tiếng
của người bản địa.
Song việc truyền đạo không chỉ nói là đủ, mà cần phải có kinh
sách để các con chiên có thể học, đọc theo và truyền lại. Bởi không có giáo sĩ,
thầy giảng nào có thể thay thế kinh sách. Mà chữ tượng hình thì rất khó học, và
mất rất nhiều thời gian để học mới có thể đọc sách được, chứ chưa nói đến việc
dịch lại kinh sách nước ngoài.
Mặt khác, việc truyền đạo Thiên Chúa vào các nước này (trong
đó có nước ta) vào thời điểm ấy không phải lúc nào cũng suôn sẻ, dễ dàng, liên
tục, do tùy thuộc vào sự vui buồn của quan quân địa phương, tùy thuộc vào tình
hình chính sự yên ả hay loạn lạc của quốc gia mà các giáo sĩ Dòng Tên đặt chân
đến.
Nhiều giáo sĩ sau một thời gian ngắn truyền đạo đã bị bắt, bị
giết, bị đuổi đi...
Để có thể truyền lại kinh sách một cách tốt hơn, các giáo sĩ
đã nghĩ ra phương pháp "La tinh hóa chữ tượng hình". Và họ đã làm việc
này ở Ấn Độ, Trung Quốc và Nhựt Bổn.Đầu thế kỷ 17, một số giáo sĩ thuộc Dòng Tên đã đến Hội An. Họ
dùng tiếng Hán và Nhựt để giao tiếp với dân địa phương qua phiên dịch của các
thương nhân.
Đến năm 1617, giáo sĩ Francesco de Pina người Bồ Đào Nha đến
Hội An và Nước Mặn (thuộc Bình Định), rồi trở về cư ngụ tại Thanh Chiêm (Điện
Bàn, Quảng Nam) đã học rất nhanh tiếng Việt và trở thành người phương Tây giỏi
tiếng Việt nhất thời bấy giờ.
Và để có thể truyền lại kinh sách giáo lý của đạo Thiên Chúa,
Pina cùng một số giáo sĩ khác đã có kinh nghiệm La tinh hóa tiếng Nhựt, Hán bắt
tay vào La tinh hóa tiếng Việt.
Thuở ấy, người Việt vẫn nói tiếng Việt như bây giờ. Song do
phải trải qua 1.000 năm bị Trung Quốc đô hộ, giới trí thức nước ta bị ảnh hưởng
của Trung Hoa rất mạnh. Không rõ trước đó, người Việt có chữ riêng của mình hay
không. Song các triều đại của người Việt sau này đều dùng chữ Hán trong các văn
bản chính thức.
Khoảng thế kỷ thứ 10, người Việt đã "sáng chế" ra
thứ chữ Việt bằng cách mượn chữ Hán mà viết, gọi là chữ Nôm (nghĩa là Nam, sau
gọi là quốc âm). Song nếu chữ Hán khó một thì chữ Nôm khó mười. Bởi phải biết
và giỏi chữ Hán mới có thể viết được, học được chữ Nôm.
Đối với người Việt học chữ Nôm đã khó, với người ngoại quốc
xa lạ với chữ tượng hình thì chữ Nôm càng khó. Vẫn có thể học được, viết được
nhưng không thể phổ biến rộng được. Chính vì vậy các giáo sĩ đã nghĩ đến việc
La tinh hóa tiếng Việt bằng mẫu tự La tinh, mà ngày xưa gọi là "chữ An Nam viết
bằng mẫu tự La tinh".
Có một số người được công nhận là "tác giả" chữ quốc
ngữ là các giáo sĩ Francesco de Pina, Gaspar d’Amaral và Antonio Barbosa (đều
là người Bồ Đào Nha), Cristoforo Borri (người Ý), Alexandre de Rhodes (người
Pháp)...
Giáo sĩ Borri chỉ ở nước ta ba năm từ 1615 đến 1618. Còn ba
giáo sĩ còn lại đều đến Đàng Trong năm 1624 và đều là học trò tiếng Việt của
giáo sĩ Francesco de Pina.
Tuy nhiên, trong số này, chỉ có giáo sĩ Đắc Lộ cho in cuốn
sách tiếng Việt đầu tiên là cuốn Từ điển Việt - Bồ - La nên được dân Việt cho
là "ông tổ" của chữ quốc ngữ từ hơn trăm năm qua.400 năm sau, người Việt, những người thụ hưởng và tự hào thứ
chữ này, lại biết rất lơ mơ về lịch sử của nó. Họ không biết chắc ai là người
sáng tạo ra chữ Việt, Francesco de Pina hay Alexandre de Rhodes?
Ở đâu, Thanh Chiêm hay Nước Mặn? Lưu giữ thế nào? Phổ biến ra
sao? Phát triển thế nào? Lúc nào được sử dụng phổ thông?Trong hai thế kỷ từ 15 đến 17, các thương buôn Bồ Đào Nha có
mặt hầu như khắp thế giới. Theo chân họ là những nhà truyền giáo, phần lớn là
người Bồ và người Ý, tháp tùng truyền đạo ở những vùng đất mới.
Theo thống kê của linh mục Đỗ Quang Chính thì trong số 145
giáo sĩ thuộc 17 quốc tịch đến Đàng Trong truyền giáo từ năm 1615-1788, có đến
74 người Bồ Đào Nha, 30 người Ý.
Dòng Tên (Jesu) của đạo Thiên Chúa là dòng tu đi truyền đạo
thời kỳ ấy. Theo luật của dòng, mỗi khi đến vùng đất mới phải học tiếng địa
phương, và với tài năng riêng từng người, họ đã La tinh hóa tiếng nói và chữ viết
địa phương để những người theo đạo có thể đọc được những kinh sách của đạo.
Thứ chữ La tinh này được truyền lại cho các giáo sĩ đến sau.
Đây là phương thức mà họ đã thực hiện ở nhiều nơi như Ấn Độ, Trung Quốc, Nhật Bản,
Brasil... trong các thế kỷ 15, 16 trước khi đến Việt Nam. Riêng ở Viễn Đông,
dòng tu này thiết lập một trụ sở lớn và lâu dài ở Macau để làm nơi đi và đến
cho các giáo sĩ.
