Thứ Bảy, 24 tháng 4, 2021

Nhà văn Vĩnh Phúc hiện đại (Phần 2a; Quyển 2)

Nhà văn Vĩnh Phúc hiện đại
(Phần 2a; Quyển 2)

NGUYỄN TRƯỜNG THANH
 - Họ và tên khai sinh: Nguyễn Trường Thanh
- Sinh năm 1934
- Mất năm 2015
- Bút danh: Nguyễn Hoàng Đạt, Trường Thanh
- Quê quán: Làng Lỗ Giao, huyện Đông Anh (Vĩnh Phúc cũ), nay là thành phố Hà Nội
- Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (từ 1997)
Nguyên Chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Lạng Sơn.
- Tác phẩm chính đã xuất bản:
* Hoa trong bão (1994 )
* Tướng không phong hàm (1998)
* Nữ điệp báo Lạng Thành (1999)
* Một thời biên ải (Tập 1, 2001 - tập 2, 2006)
* Ngôi nhà cua cha (2007)
* Hương ngàn (2008)
* Hoa bất tử (2009)
* Dặm dài ải Bắc (2012)
- Giải thưởng văn học:
* Giải A - Giải thưởng Hoàng Văn Thụ lần thứ nhất (1995) cho tiểu thuyết Kỳ tích Chi Lăng.
* Giải A - Giải thưởng Hoàng Văn Thụ lần thứ nhất, giải thưởng của Đoàn Chủ tịch ủy ban Trung ương Liên hiệp các hội văn học nghệ thuật Việt Nam (1995) cho tiểu thuyết Hoa trong bão.
* Giải B - Giải thưởng Hoàng Văn Thụ lần thứ nhất cho các kịch bản điện ảnh Ở xứ hoa đào, Ngọn lửa Bắc Sơn và Hoa đưa hương nơi đất anh nằm,
* Giải thưởng Văn học về đề tài Biên phòng của Hội Nhà văn Việt Nam và Bộ Tư lệnh Biên phòng năm 1999 cho chùm truyện Ma hang Cắn.
* Giải C - Giải thưởng văn học Hội Văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam (1998), Giải B - Giải thưởng Hoàng Văn Thụ lần thứ hai (1999) cho tiểu thuyết Tướng không phong hàm.
* Giải khuyến khích - Giải thưởng văn học Hội Văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam (2001) cho tiểu thuyết 2 tập Một thời biên ải.
 * Giải C - Giải thưởng Hoàng Văn Thụ lần thứ ba (2009) cho tiểu thuyết Hoa bất tử.
 
 
 
 TRONG KÝ ỨC BẠN BÈ
 
 
 
TÌNH YÊU LỚN NHÀ VĂN NGUYỄN TRƯỜNG THANH
DÀNH CHO XỨ LẠNG QUÊ HƯƠNG
Đỗ Lâm Hà
 
Nhà giáo, nhà văn Nguyễn Trường Thanh với bút danh Nguyễn Hoàng Đạt; Trường Thanh, là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (từ 1997) – Sinh ngày 2-5-1934 tại làng Lỗ Giao xã Việt Hùng huyện Đông Anh (Vĩnh Phúc cũ), nay là thành phố Hà Nội. Ông nguyên là chủ tịch Hội VHNT tỉnh Lạng Sơn (1991-1997), đã xuất bản 20 đầu sách gồm nhiều thể loại: Thơ, Ký, Truyện ngắn, Tiểu luận phê bình, Kịch bản phim, Tiểu thuyết, trong đó có 9 tiểu thuyết với đề tài lịch sử và đã nhận 6 giải thưởng văn học chính thức của trung ương và địa phương.
Tôi được quen biết, được đọc tác phẩm của ông từ năm 2000 qua một đồng nghiệp kỹ sư ngành Giao thông Lạng Sơn gọi ông bằng Cậu. Ông xuất thân từ một gia đình nông dân lương thiện, lăn lộn kiếm sống để có điều kiện đi học. Trước khi về định cư ở Lạng Sơn để trở thành nhà Văn, ông đã đi dạy học, có lúc làm thợ sửa đồng hồ ở Móng Cái, mỏ than Cẩm Phả rồi lên tận gang thép Thái Nguyên, mỏ apatis Lào Cai … lao động kiếm sống. Từ năm 1964 ông được Bộ Giáo dục cử lên Lạng Sơn dạy học và đã từng là giáo viên dạy sử, hiệu trưởng trường PTCS Đồng Mỏ, làm báo, viết văn tại Xứ Lạng biên cương cho đến ngày nay. Ông là người dễ tiếp xúc, tin cậy, luôn tự tại, lịch sự với trang phục chính khách một nhà văn.
1. Nhà văn Nguyễn Trường Thanh (Trường Thanh) đã dồn gần trọn đời mình để khai thác về đề tài lịch sử - Lịch sử chiến tranh cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đứng đầu là lãnh tụ Hồ Chí Minh. Trường Thanh là một nhà văn khá đặc biệt trong làng văn đương đại nước ta, gần như trọn đời, ông viết đến 9 tiểu thuyết lịch sử chỉ khai thác trên vùng đất Lạng Sơn biên cương Tổ quốc, là quê hương thứ hai của nhà văn. Ai muốn hiểu cặn kẽ lịch sử mảnh đất con người ở xứ đất linh này thì hãy tìm đọc Trường Thanh. Một nhà giáo dạy sử với kiến văn rộng, nhiều vốn sống, từng trải, yêu nghề ông có lối hành văn điềm đạm, tự tin tạo được lực hút xoáy với bạn đọc. Cách hành văn ấy đã tiến một bước dài trong khai thác diễn biến các sự kiện cách mạng, tình huống cách mạng trong thời kỳ lich sử, khai thác diễn tiến tâm lý và tính tự sự hay triết luận của nhân vật. Các tiểu thuyết lịch sử tiêu biểu trong chuỗi dài tác phẩm của nhà văn như : Hoa trong bão (1994) viết về cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn, đã được dựng thành phim; Tường không phong hàm(1998) là người chiến sĩ cách mạng Lương Văn Tri, chỉ huy đội du kích Bắc Sơn; Nữ điệp báo Lạng thành (1999) là nữ chiến sĩ tình báo Ngô Thị Mão dân tộc Tày trong thời kỳ chống Pháp. Một thời biên ải tập I và II (2000-2008) viết về phong trào cách mạng ở Lạng Sơn giai đoạn trước và sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945; Ngôi nhà của cha (2007) viết về cuộc đời hoạt động cách mạng của kiến trúc sư Nguyễn Văn Ninh; Hương ngàn (2008) viết về cuộc đời hoạt động cách mạng của đồng chí Hoàng Đình Giong; Hoa bất tử (2009) viết về cuộc đời hoạt động  cách mạng của đồng chí Hoàng Văn Thụ; Phò mã Động Giáp (2010) viết về chính sách Nhu viễn thân dân của triều Nhà Lý làm phên dậu phía Bắc của Tổ quốc;Dặm dài ải Bắc (2012) viết về cuộc đời hoạt động cách mạng của chiến sĩ Công an Đào Đình Bảng – Xây dựng thế trận lòng dân để biên phòng giữ gìn cương vực vững chắc bền lâu. Trong lúc viết bài này (20-4-2014) tôi nhận được điện thoại của ông từ bệnh viện Hữu nghị Việt Xô Hà Nội là ông sắp hoàn thành tiểu thuyết thứ 10 sẽ xuất bản vào năm nay ông tròn 80 tuổi (1934-2014).
2. Tâm huyết cây bút Trường Thanh đã thấm vào từng tấc đất biên cương Tổ quốc. Từ sau năm 1975 dòng văn chương nước nhà đang ở động thái chuyển mình mạnh mẽ cùng với sự chuyển biến cách mạng đất nước. Như một mạch ngầm lặng lẽ, một mình đi về dòng văn chương riêng của ông. Đó là viết tiểu thuyết về đề tài lịch sử - Lịch sử chiến tranh cách mạng ngay trên mảnh đất biên cương phía Bắc của Tổ quốc. Tiêu điểm là miền đất Lạng Sơn, tấm phên dậu để giữ nước của cả dân tộc. Năm 30 tuổi (1964) ông chính thức về Lạng Sơn dạy học, làm báo, viết văn đến nay đã gần nửa thế kỷ. Năm 1981 ông viết tiểu thuyết lịch sử đầu tay và viết cuốn tiểu thuyết lịch sử thứ 9 là Dặm dài ải Bắc vào năm 2012, lúc ông tròn 78 tuổi. Xuất phát hành trình văn chương của ông là tình yêu tha thiết mảnh đất và con người ở xứ Hoa đào này - Ấy chính là tình yêu Tổ quốc. Ông muốn đem ngòi bút văn chương của mình góp phần bảo vệ và xây dựng từng tấc đất biên cương, giữ gìn độc lập chủ quyền toàn vẹn cho đất nước. Đây là tư tưởng nghệ thuật, sợi chỉ đỏ xuyên suốt từng trang tiểu thuyết lịch sử của nhà văn Trường Thanh. Lạng Sơn có vị trí chiến lược vệ quốc rất trọng yếu đã chứng kiến một lịch sử lặp đi lặp lại mấy mươi lần quân bành trướng phia Bắc sang xâm lược nước ta phần lớn đều qua cửa ngõ biên cương này. Gần như các triều đại phong kiến Trung Hoa : Hán, Đường, Tống, Nguyên, Minh, Thanh, quân bành trướng đương đại…đã nhiều lần đem đại quân sang xâm lược nước ta, có lần đô hộ đến nghìn năm! Khi chúng thua chạy hoặc đầu hàng rút quân đều qua miền đất biên viễn thiêng liêng , anh dũng và nhân ái này. Có thể nói cả chín tiểu thuyết lịch sử của nhà văn Trường Thanh đều dành nhiều trang nhấn về vị trí chiến lược, tinh thần ái quốc anh dũng chiến đấu chống ngoại xâm của đồng bào các dân tộc, chủ yếu là dân tộc Tày, Nùng, Dao…Quê hương Lạng Sơn, nơi mà từng tấc đất, từng tên núi, tên sông…đều gắn chặt với lịch sử hào hùng chống giặc, thắng giặc ngoại xâm về mọi mặt quân sự, chính trị, kinh tế, ngoại giao của dân tộc. Với tầm nhìn lịch sử, xuất phát từ tình yêu miền biên viễn đất linh, mang nặng ơn tình Xứ Lạng, nhà văn Trường Thanh đã quyết tâm niệm dùng ngòi bút của mình viết về truyền thống lịch sử hào hùng chống ngoại xâm của ông cha, tổ tông, dân tộc ở miền đất biên viễn này. Bộ tiểu thuyết lịch sử của ông đã toát lên những bài học lịch sử xương máu rút ra từ nghìn năm, trong đó có mô hình xây dựng Thế trận lòng dân nơi biên phòng thiết yếu của đất nước. Đây là sự thành công xuất sắc của nhà văn Trường Thanh trên văn đàn Xứ Lạng hôm nay, góp phần vào nền văn học đương đại nước nhà. Khép lại trang cuối của bộ tiểu thuyết nhiều quyển, tôi cảm thấy: Tâm huyết cây bút Trương Thanh như đã thấm vào từng tấc đất biên cương của Tổ quốc.
3. Đọc qua 20 đầu sách đã xuất bản của ông mà chủ yếu là 9 tiểu thuyết lịch sử - lịch sử chiến tranh cách mạng chứng tỏ nhà văn Trường Thanh về mặt tư tưởng nghệ thuật rất thông tỏ và thực hiện đúng theo tinh thần Đề cương văn hoá Việt Nam năm1943 và nghị quyết 23 Bộ Chính trị khoá X về văn hoá của Đảng. Không những bản thân thực hiện đúng khi nhà văn cầm bút mà còn vận động nhiều văn nghệ sĩ làm theo khi ông ở cương vị quản lý Hội VHNT của tỉnh. Cũng chính từ việc nhận thức đúng về đường lối văn hoá văn nghệ của Đảng mà nhà văn Trường Thanh có lúc vấp ngã trên đường đời nhưng ông đã dồn nghị lực tự đứng dậy chính bằng những trang tiểu thuyết hàn lâm, bổ ích của mình. Những tiểu thuyết ông viết sau lần vấp ngã lại càng ngồn ngộn chữ nghĩa lại làm sáng thêm trang đời, trang văn của ông. Sau khi hoàn thành tiểu thuyết “Phò mã Động Giáp” kịp chào mừng kỷ niệm Nghìn năm Thăng Long báo Người cao tuổi đã trân trọng đăng kín một trang báo ca ngợi ông là một nhà văn tuổi cao gương sáng nơi Xứ lạng biên cương. Tác phẩm của ông còn có giá trị cao về mặt văn học. Nhiều sinh viên và học viên trường đại học Thái Nguyên… thường lấy tiểu thuyết của ông để viết luận án cử nhân và thạc sĩ.
Có thể thấy cả cuộc đời, kể cả tuổi thanh xuân sung mãn đẹp dẽ nhất của nhà văn Trường Thanh đã gắn bó với miền đất linh Xứ Lạng thân yêu. Nhà văn Trường Thanh là một tác giả tiêu biểu, xuất sắc đóng góp nhiều cho nền văn chương, văn học Xứ Lạng suốt gần nửa thế kỷ qua. Tên tuổi ông đã được bạn đọc cả nước biết đến với một tình cảm trân trọng, yêu mến.
Nhà văn Trường Thanh đã dành một tình yêu lớn cho Xứ Lạng quê hương.
Đ.L.H

NGUYỄN NGỌC THIỆN

- Họ và tên khai sinh: Nguyễn Ngọc Thiện

- Sinh ngày 6 tháng 3 năm 1947
- Bút danh: Nguyễn Ngọc Thiện, Thiên Năng, Thi Yên, Thế Uẩn, Nguyễn Thiện
- Quê quán: Phù Ninh, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh cũ (nay là Ninh Hiệp, Gia Lâm, Hà Nội). Sinh ra và lớn lên, học phổ thông ở Thị xã Vĩnh Yên, Vĩnh Phúc
- Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (từ 1997)
- Hội viên Hội Nhà văn Hà Nội (1997); Hội viên Hội Nhà báo Việt Nam (1999); Hội viên Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam (1996); Hội viên Hội Ngôn ngữ học Việt Nam (1997).
 
- Tác phẩm chính đã xuất bản:
* In riêng: - Văn chương và tác giả (Nxb. Thanh niên, 1995)
- Tài năng và bản lĩnh nghệ sĩ (Nxb. Hội Nhà văn, 2000)
- Phong cách và Đời văn (Nxb. Khoa học xã hội, 2005)
- Lý luận, phê bình và đời sống văn chương (Nxb. Hội Nhà văn, 2010)
- Văn chương nghệ thuật và Thẩm mỹ tiếp nhận  (Nxb. Hội Nhà văn, 2015)
- Nghệ thuật vị nghệ thuật hay Nghệ thuật vị nhân sinh (Nxb. Khoa học xã hội, 2004)
* Chủ biên: - Vũ Trọng Phụng - Về tác gia, tác phẩm (Nxb. Giáo dục, 2000)
- Tranh luận văn nghệ thế kỷ XX, 2 tập (Nxb. Lao động, 2003)
- Lý luận, Phê bình Văn học Việt Nam từ đầu thế kỷ XX đến 1945 chuyên luận), Nxb. Khoa học xã hội, 2005
- Văn học Việt Nam thế kỷ XX. Quyển V: Lý luận, phê bình nửa
                                                          đầu thế kỷ XX (tuyển), 5 tập, Nxb. Văn học, 2004-2005
- Văn học Việt Nam thế kỷ XX. Quyển V: Lý luận, phê bình
                                      1945-1975 (tuyển), 5 tập, Nxb. Văn học, 2009-2010
- Văn học Việt Nam thế kỷ XX. Quyển V: Lý luận, phê bình
                                      1975-2000 (tuyển), 3 tập, Nxb. Văn học, 2010.
- Giải thưởng văn học:
* Giải thưởng Học sinh lớp 10 giỏi Văn tỉnh Vĩnh Phúc, khi học tại trường cấp III Trần Phú, thị xã Vĩnh Yên, năm học 1962-1963.
* Tặng thưởng của Hội đồng Lý luận phê bình Văn học nghệ thuật trung ương năm 2013, 2016.
* Giải thưởng của Hội xuất bản Sách Việt Nam năm 2016.
- Suy nghĩ về nghề văn:
Phê bình văn học tuyệt nhiên không phải là một cuộc rong ruổi phiêu lưu trên bề mặt văn bản chữ nghĩa với những giây phút thăng hoa, hứng thú đột khởi. Mà cao hơn thế, phê bình là một hành động của nhận thức, một sự tự ý thức có chủ đích, đòi hỏi tập trung làm sáng tỏ những vấn đề văn học có ý nghĩa xã hội, nhân sinh và nghề nghiệp đặt ra từ nơi tác phẩm. Bài phê bình sâu sắc, có sức thuyết phục cao, vừa cho thấy “con mắt xanh”, tức điểm nhìn và tầm nghĩ đặc sắc của nhà phê bình khi phóng chiếu vào tác phẩm, vừa khiến người đọc kinh ngạc về bút lực sung mãn, tinh tế, tài hoa của người viết.
Trong hành trình đầy đam mê và sáng tạo, nhà phê bình không thể không “rút ruột”, huy động tối đa nội lực tiềm ẩn trong con người vừa là nhà khoa học vừa là nghệ sĩ của mình, để xuyên qua vỏ ngôn ngữ của văn bản, thâm nhập vào thần thái của tác phẩm, chỉ ra rằng những dụng ý nghệ thuật của tác giả có được thẩm thấu vào từng thành tố của tác phẩm hay không; tác phẩm quả là có những đóng góp mới mẻ cần được khẳng định, ghi nhận hay không; hay giờ đây nó chỉ là sự chững lại của một tư duy nghệ thuật quen thuộc, một bút pháp trơn tay đến nhàm lặp?
A - TRONG KÝ ỨC BẠN BÈ
 