Đầu thế kỷ 17, năm 1615, các giáo sĩ Dòng Tên đã đến Đàng
Trong và lần lần họ học tiếng Việt. Sau đó, các giáo sĩ này đã bắt tay vào việc
La tinh hóa chữ Việt.
Tài liệu viết tay của giáo sĩ João Roiz (người Bồ) viết năm
1621 đã có các chữ quốc ngữ ban đầu như An Nam (Việt Nam tức Đàng Trong. Thời
điểm này nước ta chưa có vùng đất Nam Bộ), Sinoa (xứ Hóa tức Thuận Hóa), unsai
(ông sãi), Cacham (Kẻ Chàm, sau này là Thanh Chiêm), ungue (ông nghè)...
Còn những chữ Việt trong bản tường trình của Gapar Louis (người
Bồ) viết năm 1621 cũng đã có chữ ungué (ông nghè), bancô (bàn cổ). Còn
Cristoforo Borri (người Ý), tác giả cuốn Xứ Đàng Trong, đến Đàng Trong cùng với
Francesco de Pina thành lập trú sở Nước Mặn (Bình Định) năm 1618, trong tác phẩm
viết năm 1621 đã có những chữ: Tunchim (Đông Kinh, tức Hà Nội), Lai (Lào),
Ainam (Hải Nam), kemoi (kẻ mọi, xứ mọi, Tây Nguyên), Quanguya (Quảng Nghĩa),
Quignin (Qui Nhơn), dàdèn lùt (đã đến lúc), nayre (nài), doij (đói), chià
(trà), sayc kim (sách kinh), cò (có). Cũng năm 1621, giáo sĩ Bozumi viết các chữ:
onsaij (ông sãi), Quanghia (Quảng Nghĩa), Nuoecman (Nước Mặn), da an nua (dạ ăn
nữa)...
Như vậy, tới năm 1621, việc La tinh hóa tiếng Việt vẫn chưa có
dấu thanh. Tài liệu viết tay của giáo sĩ Antonio de Fontes, một học trò của
Francesco de Pina, viết năm 1626 đã thấy xuất hiện dấu thanh. Dĩgcham (Dinh
Chàm), Núocman (Nước Mặn), Sinúa (xứ Hóa), ondedóc (ông đề đốc), nhít la khấu,
khấu la nhít (nhứt là không, không là nhứt).
Và di cảo của Pina vừa tìm thấy ở Thư viện Hoàng gia Bồ Đào
Nha giữa năm 2018 thì chữ quốc ngữ đã có dấu như ngày nay. Tài liệu này trưng
bày trong Hội thảo về chữ quốc ngữ diễn ra tại Lisbon vào tháng 7-2018.Như vậy, có thể khẳng định rằng chữ quốc ngữ ra đời có một
quá trình dài từ năm 1618 cho đến 1625 với sự hợp tác của nhiều người chứ không
chỉ một người. Và đa số "tác giả" của chữ quốc ngữ đều là người Bồ
Đào Nha, người Ý cùng với một số người Việt theo đạo Thiên Chúa góp sức.
Và người được xác định "giỏi tiếng Việt nhứt" và có
công lớn nhứt trong việc sáng tạo ra chữ quốc ngữ chính là giáo sĩ Francesco de
Pina người Bồ Đào Nha.
Francesco de Pina đến Hội An đầu năm 1617, thành lập trú sở
Nước Mặn năm 1618, rồi thành lập trú sở Thanh Chiêm (tức Kẻ Chàm, Dinh Chàm)
năm 1623. Từ năm 1619, Pina đến cư trú tại Thanh Chiêm và cuối năm 1625 ông chết
đuối trên biển Cù Lao Chàm do vướng áo chùng không bơi được khi thuyền lật.
Thi thể ông được chôn ở sau nhà thờ Phước Kiều (nay là nhà thờ
Thánh Andre), thuộc thôn Thanh Chiêm 1, xã Điện Phương, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng
Nam. Đây là nhà thờ do chính ông thành lập khi đến cư trú tại Thanh Chiêm và là
nơi trú ngụ của nhiều giáo sĩ khác, trong đó có Đắc Lộ.
Sau khi ông mất, một học trò tiếng Việt của ông là giáo sĩ
Alexandre de Rhodes (Đắc Lộ) đến Đàng Trong năm 1624, đã ôm tất cả những di cảo
của thầy mang về Macau vào năm 1626. Tại Macau thuở ấy còn có hai giáo sĩ cũng
chăm chú nghiên cứu chữ quốc ngữ và đã soạn thảo hai cuốn tự điển Việt-Bồ-La và
Bồ-Việt.
Đó là hai giáo sĩ Gaspar d’Amaral và Antonio Barbosa cư trú ở
Macau gần 10 năm. Đáng tiếc là công trình của họ chưa kịp công bố thì tháng
2-1646 Gaspar mất trên đường biển đi đến nước ta và sau đó một năm thì Barbosa
cũng mất vì bệnh.
Trong lời nói đầu cuốn Tự điển Việt - Bồ - La của mình, Đắc Lộ
có nhắc đến việc "tham khảo" tài liệu của hai giáo sĩ trên, cho thấy
Đắc Lộ đã thừa hưởng những di sản được người khác sáng tạo ra để góp phần hoàn
thành cuốn tự điển có tiếng Việt đầu tiên trên thế giới.
Điều đáng tiếc là hiện nay vẫn chưa tìm thấy hai cuốn tự điển
của Gaspar và Barbosa đã viết. Rất mong số phận của nó giống như cuốn tự điển của
Bá Đa Lộc, tưởng đã cháy mất trong một trận hỏa hoạn ở Cà Mau nhưng lại được
tìm thấy vào thập niên 1980.Để chứng minh "lòng tin" của mình, R. Jacques đã bỏ
ra hơn mười năm lục tung các thư tịch của Dòng Tên ở châu Âu tìm bằng chứng.
Và cuối cùng, tại Thư viện Hoàng gia Lisbon của Bồ Đào Nha,
ông đã tìm được hai tác phẩm của Pina chưa hề được công bố.
Đó là bức thơ viết dở dài 7 trang Pina viết năm 1623 (một năm
trước khi Đắc Lộ đến Đàng Trong và học tiếng Việt năm 1624) gửi cho bề trên
Jerómino Rodiguez ở Macau, và một tiểu luận dài 22 trang tựa đề Nhập môn tiếng
Đàng Ngoài.Francesco De Pina sanh tại thành Guarda, Bồ Đào Nha khoảng
năm 1585, gia nhập Dòng Tên vào năm 19 tuổi, sau đó đến xứ Goa (Ấn Độ) sống ít
lâu trước khi sang Trung Quốc truyền đạo. Năm 1611, ông theo học tại Học viện
Macau (Collège de Macau) về khoa học xã hội, thần học và tiếng Nhật.
Năm 1617, ông thụ phong linh mục và được cử đến Đàng Trong
làm việc tại trú sở Hội An. Qua năm 1618, Pina đến cư trú tại Nước Mặn với
Buzomi và Borri, người Ý.
Năm 1619, ông đến Thanh Chiêm mua đất dựng nhà thờ và năm
1623 thành lập trú sở Thanh Chiêm. Pina chết đuối trên bờ biển Quảng Nam ngày
15-12-1625.
Dịp đó, tàu Bồ Đào Nha từ Campuchia về Macau, bỏ neo ở hải phận
Quảng Nam, gần Cù Lao Chàm, Pina cùng một người Việt Nam chèo thuyền ra tàu để
lấy các đồ phụng sự.
Khi trở vào bờ, bất ngờ gió bão nổi lên, thuyền lật, Pina vì
vướng áo chùng không bơi được nên chết đuối, còn người kia bơi vào bờ thoát nạn.
Theo linh mục Đỗ Quang Chính, xác ông được đưa về Hội An làm lễ an táng rất trọng
thể.
Gần đây, theo ông Đinh Trọng Tuyên - người dân Thanh Chiêm rất
quan tâm đến chữ quốc ngữ, Pina được chôn cất sau nhà thờ Phước Kiều, nay là
nhà thờ Thánh Andre, nhà thờ chính ông mua đất và xây dựng đầu tiên năm 1619,
thuộc thôn Thanh Chiêm 1, xã Điện Phương, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam.
Việc La tinh hóa thổ âm, đặc biệt là những tiếng của những quốc
gia dùng chữ tượng hình, đã được các giáo sĩ thực hiện từ thế kỷ 15-16. Các
công trình La tinh hóa này được thực hiện với mục đích duy nhứt là làm cho các
con chiên có thể đọc được kinh sách đạo Thiên Chúa, để đạo giáo này phổ biến mạnh
hơn.
Đối với tiếng Việt, Pina cũng thực hiện La tinh hóa với mục
đích trên.
Vừa đến Hội An, Pina lao vào học tiếng Việt và chỉ trong thời
gian rất ngắn, ông đã có thể đàm thoại với người bản xứ mà không cần qua phiên
dịch. Giáo sĩ Gaspar Luis, người đến Đàng Trong năm 1624 cùng với Đắc Lộ, đã ghi
lại như sau: "Linh mục De Pina đến Đàng Trong năm 1617. Đó là giáo sĩ đầu
tiên đã miệt mài nghiên cứu tiếng nói".
Khi Đắc Lộ đến Thanh Chiêm vào năm 1624 thì đã thấy Pina giảng
Kinh thánh mà không cần phiên dịch. Và Pina cũng là giáo sĩ duy nhứt giảng Kinh
thánh bằng tiếng Việt ở Thanh Chiêm.Không chỉ vậy, để có thể nghiên cứu tiếng Việt chuẩn hơn, ông
đã xin về Thanh Chiêm từ năm 1619, trước khi trú sở này được thành lập vào năm
1623.
Trong tài liệu mà Roland Jacques tìm được, ông viết: "Đối
với việc nghiên cứu tiếng nói, Kẻ Chàm vẫn là nơi tốt nhất với tư cách là trung
tâm triều đình (thời điểm này Thanh Chiêm, tức Kẻ Chàm, là nơi đóng dinh Trấn
Quảng Nam).
Hội An xưa là thủ đô kinh tế của Đàng Trong và là khu phố chợ
quan trọng, một trung tâm thương mại lớn của cả vùng miền Trung. Do là khu
thương mại, mua bán nên dân cư cũng hỗn tạp, ngôn ngữ cũng lai tạp.
Trong khi đó, Thanh Chiêm là "thủ đô" chính trị của
Đàng Trong thời kỳ này, tiếng nói ổn định hơn và có nhiều trí thức hiểu biết về
chữ nghĩa hơn. Vì vậy, việc lựa chọn của Pina rõ ràng là nhắm vào việc nghiên cứu
tiếng Việt chuẩn xác hơn. Tại nơi này, ông cũng thiết lập mối quan hệ tốt đẹp với
quan trấn thủ dinh trấn.Đối với việc nghiên cứu tiếng Việt, Pina bắt đầu bằng suy
nghĩ mà đã có nhiều người phương Tây nói đến là tiếng Việt tuy khó nhưng lại
"du dương hòa điệu", "giống như bản nhạc liên hồi". Khi
nghe người Việt nói, C. Borri cho rằng: "Người nào có tài về âm nhạc, biết
phân biệt âm thanh thì tiếng Việt là tiếng dễ dàng đối với họ" (Lịch sử chữ
quốc ngữ, Đỗ Quang Chính, NXB Tôn Giáo 2012, trang 15).
Việc La tinh hóa tiếng Việt là công việc được tiến hành lâu dài
và tiệm tiến. Ban đầu, các giáo sĩ chỉ có thể ghi lại âm tiếng Việt bằng những
từ ngữ mà "chỉ có họ mới hiểu được" như Cecham (Kẻ Chàm, một cách gọi
xưa của Thanh Chiêm), Quamguya (Quảng Nghĩa), Quinin (Qui Nhơn), nayre (nài,
nài voi), Onsaij (ông sãi)... rồi tiến đến Ke Cham (Kẻ Chàm), Qui nin (Quy
Nhơn), ten si (tiến sĩ), dau nhu (đạo Nho), ba hon (ba hồn) bai via (bảy
vía)... sau hết mới có dấu như ngày nay.