PGS.TS NGUYỄN NGỌC THIỆN – NGƯỜI PHU CHỮ CẦN MẪN 
Thùy Dung 
Nguyễn Tự Lập gọi ông là “người Thầy có tâm, có tầm, có đức” ; Hồ Sĩ Vịnh ví ông là “người bơi giữa hai dòng chảy” ; Nguyễn Đình Lâm nhắc tới ông như “người tiếp lửa cho nghề viết”; học trò trân kính ông như cha; giới đồng nghiệp đặt cho ông cái tên rất dí dỏm - con số 7 may mắn… Ấy là nhà văn, nhà báo, PGS.TS Nguyễn Ngọc Thiện - một trong những cây bút phê bình xuất sắc trong giới phê bình văn học Việt Nam.
        Người con của đất làng Nành, con rể làng Gốm, sinh tại Vĩnh Yên, Vĩnh Phúc
Nhắc đến làng Nành (Nay là Ninh Hiệp, Gia Lâm, Hà Nội) người ta nghĩ ngay đến vùng đất lắm “trai tài, gái sắc”. Bởi nơi đây chính là quê hương của nhiều vị quan tài ba, cũng là nơi được mệnh danh là “hậu cung của triều đình”, với công chúa Ngọc Hân, hoàng hậu Nguyễn Thị Huyền và vô số các cung tần mỹ nữ khác. Đó là mảnh đất thuộc xứ Đông Ngàn, Kinh Bắc- nơi dòng sông Đuống quanh năm lững lờ trôi chảy, lưu giữ nhiều nét đẹp văn hóa truyền thống với con người thuần hậu, đơn sơ. Nguyễn Ngọc Thiện may mắn là một trong số những người con của vùng đất gìn giữ nhiều nét văn hiến ấy.
Nguyễn Ngọc Thiện sinh năm 1947 tại thị xã Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc. Anh xuất thân trong một gia đình trung lưu, cơ chỉ làm ăn. Ông nội anh là người tính tình khí khái, trọng chữ nghĩa. Ông ngoại anh là thầy đồ dạy chữ Nho còn bà ngoại là người con gái nết na, có nhan sắc trong làng. Hồi thiếu nữ, bà được bầu chọn là Tướng Bà trong dịp Hội Đại cuối cùng của tổng Nành (cuối XIX).
Từ nhỏ, anh và các anh chị em đều được thầy mẹ chăm sóc, cho ăn học chu đáo. Tiếp thu truyền thống đạo học của gia đình và lời khuyên của ông cha: gìn giữ gia phong, tu nhân tích đức, lập thân tự học hành để là người có chữ, có chí… Năm 1963, chàng thanh niên Nguyễn Ngọc Thiện sau khi tốt nghiệp Trường Phổ thông cấp 3 Trần Phú (thị xã Vĩnh Yên) thi đỗ vào khoa Văn, trường Đại học Tổng hợp Hà Nội. Sau bốn năm học tập, ra trường, anh về nhận công tác tại Viện Văn học thuộc Viện Khoa học- Xã hội Việt Nam (nay là Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam). Nguyễn Ngọc Thiện bước chân vào làng nghiên cứu từ đó.
Kể lại khoảng thời gian mới đầu chập chững bước vào nghề, anh chia sẻ: “Khi ấy, mình là cán bộ trẻ nhất cơ quan, rụt rè, bẽn lẽn lắm. Đi theo các bậc đàn anh, trưởng thượng như Hoài Thanh, Nam Mộc, Hoàng Trinh, Vũ Đức Phúc… dự các cuộc họp, các buổi gặp gỡ; mà nhiều người cứ ngỡ mình là con, em đi tháp tùng các vị cho vui. Chứ không ai nghĩ mình lại là người trong nghề cả…”
Chưa hết thời gian tập sự một năm, anh được gọi đi nghĩa vụ quân sự. Lúc đầu là lính chiến bộ binh ở Bộ Tư lệnh Thủ đô. Sau quân lực thấy anh có bằng đại học, lại vốn làm nghề với chữ nghĩa, bèn chuyển anh về Trường sỹ quan hậu cần. Tại đây, anh đảm nhận các công việc từ giảng viên dạy văn trong khoa Cơ bản, sỹ quan trợ lý chính trị Ban Tuyên huấn, chủ nhiệm thư viện nhà trường cho tới biên tập viên, phát thanh viên của Đài truyền thanh nhà trường… Được hơn 5 năm, sau Hiệp định Paris năm 1973, anh được chuyển ngành trở về công tác tại Viện Văn học, tiếp tục sinh hoạt chuyên môn trong Ban Lý luận rồi được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam. Năm 1975, anh lấy vợ, nguyên là bạn đồng môn với anh tại trường cấp 2 Tô Hiệu, thị xã Vĩnh Yên. Chị là Trần Thị Bình An, quê xã Sơn Đông (Kẻ Gốm), huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc. Anh trở thành con rể làng Gốm từ đây. Một thời gian sau đó, anh được điều động lên vùng biên giới phía Bắc làm cán bộ tăng cường của Đảng. Đến năm 1983, anh được cử đi du học bên Cộng hòa dân chủ Đức, tiến hành nghiên cứu và tốt nghiệp Tiến sỹ chuyên ngành lý luận văn học tại trường Đại học Karl-Marx (Leipzig). Sau 4 năm miệt mài, Nguyễn Ngọc Thiện hoàn thành xuất sắc khóa học nghiên cứu sinh. Trở về Việt Nam, anh được kết nạp là hội viên của Hội Nhà văn Việt Nam (1997) và tiếp tục trở lại với lĩnh vực nghiên cứu, phê bình trong vai trò Trưởng Ban lý luận tại Viện nghiên cứu Văn học.
         Cây bút trưởng thành xuất sắc của văn đàn Việt Nam
Nguyễn Ngọc Thiện bắt đầu nghiệp “phu chữ” bằng những bài tiểu luận, phê bình trên một số báo chí ở Trung ương và tham luận ở các cuộc hội thảo khoa học. Sau 50 năm cần mẫn như con tằm se kén, kéo tơ, đến nay, ông đã sở hữu một khối lượng công trình nghiên cứu không hề nhỏ. Đặc biệt, phải kể đến: Văn chương và tác giả (Tiểu luận, phê bình) 1995, Tài năng và bản lĩnh nghệ sĩ (Nghiên cứu và phê bình) 2000, Phong cách và đời văn (Tiểu luận, phê bình) 2005, Lý luận phê bình và đời sống văn chương (Tiểu luận phê bình) 2010, Nghệ thuật vị nghệ thuật hay nghệ thuật vị nhân sinh (Chuyên luận) 2004, Văn chương nghệ thuật và thẩm mỹ tiếp nhận 2015. Bên cạnh đó, ông cũng là chủ biên của nhiều cuốn sách: Tuyển tập phê bình, nghiên cứu văn học Việt Nam 1900-1945, 5 tập; Hoài Thanh- Bình luận văn chương; Tranh luận văn nghệ thế kỷ XX, 2 tập; Vũ Trọng Phụng- Về tác giả tác phẩm; Lý luận phê bình Văn học Việt Nam thế kỷ XX- 13 tập… cùng nhiều tác phẩm lý luận, phê bình văn học khác…
Nghiên cứu một hiện tượng văn học, ông luôn trung thành với nguyên tắc “Một cái nhìn mang tính biện chứng lịch sử và hướng tới sự phát triển của bản thân, luôn luôn là một yêu cầu thống nhất hữu cơ, không thể chỉ nhấn mạnh phiến diện một phía nào”.
Theo Nguyễn Ngọc Thiện, văn học nghệ thuật là một hình thái nghệ thuật đặc thù bằng ngôn từ, chứa đựng tài năng, tâm huyết của người nghệ sĩ, được ấp ủ, thai nghén và sinh thành, tồn tại trong nhiều mối quan hệ đan cài nhau, nhằm thể hiện khát vọng của con người trong sự tìm kiếm , vươn tới và sáng tạo theo quy luật của cái đẹp, cái chân, cái thiện. Vì vậy, để phê bình được thì phải nhìn mọi thứ dựa trên tổng thể, bao quát, không thể chỉ thấy điểm mà không thấy diện; phải vừa biết kế thừa, chọn lọc, vừa nâng cao, bổ sung…
Những bài viết của ông có sức đằm sâu, gợi ra nhiều vấn đề để suy nghĩ, bàn luận. Ông phê bình trên cơ sở hiểu sâu con người nhà văn và khảo sát tác phẩm một cách đầy đủ, có hệ thống, không bị sa vào nhận định chung chung. Ngòi bút phê bình Nguyễn Ngọc Thiện có chất văn, đặc biệt là khi phê bình tiểu thuyết, nhiều trang viết đầy cảm hứng, lôi cuốn. Ngoài việc cung cấp những tư liệu mới, Nguyễn Ngọc Thiện còn đóng góp vào đời sống văn học những kiến giải mới của mình.
        “Lội ngược dòng” để đi tìm chân- thiện- mỹ
Say mê đào sâu nghiên cứu di sản văn học dân tộc, từ đó tìm ra điểm hay, cái hợp lý để kế thừa và nâng cao. Có lẽ ai cũng thừa nhận đây là cách đi đúng hướng, có điều phải công phu, nhất là ở khâu đi tìm tài liệu gốc. Làm lý luận văn học, nghệ thuật nhất là chủ biên công trình đối với Nguyễn Ngọc Thiện không phải dùng danh xưng của mình, tập hợp một số tư liệu, bài viết, thành con số cộng hay khi có tài liệu “tam sao thất bản”, vẫn được sự hỗ trợ kinh phí nhà nước, in thành những tập sách dày cộp nhưng thiếu ý tưởng…; mà là lối bơi ngược dòng, tìm tòi, khảo sát, chỉnh lý mới tìm ra được văn bản gốc, tương đối chính xác, tổ chức thành hệ thống với cách nhìn khả biến và quan điểm biện chứng. Tiêu biểu là chuyên luận Nhìn lại cuộc tranh luận nghệ thuật 1935 - 1939 -  Công trình tổng kết cuộc tranh luận văn nghệ lớn nhất và quan trọng nhất đầu thế kỷ XX, được giới khoa học đánh giá cao năng lực khái quát, phương pháp tổ chức tư liệu nhờ sự chỉ đạo của phương pháp luận mácxít…
Với Nguyễn Ngọc Thiện, chủ biên trong vai trò người chủ xướng một đề tài lớn phải thực sự là người lao động có trí tuệ năng động, có phương pháp tư duy thực chứng, lại tập hợp được đội ngũ nghiên cứu tâm huyết đáp ứng được xã hội có nhu cầu, đòi hỏi của xã hội... Điều này từ thế kỷ XVII, R. Decartes gọi là duy lý thực tiễn, tức là muốn làm một công trình khoa học, thì phải có tầm nhìn khái quát qua ba công đoạn: nhu cầu (besoin), năng lực (capacité), và hành động (action). Về mặt này ông giống như một nhà tư liệu học khả kính đáng tin cậy.
Là học trò của cố nhà phê bình văn học Hoài Thanh, ông luôn tâm niệm “ phải tận dụng thời gian, hết lòng làm việc cho cái chuyên môn mà mình theo đuổi, để khi sức tàn lực kiệt, có thể mãn nguyện là mình đã làm được chút gì có ích cho cuộc đời chung”. Với ông, để nghiên cứu được văn chương, phải chịu khó tìm tòi, tự mình tìm đọc các văn bản, tác phẩm, đọc đi đọc lại nhiều lần, để thẩm thấu được cái hồn, cái thần của nó. Khi đọc phải tĩnh tâm, thành thực với mình, với người, an nhiên, tự tại. Bên cạnh khả năng thiên bẩm thì việc trui rèn, luyện tập cũng vô cùng quan trọng. Mình phải lao động dựa trên câu chữ của người ta, nghiên cứu kỹ lưỡng từng câu, từng dòng, từ cách diễn đạt đến tư tưởng, tình cảm của người viết… Từ đó mà tìm ra những điều sâu xa ẩn chứa mà tác giả tâm huyết gửi gắm trong câu chữ.
Ngoài cương vị của một nhà khoa học, nhà văn, nhà phê bình văn học; PGS.TS. Nguyễn Ngọc Thiện còn được mọi người biết đến là một nhà giáo ưu tú với kinh nghiệm giảng dạy phong phú hiếm có. Trong ngót 30 năm làm “nghề giáo” của mình ông đã giảng dạy và hướng dẫn nhiều nghiên cứu sinh, nhiều học viên cao học, chuyên tâm học tập để có học vị tiến sĩ, thạc sĩ văn chương,…  cho ra đời nhiều luận văn, luận án có giá trị nghệ thuật và chuẩn mực khoa học được đông đảo giới chuyên môn tán thưởng và công nhận.
Không chỉ tập trung nghiên cứu, giảng dạy, ông còn cần mẫn chuyển mình cả trong lĩnh vực báo chí. Tham gia công tác báo chí từ cách đây đã 10 năm, hiện PGS.TS Nguyễn Ngọc Thiện đang đảm nhiệm vị trí Tổng biên tập Tạp chí Diễn đàn Văn  nghệ Việt Nam - một trong những tạp chí văn nghệ tổng hợp hàng đầu của giới văn nghệ cả nước. Tạp chí từ thời ông lãnh đạo đã từng bước đổi mới ngày một chuyên nghiệp về nội dung, chỉn chu về hình thức, xứng tầm một tạp chí văn nghệ đầu ngành mang tính chất mẫu mực. Về hình thức, từ mục lục đến trang bìa, từ chú thích đến tên chuyên mục được đặt đầu trang bìa được trình bày rất chuyên nghiệp và khoa học đạt chuẩn trong nước và quốc tế. Vì tổng biên tập là một nhà khoa học nên uy tín của Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam ngày càng được coi trọng. Các bài đăng trên tạp chí đều được tính điểm cộng cho các công trình khoa học…
Nếu phải dành một từ để nói về Nguyễn Ngọc Thiện, có lẽ đó chính là “người phu chữ”, hàng ngày cần mẫn lĩnh hội, thẩm thấu, góp nhặt, chắt lọc từng chút kiến thức để rồi đúc kết chúng trong từng câu chữ một cách cô đọng và sâu sắc nhất, lưu lại giá trị mãi cho đời.
T.D
 
 
 
 
 
GÓP NHẶT TRÊN TỪNG TRANG SÁCH, VIẾT LÊN NHỮNG TRANG ĐỜI
(Một vài suy nghĩ khi đọc Văn chương, Nghệ thuật
và Thẩm mỹ tiếp nhận của PGS.TS Nguyễn Ngọc Thiện) 
                             Nguyễn Thị Bình
 