Do đó, khi bắt đầu nghiên cứu sáng tạo chữ quốc ngữ, Pina ghi
lại tiếng nói của người Việt bằng "những khung nhạc". Và trong tài liệu
mới đây được triển lãm trong hội thảo chữ quốc ngữ vào tháng 7-2018 tại Lisbon,
Bồ Đào Nha, người ta đã thấy những khung nhạc để thể hiện dấu âm của tiếng Việt.
Chính những người Bồ và người Ý mới có thể tạo ra những dấu
(sắc, huyền, hỏi, ngã, nặng) của chữ quốc ngữ. Nếu chữ Ba là nốt La (A) thì Bá
là nốt La thăng (A#), Bả là nốt Mi (E), Bà là nốt Rê (D)... trong âm nhạc. Đây
cũng là một nguyên tắc đánh dấu âm của tiếng Việt mà người Pháp như Đắc Lộ, vốn
chữ không có dấu, không thể làm được.
Cũng trong tài liệu trên, Pina ghi chép khá nhiều chữ, từ những
chữ bình thường dễ nghe dễ đọc đến những chữ khó nghe, khó viết như "chớ
đi", "đừng làm", "khoãn đã nào" [khoan đã nào],
"có đi thì đến", "bán bạo nheo" [bán bao nhiêu], "bao
mlớn" [bao lớn]... và tất cả những chữ này đều rất gần với chữ Việt hiện
nay.Tượng ông được dựng ở Hà Nội, tên ông được đặt ở đường phố
trung tâm của thành phố Sài Gòn. Song đó chỉ là một nửa sự thật. Lý do đơn giản
vì ông là người Pháp.Giáo sĩ Đắc Lộ sinh tại Avignon (vùng đất thuộc tòa thánh La
Mã đến năm 1791 mới sát nhập vào nước Pháp) ngày 15-3-1593 trong một gia đình
Do Thái, quốc tịch Tòa thánh La Mã, trong một gia đình quý phái.
Ông gia nhập Dòng Tên ngày 14-4-1612, thụ phong linh mục tại
La Mã năm 1618. Cùng năm đó, ông được chấp thuận cho đi truyền giáo tại Đông Á
sau ba lần xin. Ông tới thủ đô Bồ Đào Nha đáp tàu đi Đông Á và ngừng lại ở Goa
(Ấn Độ) khá lâu, đến ngày 29-5-1623 mới tới Macau. Dù muốn đi Nhật song bề trên
muốn ông truyền giáo ở Đàng Trong.
Ông tới Đàng Trong lần thứ nhất tháng 12-1624, tới tháng
7-1626 ông trở về Macau. Tháng 3-1627 ông tới Đàng Ngoài và tháng 5-1630 ông bị
chúa Trịnh Tráng trục xuất. Từ năm 1630-1640 ông dạy thần học ở Học viện Madre
de Dues.
Từ năm 1640-1645 ông lại truyền giáo ở Đàng Trong. Tháng
7-1645 ông rời Đàng Trong về Macau rồi đi châu Âu. Năm 1654 ông đi Ba Tư rồi
qua đời ở Ispahan ngày 5-11-1660.
Khi tới Đàng Trong, ông đã đến Thanh Chiêm và học tiếng Việt.
Và thầy dạy tiếng Việt cho Đắc Lộ chính là Francesco de Pina. Đắc Lộ được bố
trí ở chung nhà với Pina.
Trong lời đề tựa cuốn Tự điển Việt - Bồ - La, Đắc Lộ cho biết
"ông học tiếng Việt chăm chỉ như khi theo học khoa thần học ở La Mã. Nhờ
đó sau bốn tháng ông được giải tội và thêm sáu tháng nữa là ông có thể giảng bằng
tiếng Việt".
Ông còn học tiếng Việt với một em nhỏ người Việt 13 tuổi. Nhờ
vậy mà trong ba tuần ông đã biết phân biệt các "thanh" tiếng Việt và
cách phát âm mỗi tiếng. Em nhỏ này sau đó được Đắc Lộ làm phép rửa tội (nghi thức
nhập đạo Thiên Chúa) và đặt tên là Raphael Rhodes, sau đó trở thành "kẻ giảng"
(tu sĩ cấp 2 trong dòng tu).
Ông này tham gia truyền giáo ở Lào, Đàng Ngoài nhưng sau đó
không tu nữa, lấy vợ và trở thành một thương gia giàu có ở Đàng Ngoài và Phố Hiến.
Cũng nên biết rằng Đắc Lộ là một giáo sĩ có năng khiếu về
ngôn ngữ, biết khá nhiều thứ tiếng. Ông có thể viết và nói các tiếng Pháp, Ý,
Latin, Bồ, Việt và sử dụng sơ sơ tiếng Nhật, Trung Hoa, Ba Tư và Kokani.Trong những lần trở lại Đàng Trong và Đàng Ngoài, ông thu thập
thêm những kiến thức về tiếng Việt và phương thức La tinh hóa tiếng Việt, đặc biệt
là dấu thanh, đồng thời so sánh với những chữ đã được Pina cùng các giáo sĩ
khác La tinh hóa như Barbosa, Gaspar...
Một trong những người giúp sức tích cực cho Đắc Lộ được ghi
nhận là thầy giảng Y Nhã (người Việt), một người thông thạo văn chương, triết học,
từng làm quan trước khi gia nhập hàng thầy giảng.
Để hiểu trình độ chữ quốc ngữ của Đắc Lộ, chúng ta hãy đọc bản
thảo viết tay bằng tiếng Bồ cuốn "Tình hình truyền giáo ở Đàng Ngoài từ
năm 1636-1646" của Đắc Lộ được lưu trữ tại văn khố Dòng Tên ở La Mã.
Dù viết bằng chữ Bồ nhưng bản thảo có rất nhiều chữ quốc ngữ
như Ainam (Hải Nam), Che ce (Kẻ Chợ), chúa õu (chúa Ông), Uuan (vương), bat
minh (bất minh), thuam (thuận), gna ti (nhà ti), cai huyen (cai huyện), bua
(vua), den (đền), ten si (tiến sĩ)...
Trong khi đó, từ năm 1626, giáo sĩ Gaspar đã viết Bến Đá (xã
Bến Đá), bude (bồ đề), ondedóc (ông đề đốc), onghe (ông nghè), nhít la khấu, khấu
la nhít (nhứt là không, không là nhứt)... Hoặc giáo sĩ Francesco Buzumi viết
năm 1626: xán tí (thượng đế), thien chu (thiên chủ, thiên chúa), ngoac huan (ngọc
hoàng)...
Những so sánh này để cho thấy các giáo sĩ khác trong việc
Latin hóa tiếng Việt đã đi trước Đắc Lộ chừng 10 năm, và Pina chắc chắn phải đi
xa hơn dù ông mất sớm.
Để có được cuốn Tự điển Việt - Bồ - La in năm 1651 tại La Mã,
ngoài việc nỗ lực tuyệt vời trong học hành và nghiên cứu, Đắc Lộ còn phải dựa
vào tài liệu những người đi trước. Hai tài liệu được khẳng định từ lâu là hai
cuốn tự điển Việt - Bồ và Bồ - Việt của hai giáo sĩ Gaspar d’Amaral và Antonio
Barbosa (viết xong nhưng chưa kịp công bố thì đã qua đời).
Những tài liệu này được lưu giữ tại nhà thờ Saint Pauli
(Macau). Có thể Đắc Lộ cũng đã sử dụng cả những di cảo của thầy ông là giáo sĩ
Pina. Các phát hiện gần đây cho thấy trong di cảo của Pina chữ quốc ngữ viết bằng
mẫu tự Latin đã có những dấu âm và khá gần với chữ quốc ngữ hiện nay.
Cũng cần nên biết tại sao tự điển của Đắc Lộ lại chỉ là Việt
- Bồ - La mà không có thứ tiếng khác. Trong hai thế kỷ từ 15 đến 17, vai trò
thương mại của Bồ Đào Nha bao trùm cả khu vực châu Á và theo đó là các giáo sĩ
phương Tây sử dụng tiếng Bồ.
Trong lời nói đầu, Đắc Lộ đã nói rõ mục đích của cuốn tự điển
là "giúp các nhà truyền giáo học tiếng Việt" và "làm theo ý muốn
của một số vị Hồng y ở La Mã là thêm chữ La tinh vào để người Việt có thể học
thêm La ngữ".
Cuốn sách đầu tiên về chữ quốc ngữ của Đắc Lộ gồm có hai phần.
Phần một mang tên "Báo cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đông Kinh",
phân tích văn phạm tiếng Việt. Phần còn lại chính là quyển tự điển.
Ngoài ra, ông còn viết một cuốn sách bằng hai thứ tiếng Việt- Latinh tên là Phép giảng tám ngày. Đây là cuốn giáo lý dành cho các thầy giảng đạo
Thiên Chúa. Bản in lần đầu tiên hiện còn được bảo quản ở nhà thờ Mằng Lăng (Phú
Yên).Chỉ riêng điều này, ông xứng đáng là "tiền hiền"
trong số những người có công sáng tạo và phổ biến chữ quốc ngữ ở nước ta.Tháng 5-1862, sau khi chiếm ba tỉnh miền Đông Nam kỳ, gồm
Biên Hòa, Gia Định và Định Tường, phó đô đốc Charner đã ký lịnh thành lập Trường
Thông ngôn (Collège des Interprèste) dạy hai thứ tiếng Pháp và quốc ngữ nhằm
đào tạo thông ngôn cho quân đội viễn chinh.
Ngày xưa, trường được dân chúng và báo chí gọi là Trường Khải
Tường, vì trường đặt trong khuôn viên chùa Khải Tường; và cơ sở đó nay là Trường
Lê Quý Đôn.
Vì sao quân Pháp không sử dụng tiếng Pháp mà phải dùng cả chữ
quốc ngữ ở Nam kỳ?
Thực tế, sau khi chiếm ba tỉnh miền Đông Nam kỳ, quân Pháp phải
dùng rất nhiều giáo sĩ Thiên Chúa để làm thông ngôn trong việc giao tiếp với
dân chúng. Song không phải giáo sĩ nào cũng "hết mình" vì công việc.
Một số thông ngôn đã lợi dụng công việc để truyền đạo.
Năm 1861, giáo sĩ Paulus Galy (tên Việt là Lý) được cử đến
làm thông ngôn cho đồn Thuận Kiều đóng tại làng Thuận Kiều thuộc 18 thôn vườn
trầu.
Đến năm 1863, không rõ công trạng làm thông ngôn của ông thế
nào nhưng ông đã thành lập được giáo xứ Bà Điểm và lập nhà thờ sau chợ. Và cuối
cùng vị giáo sĩ này trở thành chủ chăn ở giáo xứ Bà Điểm và rời bỏ công việc
thông ngôn. Đó là một nguyên nhân.
Nguyên nhân thứ hai là giới giáo sĩ Thiên Chúa lúc bấy giờ muốn
"tham chánh" để chia sẻ quyền lực với quân đội Pháp. Đây là yêu cầu
khó chấp nhận đối với giới quân đội.
Cuối cùng, một giải pháp trung dung được cả hai phía chấp thuận
là "sử dụng chữ viết của công giáo ở Nam kỳ". Đó là chữ An Nam viết bằng
mẫu tự La tinh, tức chữ quốc ngữ, chữ Việt ngày nay.
Trong suốt mấy trăm năm hình thành, chữ quốc ngữ, do chính
sách cấm đạo của nhà Nguyễn, luôn bị coi là thứ chữ "của người ngoại quốc"
và chỉ phổ biến trong các nhà thờ và các xứ đạo Thiên Chúa.
Việc chánh quyền Pháp ở Nam kỳ chấp nhận cho phổ biến rộng
rãi thứ chữ này là một bước đi quan trọng đối với các giáo sĩ. Và chính vì vậy
Trường Thông ngôn ra đời.Ngay khi Trường Thông ngôn thành lập, ông Trương Vĩnh Ký được
mời làm giáo sư. Và ông trở thành người Việt đầu tiên làm thầy giáo dạy chữ Việt,
một công việc không hề dễ dàng lúc bấy giờ. Và năm 1864, sau khi từ Pháp trở về,
ông được bổ nhiệm làm giám đốc trường này.