Tỉ mỉ, chắc chắn, uyên bác, tài hoa là cảm nhận của tôi khi đọc tác phẩm Văn chương, Nghệ thuật và Thẩm mỹ tiếp nhận (Tiểu luận - Phê bình Văn học) của PGS.TS Nguyễn Ngọc Thiện, NXB Hội Nhà văn Việt Nam, năm 2015. Có lẽ không chỉ riêng tôi, mà những ai có hân hạnh được đọc tác phẩm này, hẳn sẽ đều có chung cảm nhận như vậy! Và hơn thế, cuốn sách thuyết phục người đọc không chỉ bởi sự công phu, khoa học và minh triết của một nhà Lí luận Phê bình văn học chuyên nghiệp, mà bởi sự tinh tế trong năng lực cảm thụ thẩm mỹ của tác giả- Một người cẩn thận, chỉn chu trong cuộc sống cũng như trong khoa học.
 Là nhà nghiên cứu, phê bình gắn bó với thực tiễn, có sự từng trải về vốn sống, với kiến văn rộng rãi, uyên thâm, cho đến thời điểm này, PGS.TS Nguyễn Ngọc Thiện đã in riêng 06 cuốn và chủ biên hơn 20 đầu sách về Lý luận Phê bình văn học (Chưa kể 36 đầu sách in chung). Nhìn vào “gia tài” lao động nghệ thuật đồ sộ của ông quả là đáng nể phục. Đọc Văn chương, Nghệ thuật và Thẩm mỹ tiếp nhận của ông, tôi đi từ khâm phục này đến khâm phục khác và chợt ngộ ra rằng: công việc của người làm công tác Lí luận Phê bình Văn học, Nghệ thuật ngoài kiến văn sâu rộng, còn đòi hỏi sự tỉ mỉ, kĩ càng, công phu, uyên bác; đòi hỏi tư duy khoa học mạch lạc, lịch lãm, nhân văn. Đó là lý do vì sao mỗi trang sách của ông lại cuốn hút độc giả đến vậy!
Tác phẩm Văn chương, Nghệ thuật và Thẩm mỹ tiếp nhận của PGS.TS Nguyễn Ngọc Thiện là một công trình khoa học công phu, giầu tính thẩm mỹ, dầy trên 400 trang, tập hợp những thành quả mà ông đã dụng công nghiên cứu trong 05 năm qua (2010-2015), đã được công bố tại các hội thảo khoa học quốc gia và công bố trên các sách, báo, tạp chí Trung ương. Sách chia ba phần:
Phần I: Tuyển chọn các bài Tiểu luận Phê bình Văn học về các tác giả, tác phẩm văn chương Việt Nam hiện đại, nhìn dưới góc độ của sự đọc chuyên nghiệp và thẩm mĩ tiếp nhận.
 Phần II: Tập hợp các bài phỏng vấn, nghiên cứu phê bình từ trước đến nay về tác gia văn xuôi Ma văn Kháng- Một cây bút “lực lưỡng” của văn học hiện đại việt Nam.
Phần III: Gồm những bài tiểu luận phê bình về nâng cao chất lượng, tính chuyên nghiệp và hiệu quả của báo chí văn nghệ Việt Nam đương đại.
Ba phần của cuốn sách là ba mảng tưởng như riêng rẽ mà nhất quán được hình thành bởi tư duy khoa học của một người toàn tâm, toàn ý cho sự nghiệp Lý luận Phê bình Văn học, Nghệ thuật. Đọc sách của PGS.TS Nguyễn Ngọc Thiện, tôi hiểu, là một người của khoa học cho nên trước hết, ông rất tâm huyết sẻ chia với lao động nghệ thuật, lao động khoa học của những bậc chân tài. Ông học hỏi, kế thừa, tiếp thu kiến thức, kinh nghiệm từ những đấng, bậc tôn kính đi trước (Hoàng Xuân Nhị, Hoàng Trinh, Hà Minh Đức, Đinh Gia Khánh…). Ông trân trọng, nâng niu từng chút tốt đẹp trên từng trang sách của những bậc tài danh, đi sâu khám phá, bình giải những giá trị nội dung, nghệ thuật, giúp người đọc thấu hiểu hiểu hơn về tác phẩm, mở rộng, nâng cao tri thức và thị hiếu thẩm mỹ. Cũng vì vậy, đối với người đọc - bạn đồng hành, đồng sáng tạo của nhà văn, ông đòi hỏi ở họ sự hoàn thiện thẩm mỹ trong tiếp nhận tác phẩm văn chương nghệ thuật. Ông hiểu sâu sắc công việc của người sáng tác, nên luôn xem xét tác phẩm trong mối quan hệ với chỉnh thể nghệ thuật một cách uyển chuyển, thực chứng, không cứng nhắc, áp đặt. Những bài của ông, dù viết về lĩnh vực nào cũng đều đem đến cho người đọc một cảm quan thẩm mĩ, một tư duy khoa học nhất quán, thuyết phục.
Ở phần I, ông dành quá nửa số trang của cuốn sách luận bàn xoay quanh những vấn đề về lĩnh vực Lý luận Phê bình Việt Nam. Từ việc nhìn nhận, đánh giá và hệ thống hóa các thành tựu Lý luận Phê bình văn học Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến nay, đến việc việc hướng dẫn người học Văn chọn đề tài Khóa luận, Luận văn, Luận án; Từ việc nghiên cứu về một tác giả tiêu biểu, đến những bài viết đi sâu tìm hiểu giá trị nội dung, nghệ thuật của một tác phẩm… đề tài nào cũng được ông tiếp cận và tự biện một cách thấu đáo, khoa học theo kiểu “Nói có sách, mách có chứng”. Ở trang đầu mỗi bài đều có chỉ dẫn xuất xứ, cuối mỗi trang có chú thích cụ thể, tường minh. Làm như vậy, một mặt đem lại độ tin cậy cho độc giả, mặt khác, kích thích, khơi gợi trí tò mò, lòng say mê khoa học đối với những ai muốn tìm hiểu nghiên cứu kĩ vấn đề.
Thông thường, tác phẩm Lý luận Phê bình rất kén độc giả, hay nói cách khác là đọc rất khó vào. Nhưng đọc sách của PGS.TS Nguyễn Ngọc Thiện, người đọc sẽ cảm thấy thích thú, đọc rồi cứ muốn đọc lại, đọc mãi bởi cái cách dẫn dắt khoa học vừa lôgic, lại rất có duyên của ông. Rõ nhất là cách ông đặt và giải quyết vấn đề rất chặt chẽ, khéo léo, sát đối tượng. Vì vậy, những vấn đề nêu ra, đều được giải quyết triệt để, có lý, có tình. Ở nhiều bài, sau khi đánh giá những mặt được và chưa được, bao giờ ông cũng đưa ra kiến nghị hoặc đề xuất những giải pháp hữu hiệu, thuyết phục. Hệ thống luận điểm, luận cứ ở từng bài rất logic, nhất quán. Tất cả được soi sáng bởi những thực chứng rõ ràng, hợp lý, luôn làm hài lòng độc giả. Trên tinh thần thực sự cầu thị, ông tôn trọng sự đối thoại văn hóa, dân chủ và không hề né tránh phản biện, tranh luận, nhằm bảo vệ ý kiến đúng đắn của mình, và cái chính để đạt tới sự trung thực, khách quan, minh bạch trong khoa học. Bài Về các tiểu luận cho là của Lê Tràng Kiều trong Văn chương và hành động (Trao đổi ý kiến với Anh Chi), hoặc bài Từ một công trình ngụy khoa học (Về luận văn Thạc sĩ của Đỗ Thị Thoan)… là những minh chứng cho cái tâm, cái tầm và tài năng của một nhà khoa học chân chính.
Là người tâm huyết, chí thú với nghề nghiệp mà mình theo đuổi, lại có bản lĩnh khoa học vững vàng, độc lập, những trang viết của PGS.TS Nguyễn Ngọc Thiện đã cho độc giả thấy rõ quan niệm, nguyên tắc, ý nghĩa xem xét tác phẩm, tác giả trong tính toàn vẹn của chỉnh thể nghệ thuật. Từ đó hướng độc giả tới sự hoàn thiện thẩm mỹ trong tiếp nhận tác phẩm. Với tư duy sáng tạo và bản lĩnh nghề nghiệp, ông luôn biết chọn cho mình cách thể hiện phù hợp với đối tượng, khám phá những giá trị đích thực và đề cao cái đẹp của tác phẩm từ nội dung đến hình thức. Đọc sách của ông, độc giả còn đọc được yêu cầu và mong muốn của ông về thẩm mỹ tiếp nhận. Và một trong những yếu tố làm nên thành công của cuốn sách là: ông biết cách thu hút người đọc bằng lối viết riêng biệt, dồi dào bản lĩnh, vừa khúc chiết, khoa học vừa đậm đà chất văn.
Phần II của sách, tác giả dành nhiều tâm huyết, khám phá, cảm nhận, nâng niu chăm chút đời văn, đời người của cây bút văn xuôi nổi tiếng Ma Văn Kháng- Người vinh dự được tặng Giải thưởng Văn học Nhà nước (2001), Giải thưởng Văn học Đông Nam Á (1998), Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (2012) và cũng là người bạn vong niên ông hằng kính trọng. Đọc những trang viết về Ma Văn Kháng của ông, ta càng hiểu và trân trọng tấm lòng, tình cảm của ông với một bậc văn tài. Đặc biệt, bằng cái nhìn tinh tế và trái tim nhạy cảm, ông giúp người đọc định hình một cách rõ nét con người và sự nghiệp của một tác gia văn học “lực lưỡng” tiêu biểu; thẩm thấu những giá trị tinh thần mà nhà văn đã cống hiến hết mình cho nền văn học, nghệ thuật nước nhà. Theo đánh giá của PGS.TS Nguyễn Ngọc Thiện, Ma Văn Kháng đã tạo dựng phong cách riêng của một cây bút hiện thực - cảm thương, từng trải, tinh tế mà gan ruột, đằm thắm. Văn chương ông sống động, truyền đạt xác thực nhân cách và bản sắc dân tộc đa dạng trong cái nhìn,nếp cảm, lối nghĩ, vừa cá biệt, vừa tiêu biểu cho chân dung của nhiều hạng người Việt Nam từ miền ngược đến miền xuôi…Viết về Ma Văn Kháng, ông đã trút tất cả tâm hồn tình cảm của mình lên trang viết. Dường như ông thấu hiểu không chỉ nội dung, nghệ thuật của từng tác phẩm mà còn hiểu cặn kẽ tất cả những yếu tố làm nên giá trị tác phẩm. Ông lật xới cả những vỉa tầng ý nghĩa ẩn chứa đằng sau câu chữ, để tìm cho ra giá trị đích thực của tác phẩm. Đọc truyện ngắn “Người giúp việc” ông thật sắc sảo khi nhận ra Cái sâu sắc, thâm trầm của truyện là ở chỗ khác, khá bất ngờ: phải chăng nhà văn nhắc nhở rằng vị tha là lòng tốt, song cần có như một sự đi đôi với nó là lòng tự trọng. Một khi thiếu đi vế sau, thì nhân danh lòng vị tha, con người có thể có nguy cơ trở thành đồng hành với thói tự ty, nô lệ, tự đánh mất mình mong vừa lòng người khác mà chưa chắc đã được tiếp nhận. 
Tìm hiểu cuộc đời, sự nghiệp của Ma Văn Kháng, khẳng định vị trí, tài năng của nhà văn trong đời sống xã hội hôm nay và mai sau, PGS.TS Nguyễn Ngọc Thiện đã góp phần định vị một chân dung văn học “lực lưỡng” trong dòng chảy văn học Việt Nam hiện đại. Những nhận xét, đánh giá xác đáng của ông về tác giả tài danh này có tác dụng khơi gợi, dẫn dắt, định hướng thẩm mĩ cho độc giả. Qua đó, ta cũng thấy được tầm vóc và bản lĩnh học thuật của ông khi nhận ra chân giá trị trong mỗi tác phẩm của nhà văn. Bởi vậy, theo thiển ý của tôi, khó ai có sự thấu hiểu, đồng cảm, sẻ chia với nhà văn Ma Văn Kháng đến tận chân tơ, kẽ tóc như PGS.TS Nguyễn Ngọc Thiện.
Trong phần III của cuốn sách, ông dành chia sẻ những kinh nghiệm và những băn khoăn, trăn trở của mình, nhằm nâng cao tính chuyên nghiệp của báo chí Văn nghệ Việt Nam. Với lập luận sắc bén, cập nhật, hiện đại, hai mảng đề tài mà ông tập trung phản ánh: Về tạp chí Diễn đàn văn nghệ Việt Nam và Thực trạng và mấy vấn đề về báo chí văn học đã đem lại cho độc giả một cái nhìn bao quát về thực trạng chất lượng báo chí văn nghệ trong thời gian qua. Trên cơ sở đó, ông đặt ra những yêu cầu bắt buộc đối với báo chí, tất cả vì một sự nghiệp văn nghệ, báo chí chất lượng cao: Hay và đẹp, là hàng hiệu, là sản phẩm cao cấp…Càng yêu cầu cao đối với báo chí, ông càng không bằng lòng với sự cẩu thả, kém cỏi, làng nhàng, “không sạch nước cản” trong sáng tạo nghệ thuật. Đối với ông, báo chí văn nghệ đòi hỏi phải có sự tao nhã, thăng hoa, vừa có tính chuyên nghiệp vừa có tính thẩm mỹ. Có thể nói, những kiến thức, kinh nghiệm ông đúc rút được trong quá trình tác nghiệp là những bài học quý cho những người làm công tác báo chí, khoa học. Những quan điểm, kiến nghị, giải pháp ông đưa ra rất tâm huyết, nhất quán, xác thực,  giàu sức thuyết phục, giúp người đọc có một cái nhìn toàn cảnh, xuyên suốt và tin cậy về những vấn đề báo chí và văn nghệ được đề cập.
Những ai từng tiếp xúc với PGS.TS Nguyễn Ngọc Thiện đều có chung cảm nhận: trong cuộc sống đời thường, ông rất chân tình cởi mở, sống tận tâm hết lòng vì mọi người. Nhưng trong công việc, nhất là những việc liên quan đến khoa học, ông rất nghiêm khắc, không chấp nhận bất cứ một sự cẩu thả, hời hợt nào, dù nhỏ. 
Là người bảo vệ thành công luận án Tiến sĩ Ngữ văn tại Đức, lại có thâm niên gắn bó với Báo chí, Văn nghệ, mười năm làm Tổng biên tập Tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, là ủy viên Hội đồng Lý luận, Phê bình văn học Trung ương và tham gia công tác đào tạo Thạc sĩ, Tiến sĩ ngành Ngữ văn, trước hết, ông tự đặt cho mình những yêu cầu nghiêm ngặt trong khoa học. Sau nữa, ông cũng muốn các thế hệ học trò của ông, kể cả độc giả cần phải tuân thủ những yêu cầu đó. Vậy nên được học ông, được tiếp xúc và được đọc sách của ông, người ta sẽ cảm thấy “lớn” lên rất nhiều
Văn chương, Nghệ thuật và Thẩm mỹ tiếp nhận bao quát nhiều vấn đề lớn, nhỏ trong lĩnh vực Lý luận, Phê bình. Với lý lẽ sắc sảo, bằng cái nhìn trầm tư, sâu lắng, pha chút hỏm hỉnh, mỗi trang viết của PGS.TS Nguyễn Ngọc Thiện được chắt lọc từ bề dầy kiến thức, chiều sâu kinh nghiệm, chiều dài của sự từng trải, nên hội tụ cảm xúc, đậm đà chất văn và mang tính thẩm mỹ cao. Đặc biệt, ở nhiều bài còn có hệ thống ảnh minh họa đẹp và trang nhã. Bìa 1 của sách là bức ảnh ông chụp trong chuyến khảo sát ở Nga năm 2014, càng cho thấy sự tinh tế trong năng lực thẩm mỹ của ông. 
Là người tâm huyết, chí thú, say mê khoa học và đã đạt được những thành quả nhất định trong lao động nghệ thuật, PGS.TS Nguyễn Ngọc Thiện vẫn ngày ngày miệt mài, góp nhặt trên từng trang sách, viết lên những trang đời. Tập tiểu luận phê bình Văn chương, Nghệ thuật và Thẩm mỹ tiếp nhận của ông chắc chắn sẽ có sức sống lâu bền trong lòng độc giả. Mong ông dồi dào sức khỏe và thành công trên chặng đường Lý luận Phê bình mà ông suốt đời thủy chung gắn bó!   
N.T.B
 
 
 
B - MỘT SỐ TÁC PHẨM TIÊU BIỂU
 
 
 