Cái khó khăn đầu tiên là làm sao có được giáo trình một thứ
chữ mới rợi đối với mọi người? Sau khi trở thành giám đốc, Trương Vĩnh Ký đã viết
cuốn sách giáo khoa đầu tiên mang tên Ngữ pháp tiếng An Nam (Abrégé de
grammaire Annamite) in năm 1867.Sau đó là hàng loạt sách giáo khoa như Chuyện tiếng An
Nam và tiếng Langsa, Sách tập nói chuyện tiếng An Nam và tiếng Langsa, Phép lịch
sự An Nam, Văn phạm tiếng An Nam, Chữ quốc ngữ và lịch sử An Nam...
Riêng cuốn Văn phạm tiếng An Nam đã dày 304 trang
in. Sách giáo khoa của ông rất chi tiết, từ cách đánh vần cho tới những từ ngữ,
các danh từ, động từ, tính từ... đều phân biệt chi tiết. Ví dụ "con ốc"
là loài ốc nói chung, khác với "con ốc vặn" mà ta gọi là ốc vít. Còn
con cò thì khác với cò súng, con ngựa khác với ván ngựa (bộ ván), con ngựa của
cây đờn...
Sách của ông cũng dạy đặt câu sao cho trúng cách và phân chia
từ thấp đến cao một cách có hệ thống và khoa học. Đây lại là công việc của một
người quả là rất đáng nể!
Không chỉ viết sách dạy chữ, ông còn viết cả lịch sử, chuyển
âm truyện thơ Lục Vân Tiên, Kiều, Trương Lương... cho học trò có sách
để đọc tham khảo.
Trong lời nói đầu cuốn Vần quốc ngữ và lịch sử An Nam, ông viết:
"Sách này để cho con trẻ mới vô trường, học những điều đại lược mà phá
ngu. Hai nữa là để tập coi, tập đọc, tập viết tiếng An Nam trong chữ quốc ngữ
cho trúng tiếng, cho nhằm giọng, phân biệt ra cho rõ ràng...".
Ông đã làm thầy giáo trong suốt 22 năm kể từ năm 1864 cho đến
năm 1886, thời điểm ông rời Sài Gòn ra Huế làm cố vấn cho vua Đồng Khánh theo đề
nghị của toàn quyền Đông Dương Paul Bert.
Suốt thời gian này, ông có 9 năm trực tiếp ở các trường (từ
1864-1869 làm giám đốc Trường Thông ngôn, từ 1872-1876 làm giám đốc Trường Sư
phạm) và đã viết khoảng 25 cuốn sách giáo khoa dành cho học trò học, trong số gần
200 tác phẩm của ông.
Đó là một số lượng rất lớn đối với một thầy giáo dạy chữ quốc
ngữ trong điều kiện chưa có tiền lệ.
Thuở ấy, rất khó tìm được học sinh cho trường, do trong dân
chúng truyền miệng nhau chữ quốc ngữ là thứ chữ của người ngoại quốc, học nó sẽ
mất gốc hoặc bị Pháp bắt đi mất.
Ban đầu học sinh Trường Thông ngôn là lính Pháp, con em những
người cộng tác với Pháp và con cháu của giới theo đạo Thiên Chúa. Về sau, để có
học sinh, chánh quyền thực dân ra lịnh mỗi làng phải chọn một hay hai em trong
lứa tuổi từ 10 đến 16 đi học.
Làng xã thường nhắm vào các gia đình có tiền của để bắt đi học,
nên "kiếm người đi học mà như đi đánh giặc". Dù học nội trú, không tốn
tiền, lại có tiêu vặt phí nhưng không mấy gia đình muốn con đi học. Sợ mất con,
rất nhiều gia đình có tiền đã mướn người đi học thế.
Nghiệp làm thầy của ông Trương Vĩnh Ký để lại khá nhiều dấu ấn
tốt đẹp. Một lớp khá đông học trò của ông, sau là những công chức mẫn cán của
chế độ hoặc là những người có công lớn đối với nền văn học, văn hóa của nước
nhà.
Nổi bật là các ông Trương Minh Ký (nhà báo, nhà văn, thầy
giáo), Đặng Thúc Liêng (nhà báo, nhà văn), Nguyễn Khắc Huề (thầy giáo)...Song điều rất ít người biết, ông là nhà báo viết chữ quốc ngữ
đầu tiên của nước ta.Huỳnh Tịnh Của còn gọi là Huỳnh Tịnh Paulus Của, hiệu là Tịnh
Trai, bút danh là Paulus Của, sanh năm Canh Thân (1830) tại làng Phước Tụy, tổng
Phước Hưng Hạ, tỉnh Bà Rịa (nay là Bà Rịa - Vũng Tàu).
Là người theo đạo Thiên Chúa, năm 12 tuổi ông được sang học ở
trường đạo Pinang (Mã Lai), thông Hán tự, giỏi chữ Pháp, La tinh và chữ quốc ngữ.
Khi lên đến chức thầy tư thì hoàn tục về quê cưới vợ. Trong đạo Thiên Chúa, để
trở thành linh mục có sáu bậc, học hết bậc thầy sáu mới trở thành linh mục.
Năm 1861, ông ra làm thông ngôn cho Pháp. Năm 1865 ông làm chủ
bút tờ Gia Định Báo. Năm 1873 ông làm việc tại phòng phiên dịch của Dinh Thượng
thơ (Nha nội vụ), năm 1892 ông là ủy viên ủy ban cải tổ Trường Thông ngôn, có
chân trong bán nguyệt san Revue Indochinoise, một tạp chí chuyên nghiên cứu về
Đông Dương tồn tại từ năm 1893 đến 1925. Nhiều lần ông làm giám khảo trong các
kỳ thi tuyển công chức. Ông được thăng hàm đốc phủ sứ năm 1881 và mất ngày
26-1-1908 tại Sài Gòn.
Gia Định Báo là tờ báo chữ quốc ngữ đầu tiên của nước ta, ra
đời ngày 15-4-1865 do Ernest Potteau làm chánh tổng tài, Huỳnh Tịnh Của làm chủ
bút. Công việc của ông là biên dịch tất cả những văn bản của chánh quyền ra chữ
quốc ngữ, tổ chức trang báo, tổ chức nội dung và viết tin tức. Trong ba số báo
được lưu lại tới ngày nay, chúng tôi đều thấy bài viết của ông dưới bút danh
Paulus Của.
Xin chép nguyên văn vài tin với chữ quốc ngữ thời kỳ đó:
"Tháng trước quan Thượng thơ có truyền cho quan Bố Sai phủ Sài Gòn đi vào
trong làng Bình Hòa Gò Vấp mà làm sổ, biên nam phụ lão ấu, biên sanh tử nghề
nghiệp, ruộng đất, biên thử một ít làng cho quan trên đặng biết, chẳng phải có
ý biên mà tấn thuế thêm hay là lấy vườn đất ai, mà có nhiều người nghi nan sợ
hãi zấu đi, không muốn khai cho thiệt, trong nhà có nhiều người khai ít, ruộng
đất nhiều khai chừng một đôi miếng mà thôi, sợ quan có lấy đất đi hay là có bắt
người mà đem đi đâu, lại nghe có kẻ muốn đút tiền cho làng ăn cho được khai ít
vậy, những người làm thế ấy thì đã mất tiền mà có khi lại mắt lấy tội zối quan,
nào có ích gì, có làm sao mà phải làm đều zối trá như vậy..." (số 5 ngày
15-8-1865). "Tại Cần Giuộc, mới bắt đặng Huyện Đức là người của Quản Định
cử để mà hay việc thâu thuế nội huyện Phước Lộc mà cấp cho quân giặc..."
(số 6 ngày 15-9-1865).
Tuy nhiên, thời gian làm báo của ông dường như không lâu lắm.
Không rõ thời kỳ 1869-1871, thời kỳ mà ông Trương Vĩnh Ký làm chánh tổng tài,
thì ông Huỳnh Tịnh Của còn làm việc ở Gia Định Báo không! Do không có những số
báo từ năm 1866 đến 1870 nên chúng tôi chưa biết chắc. Song đến năm 1872 thì
không còn thấy tên của Paulus Của nữa. Có thể từ những năm này ông đã chuyển
sang làm công việc khác trong phòng thông ngôn của Dinh Thượng thơ. Là một trong hai người Việt biết chữ quốc ngữ cộng tác với
quân đội Pháp ở Nam kỳ, Huỳnh Tịnh Của luôn cổ động mạnh mẽ việc người Việt
dùng chữ quốc ngữ, thứ chữ mà sau này chính người Pháp phải thừa nhận "đã
trở thành vũ khí của người Việt", và cổ xúy cho văn hóa dân tộc.Ngoài bộ Đại Nam quấc âm tự vị in vào hai năm 1895 và 1896,
ông còn khoảng 25 tác phẩm viết bằng chữ quốc ngữ. Hầu hết những tác phẩm này đều
chuyển ngữ từ chữ nho, Nôm sang quốc ngữ những tác phẩm văn học cổ hoặc sưu tầm
các câu hát, chuyển tục ngữ, cổ ngữ... từ dân gian như Chuyện giải buồn, Tục ngữ
cổ ngữ, gia ngôn, Quan Âm diễn ca, Gia Lễ, Chiêu Quân cống Hồ, Câu hát góp...
Song có lẽ gia tài đáng kể nhứt của ông chính là Đại Nam quấc
âm tự vị. Bộ sách được chánh quyền bấy giờ tài trợ in ấn, với khổ lớn, 2 tập
dày 1.200 trang in. Đây là cuốn tự điển chữ quốc ngữ và giải nghĩa bằng chữ quốc
ngữ đầu tiên do người Việt viết.
Sự ra đời của cuốn sách này ngoài nhu cầu đương thời là
"phổ biến chữ quốc ngữ", nhu cầu "tra cứu của các thông
ngôn" còn có nhu cầu tự thân của tác giả nữa. Bởi không phải ai cũng có điều
kiện làm tự điển và không phải ai cũng có thể làm tự điển và cuốn tự điển này
đã chứng tỏ trình độ và tài năng của Huỳnh Tịnh Của.
Muốn làm được như Huỳnh Tịnh Của đòi hỏi phải có sở học tốt,
có khả năng về ngôn ngữ lẫn say mê ngôn ngữ, đồng thời phải thật yêu ngôn ngữ của
dân tộc hết mực. Chính điều đó đã giúp cho một công chức mẫn cán và có lẽ không
có nhiều thời gian, đã làm được điều mà ngày nay nhiều người có điều kiện chưa
chắc đã làm được.
Bộ tự điển đã giúp chúng ta giữ gìn được gia tài tiếng nói cổ
xưa của tiền nhân ở đủ các lãnh vực từ thấp đến cao trong xã hội, đồng thời
cung cấp một phần nào đó bộ mặt của xã hội Việt vào cuối thế kỷ 19. Chỉ riêng
việc này thôi, Huỳnh Tịnh Của đã xứng đáng được tôn vinh là một trong những ông
tổ có công phổ biến chữ quốc ngữ.Trương Minh Ký luôn bị cái bóng của thầy che mờ nên đời sau rất
ít người biết về ông một cách đầy đủ.Ông sinh năm 1855 tại Hanh Thông Xã (Gò Vấp) trong một gia
đình buôn bán. Bảy tuổi, năm 1862, cũng là năm Nam Kỳ mất vào tay quân Pháp,
ông mất mẹ. Cũng vì vậy mà ông được cha chăm sóc tốt, cho ăn học đàng hoàng.
Ông bắt đầu học chữ nho với cha và bà nội và học chữ quốc ngữ
với giáo sĩ Puginier Phước, người thành lập giáo xứ Hạnh Thông Tây cách nhà ông
chừng hai cây số.
Là người cực kỳ thông tuệ nên Puginier Phước trước khi ra Bắc
nhận nhiệm sở mới đã giới thiệu ông vào Trường Thông ngôn (Trường Khải Tường)
ngay khi thành lập (tháng 5-1862). Và tại đó ông đã gặp thầy Trương Vĩnh Ký.Năm 1872, ông ra trường và trở thành thầy giáo dạy chữ nho và
chữ quốc ngữ ngay nơi mình đã học. Nối nghiệp thầy Trương Vĩnh Ký, ông trở
thành một thầy giáo nổi tiếng và hai năm sau, năm 1874, ông được thăng hạng:
"Trương Minh Ký, nguyên làm thầy giáo dạy giúp hạng ba lên hạng nhì, lương
đồng niên ăn 1.400 quan tiền" (Gia Định Báo số 3 ngày 1-2-1874).