VẤN ĐỀ NGƯỜI ĐỌC – TIẾP NHẬN TRONG  
 
LÝ LUẬN TIỂU THUYẾT  Ở VIỆT NAM TỪ ĐẦU THẾ KỶ XX CHO ĐẾN NAY
 
I
 
Cùng với việc xác định định nghĩa tiểu thuyết với những khả năng và đặc trưng loại biệt về thể loại, phân loại tiểu thuyết dưới nhiều góc độ, đi sâu vào những phương diện thuộc nội dung và nghệ thuật tiểu thuyết- tức những mối quan hệ giữa tiểu thuyết và hiện thực đời sống, tiểu thuyết và tác giả; cấu trúc bên trong của tiểu thuyết- thì một phương diện khác của lý luận về tiểu thuyết cũng được xem xét đến. Ấy là những vấn đề xung quanh việc tiếp nhận tiểu thuyết- thuộc quan hệ giữa tiểu thuyết và người đọc.
Trong giai đoạn đầu của lý luận tiểu thuyết ở Việt Nam, người đọc đã được quan tâm đề cập, nhưng được xem như là đối tượng tiếp nhận thụ động văn bản tác phẩm do tác giả sáng tạo và đưa tới. Đọc tiểu thuyết là tìm đến sự giải trí, tiêu khiển, bồi dưỡng và nâng cao những tình cảm đạo đức hướng thiện, lành mạnh trong khuôn khổ đạo lý truyền thống của dân tộc.
Sang thế kỷ XX, trong hai thập niên đầu, quan niệm được khai mở từ Nguyễn Trọng Quản vẫn được tiếp tục duy trì và khẳng định.
Tòa soạn báo Nông cổ mín đàm khi ban hành thể lệ cuộc thi tiểu thuyết năm 1906, đã lưu ý truyện viết phải căn cứ vào nhân vật, phong tục xã hội hiện thời, cho người đọc cảm thấy dường như là truyện có thật vậy, nêu cao cang thường, luân lý, nhân duyên thiện ác, cha con vợ chồng hòa hợp, ân báo ân, oán báo oán rành mạch, không hoang đường, dị đoan.
Trương Duy Toản, trong Lời tựa tiểu thuyết Phan Yên ngoại sử, tiết phụ gian truân (1910) quan niệm tiểu thuyết phải giúp người đọc thoát khỏi những ám ảnh mộng mị, dị đoan, hoang tưởng, phải phân minh trong lập trường chính tà, báo ứng trong khi sắp bày những truyện chí mới, tức những chuyện nhãn tiền đương thời.
Trần Thiên Trung, khi viết Hoàng Tố Oanh hàm oan (1916) cũng khẳng định truyện của ông “nói về việc trong xứ mình, dùng tiếng tầm thường cho mọi người dễ hiểu”, tuy ít nhiều “đồ thuyết” - tức như cách nói ngày nay là hư cấu, tưởng tượng- nhưng không phải là dị đoan, phóng đãng, vu khoát.
Và lần đầu tiên, Trần Thiên Trung đề cao vai trò tích cực của người đọc, không một chiều bị cuốn theo tác giả trong tác phẩm, mà cần có ý kiến độc lập, phản biện. Ông thực lòng đề nghị người đọc khi đọc tác phẩm tiểu thuyết này của ông “chỗ nào có sơ siểng xin chư quí vị khán quan dung túng”.
Phạm Quỳnh, cây bút dịch thuật, biên khảo lý luận về tiểu thuyết dành nhiều sự quan tâm đến người đọc. Ông cho rằng sự tả chân, tả thực trong văn chương phương Tây mà ta cần học tập, dùng vào việc viết tiểu thuyết ngày nay là rất đắc địa. Nếu văn chương ta ngày trước ít dùng lối tả thực, xem đó là tầm thường, mà thiên về sự “mập mờ phảng phất, phiến diện, huyền diệu” - thì ngày nay muốn hấp dẫn và làm cảm động người đọc phải “lấy sự tả chân làm cốt”. Phạm Quỳnh khen ngợi đoản thiên tiểu thuyết của Phạm Duy Tốn đã đi theo lối văn đó, các truyện của tác gia này “như một tấm ảnh phản chiếu các chân tướng như hệt”, chứ không phải viết “lối phá bút”.
Phạm Quỳnh nhận ra đặc sắc của văn chương tả thực Phạm Duy Tốn là ở chỗ tác giả không xuất hiện hoặc can thiệp. Trong khi kể lại câu chuyện, “không cần phải nghị luận xa xôi”, mà để sự thật trong truyện nói với người đọc và người đọc từ đó cũng bị cuốn theo và có sự biểu lộ tự thân. “Phàm văn chương đã tả hết các cảnh thực là tự khắc có cái sức cảm động vô cùng” - họ Phạm khẳng định từ thực tiễn sáng tác của Phạm Duy Tốn. Ông khen ngợi đoản thiên tiểu thuyết của Phạm Duy Tốn là những bài tả thực tuyệt khéo và đã tôn trọng sự tiếp nhận độc lập, chủ quan từ nơi người đọc. Tác phẩm của Phạm Duy Tốn khi trình bày “đối hai cảnh trái ngược nhau như bằng hai bức tranh trước mắt người ta” thì người ta sẽ “tự khắc xảy ra một cảm giác tức giận, cái tư tưởng thống mạ kẻ “chễm chệ” này không biết thương lúc “lấm láp” kia.
Chuyên luận Khảo về tiểu thuyết của Phạm Quỳnh đăng trên Nam Phong 1921 là một công trình nghiên cứu công phu, minh triết. Lần đầu tiên ông làm rõ khái niệm về “người đọc”. Ngay trong định nghĩa về tiểu thuyết do ông đưa ra cũng bao hàm phạm vi cần phải quan tâm khi viết tiểu thuyết là phải “đủ làm cho người đọc có hứng thú”. Tiếp đó, khi diễn giải các phương diện kết cấu, phô diễn, phân loại tiểu thuyết ông đều không quên đứng về phía người đọc mà yêu cầu. Ví dụ:
Về kết cấu: “Truyện kết cấu ra, nghĩa là có sự sửa sang xếp đặt cho có ý nghĩa, có hứng thú hơn, nhưng dẫu không phải là việc thực mà phải khiến cho người đọc có cái cảm giác rằng những việc ấy có thể xảy ra như thế được, không có gì là hoang đường, kỳ dị, không có gì là trái ngược với lẽ thường vậy”.
Về phô diễn: “Phô diễn tức là hành văn. Văn tiểu thuyết chú trọng nhất là lối tự sự, mà cũng có tham dụng những lối tả cảnh, tả tình, vấn đáp… dù dùng lối nào cũng phải cốt lấy được tự nhiên, cho có linh động, khiến cho người đọc có cái cảm giác như trông thấy, nghe thấy người thực, việc thực vậy”.
Về phân loại: Sau khi Phạm Quỳnh chia tiểu thuyết làm ba loại lớn: ngôn tình, tả thực và truyền kỳ, ông giả định rằng loại tiểu thuyết truyền kỳ có thể thích hợp với người đọc ở ta hiện nay hơn cả, nên chăng chú trọng phát triển loại tiểu thuyết này hơn so với hai loại kia. Ông viết: “trong ba loại tiểu thuyết kể trên, có lẽ loại truyền kỳ là người mình có thể luyện tập, có thể bắt chước dễ hơn cả, một là vì loại này gần giống với các tiểu thuyết Đông phương ta hay ưa những việc kỳ quái, khác thường, hai là loại này không trọng văn chương lắm, vừa thích hợp với trình độ một lối văn còn non nớt như văn ta, thử ngoại lại còn được cái hay, cái lợi là có thể gián tiếp giúp cho sự phổ thông giáo dục. Dám khuyên các nhà làm tiểu thuyết ta nên chú ý vậy.
Kết luận chuyên khảo về tiểu thuyết rất có giá trị nói trên, Phạm Quỳnh dành ít dòng bàn về triết lý của tiểu thuyết và ảnh hưởng của tiểu thuyết đối với người đọc, với xã hội.
Dựa vào tư tưởng triết học của nhà triết học Anh Ba-con về ý hướng của con người từ bao đời nay là không bằng lòng với thực tại, luôn khát khao mơ ước, tưởng tượng về một cuộc đời đẹp đẽ, thú vị hơn, Phạm Quỳnh khẳng định một nguyên lý căn bản của tiểu thuyết mà ông gọi là triết lý sâu xa của tiểu thuyết, xét về phía người đọc. Ấy là tiểu thuyết chú trọng tạo dựng nên một cuộc sống khác để người đọc khi đọc nó, nhập vào, sống với thế giới đó, vươn tới những cái cao thượng, tốt đẹp. Tiểu thuyết giúp cho người đọc phát triển hoàn nguyên, hoàn thiện bản tính người của mình. Đọc tiểu thuyết là sống với thế giới và con người do tiểu thuyết tạo dựng, chia sẻ, đồng cảm và phán xét thế giới ấy, tự nhân lên chiều kích sống đích thực nhân bản nơi mỗi một người đọc; biến tiểu thuyết từ chỗ là “vật tự nó” thành “vật cho ta”. Mỗi người đọc tìm thấy trong tiểu thuyết ý nghĩa riêng, sâu xa, thú vị đối với mình. Văn bản tiểu thuyết phát huy nghĩa tiềm năng qua sự đọc tích cực: “Tiểu thuyết dẫu thuộc về lối tả thực đi nữa, cũng là đặt ra một truyện khác với việc thường của mọi người, khiến cho người ta trong khoảng thời gian hoặc dài hoặc ngắn cầm quyển truyện trên tay đọc, thoát ly được ra ngoài cái đời mình mà cùng với người trong truyện hoặc vui hoặc buồn, hoặc sướng hoặc khổ, hoặc đi viễn du những nơi xa đất lạ, hoặc ngồi hồi tưởng những việc cũ, việc xưa. Tiểu thuyết hay thời người đọc trong lúc đọc tưởng như không phải là mình nữa, mà tưởng là một người trong truyện vậy.
Tiểu thuyết phải đến với người đọc, được người ta tìm đọc vì thấy nó hay, thú vị, hấp dẫn. Đọc tiểu thuyết, người đọc sống một lần nữa với thế giới và nhân vật của tiểu thuyết bằng tất cả kinh nghiệm sống, tâm hồn, trí tuệ của mình. Họ nhập vào đó và thấy mình như cùng được can dự vào bởi đó cũng là cuộc sống của họ, là truyện với những vấn đề của họ, khiến họ phải quan tâm và bày tỏ thái độ.
Phạm Quỳnh vừa thấy các phương diện của tiểu thuyết hay tác động tích cực vào người đọc cá nhân: tiêu khiển giải trí, mở mang việc học, suy xét việc đời. Tuy nhiên không chỉ xét về phía một cá nhân người đọc khi đến với tiểu thuyết, Phạm Quỳnh đồng thời lưu ý đến người đọc số đông, người đọc của toàn xã hội. Ông không tán thành loại truyện dở, làm cho người ta hoàn toàn thoát ly, quay lưng với cuộc sống, băng hoại phong tục tập quán xã hội. Tiểu thuyết hay là phải gắn bó với cuộc đời, với mỗi người và với toàn xã hội “có cái trách  nhiệm duy trì cho xã hội, dìu dắt cho quốc dân”. Nếu không vậy, dù văn chương có hay đến đâu, tiểu thuyết sẽ gây ảnh hưởng xấu cho đất nước và xã hội, “có tội với quốc gia, với danh giá vậy”.
Có thể thấy rằng với Khảo về tiểu thuyết, lần đầu tiên trong lý luận về tiểu thuyết, Phạm Quỳnh đã đề cập đến vấn đề người đọc tiểu thuyết và tác dụng xã hội của tiểu thuyết một cách sâu sắc, tường minh đến nay vẫn phát huy được giá trị.
Vào giữa những năm 30 của thế kỷ XX, trên văn đàn nước ta nổ ra cuộc tranh luận về quan điểm nghệ thuật giữa hai phái mà ta quen gọi là “nghệ thuật vị nghệ thuật” hay “nghệ thuật vị nhân sinh”. Trong quá trình tranh luận, bút chiến, đại biểu của hai phái có đề cập đến vấn đề tiểu thuyết và người đọc khi bàn về mối quan hệ giữa văn chương và đời sống xã hội, với người đương thời.
Thiếu Sơn, một cây bút được liệt vào phái “nghệ thuật vị nghệ thuật”, bác bỏ quan niệm thi ca và tiểu thuyết là loại “văn chương chơi”, khẳng định những thể văn này có vị trí xứng đáng trên văn đàn và các  nhà tiểu thuyết có vị trí vẻ vang của họ. Theo ông, “nhà viết tiểu thuyết chính là những người đứng giữa đời nói chuyện đời cho người đời nghe”. “Tiểu thuyết là một thể văn phổ thông hơn hết”, “được nhiều người ham đọc, đọc để mong được gặp cái tâm sự của mình, cảm động cho cái tâm sự của người, để hưởng một giấc chiêm bao êm đẹp, hay để thấy một cái hoài bão của mình có người đeo đuổi và thực hành”.
Tuy nhiên, theo ông văn chương phải “lấy nghệ thuật làm gốc”, nhà văn phải chăm chút ở “sự trau dồi cái đẹp”, từ đó truyền mỹ cảm cho người đọc các loại trong xã hội.
Hoài Thanh cũng vậy. Ông cho rằng “người ta vẫn có thể đứng về phương diện xã hội phê bình một văn phẩm cũng như người ta có thể phê bình về phương diện triết lý, tôn giáo, đạo đức… Nhưng có một điều không nên quên là các phương diện ấy đều là phương diện phụ… Điều chắc chắn là trong khi thưởng thức một tác phẩm nghệ thuật, lẽ cố nhiên phải để nghệ thuật lên trên, lẽ cố nhiên phải chú ý đến cái đẹp trước khi chú ý đến những tính cách phụ, những hình thức tạm thời của nó. “Tùy theo sở thích của mình, nhà văn muốn lấy tài liệu ở đâu cũng được, miễn làm thế nào tạo nên cái đẹp, trao mỹ cảm cho người xem, thì thôi”.
Đề cao tác dụng giải trí làm đẹp cho đời, ví văn chương như một bông hoa giúp cho người đọc tận thưởng thức cái đẹp của hương vị, màu sắc xinh tươi của nó, “quên những nỗi nhọc nhằn mà trong chốc lát hưởng những phút say sưa”, Hoài Thanh cho như vậy đã là đủ. Hà tất cứ phải “bắt người ta nghe hoài bài học về luân lý xã hội” từ một tác phẩm văn nghệ, với mong muốn rằng “một tác phẩm văn nghệ có thể ảnh hưởng đến chính trị, tôn giáo, đạo đức”?
Ngược lại với phái “nghệ thuật vị nghệ thuật”, phái “nghệ thuật vị nhân sinh” đặc biệt chú trọng đến loại người đọc là người lao động, cho rằng văn chương nói chung, tiểu thuyết nói riêng, trước hết phải hướng về những người đọc ấy - quần chúng đông đảo trong xã hội mà đương thời gọi là bình dân.
Về cuối cuộc tranh luận, phái “nghệ thuật vị nhân sinh”, qua ý kiến của Hải Triều, đã đi đến một quan niệm có sức thuyết phục. Trong bài “Đi tới chủ nghĩa tả thực trong văn chương: những khuynh hướng trong tiểu thuyết” (Tao Đàn, 1939), ông nhấn mạnh không có thứ “văn chương độc lập” chỉ thiên về nghệ thuật. Trong văn chương tiểu thuyết “không có thứ văn chương gì mà không có xu hướng”. Bởi vậy “viết một cuốn tiểu thuyết bao giờ nhà văn cũng có một chủ ý trình bày cùng độc giả một chủ nghĩa gì, một triết lý gì, hay không nữa thì cũng ghi lấy một ý nghĩ gì thoáng qua nhưng nó thiết tha, cảm động hay ngộ nghĩnh, khôi hài”.
Nhưng Hải Triều cho rằng khuynh hướng tư tưởng của tác phẩm phải được trình bày một cách nghệ thuật chứ không thể bộc lộ một cách vô duyên, non nớt, ngớ ngẩn chỉ làm mất thì giờ của người đọc, làm cho họ buồn phiền vì đã phí công với những tác phẩm vô bổ ấy. Hải Triều viết: “Một tác phẩm hay (tôi dùng chữ hay trong vòng tương đối) không những vì nó đã đi đúng với cái thị hiếu đương thời của độc giả, mà còn hay ở nơi xếp cảnh, xếp tình của tác giả nhẹ nhàng, kín đáo đẹp đẽ… Tôi nghĩ một thiên tiểu thuyết hay cũng giống như cái điệu đàn đã thoát tiếng tơ, mà nhà văn sĩ biết trọng nghệ thuật chắc không bao giờ lại đi bắt chước thằng cha nhắc tuồng, vọt ra ngồi chồm ngỗm giữa sân khấu”.
Qua bài viết xuất sắc này, Hải Triều đã đáp trả đích đáng sự ngộ nhận của phái “nghệ thuật vị nghệ thuật” rằng phái các ông đã quan niệm thô thiển về văn chương, không hiểu biết về tính nghệ thuật của văn phẩm, chụp mũ người khác là trưởng giả, chỉ xem mình là biết quan tâm đến bình dân… Với Hải Triều, đã thấy rõ lập trường macxit về văn học nghệ thuật không hề có sự phân biệt đối tượng độc giả mà yêu cầu tác phẩm nghệ thuật phải đạt tới cái hay chỉnh thể cả nội dung lẫn hình thức nghệ thuật một cách nhuần nhuyễn, như “điệu đàn đã thoát tiếng tơ chỉ còn bung ra giữa không trung những âm điệu nhẹ nhàng, êm ái hay mãnh liệt, hùng hồn”.
Cuối những năm 30 đầu những năm 40 của thế XX, Thạch Lam, một nhà văn trong Tự lực văn đoàn, cùng với việc viết truyện ngắn và tiểu thuyết, ông đã có những ý kiến sâu sắc về tiểu thuyết và độc giả của nó. Trước hết ông phân loại thành hai hạng người đọc tiểu thuyết: Họ đều đọc sách để giải trí, nhưng nhiều hơn là hạng tìm đến cách giải trí thông thường, để mua vui, thỏa mãn với cốt truyện ly kỳ, rắc rối, không xem trọng tư tưởng hay nghệ thuật văn chương của tác phẩm. Họ đọc tiểu thuyết mà như người ăn cơm cốt lấy no, đọc hết quyển này đến quyển khác, không phân biệt được hay dở, chỉ say mê với cốt truyện. Bởi vậy văn chương lãng mạn thoát ly, tiểu thuyết phiêu lưu mạo hiểm, trinh thám, kiếm hiệp, du ký… được họ ưa chuộng.
Loại độc giả thứ hai, tuy ít hơn, nhưng được Thạch Lam xem trọng, bởi họ ưa suy nghĩ tìm cách giải trí lý thú bằng hoạt động trí óc trong sự đọc. Họ thờ phụng và theo dõi cái đẹp, cái hoàn toàn. Đọc sách đối với họ là cách luyện mình để cho tâm hồn phong phú dồi dào hơn lên. Họ chú trọng đến nghệ thuật miêu tả thế giới bên trong của nhân vật, tư tưởng và tâm hồn của nhân vật, chứ không phải là sự sắp đặt bố trí câu chuyện làm thành cốt truyện.
Thạch Lam xem loại độc giả thứ hai này là bạn tri kỷ của nhà văn và văn chương tiểu thuyết. Họ là thước đo trình độ của một nền văn chương, góp vào việc duy trì những tác phẩm để đời, “không phải mai một trong quên lãng”.
Cũng ở giai đoạn này Thạch Lam lý giải về trường hợp Tố Tâm vì sao lúc xuất hiện được hâm mộ nồng nhiệt, nhưng chỉ vài ba năm sau khi sách tái bản, người đọc không còn vồ vập như trước nữa. Theo ông, vì tiểu thuyết Tố Tâm là tiểu thuyết “ chỉ có cái sôi nổi một thời mà không có gì lâu bền sâu sắc”. Nghệ thuật của tác phẩm không vững bền, chỉ dừng lại phân tích cái tâm lý hời hợt bên ngoài, một cái thái độ của tâm hồn mà thôi, không đi tới được cái sâu sắc của tâm hồn người, vật. Cho nên chỉ sau một thời gian ngắn, không ai nhắc đến tiểu thuyết này nữa.  
Đối với ông tác phẩm phải đạt tới sự vững bền, ngoài cái phần cấu tạo vì thời thế còn có những cái bất diệt, đời đời trong các nhân vật. Như vậy mới có thể nói là tác phẩm có nghệ thuật chắc chắn, “trong đó nhà văn biết đi qua những phong trào nhất thời, để suy xét đến những tính tình bất diệt của loài người”. Thạch Lam khẳng định: “Viết văn về vấn đề gì thì viết, nhà văn cốt nhất phải đi sâu vào tâm hồn mình, tìm những tính tình và cảm giác thành thực: tìm thấy tâm hồn mọi người qua tâm hồn của chính mình, đi đến chỗ bất tử mà không tự biết”.
Thạch Lam nhắc nhở nhà văn ta về chỗ yếu của phần lớn nhà tiểu thuyết đương thời ở ta là đã đi nhầm đường, chưa thành thực và can đảm mình dám là mình, trong cái nhìn và giọng điệu nghệ thuật, chưa biết chú mục vào chỗ mạnh của tiểu thuyết là đi sâu vào thế giới bên trong của con người- một thế giới phi vật thể, vi mô, huyền diệu. “Họ mang trong người một cái của quí vô hạn mà cứ đi tìm những đâu đâu như người vác gói bạc trên vai mà không biết, lại ngửa tay đi ăn xin. Của quí ấy là tâm hồn của họ. Đáng lẽ đi theo những khuôn sáo sẵn, họ trở về trong lòng, suy nghĩ và phân tích những sự thay đổi của tâm hồn mình, thì hay biết bao nhiêu”.
Chính vì vậy, cuối cùng, Thạch Lam yêu cầu nhà văn khi viết cần biết kính trọng mình, kính trọng tác phẩm, cũng tức là kính trọng người đọc. Không được “viết ra một cách vội vàng, một cách cẩu thả, một cách khinh rẻ vô cùng”. Nếu thiếu đi đức tính kính trọng ấy sẽ “không bao giờ có công cuộc giá trị và lâu bền”.
Kể cả những độc giả như trẻ em và đàn bà cũng phải được kính trọng. Viết cho trẻ em không phải là việc dễ, viết thế nào cũng được. Muốn thành công khi viết cho trẻ em phải yêu mến câu chuyện mình viết và kính trọng độc giả ít tuổi của mình. Phải nhập vào thế giới của trẻ em, nhìn đời và xét đoán theo tâm lý của trẻ. “Viết cho trẻ đọc, trước hết là đứng thay vào chỗ của trẻ, là tự mình trẻ lại, tìm lại được cái trí tò mò tỉ mỉ, cái lý luận thẳng thắn, và nhất là cái độc lập, tự do lạ lùng của trí não trẻ con”. Khi ấy, những văn phẩm được viết ra vừa thích hợp cho trẻ em lại vừa thích hợp cho người lớn.
Viết cho đàn bà cũng vậy. Không thể xem thường và qua quýt được, phải am hiểu tâm lý phụ nữ, đọc được những ý nghĩ và những tâm sự kín đáo, uyển chuyển của những bà mẹ, bà vợ, người thiếu nữ và coi trọng lời văn nghệ thuật. Chỉ như vậy mới hy vọng tác phẩm đến được với phụ nữ , được họ đọc và sống với họ.
Sau Thạch Lam vài năm, trong chuyên luận Khảo về tiểu thuyết (đăng trên báo Trung Bắc Chủ nhật những năm 1941-1942, mãi sau 1955 mới xuất bản thành sách), nhà văn - nhà tiểu thuyết Vũ Bằng đã dành nhiều trang bàn về nghệ thuật viết tiểu thuyết. Đặc biệt ở phần cuối và chương Kết luận, ông đã đề cập đến vấn đề cái vinh và cái nhục của nhà tiểu thuyết trong quan hệ với người đọc và sự đọc.
Cái vinh của nhà tiểu thuyết chuyên nghiệp là sáng tạo ra cuốn sách tâm đắc, trong đó nói ra được những điều mình ấp ủ trong lòng, hợp với cái tạng và sở trường bút pháp của mình.Đồng thời tác phẩm đó được người đọc say sưa đón nhận ngay lúc đồng thời cũng như lâu dài về sau. Tác phẩm như vậy góp vào việc xây dựng lâu đài văn học cho đất nước.
Còn cái nhục của nhà tiểu thuyết lại là ở chỗ sau khi kỳ khu, vất vả lao tâm khổ tứ dốc lòng và hết mình cho cuốn tiểu thuyết với bao hy vọng về sự thành công, thì ngược lại bị người đọc, nhà phê bình chê bai là hỏng.
Vì thế, theo Vũ Bằng, sự thành công của tiểu thuyết không chỉ là do cố gắng của người viết - tác giả, mà còn có phần góp sức, cộng hưởng của người đọc yêu mến và ham đọc. “Tiểu thuyết sở dĩ gây nên được những ảnh hưởng to, tiểu thuyết đã tạo những bóng mây, hơi nước khả dĩ nuôi được tâm hồn đất nước, công đó không phải là toàn của những nhà tiểu thuyết đâu, nhưng còn là công của những người đọc tiểu thuyết và những người yêu tiểu thuyết nữa”.
Giữa nhà tiểu thuyết và độc giả có mối quan hệ gắn bó thân thiết, song phương, dù lúc đầu không quen biết.Viết tiểu thuyết là để cho người khác. Ngay trong khi đặt bút viết tiểu thuyết, tác giả đã phải nghĩ đến người đọc, hướng về người đọc, chọn cách thể hiện sao cho khi đọc văn bản tiểu thuyết, người đọc hiểu và thích thú với những điều nhà văn giãi bày trong sách. Vũ Bằng đưa ra một hình ảnh để so sánh về quan hệ thân thiết, gắn bó hết mình trong trao gửi giữa tác giả và người đọc như là giữa người yêu và người yêu vậy. “Một nhà tiểu thuyết đem mình phơi bày ra trong truyện; hạnh phúc của nhà tiểu thuyết là làm cho mọi người đọc trông thấy lý tưởng của mình, gửi tấm lòng mình cho độc giả và bày cho độc giả tất cả cái kết tinh trong hồn mình, nói tóm lại, nhà tiểu thuyết tin độc giả, dâng tất cả những gì cao quí nhất cho độc giả, cũng như một xử nữ dâng cái trinh tiết cho người yêu vậy”.
Đó là một yêu thương trong sạch, một sự đồng tâm, không gì có thể chia cắt, trên đời không có cái gì so sánh được với cái tình đó.
Cần có một lớp độc giả thông minh ở mỗi thời đại, mỗi quốc gia, mỗi thời đại văn chương. Người đọc, qua việc đọc và bình giá văn chương chính là góp vào việc thúc đẩy sự sáng tác ngày một phát triển hoàn thiện hơn. Và, “một nước có nhiều người có học giúp công vào trong công cuộc sáng tạo của văn nhân bằng cách định giá, bằng cách xét đoán, bằng cách tiếp đón niềm nở những tác phẩm văn chương hay”.
Nói như cách nói của lý thuyết tiếp nhận ngày nay là người đọc cũng là một lực lượng không thể thiếu được của quá trình văn học, họ tiếp nhận văn bản tác phẩm, mở ra cho các văn bản tiềm ẩn ý được biểu đạt kia một trường ý nghĩa hiện thực vừa giới hạn vừa không cùng.
“Mai sau, sức tiến triển của nó (tức tiểu thuyết- N.N.T) ví được mạnh hơn bây giờ, cũng là nhờ ở các nghệ sĩ làm việc cho nó, và một phần lớn nhờ ở độc giả thông minh và có thiện ý chịu tìm hiểu những thú vui tinh thần thiết thực, thanh lịch và cao thượng”.
Tóm lại, trong lý luận về tiểu thuyết nửa đầu thế kỷ XX, vấn đề người đọc đã được đề cập đến. Mặc dầu còn sơ giản, nhưng vấn đề người đọc được xem là một phương diện quan trọng không thể thiếu, góp vào sự thành công và phát triển của thể loại tiểu thuyết. Nhà văn trong và sau khi hoàn thành văn bản tiểu thuyết cần luôn nghĩ đến người đọc sẽ tiếp nhận văn bản tác phẩm của mình. Họ là người bạn đồng hành, đồng sáng tạo, tiếp nối công việc của nhà văn, vì chỉ với họ ý nghĩa tiềm năng của văn bản tiểu thuyết mới được mở ra và phát huy tận độ. Người đọc là người bạn tâm đắc, người tình tri kỷ của nhà văn viết tiểu thuyết. Tác phẩm tiểu thuyết giúp họ nâng cao sự hiểu biết về đời sống và con người, đặc biệt là thế giới tâm hồn, tình cảm, tư tưởng của con người, nâng cao trình độ thẩm mỹ hướng về Cái Đẹp trong cuộc sống. Mặt khác người đọc qua nhận xét, đánh giá, phê bình tác phẩm tiểu thuyết sẽ thúc đẩy hoạt động sáng tác tiểu thuyết của từng nhà văn cũng như đối với việc phát triển, hoàn thiện, làm phong phú nền tiểu thuyết Việt Nam hiện đại. Người đọc có nhiều hạng, họ bình đẳng khi đến với sáng tác tiểu thuyết. Song ý kiến vô tư, khách quan, chân thành và hiểu biết của người đọc về lao động viết văn và đặc trưng tác phẩm văn chương tiểu thuyết luôn là nguồn khích lệ quí báu đối với nhà văn trên hành trình sáng tạo tiểu thuyết.
II.

1. Viết và đọc tiểu thuyết của Nhất Linh được ấp ủ và hoàn thành sau gần chục năm từ 1952 đến 1960, tuy ngắn gọn, nhưng là sự quan sát, rút kinh nghiệm, tổng kết của một tác giả tiểu thuyết Tự lực văn đoàn, xung quanh quá trình từ viết đến đọc tiểu thuyết.
Trong Lời nói đầu, xác định mục đích viết cuốn sách này, Nhất Linh nhằm vào hai đối tượng: nhà văn viết tiểu thuyết và độc giả đọc tiểu thuyết. Đối với độc giả, tác giả hy vọng cuốn sách sẽ giúp họ “có thêm nhiều thứ thanh cao mà trước kia không được hưởng vì không biết đến”, một khi họ được nâng cao trình độ, thêm sáng suốt và có quan niệm đúng về nghệ thuật. Ông đã dành hẳn một phần của sách, tuy không dài bàn về việc đọc tiểu thuyết.
Theo ông, trong vấn đề đọc sách, phải tôn trọng sở thích cá nhân, ai thích đọc loại văn nào thì đọc loại ấy, đọc để tìm trong sách những điều bổ ích, đem lại sự thích thú, thỏa mãn cao nhất, trước hết là cho mình.
Theo nhận xét của Nhất Linh, đọc sách cũng có hai kiểu đọc: đọc thầm lặng, vừa đọc vừa suy nghĩ và đọc thành tiếng, hay nghe người khác đọc. Trong hai cách ấy, ông thiên về cách đọc lặng lẽ vì có như vậy mới có dịp bình tâm “thưởng thức được hết những cái hay, ý nhị, sâu sắc và để hồn phiêu diêu vào một thế giới thanh tao, hoặc để tâm suy nghĩ về những điều đương đọc”.
Ông nhấn mạnh: Đọc tiểu thuyết là nhằm đi tìm cái thú thanh tao - tức được “thanh lọc”, như chữ dùng của Arixtot trước đây - là được thỏa mãn về tinh thần, hướng về những điều cao đẹp, cao thượng của một con người có văn hóa, có nhân cách, văn minh chứ không phải là kẻ phàm phu tục tử, lúc nào cũng say mê truy tìm những thú vui vật chất tầm thường. “Đọc truyện nào tùy sở thích riêng, nhưng phải luôn luôn cố gắng tìm cái hay của những truyện hay, họ sẽ được hưởng những thú thanh tao, tâm hồn họ sẽ đẹp hơn và họ sẽ là những người văn minh hơn”.
Nhất Linh thừa nhận có sự phân hóa do địa vị xuất thân, về lứa tuổi, về sở thích cá nhân của người đọc khi xem tiểu thuyết. Với ông, độc giả là một khối không thuần nhất, tức khả năng tiếp nhận của mỗi người  đọc tuy khác nhau, nhưng cái chung là họ đều cần phải tìm đến những cái hay trong truyện để nâng mình lên, làm cho con người mình thanh cao hơn, sống có ý nghĩa, đẹp hơn. Chính loại người đọc này là đối tượng lý tưởng nhất mà nhà văn tâm huyết cần hướng tới. Đồng thời họ cũng thúc đẩy sự phát triển của văn học vì họ luôn luôn đòi hỏi nhà văn nâng cao trình độ nghệ thuật không ngừng.
Quan sát đời sống văn học đương thời, Nhất Linh nhận thấy, trong khi nhà văn Việt Nam không thiếu gì bậc tài năng có thể sánh ngang với các nhà văn ở các nước khác trên thế giới, thì ngược lại, về phía độc giả của ta, nhìn chung trình độ của họ còn thấp kém. Do đó, nhiều khi nhà văn phải hạ thấp tiêu chuẩn, chiều theo trình độ và thị hiếu đó để sách có thể bán đến tay họ được.
Sách đến được với độc giả nhiều khi phải trải qua bao nỗi thăng trầm. Nhà văn cũng không nên vội chán nản khi sách của họ xuất bản ra, nhưng người đọc đương thời không vồ vập tìm đọc. Nếu sách quả là có giá trị thật, thì biết đâu vài ba năm sau, những cái hay, cái đáng quí của nó được phát lộ “như kim cương trong bóng tối lan mọc trong hang đá” đến ngày tỏa rạng ánh sáng long lanh và hương thơm ngào ngạt. Nhất Linh kết luận: “Văn hóa của một nước cao hay thấp không phải ở chính các nhà văn mà chính là ở độc giả”. Nói như vậy không phải là hạ thấp vai trò của chủ thể sáng tạo văn bản tác phẩm; phải chăng ở đây Nhất Linh chỉ có ý đề cao thêm vai trò người đọc, xem họ chứ không phải ai khác là nhân tố quyết định trong việc nhận chân ý nghĩa và giá trị đích thực của văn bản tác phẩm. Người đọc ở đây đóng vai trò là kẻ đồng sáng tạo, tiếp sau sự sáng tạo văn bản mang tiềm năng ý nghĩa của nhà văn, biến văn bản đó trở thành một tác phẩm sống động bởi các tầng vỉa ý nghĩa ẩn dụ nơi tác phẩm như những trầm tích, nay được khám phá, biểu lộ dưới nhiều góc độ tiếp cận với cái nhìn nghệ thuật tinh tường, đa chiều.
2. Cùng khoảng thời gian xuất hiện của Viết và đọc tiểu thuyết của Nhất Linh ở miền Nam, trên miền Bắc, Nguyễn Đình Thi - cũng là một tác giả tiểu thuyết đã trình bày mấy ý kiến sắc sảo xoay quanh các vấn đề nội dung và nghệ thuật đặc thù của thể tài văn xuôi có vị trí đặc biệt này.
Ông xuất phát từ quan niệm “Cái gốc của tiểu thuyết là ở việc kể chuyện bằng miệng”, tức là trong tiểu thuyết phải xem xét đồng thời cả hai phía người kể chuyện, người viết và người nghe, người đọc. Tiểu thuyết giúp vào việc thực thi giao tiếp giữa con người với con người bằng nghệ thuật kể chuyện được sáng tạo. “Kể chuyện là từ cái đã biết rồi mà làm cho nhận biết thêm những cái chưa biết, những sự vật mới, những tình cảm mới... Bằng cách kể chuyện, con người truyền kinh nghiệm cho nhau, và tìm cách cùng xúc động hòa hợp với nhau một tình cảm chung”.
Cái cốt yếu của nghệ thuật tiểu thuyết, theo Nguyễn Đình Thi, là nhà văn bằng tưởng tượng và ngôn ngữ nghệ thuật sáng tạo nên một thế giới mới làm cho người đọc bị cuốn hút, “như đang chính mình được sống thực với những sự việc con người trong truyện”, “lay động cả trí tuệ và tình cảm của người nghe”.
Tuy nhiên, Nguyễn Đình Thi  nhấn mạnh và cho rằng “Có lẽ cái tác động vào tình cảm ấy là cái chỗ sâu nhất của tiểu thuyết cũng như của các nghệ thuật khác”. Đó là một sứ mệnh hết sức quan trọng của nghệ thuật, nó “nuôi sống tình cảm, và làm cho tình cảm con người luôn luôn mới mẻ, như một bông hoa lúc nào cũng vừa mới nở ra xong, không bao giờ héo” .
Như trên đã nói, nghệ thuật tiểu thuyết là nghệ thuật hai phía, tay đôi. Hai phía ấy không chỉ giữa nhà văn và người đọc, mà còn là ở trong chính nhà văn nữa. Có người đọc vô hình và người đọc thực tế. Nhà văn trong khi viết tiểu thuyết đồng thời cũng là người đọc thực tế - người đọc đầu tiên tác phẩm của anh ta, đọc nhiều lần nữa. “Ngay khi ta lẩm bẩm kể chuyện một mình với ta, thì đó cũng là một công việc tay đôi giữa ta với ta”.
Còn người đọc khác, song song với người đọc - nhà văn, không phải đợi khi sáng tác được viết xong mới xuất hiện, mà đã xuất hiện ngay trong quá trình sáng tác rồi. Đó là người đọc vô hình, như Nguyễn Đình Thi xác nhận. Họ luôn ám ảnh tâm tư nhà văn, cảnh tỉnh nhà văn, gợi ý nhà văn điều này điều nọ để tác phẩm được xuôi chèo mát mái. Giữa họ và nhà văn là một tình bạn thân thiết, tôn trọng nhau, tin cậy nhau. Nhà văn không thể coi thường, bất chấp người đọc vô hình này, cũng như không thể vì sợ sệt mà lấy lòng, mơn trớn họ. Tóm lại, nhà văn phải giữ được bản lĩnh thực của mình, nhưng phải coi trọng cái mà ngày nay chúng ta gọi là  “sự phản biện” của người đọc vô hình, tìm tòi mọi cách để tác phẩm đi đúng theo ý đồ nghệ thuật đặt ra.
Như vậy trong quá trình viết tiểu thuyết, từ lúc bắt đầu đến khi viết xong, bao giờ cũng xuất hiện hai loại người đọc là người đọc thực tế đầu tiên là chính nhà văn và người đọc vô hình do nhà văn tưởng tượng ra. Họ chi phối quá trình viết khiến nhà văn hào hứng, phấn chấn, tay bút trơn tru, hoặc đắn đo, cân nhắc, chăm chút sửa sang bản thảo để được vừa ý.
Nguyễn Đình Thi viết: “Người kể chuyện và người nghe luôn luôn dính líu chặt chẽ với nhau, ảnh hưởng lẫn nhau. Người viết tiểu thuyết cũng vậy, lúc viết trên trang giấy là kỳ thực đang nói chuyện với bạn đọc của mình. Trước mặt nhà văn luôn luôn có người bạn đọc vô hình, một người bạn tin cậy nhất, thân thiết nhất, hết sức thông minh và đòi hỏi vô cùng nghiêm khắc, nhưng cũng lại biết thông cảm với mình. Có cảm thấy như vậy ngòi bút nhà văn mới viết được với trình độ cao nhất của mình. Nhà văn nào coi thường người đọc vô hình ấy, thấy như người đó là người ở thấp hơn mình, dốt hơn, dại hơn mình, nhà văn nào như vậy thì không thể viết ra được những ý nghĩ và tình cảm chân thật, quí báu nhất mà đáng lẽ mình có thể có. Ngược trở lại, nhà văn nào sợ sệt người bạn đọc vô hình của mình, dùng ngòi bút để chiều nịnh, mơn trớn người bạn đọc ấy, thì cũng đồng thời đã tự xóa bỏ mất những cái tốt đẹp mà đáng lẽ mình có thể đạt tới được”.
Còn sau khi cuốn tiểu thuyết được hoàn thành, đi vào đời sống xã hội, lúc bấy giờ xuất hiện nhiều hơn những người đọc thực tế, cụ thể, mà ta quen gọi chung là người đọc. Người đọc thực tế ngày hôm nay là đông đảo các tầng lớp nhân dân trong xã hội. Họ là những người hàng ngày sống trong thực tế và có trình độ văn hóa, từng trải, có nhận thức nhất định nên đòi hỏi văn học nói chung, tiểu thuyết nói riêng phải “vừa rất thực, vừa có những lý tưởng, những tình cảm lớn”, “có chiều sâu về tư tưởng”, đưa ra “một cách nhìn sâu sắc vào cuộc sống cách mạng mà người ta đã trải qua và đang sống”.
Người đọc tiểu thuyết hôm nay không mong mỏi nhiều ở các nhà viết tiểu thuyết  chỉ viết về họ và ca tụng họ một cách dễ dãi, hoặc viết theo kiểu tô điểm vẽ vời , sơ lược, công thức mà không thực, xây dựng nhân vật lý lẽ nhiều, giảng giải nhiều, như thể lên lớp. Họ cũng xa lạ với lối viết theo kiểu câu khách, giật gân, kích thích những thị hiếu tầm thường, thấp kém...
Bao trùm lên trong các ý kiến về người đọc của Nguyễn Đình Thi là ông rất coi trọng người đọc. Theo ông cả người đọc vô hình lẫn người đọc thực tế đều tham gia vào quá trình sáng tạo tiểu thuyết một cách tích cực: trong khi viết cũng như sau khi viết trở thành một ấn phẩm lưu hành trong đời sống xã hội. Chính họ là lực lượng thúc đẩy tiểu thuyết của văn học cách mạng khắc phục sự yếu kém về chất lượng và các căn bệnh thường gặp, để trở nên phong phú hơn, đem lại những giá trị lâu bền và sâu sắc trong lòng người.
3. Ngoài Nhất Linh, ở miền Nam Việt Nam, trong thời kỳ 1954-1975 còn có hai tác giả là nhà nghiên cứu quan tâm đến vấn đề người đọc nói chung, người đọc tiểu thuyết nói riêng, đó là Nguyễn Hiến Lê và Nguyễn Văn Trung.
Trong cuốn Nghề viết văn, tác giả tự xuất bản năm 1956 tại Sài Gòn, Nguyễn Hiến Lê đã dành hẳn chương VI để khảo luận về Tâm lý độc giả và chương V về Lời phê bình của độc giả. ở các đô thị miền Nam do chính quyền Sài Gòn kiểm soát, nền kinh tế phát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa chịu sự tác động nghiệt ngã của quy luật thị trường, tự do cạnh tranh. Đương thời, đặc sắc của ý kiến Nguyễn Hiến Lê là ông nhìn thấy ở sách cũng như tiểu thuyết, chúng là một loại hàng hóa đặc biệt, bị chi phối bởi thị trường.
Người đọc tìm đến sách, tiểu thuyết đã đành là do sở thích cá nhân, trình độ của họ khác nhau nên thị hiếu đọc sách cũng khác nhau, không thể san bằng theo một kiểu được. Vì thế nhà văn, nhà tiểu thuyết, phải nắm được trình độ và sở thích của từng hạng độc giả để sáng tác của mình có thể đến được với họ.
“Mỗi tác phẩm khi đã bày ở trên sách là tìm những độc giả thích hợp với nó: chẳng hạn loại tiểu thuyết là loại tìm độc giả bình dân; khảo cứu tìm hạng trang lứa có học. Nếu chính những độc giả đó phải chê là viết thiếu nghệ thuật hoặc khó hiểu quá thì nhà văn không còn tự bào chữa gì được nữa”.
Theo Nguyễn Hiến Lê, trình độ của độc giả chi phối cách viết của nhà văn, nhưng nhà văn cũng phải chủ động nâng cao trình độ của độc giả lên từng bước, từ phổ thông bình dị mà lên dần trên con đường học vấn cao.
Nguyễn Hiến Lê chủ trương lối viết rõ ràng, minh bạch là điều cần chú ý đầu tiên, vì đại đa số trình độ người đọc còn thấp, nếu viết cao xa quá họ đọc mà không hiểu rồi tránh xa, thì viết để làm gì!
Song Nguyễn Hiến Lê cũng đã cho thấy kinh tế thị trường chi phối sách, tiểu thuyết một cách nghiệt ngã như thế nào. Không thể chỉ tính đến việc viết hay, hấp dẫn mà còn phải tính đến giá thành của sách hợp với túi tiền của người mua, việc phát hành phải thuận tiện cho người đọc nữa. Bởi khi đến hiệu sách, mấy ai đã biết ngay được giá trị của nó, mà, chẳng hạn sách lại nêu giá đắt quá, thì người ta khó có can đảm rút tiền trong hầu bao để mua.
Vậy phải làm thế nào trong tình hình đó?
Nguyễn Hiến Lê khẳng định chỉ có một cách duy nhất là nhà văn phải chủ động đến với độc giả, tìm được loại độc giả của riêng mình, không thể tham vọng đáp ứng được mọi loại độc giả. Loại độc giả đó được Nguyễn Hiến Lê gọi là nhóm độc giả trung thành và thông minh. Ông viết: “Được một nhóm độc giả trung thành và thông minh, có lẽ là phần thưởng quí nhất của nhà văn... Nếu nhóm độc giả đó là thanh niên thì trách nhiệm nhà văn khá nặng, phải hướng dẫn cả một thế hệ, nhưng cái vui cũng cao hơn mà công việc cũng dễ kết quả hơn vì bạn trẻ vốn nhiều nhiệt huyết”.
Trong việc tìm đến độc giả, nhà văn cần một nhân tố trung gian là nhà xuất bản, nhà sách. Họ sẽ bỏ vốn để in sách và phát hành sách trên cơ sở đã tìm hiểu kỹ nhu cầu của độc giả, xác định số lượng in, thực hiện quảng cáo về sách, để độc giả tuy chưa xem, song đã được biết qua về nội dung sách, từ đó dễ bề lựa chọn và quyết định khi mua.
Nhìn chung, Nguyễn Hiến Lê xem xét sách, tiểu thuyết trong mối quan hệ của nền kinh tế thị trường, tự do cạnh tranh. Nhà văn và sách phải tìm đến  người đọc, hấp dẫn họ, đem đến cho họ niềm tin về ấn phẩm. Giá cả phải chăng, phát hành thuận tiện đến tay độc giả... Và một khi đã tạo thành mối quan hệ gắn bó thân thuộc rồi thì nhà văn sẽ tìm cách nâng cao trình độ của người đọc lên từng bước. Cứ thế, nhà văn và độc giả, sách và người đọc luôn gắn bó với nhau, đồng hành cùng tồn tại trong mối giao tiếp thẩm mĩ  hướng tới sự phát triển của tiền đồ văn học đất nước, xây đắp nền tảng tinh thần cao đẹp trong đời sống con người.
Ở chương VI của sách, Nguyễn Hiến Lê còn bàn đến loại độc giả đặc biệt là nhà phê bình chuyên nghiệp. Nhà phê bình có vị trí quan trọng đối với tác phẩm bởi sự đánh giá của anh ta. So sánh một cách hình ảnh, Nguyễn Hiến Lê ví lời khen của nhà phê bình có thể ví như ngọn gió làm căng cánh buồm của văn nhân, cũng có khi lại là ngọn sóng đánh úp chiếc thuyền ấy.
Vậy nhà phê bình phải như thế nào để công việc của anh ta “có tính chất kiến thiết và ích lợi cho văn học”?
Nguyễn Hiến Lê cho rằng nhà phê bình phải kết hợp hai tư cách: vừa là ngự sử trên văn đàn, vừa là nghệ sĩ học rộng, có công tâm và không thành kiến. Tuy số lượng nhà phê bình như trên thời nào cũng hiếm, nhưng đó luôn là cái đích phấn đấu của những người làm phê bình chân chính.
Nguyễn Hiến Lê phê phán loại phê bình thiếu khách quan, nặng về cảm tính cá nhân, vì tiền, vì lợi ích vật chất mà thiên vị trong khen chê hoặc bày đặt những trò ma giáo, diễn trò để đánh lừa dư luận.
Phê bình chuyên nghiệp có quan hệ đến nhà văn như thế, có ảnh hưởng không nhỏ đến sinh mệnh của tác phẩm sau khi nó ra đời, có tác động đến người đọc rộng rãi. Vậy thái độ của nhà văn phải như thế nào?
Nguyễn Hiến Lê cho thấy nếu sáng tác nhằm vào người đọc, thì phê bình do nhằm vào tác phẩm mà hướng cả về người sáng tác lẫn người đọc. Phê bình làm cầu nối giữa nhà sáng tác và người đọc. Người sáng tác phải có bản lĩnh cao, phục thiện mà cũng biết khoan hồng trước sự phê bình. Nếu mình có lỗi thì nhận và sửa chữa, nếu không thì cần biết bảo vệ, bênh vực mình và tác phẩm của mình một cách hòa nhã, bình tĩnh, không vì sự ngộ nhận, thiên kiến của nhà phê bình mà phản ứng, nổi đóa lên với những lời lẽ cử chỉ thiếu văn hóa, thiếu lịch sự. Và cái chính là phải biết bình thản, an nhiên tự tại làm việc, giữ được lòng yêu mến của người đọc một cách lâu dài; không vì được khen mà vội mừng, bị chê mà sớm buồn rầu! Thời gian và sự công tâm của công chúng rộng rãi, sẽ là người đánh giá chân xác giá trị tác phẩm của nhà văn, nhà tiểu thuyết. Họ sẽ xóa đi những sự bất công không rõ vì nguyên cớ gì mà nhà văn phải cam hứng chịu một thời gian dài.
Nguyễn Hiến Lê kết luận: “Khi lựa chọn nghề viết văn, bạn đã mặc nhiên ký giao kèo với xã hội, chịu nhận trước mọi sự bất công rồi, không được ân hận gì cả”. Vì vậy, hãy bằng tài năng đích thực thể hiện qua sáng tác, và với bản lĩnh nghệ thuật kiên định của mình lại gây dựng được một lớp người đọc trung thành, gắn bó, thì tương lai và tiền đồ của nhà văn nhất định sẽ được bảo đảm.  
4. Cũng trong thời gian này, Nguyễn Văn Trung trong công trình Xây dựng tác phẩm tiểu thuyết (Nam Sơn xuất bản tại Sài Gòn, lần thứ nhất, 1962, lần thứ 2, 1965) cho rằng người đọc, nhà phê bình phải nhìn nhận tác phẩm văn chương, tác phẩm tiểu thuyết là loại công trình xây dựng bằng chất liệu đặc thù là ngôn ngữ văn tự, chữ viết. Nếu không nhìn nhận được như vậy thì nhà phê bình, người đọc chỉ có thể đứng ở bên ngoài tác phẩm mà thôi, không thể đi vào lãnh hội trọn vẹn tác phẩm với tư cách là tác phẩm văn chương được.
Vậy ngôn ngữ, chữ viết đóng vai trò như thế nào trong sáng tác văn chương? Nguyễn Văn Trung viết: “Nhà văn, đã đành chủ đích là nhằm nói lên những hình ảnh cuộc đời nhưng bởi vì những hình ảnh đó là cái gì gắn liền với cái khả xúc (le sensible), và ngôn ngữ gồm những khả năng đặc biệt để gợi cảm, rung động, cho nên cũng có thể nói chủ đích của nhà văn là làm văn. Nói cách khác, ngôn ngữ, chữ viết đóng vai trò quan trọng trong văn chương vì nó xuất hiện ở đây không phải chỉ như một phương tiện diễn tả mà là yếu tố cấu tạo của tác phẩm văn chương. Thế giới của văn chương không phải gồm những sự thực, những chân lý chính xác của suy tưởng hay khoa học, nhưng là thế giới của hình ảnh, của tưởng tượng. Mà ngôn ngữ chính là khả năng đặc biệt để thể hiện lên thế giới đó. Do đó, có thể nói: ngôn ngữ, chữ viết là thế giới của nhà văn. Ông tựa như nhà phù thủy chú ý xếp đặt các chữ thế nào để chúng có thể, thể hiện lên những hình ảnh”.
Về bản chất ngôn ngữ văn chương là chất liệu phi vật thể, nhưng lại có khả năng tạo hình trong tưởng tượng và khả xúc, gợi cảm nơi người đọc. Mà tưởng tượng lại là yếu tính của tác phẩm nghệ thuật, như Nguyễn Văn Trung diễn giải: “Yếu tính của tác phẩm nghệ thuật là cái tưởng tượng cái phi thực, cái phi thực không phải là cái thực vì nó xuất hiện như một phủ định cái thực trong tác động tưởng tưởng, nhưng cũng không phải là cái không thực (non-réel) hư vô tuyệt đối”.
Nghệ thuật, nói cách khác là thế giới của cái hình như, dường như.
Tiểu thuyết là một nghệ thuật, cốt yếu để đọc. Người đọc khi đọc tiểu thuyết qua những con chữ trong văn bản, không thể nhìn thấy, nghe thấy, cảm thấy trực tiếp bằng các giác quan như khi xem tranh, nghe nhạc, chiêm ngưỡng một công trình của kiến trúc nghệ thuật, xem biểu diễn sân khấu… Người đọc văn chương, tiểu thuyết phải nhìn bám vào các con chữ trong tác phẩm mà tưởng tượng về cảnh, người, vật được nói đến trong câu chuyện và cảm nghĩ, lãnh hội về nội dung cùng những điều tác giả gửi gắm trong thiên truyện. Đọc truyện phải tuân thủ nguyên tắc về trật tự thời gian của sự miêu tả tuyến tính, trước sau mà nhà văn thực hiện, chứ không phải như khi xem trên sân khấu, cùng một lúc người xem có thể lãnh hội tất cả những gì hiện diện trong tầm mắt. “Trên sân khấu, mắt có thể thấy trong một giây những cái phải đọc trong nhiều phút, nhiều giờ”.
Nguyễn Văn Trung cũng lưu ý người đọc tiểu thuyết là không nên ngộ nhận tiểu thuyết với cái thực của đời sống hoặc đòi hỏi sự cầu toàn đối với tác giả. “Tác phẩm không nói lên hết được những điều muốn nói, vì nó cũng là một sáng tạo của ngôn ngữ, của văn tự. Do đó không thể coi tác phẩm chỉ là phản ánh hoàn toàn cả một cuộc đời, một xã hội, một lịch sử hay của bất cứ cái gì là có thực trong thực tế… Cho nên những hàng chữ kia chỉ như là những dấu hiệu, những vết tích của một thực tại đã biến mất, của một hiện diện đã trở nên vắng mặt, như thể là vết tích còn để lại của một người đã ra đi…”.
Và với cảm quan của triết học hiện sinh, Nguyễn Văn Trung nói về sự cô đơn của tác giả, của người đọc, về vết tích và sự hiện diện, về cái giới hạn của con người, sự vật.
Nhà văn luôn cảm thấy cô đơn và sự bất mãn thường xuyên về tác phẩm của mình, bởi trong thế giới tưởng tượng của tiểu thuyết, nhà văn không hoàn toàn làm chủ mà bao giờ cũng có một quãng cách giữa cái thực sự nhà văn muốn nói và hình ảnh chỉ thị nó trong tác phẩm. “Một tác phẩm không bao giờ nói lên hết toàn thể một cuộc đời hay mặc khải toàn vẹn một kinh nghiệm sống thực phong phú luôn luôn còn tiếp diễn”.
Người đọc cũng vậy, “khi đi vào tác phẩm, cũng tìm thấy một cô đơn tương tự. Đi vào tác phẩm, không phải là bắt gặp được tác giả trong một thông cảm tuyệt hảo, cũng không phải là bắt gặp được kinh nghiệm về cuộc đời thực toàn vẹn, nhưng chỉ là bắt gặp những vết tích làm cho tưởng nhớ tới một hiện diện không còn nữa”(35).
Tiểu thuyết như vậy chỉ là một mảnh vỡ của cuộc đời toàn vẹn được tái hiện lại như một dấu ấn góp vào sự hồi nhớ của độc giả chút ít mà thôi. Mảnh đời để lại qua cảm thụ và sáng tạo của tác giả như một vết tích ấy là có giới hạn trong khuôn khổ của thế giới văn chương, thế giới của tưởng tượng giữa thực tại đời sống không cùng, vô hạn: “tác phẩm văn học cũng chỉ là vết tích của tác giả. Người đọc có thể tự do giải thích tìm hiểu, nhưng vẫn đinh ninh rằng không thể nào lĩnh hội được thực tại của những vết tích, vì vết tích chính là giới hạn của một thế giới, là thế giới văn chương, mà bản chất của giới hạn là không bao giờ vượt khỏi được”.
Nhìn chung, ý kiến của Nguyễn Văn Trung đã lưu ý một hướng tiếp cận tác phẩm văn chương, tiểu thuyết từ những đặc trưng riêng của chất liệu biểu hiện và tư duy nghệ thuật tạo hình bằng ngôn ngữ chữ viết; phân biệt đọc tiểu thuyết khác với cảm nhận các tác phẩm của các loại hình nghệ thuật bằng chất liệu vật thể. Hình tượng nghệ thuật mà tác phẩm văn học và tiểu thuyết tạo nên là những hình tượng phi vật thể, khơi dậy sự tưởng tượng mạnh mẽ để cảm nhận của người đọc. Thế giới văn chương của tiểu thuyết là cái phi thực có giới hạn, là một mảnh, một vết tích mà nhà văn để lại giúp cho người đọc có thêm một góc độ cảm nhận lãnh hội về đời sống thực tại vô biên, vô lượng mà thôi.
5. Từ đầu những năm 60 của thế kỷ trước cho đến những năm đầu thế kỷ XXI, ở nước ta đã từng bước hình thành và đặt được những cơ sở lý thuyết chung nền tảng cho một vấn đề bao trùm là vấn đề đọc văn học, hay còn gọi là lý thuyết tiếp nhận, do các nhà lý luận Việt Nam tiếp thu thành quả của lý thuyết hiện đại này từ phương Tây.
Có lẽ người đầu tiên đặt nền tảng của lý thuyết này ở ta là Nguyễn Văn Trung (ở  miền Nam) trong cuốn sách biên soạn cho sinh viên Văn khoa Đại học ở Sài Gòn. Đó là cuốn Lược khảo văn học tập I, Nam Sơn xuất bản, 1963. Ở chương VI của sách, nhan đề Viết cho ai?, Nguyễn Văn Trung viết: “Tác phẩm như con quay… Nó chỉ thực sự là tác phẩm, trong lúc nó được đọc, được xây dựng lại trong trí óc của độc giả, cũng như con quay chỉ là con quay thực sự trong lúc nó quay. Tác phẩm văn chương thiết yếu đòi hỏi có sự tham dự của độc giả… Độc giả là một yếu tố cấu tạo của tác phẩm, vì nếu không có độc giả, thì không thể có tác phẩm được. Tác giả, tác phẩm, độc giả là một, hay nói cách khác là những yếu tố cấu tạo vũ trụ văn chương”.
Tiếp sau đó là các nhà lý luận khác: Hoàng Trinh (Ký hiệu nghĩa và phê bình văn học, Nxb. Văn học, 1980); Lê Ngọc Trà (Lý luận văn học, Nxb. Trẻ, 1990);  Huỳnh Như Phương (Lý luận văn học vấn đề và suy nghĩ, cùng viết với Nguyễn Văn Hạnh, Nxb. Giáo dục, 1995; Lý luận văn học (nhập môn), Nxb. ĐHQG TP Hồ Chí Minh, 2010), Đỗ Đức Hiểu (Đổi mới phê bình văn học, Nxb. Khoa học xã hội, 1993), Nguyễn Thanh Hùng (Văn học - Tầm nhìn - Biến đổi, Nxb. Văn học, 1996; Đọc - Hiểu tác phẩm văn chương trong nhà trường, Nxb. GD, 2008); Trương Đăng Dung (Tác phẩm văn học như là một quá trình, Nxb. Khoa học xã hội, 2004; Từ văn bản đến tác phẩm văn học, Nxb. Khoa học xã hội, 1998); Phương Lựu (Lý luận văn học- chủ biên, Tập I, Nxb. ĐHSP, 2002; Giáo trình Tiếp nhận văn học, Nxb. Đà Nẵng ,2004); Trần Đình Sử (Giáo trình Lý luận văn học - chủ biên, Tập I, II, Nxb. ĐHSP, 2004-2006; Lý luận văn học - chủ biên, Tập II, Nxb. ĐHSP, 2008)…
Đó là những tiểu luận, chuyên luận, giáo trình lý luận văn học bậc Đại học. Mỗi người ở những góc độ tiếp cận và sự dẫn giải rộng hẹp, nông sâu khác nhau đã gắn việc đọc, sự đọc của người đọc với quan niệm mới về văn bản tác phẩm văn học do nhà văn sáng tạo,  dưới góc nhìn của chủ nghĩa cấu trúc và ký hiệu học. Chung qui lại, được nhấn mạnh các luận điểm như sau: 
* “Xét tác phẩm văn học ở phương diện ký hiệu học với tư cách là một sáng tạo có tính ký hiệu, một phương tiện giao tiếp thì tác phẩm có hai mặt: Cái biểu đạt và Cái được biểu đạt, văn bản và ý nghĩa. Nội dung tác phẩm được mã hóa vào các phương tiện biểu đạt là văn bản ngôn từ và hình tượng văn học, làm thành ý nghĩa của chúng. Người đọc giải mã văn bản ngôn từ và hình tượng để nắm bắt ý nghĩa của tác phẩm. Do đó nội dung tác phẩm được thực hiện và mở ra qua ý nghĩa mà người đọc phát hiện, nội dung tác phẩm chính là tổng hòa mọi ý nghĩa của tác phẩm do hoạt động đọc mở ra.”
- “Trong tiếp nhận, tác phẩm văn học được đọc và cảm nhận theo nhiều hướng khác nhau, có nhầm, có sai, có đúng và phải lựa chọn cách hiểu đúng, tránh ngộ nhận. Văn bản nói chung không  thay đổi, nhưng tác phẩm lại thay đổi theo lịch sử, do điều kiện xã hội, văn hóa, tư tưởng khác nhau, tác phẩm được khám phá ở các bình diện khác nhau, tạo thành quá trình của tác phẩm, tạo thành số phận của bản thân tác phẩm. Đối với các tác phẩm có giá trị văn học lớn, ý nghĩa của nó là vô tận.”.
Những ý kiến khái quát lý luận nêu trên về sự đọc và người đọc rộng rãi đối với tác phẩm nói chung, cũng có thể xem là thích hợp với việc đọc tiểu thuyết và người đọc tiểu thuyết nói riêng.
6. Bên cạnh các nhà lý luận đưa ra các quan điểm học thuật, có tính hệ thống và khái quát được tập hợp nói trên, các nhà văn sáng tác tiểu thuyết của ta vào đầu thế kỷ XXI, khi tham gia cuộc hội thảo về “Đổi mới tư duy tiểu thuyết” do Hội Nhà văn Việt Nam (tổ chức XI-2002), cũng có những ý kiến tập trung, sâu sắc, xuất phát từ kinh nghiệm sáng tác và sự trải nghiệm viết tiểu thuyết của mỗi người.
Nhà thơ Hữu Thỉnh, Tổng thư ký Hội Nhà văn Việt Nam chủ trì Hội thảo. Hội nghị đã nghe 12 bản tham luận và 6 ý kiến phát biểu của các nhà văn viết tiểu thuyết và nhà lý luận phê bình, nhà quản lý sự nghiệp văn học. Dưới đây là những ý kiến tham luận và phát biểu  có khía cạnh bàn về vấn đề đọc và người đọc tiểu thuyết.
Trong Báo cáo đề dẫn Hội thảo, nhà tiểu thuyết Ma Văn Kháng trình bày quan niệm về tiểu thuyết trên thế giới và ở ta hiện nay, tình trạng sáng tác tiểu thuyết những năm gần đây của Việt Nam “còn ở trình độ non yếu và trung bình, thiếu độ kết tinh, còn yếu về tính toàn mỹ, thiếu sức hấp dẫn của chất đời và men say của khát vọng”. Theo ông, tiểu thuyết nếu chưa là bạn đồng hành được với bạn đọc thì ít ra cũng phải ngang tầm với họ. Muốn vậy phải tránh đi theo những con đường mòn, dễ dãi, sơ lược trong khi viết; phải tìm tòi “có một cái gì mới lạ, vượt lên, mới mong hấp dẫn được người đọc”.
Người đọc hôm nay có xu hướng không thật mặn mà với sáng tác dựa trên hư cấu đơn thuần như trước đây. Thị hiếu họ đã thay đổi, khát khao được qua đọc tiểu thuyết, tiếp cận tối đa sát sạt với cuộc đời ở dạng nguyên khởi, chất phác, mộc mạc, không trau chuốt, trang trí, tô điểm. Họ tìm đến “tiểu thuyết hướng nội” đi vào khám phá thế giới bên trong phức tạp với những ẩn ức, vô thức không dễ nắm bắt của con người thân phận.
Nhà văn không thể chỉ dừng lại kể lể, săn đón sự kiện mà cần thể hiện mạnh mẽ vai trò của chủ thể sáng tạo, lý giải đời sống từ cái nhìn nghệ thuật riêng độc đáo của mình, cho thấy sự công phu trong lao động nghệ thuật, một tài năng đặc biệt, dấn thân tìm đường riêng, không để mình lẫn vào những người đi trước, mà phải làm khác, thậm chí vượt qua được họ.
Ma Văn Kháng đã đặt ra các yêu cầu mà nhà viết tiểu thuyết cần phải nỗ lực vận động vượt lên, đổi mới tư duy nghệ thuật, thủ pháp kỹ thuật viết, do phía đòi hỏi người đọc ngày nay đã khác trước. Họ đã có điều kiện đọc nhiều tiểu thuyết ưu tú của nước ngoài được dịch ra tiếng Việt hoặc đọc từ bản gốc của ngôn ngữ nước ngoài, họ so sánh và đòi hỏi tiểu thuyết ta phải vươn lên phong phú hơn, hay hơn, nếu không muốn bị tụt hậu, nghèo nàn.
Nhà văn Đỗ Chu lo ngại tiểu thuyết viết ra nằm im trên các quầy sách bị người đọc thờ ơ, không đủ dũng khí để đọc, vì biết rằng đó chỉ là những cuốn sách dớ dẩn mạo danh là tiểu thuyết. Tiểu thuyết hay, có giá trị thật sự khiến cho người đọc phải reo lên vì thích thú - đó là ao ước của ông. Theo ông, nhà văn viết tiểu thuyết phải biết xấu hổ, sượng sùng nếu như mình bất lực, lười biếng, tự ru mình, lừa phỉnh mình về sự lạc lõng, buồn tẻ của ngòi bút mình đã không vượt qua được những thách thức để đáp ứng những đòi hỏi mới, chính đáng của người đọc.
Tác giả tiểu thuyết Chu Lai nhấn mạnh qua tiểu thuyết, nhà văn phải thể hiện sự nhập thế của văn chương nghệ thuật - đó là yêu cầu chính yếu từ phía người đọc. Họ không mấy để ý “anh đang tuân thủ theo thủ pháp sáng tạo nào đâu”, anh viết thế nào cũng được, “miễn là anh truyền được nỗi niềm xúc động của cõi nhân tình thế thái càng nhiều càng tốt”, để “khi gập sách lại buồn một mình, vui một chút, thậm chí giật mình, tủi phận, lo sợ, rùng mình một chút nhưng sau đó là cái dư vị ngọt ngào của sự tin yêu cuộc đời, yêu tin con người hơn lặng lẽ nhen lên”. Có nghĩa là tiểu thuyết cần phải rốt ráo đáp ứng nhu cầu tinh thần của con người để con người sống có ý nghĩa, sâu sắc hơn, đúng với bản chất nhân văn, bản chất người của nó trong một thế giới còn bao điều bất như ý, hiểm nguy rình rập.
Hoàng Quốc Hải, cây bút tiểu thuyết lịch sử, thấy rằng tư duy của con người hiện đại đã thay đổi nhiều trên cơ sở cấu trúc xã hội đã đổi thay. Viết tiểu thuyết là đụng đến con người - con người được miêu tả và thể hiện trong tác phẩm; con người là các tầng lớp người đọc. Vì vậy để đáp ứng sự thay đổi của con người - đối tượng và con người - độc giả nói trên, “nhà văn phải đổi mới tư duy của chính nhà văn chứ không phải đổi mới tư duy của tiểu thuyết”. Nói cách khác, theo ông, điều chính yếu là đổi mới tư duy sáng tạo hoặc đọc tiểu thuyết, chứ không nên dừng lại loay hoay tranh cãi để độc tôn hay phê phán một kiểu loại tiểu thuyết nào. Nhà viết tiểu thuyết cần có bản lĩnh, tự tin, tự chủ về ngòi bút của mình.
“Vậy đổi mới tư duy tiểu thuyết là nhà văn hãy cứ viết, viết và viết, không lệ thuộc vào hình thức thể hiện, cũng như không lệ thuộc vào sự cho phép hay không cho phép của bất kỳ ai, nếu như ta lấy phương châm Tổ quốc, Dân tộc và Nhà văn làm kim chỉ nam cho ngòi bút”.
Ông báo động về sự xuống cấp của văn hóa đọc ở ta, so với các nước ở thế giới, ở Châu Âu chẳng hạn. Trong khi ở nước ngoài mỗi đầu sách, kể cả tiểu thuyết, thường được in ít nhất 3000 bản, còn ở ta mỗi đầu sách tương tự chỉ được in khoảng 500-700 đến 1000 bản. Việc phát hành cũng buông lỏng, sách mới in đầu năm, cuối năm đã bán xôn- trách nhiệm này có phần chủ yếu thuộc về sự quản lý của nhà nước. Ông cho rằng một khi văn hóa đọc, trong đó có đọc tiểu thuyết, văn chương bị suy giảm, thị phần sách văn chương bị co hẹp lại so với phương tiện truyền thông đại chúng khác, sẽ ảnh hưởng đến việc xây dựng nền tảng tinh thần, nền tảng văn hóa tốt đẹp của xã hội văn minh, “nếu không muốn nói, đó sẽ là thảm họa tiềm ẩn”.
Là người làm công tác biên tập ở một nhà xuất bản ở Thủ đô, nhà thơ Phạm Đức trong tham luận ngắn, nhấn mạnh vế thứ hai của Hội thảo cần được làm rõ là vấn đề “đổi mới tư duy tiếp nhận tiểu thuyết”. Những người làm công tác biên tập xuất bản thuộc vào hàng những người đọc tiểu thuyết từ  khi nó còn đang ở dạng bản thảo, chưa được in. Họ có nhiệm vụ thẩm định giá trị và chất lượng của tập bản thảo tiểu thuyết kia. “Đầu đi đuôi lọt”- trách nhiệm thật nặng nề. Phạm Đức bày tỏ lòng kính trọng các nhà văn viết tiểu thuyết phải lao tâm khổ tứ, tâm huyết nhọc lòng vì nó, qua mỗi trang viết. Vì thế những người biên tập cũng cần đổi mới tư duy xem xét thẩm định tiểu thuyết ở dạng bản thảo, để là những bà đỡ, giúp các tiểu thuyết- con đẻ tinh thần của nhà văn - đến được với công chúng rộng rãi, mở rộng chân trời cho sự tiếp nhận nó, bình giá nó.
Nhà văn Nguyễn Đỗ Phú nhắc nhở các nhà văn cần nhận ra sự phân hóa rõ rệt trong các tầng lớp độc giả . Bên cạnh những độc giả tìm đến những tiểu thuyết hay về nội dung cũng như nghệ thuật, thì rất đáng tiếc vẫn còn không ít những độc giả dễ dãi. Họ tìm đến những cuốn truyện giải trí tầm phào, viết về những mối tình tay ba, tay tư “lê thê dài dòng đến phát ngán”. Thế mà các sách loại đó vẫn bán chạy, nhiều người đọc, trong khi những sách của những cây bút tiểu thuyết có tiếng thì ít người mua, ít người đọc”.
Vấn đề ở đây là: sách bán chạy, được nhiều người đọc chưa chắc đã là những sách có giá trị đích thực. Đơn giản loại sách đó phù hợp với thị hiếu của loại người đọc với trình độ và tâm lý, kiến văn như vậy. Thừa nhận sự phân hóa người đọc trong xã hội hiện đại, thị hiếu đa dạng; sự ăn khách của loại tiểu thuyết tầm tầm. Nhưng mặt khác cần hướng tới loại người đọc lý tưởng của tiểu thuyết. Ở họ có một trình độ thẩm mỹ cao, sự am hiểu về các đòi hỏi thuộc chất lượng tác phẩm và sự công phu trong lao động viết văn, một sự kinh lịch và từng trải về cuộc đời. Họ sẽ là bạn tri âm tri kỷ của dòng tiểu thuyết đang vươn tới những đỉnh cao của văn học dân tộc, đáp ứng kỳ vọng của người viết tiểu thuyết có tài năng, hết lòng với nghề nghiệp.
Trong kết luận Hội thảo, nhà thơ Hữu Thỉnh khẳng định tiểu thuyết ở ta đang ở trong thời điểm vận động để đổi mới với sứ mệnh là một thể loại không thể thay thế trong đời sống văn học hiện đại. Mặc dầu đã có nhiều cố gắng, những thành tựu đã đạt được là cần được ghi nhận, nhưng ta không thể bằng lòng mà cần nỗ lực vươn tới những đỉnh cao với những đổi mới về tư duy nghệ thuật, cách tân về phương thức biểu hiện, hình thức thể loại.
Thuyết phục và làm cho người đọc thích thú khi đọc tiểu thuyết, điều đó là tốt, nhưng chưa đủ. Hữu Thỉnh cho rằng tiểu thuyết phải chinh phục và làm bàng hoàng người đọc. Đó phải là những “tác phẩm hay, có khả năng thay đổi trạng thái tâm lý của người đọc; công phu mà lại làm cho người ta quên công phu, khó nhọc mà lại làm người ta quên khó nhọc, để, chỉ cảm thấy cái lồng lộng của tài năng, cái choáng ngợp trước một kỳ quan”.
Ông nhận ra tâm lý người đọc bây giờ đã khác trước, nhịp điệu cuộc sống đã khác trước. Không thể dềnh dàng, phục phịch, đặc quá, tận ngôn “bao cấp” mọi liên tưởng, nghĩ ngợi của người đọc. Phải tạo được những khoảng trống, “đó là đất trống tiếp theo của người tiếp nhận văn chương”. Và phải đa dạng “ngày nay, người đọc muốn tiếp nhận nhiều kênh thông tin, trong cùng một văn bản”. Phải chăng, không chỉ là thông tin thẩm mỹ, mà còn có thể còn là những thông tin có vẻ vặt vãnh, đời thường nhưng lại  quan thiết đến con người, góp vào sự tồn tại và tiến triển của nó. Và phải chăng trong sự thông tin, còn bao hàm tính đa phương, đa chiều, không áp đặt mà mở ra sự dân chủ đối thoại, phản biện, thừa nhận quyền sở hữu tư duy?
Văn học cũng như tiểu thuyết không thể đánh mất mình bằng sự dễ dãi với mình, cũng tức là đánh mất người đọc. Nói tóm lại, tiểu thuyết chỉ cần một chữ hay, và vươn tới trở thành những cơ thể sống với vẻ đẹp và sức mạnh thiên phú để người đọc chiêm ngưỡng, khâm phục, nể trọng và chia sẻ.
Cuộc hội thảo “Đổi mới tư duy tiểu thuyết” diễn ra vào đầu thế kỷ XXI ở ta đã tiếp tục xới lên và đào sâu vào những vấn đề bức xúc của thể loại tiểu thuyết đương đại ở ta cũng như trên thế giới. Những ý kiến tham luận và phát biểu của các nhà sáng tác tiểu thuyết, lý luận phê bình và quản lý đã cho thấy sự nhạy cảm của nhà văn chúng ta để đáp ứng yêu cầu mới của người đọc trong thời bình, giữa một thế giới mà các quốc gia muốn tồn tại và phát triển, một mặt phải độc lập, giữ gìn bản sắc riêng của dân tộc mình, lại phải hội nhập vào thế giới chung của loài người. Nói như nhà tiểu thuyết Nguyễn Minh Châu: “Con người vừa dễ hiểu vừa đầy bí ẩn. Chúng ta đào bằng ngòi bút cho đến cùng đáy cái thật chứa đầy bí ẩn, đầy nỗi niềm nguồn cơn của con người đất nước mình thì sẽ gặp con người nhân loại, con người Việt Nam sẽ giao hoà với nhân loại.”
III
Tiểu thuyết viết theo lối hiện đại kiểu phương Tây hình thành muộn ở nước ta, nhưng những ý kiến, nghĩ, bàn và lập thuyết về nó đã manh nha đồng thời xuất hiện song hành cùng quá trình thử nghiệm sáng tác tiểu thuyết bằng chữ quốc ngữ đi từ hình thức ngắn (đoản thiên tiểu thuyết) đến dài (trường thiên tiểu thuyết). Tiến trình lịch sử tư duy lý luận về tiểu thuyết, nếu tính từ Nguyễn Trọng Quản với Lời tựa cho đoản thiên tiểu thuyết đầu tiên bằng chữ quốc ngữ xuất bản ở ta năm 1887, tính đến nay đã hơn một thế kỷ. Còn nếu chặt chẽ hơn, thực sự kể từ Phạm Quỳnh với chuyên luận Bàn về tiểu thuyết (Nam Phong, 1921), thì lý luận tiểu thuyết Việt Nam mới trải non một thế kỷ.
Chọn thời điểm ra đời của những ý kiến, bài viết, công trình tiêu biểu, có ý nghĩa đã khởi trình quan điểm lý luận xung quanh thể loại văn xuôi mới này để cắm mốc, có thể thấy ở Việt nam tư duy lý luận về tiểu thuyết đã trải qua ba giai đoạn:
- Giai đoạn mở đầu, từ 1887-1945
- Giai đoạn kế tiếp, từ 1945- 1975
- Giai đoạn thứ ba, từ 1975 đến nay.
Ở giai đoạn đầu, trong 20 năm đầu, tư duy lý luận về tiểu thuyết manh nha hình thành, do những cây bút đi tiên phong vừa thử nghiệm sáng tác tiểu thuyết (bao gồm cả truyện ngắn và truyện dài), vừa phát biểu về công việc tự phát của mình. Thường là, qua những Lời nói đầu khi xuất bản các tiểu thuyết ấy, họ giãi bày quan niệm sơ giản trong buổi đầu làm quen viết về thể loại này.
Ở những năm tiếp theo, khi vốn liếng tiểu thuyết sáng tác đã được kha khá, gom được ít nhiều kinh nghiệm và khái niệm tiểu thuyết được thu hẹp để chỉ phạm vi truyện dài thì các nhà nghiên cứu chuyên nghiệp hoặc các cây bút viết tiểu thuyết Tây học đã có thể trình bày hệ thống, sâu hơn trên văn đàn rộng rãi, những sêri bài viết đầu tiên trên báo chí sau tập hợp thành sách. Đó là những công trình của Phạm Quỳnh, Thạch Lam, Vũ Bằng, Vũ Ngọc Phan phác ra các vấn đề khung của lý luận tiểu thuyết, về: định nghĩa thể loại, tiêu chí phân loại các thể tài trong thể loại này, nguồn gốc ra đời và điều kiện phát triển, những đặc điểm chủ yếu về nội dung tư tưởng, nội dung hiện thực và thể hiện bút pháp, phong cách nghệ thuật của tác phẩm qua sáng tạo của tác giả; sự quan tâm đến người đọc tiểu thuyết. Trong giai đoạn nay, có thể nói, lý luận tiểu thuyết hiện đại ở Việt Nam đã đạt được những nền tảng chắc chắn, cho dù chưa tránh được sơ lược, phiến diện.
Còn ở hai giai đoạn sau (từ 1945-1985 và từ 1986- nay), trong vòng hơn 50 năm, lý luận tiểu thuyết ở ta đã được nâng lên một trình độ mới cao hơn, mở ra nhiều hướng, trân trọng những cách tân, tìm tòi tâm huyết của người viết, nhận rõ vai trò thiết yếu của người đọc. Với sự tham gia góp bàn năng nổ của các nhà lý luận phê bình chuyên nghiệp, các nhà nghiên cứu, giảng dạy ở các trường Đại học và cơ quan nghiên cứu, xuất bản trung ương, lý luận về tiểu thuyết đã được bổ sung hướng tiếp cận từ nhiều góc độ, phương pháp mới của thi pháp học, tự sự học, ký hiệu học, phân tâm học, mỹ học tiếp nhận... Trong các công trình, bài viết của họ, các phương diện đặc thù, yếu tính của tiểu thuyết - một loại nghệ thuật tự sự lấy ngôn từ, chữ viết làm phương tiện biểu đạt và giao tiếp thẩm mỹ; một loại hàng hóa đặc biệt đáp ứng nhu cầu tinh thần của con người hiện đại trong xã hội văn minh với nền kinh tế thị trường cạnh tranh nghiệt ngã - đã đước triển khai xem xét trên một hệ vấn đề gắn bó, tương quan và chi phối lẫn nhau giữa chủ thể sáng tạo (người kể chuyện với các điểm  nhìn và giọng điệu, diễn ngôn nghệ thuật) - cấu trúc văn bản truyện (thế giới nghệ thuật, thời gian và không gian nghệ thuật) - vai trò và hiệu quả của sự đọc, tiếp nhận tiểu thuyết trong các tầng lớp người đọc qua biến thiên của đời sống xã hội và lịch sử. Lý luận tiểu thuyết gần đây vẫn lấy việc xem xét văn bản của tác phẩm làm trung tâm, nhưng đã đi từ góc độ mỹ học sáng tạo (đề cao vai trò của tác giả) kết hợp với mỹ học tiếp nhận (khẳng định vai trò đồng sáng tạo, khám phá ý nghĩa trong văn bản tác phẩm). Tác phẩm tiểu thuyết giờ đây được xem xét như một quá trình sáng tạo “kép”, đi từ nhà văn đến người đọc tiếp nhận, từ văn bản tiềm ẩn nghĩa đến tác phẩm mở ra sự khám phá khôn cùng về nghĩa.
Bước vào thời kỳ đổi mới, các nhà viết tiểu thuyết chuyên nghiệp, trong bối cảnh giao lưu quốc tế được mở rộng, đã xới lật, mở rộng đối thoại trong khi trình bày những ý kiến riêng về tiểu thuyết dưới góc độ nhìn nhận, tham chiếu của mình. Họ quan tâm nhiều hơn đến cách viết để hấp dẫn, thu hút người đọc các loại trong bối cảnh cơ chế thị trường và sự tương tác, chi phối, ảnh hưởng lẫn nhau giữa các loại hình nghệ thuật và phương tiện truyền thông đại chúng, giao tiếp thẩm mỹ: internet với văn học trên  mạng; văn hóa đọc bị thu hẹp thị phần; sự phát triển, hấp dẫn, thu hút công chúng đông đảo của nghệ thuật nghe nhìn (điện ảnh, truyền hình); nghệ thuật biểu diễn (âm nhạc, sân khấu); nghệ thuật tạo hình vật thể (kiến trúc, hội họa, nhiếp ảnh, múa)... Có thể nói, bám sát thực tiễn sáng tác tiểu thuyết ở Việt Nam, nhận rõ yêu cầu mới và trình độ cao - thấp của các loại công chúng- người đọc, mở rộng học hỏi thành tựu sáng tác và lý luận về tiểu thuyết của thế giới (chủ yếu dựa vào các tác phẩm và công trình được dịch ra tiếng Việt), các ý kiến lý luận bàn về tiểu thuyết của các nhà lý luận, nghiên cứu và sáng tác tiểu thuyết ở ta ngày một thêm sâu sắc, cho thấy hiệu quả sự hội nhập về tư duy sáng tác và tư duy lý luận của ta vào tiến trình nghệ thuật toàn nhân loại. Vừa hướng vào tác giả, vừa đòi hỏi và hướng vào người đọc, lý luận về tiểu thuyết bày tỏ khát vọng vươn tới những thành tựu chất lượng cao trong sáng tác và kỳ vọng vào một thế hệ với những lớp người đọc lý tưởng và thực tế: họ có trình độ hiểu biết phong phú, năng lực thẩm mỹ cao, có thể đối thoại và chia sẻ với những tìm tòi sáng tạo tâm huyết của nhà văn trong cái nhìn nghệ thuật độc đáo về cuộc đời và con người; trong bút pháp và phong cách riêng của một bản lĩnh nghệ thuật chuyên nghiệp vươn tới những đỉnh cao và sự thăng hoa.
Lý luận và sáng tác nỗ lực hướng vào việc xây đắp một nền tiểu thuyết dân tộc - hiện đại, phát huy tinh hoa, truyền thống văn học dân tộc, tiếp thu thành tựu của thế giới, đóng góp những tác phẩm có giá trị làm phong phú kho tàng văn học nhân loại.
Bước sang thế kỷ XXI, tiểu thuyết trên thế giới và ở ta vẫn đang ở trong tiến trình vận động về bản chất thẩm mỹ của thể loại, với tư cách là một loại hình nghệ thuật tự sự năng động, tổng hợp bằng ngôn ngữ tạo hình phi vật thể, tiếp xúc với hiện thực ở thời hiện tại đang tiến triển, đáp ứng yêu cầu nhiều mặt của các loại người đọc  thuộc về các dân tộc, quốc gia, khu vực khác nhau. Và lý luận về tiểu thuyết cũng đang mở ra nhiều chiều kích, nhiều góc độ tiếp cận, lý giải... để nhận chân thực tiễn sáng tác, tư vấn, đối thoại với cả người sáng tác cũng như độc giả một cách dân chủ và cởi mở.
Trong giới hạn của tài liệu nghiên cứu và trình độ, công trình của chúng tôi mặc dầu đã hết sức cố gắng, song chắc chắn không tránh khỏi thiếu sót, bất cập. Rất mong các nhà nghiên cứu, đồng nghiệp tận tình cho ý kiến bổ khuyết, giúp chúng tôi hoàn thiện công trình của mình.
Hà Nội, tháng 3 năm 2011 
Nhiều tác giả - Tiếp nhận văn học nghệ thuật (chuyên luận) Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, H.,2013,

NGUYỄN NGỌC TUNG

- Họ và tên khai sinh: Nguyễn Ngọc Tung

- Sinh năm 1950
- Bút danh: Nguyễn Ngọc Tung, Ngọc Tung, Nguyễn Ngọc
- Quê quán: Xã Tân Cương, huyện Vĩnh tường,tỉnh Vĩnh Phúc
- Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (từ 2012)
- Hội viên Hội Nhà báo Việt Nam, hội viên Hội Kiến trúc sư Việt Nam, hội viên Tổng hội Xây dựng Việt Nam
 
- Tác phẩm chính đã xuất bản:
   * Ô cửa trăng lên (Tập thơ, NXB Hội Nhà văn, 2003)
   * Cánh diều tuổi thơ (Tập thơ thiếu nhi, NXB Hội Nhà văn, 2009)
   * Những câu thơ từ đất (Tập thơ, NXB Hội Nhà văn, 2011)
   * Khúc hát đôi bờ (Tập thơ, NXB Hội Nhà văn, 2006)
   * Thắp chữ (Tập thơ, NXB Hội Nhà văn, 2015).
- Giải thưởng văn học:
* Giải Ba (không có giải nhất), cuộc thi thơ về gửi tiền tiết kiệm tỉnh Vĩnh Phú - 1970.
* Giải Khuyến khích, Giải thưởng Văn học nghệ thuật 5 năm lần thứ II tỉnh Vĩnh Phúc, tập thơ “Ô cửa trăng lên”.
* Giải B, Giải thưởng Văn học nghệ thuật 5 năm lần thứ III, tập thơ “Khúc hát đôi bờ”.
* Giải B, Giải thưởng Văn học nghệ thuật 5 năm lần thứ IV tỉnh Vĩnh Phúc, tập thơ “Những câu thơ từ đất”.
* Giải C, Giải thưởng VHNT của UBTQ Liên hiệp các Hội VHNT Việt Nam – 2011, tập thơ “Những câu thơ từ đất”.
* Giải Ba (không có giải nhất) cuộc thi thơ Hải Phòng 2011;
* Giải Ba cuộc thi thơ Phụ nữ Vĩnh Phúc, 2016.
- Kỷ niệm chương “Vì sự nghiệp VHNT Việt Nam”.
 
A - TRONG KÝ ỨC BẠN BÈ
 
 
“GÓC RUỘNG NHÂN GIAN”
CỦA NGUYỄN NGỌC TUNG
                                                                                                                Trần Quang Quý
Một nhà thơ thành công,không chỉ tạo ra thi pháp,dấu ấn phong cách mà còn tỏa ra từ trường thơ của mình, tạo ra một vùng văn hóa đặc trưng cho mỹ cảm văn học.Chẳng hạn khi nhắc đến Quang Dũng, người ta nhớ mây trắng xứ Đoài, nhớ Sơn Tây,nhớ “ Sông Đáy chầm mình qua Phú Quốc”…Có vẻ Nguyễn Ngọc Tungđã bắt đầu cảm ra,hay có thể là lẽ tự nhiên,những câu thơ từ máu thịt, những điều thường ngày đau đáu mà thốt ra,để có được “Những câu thơ từ đất”(NXB HNV,2011)-Một chuyển động thấy rõ,cả về cấu tứ,nhịp điệu,hệ thống thi ảnh,cảm hứng nội tâm sau những nỗ lực vươn lên so với chính anh trước đó. Đất là nguồn cội,là trữ năng sống muôn thuở,là ngũ hành vũ trụ,sinh sôi và phát triển,và cõi “về”.Không nhà thơ nào từ khởi thủy lời, từ thẳm sâu thi tứ lại không có thơ về đất. Và ở đây, trong cái mênh mông đất ấy, Nguyễn Ngọc Tung đã chọn cho mình một miền đất thân thuộc,đất quê làng trung du,nơi ký ức luôn trở về,nơi có biết bao thân phận,người thân lầm lũi mồ hôi,cả một đời lặn ngụp “bì bõm” mưu sinh, thấp thỏm âu lo từng mùa sây bông,từng mùa lép hạt…trên “góc ruộng nhân gian. Đất quê ấy,những góc ruộng aayslaf nơi ký thác hồn thơ,nơi quyết định gieo trồng những hạt giống tâm hồn cho những mùa màng hy vọng, cũng là tâm niệm lao động thi ca của Nguyễn Ngọc Tung. “Bòn trong góc ruộng nhân gian/ Câu thơ lấm đất ta mang gieo mùa” (Lục bát hai dòng).
Hãy bắt đầu từ cái cổng làng,cánh cổng mở ra thế giới, nơi thời gian luân chuyển,nơi nhịp điệu sống của cộng đồng cư dân nông nghiệp đi qua. “Bước chân nào xuôi ngược/ Ai ở cuối trời/Ai góc bể chân mây/Có nghe sóng đất vỗ chân người?”(Cổng làng). Cổng làng là nhân chứng của biết bao sự kiện,nỗi niềm chia ly tái hợp,vui buồn,yêu thương…bước qua lằn ranh giới của những chiều không gian khác nhau. Ở đó có thể thấy bao thước phim cuộc sống cuốn đi,mà người nghệ sỹ có thể ghi hình; “Những chiếc nón nhấp nhô lặn ngụp/Liềm ai gặt trăng non/Lúa đầy ắp thuyền vàng ngấn nước/Kéo trăng về bì bõm hoàng hôn.”(Hoàng hôn).Quả là một bức tranh quê lồng lộng thiên nhiên,lam lũ và ngồn ngộn mùa màng, con thuyền lãng mạn đã kéo cả ánh trăng về trong hoàng hooncuar chiều tà trung du,đẹp một cách lộng lẫy và thơ mộng.
Nguyễn Ngọc Tung thực là một nghệ sỹ của những khoảnh khắc chớp sáng,bằng sự nhạy cảm của tâm hồn,tay máy đặc tả khắc hoạ nên bức tranh quê,với bao cảnh sắc,vẻ đẹp con người, kể cả góc nôi tâm,những nhọc nhằn,lam lũ. Anh coi mình như người đi săn ảnh: “ Tôi theo mặt trời đi săn ảnh/Săn hơi thở cánh đồng đang chín/Cánh đồng đang non/Săn biêng biếc tiếng chim/Roi rói nụ cười mùa rơm mới”( Theo mặt trời săn ảnh).Anh săn được những gì? Có khi là một phụ nữ đơn chiếc, như “Vỏ trấu rống sinh lực/Xác xơ chiếc thuyền sau lần vượt cạn…/Chị một bóng một đèn/Giấu mặt đêm/ Bóng chị in lên cánh đồng/Lấp lánh những mầm trăng.”(Mầm trăng). Hay nét khắc về những người đàn bà đánh dậm,những phụ nữ tảo tần mò cua bắt tép mà nuôi lớn bao lớp người làng. “Những người đàn bà bì bõm chân trời/Bàn chân lùa con tép con tôm/Bì bõm nắng bì bõm mưa,bì bõm/Mảnh nhọn rập rình nhức hoàng hôn”. Sau những tảo tần,cả những hiểm nguy của những mảnh nhọn bất kỳ,họ trở về trong yên bình của làng quê nguyên thủy. “ Những người đàn bà ru con bằng ca dao/Ru cánh cò ngủ cùng cây gạo còng cổ tích/ Đêm thôn dã dậm phơi trăng xanh biếc/Cả đời quen bì bõm phía chân trời” ( Những người đàn bà đánh dậm).Không chỉ là nét tượng hình ròng ròng màu sắc,cả cái nét tượng thanh “Bì bõm”nghe mà thương thế,những chân trời sinh kế!
Trong cộng đồng làng, anh viết về mẹ cha qua hình ảnh cái đấu,nó không chỉ là cái đấu được làm bằng gỗ nứa,gắn nhựa sơn quê đồi,nó là cái đấu vẹn tròn của tình cha mẹ,sự tròn trặn của đất trời và vầng trăng lãng mạn tình yêu; và vì vậy nó trở thành huyền thoại trong ký ức của người thơ: “Mẹ đi xa/Cái đấu cũ mòn/Có hạt thóc vàng ở lại/Như tuổi thơ con trong nôi mẹ hời ru” và những ngày cha đi mặt trận: “Đêm đêm mẹ thức/Cái đấu nghiêng về phương cha đánh giặc/ Đổ đầy trăng sao thương nhớ lên trời”(Huyền thoại cái đấu của mẹ). “Đổ đầy trăng sao thương nhớ lên trời”,câu thơ trở nên mới mẻ, kỳ vỹ trên cái nền truyền thống thi hứng lãng mạn.
Ở một mảng đời sống quê làng bình dị khác,ký ức Nguyễn Ngọc Tung dẫn ta về bến xe xưa,nơi có người phụ nữ ngồi nướng ngô trên những mảnh đá lấy từ lòng khe,con suối trung du: “Lúp xúp nón/Lửa hắt lên khuôn mặt xanh gầy/Bến xe thơm mùi ngô nướng…/Bà mua vài bắp làm quà/Ông ngồi vẽ từng hạt như người già rụng từng cái răng” (Chị bán ngô).Người nướng ngô giờ không còn thấy, “ Mùi ngô thơm theo hồn đá đến phương nào!”.Cái bùi ngùi thiếu vắng luôn hiện hữu trong cảm thức trở veefvowis những ký ức quê làng nguồn cội,dưới cái nhìn tinh tế, khơi gợi cõi thẳm của những ai đã từng có nguồn gốc thôn quê. Một bài thơ khác,”Lời chị” là một bài lục bát hay nói về cái bùi ngùi ,chông chênh của hai chị em gái,ngày em chưa lấy chồng,làm gì cũng có đôi,giờ thì: “Ngày mai em đi lấy chồng/Đôi quang ở lại