"Dạy giúp" là một thứ bậc trong nghề giáo thời ấy.
Năm 1880, Thống đốc Nam Kỳ dân sự đầu tiên Le Myre de Vilers
đã cử ông dẫn một đoàn học sinh gồm 11 em sang Alger du học bậc cao đẳng. Trong
số 11 em này có một "em" sau này khá nổi tiếng trong giới thầy giáo lẫn
báo chí là Diệp Văn Cương.
Diệp Văn Cương (1862-1929), đồng môn của Nguyễn Trọng Quản -
tác giả cuốn truyện Thầy Lazaro Phiền in năm 1887, sau khi tốt nghiệp trở về
làm giáo sư Trường Chasseloup Laubat (nay là Lê Quý Đôn) và từng là chánh tổng
tài cuối cùng (1909-1910) của tờ Gia Định Báo.
Trong chuyến đi này ông Trương Minh Ký đã đi thăm Paris, khi
trở về ông viết một du ký dài 2.000 câu bằng văn vần "Như Tây nhựt
trình" (Nhựt ký đi Tây) in tại Sài Gòn năm 1889.
Sau chuyến đi, trở về ông được bầu làm ủy viên Hội đồng thành
phố Sài Gòn và chuyển sang làm chủ bút tờ Gia Định Báo từ giữa năm 1881 đến năm
1896.
Từ năm 1897, ông làm chủ bút tờ báo tư nhân Nam Kỳ (còn gọi
là Nam Kỳ nhựt trình) cho đến giữa năm 1900, báo đóng cửa. Tháng 8-1900, ông mất
đột ngột ở tuổi 45. Trong năm 1889, ông được thống đốc Nam Kỳ cử làm phiên dịch
cho phái đoàn Hoàng gia nhà Nguyễn do hoàng thân Miên Triện dẫn đầu đi dự hội
chợ quốc tế tại Paris.
Trong chuyến đi, tại Paris, ông được hoàng thân Miên Triện
ban cho cái tên "Thế Tải". Sau chuyến đi này về, ông xuất bản cuốn du
ký Chư quấc thại hội dài 2.000 câu thơ song thất lục bát.Được đánh giá là người có kiến văn sâu rộng cả ba ngôn ngữ Việt,
Pháp, Hán; ông làm thầy giáo dạy chữ quốc ngữ và chữ nho trong 8 năm.
Sau khi chuyển sang làm báo ông viết nhiều sách giáo khoa như
Ấu học khải mông, Tập dạy học tiếng Phansa và tiếng An Nam, Hiếu kinh diễn
nghĩa, Pháp học tân lương, Quấc ngữ sơ giai, Tiểu học gia ngôn... và sáng tác,
dịch thuật thơ truyện.
Cuốn sách 100 bài học tiếng Pháp (Pháp học tân lương) gồm bài
giảng về từ ngữ, văn phạm tiếng Pháp và tiếng Việt mà ngày nay cũng có thể dùng
được cho người muốn học tiếng Pháp.
Thời ông làm chủ bút tờ Gia Định Báo, tờ báo này chính thức
trở thành công báo, hầu hết các trang báo đều đăng ròng các văn bản, nghị định...
của chính quyền. Qua nghiên cứu chúng tôi thấy rằng Gia Định Báo thời Trương
Minh Ký có hai thay đổi căn bản và rất có lợi cho việc tìm hiểu xã hội cuối thế
kỷ 19.
Đó là phần Công vụ báo có đăng nguyên văn biên bản các buổi họp
của Hội đồng quản hạt Nam Kỳ (do vậy mà có khi báo tăng lên đến 20 trang). Đây
là việc vô tiền khoáng hậu, bởi xưa nay các nhà chính trị không bao giờ muốn
đưa những chuyện họ bàn bạc lên báo. Những phát biểu trong các buổi họp rất có
thể ảnh hưởng đến hình ảnh của họ và đôi khi để lại những di chứng không lành!.Và ở phần Thứ vụ, Tạp vụ có dành một phần nhỏ cho những sáng
tác văn học. Và đây là trang văn học đầu tiên trên báo chí quốc ngữ nước ta.
Hai truyện ngắn văn xuôi Tên chăn bò và Thằng ăn trộm với con heo, viết lại
theo nội dung thơ La Fontaine của Trương Minh Ký in trên số ra ngày 1-12-1881
là những truyện đầu tiên của nền văn học nước ta.
Với tiền lệ Truyện Kiều viết lại theo nội dung Kim Vân Kiều
truyện bằng văn xuôi của Thanh Tâm Tài Nhân, thì hai truyện văn xuôi của Trương
Minh Ký phải được coi là truyện sáng tác đầu tiên. Hai truyện này sau đó, năm
1884, được in chung với 128 truyện khác trong tập Truyện Phansa diễn ra quốc ngữ
của Trương Minh Ký.
Song ông cũng là một nhà báo tài năng. Nếu 16 năm làm chủ bút
Gia Định Báo ông đã gieo mầm cho văn học Việt, thì chỉ ba năm sau cùng
(1897-1900) làm chủ bút tờ Nam Kỳ, ông thể hiện rõ tài năng trong nghề báo.
Nam Kỳ là tờ báo tư nhân, do ông A. Schreiner, một doanh
nhân, làm chủ. Tờ báo tuy chỉ sống có ba năm nhưng lại là một tờ báo "đúng
nghĩa" so với các báo khác trong thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20.
Mặt báo phong phú tin tức từ ngoài nước cho đến trong nước.
Báo đã có mục giao lưu với bạn đọc xa gần và mức quảng cáo khá mạnh (8 trang
trong số 16 trang). Đọc báo Nam Kỳ chúng ta có thể thấy được một phần nào đó xã
hội thế kỷ 19, đặc biệt là xã hội Sài Gòn.
Báo này có rất nhiều sáng tác thơ văn và truyện dịch. Năm
1895, truyện Một ngàn lẻ một đêm được chuyển ra tiếng Pháp thì năm 1897 đã có bản
dịch tiếng Việt trên Nam Kỳ. Để làm được tất cả những điều này, chủ bút Trương
Minh Ký với bút danh Mai Nham đã phải mất rất nhiều công sức viết, dịch và lựa
chọn các tin bài đưa lên mặt báo...
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét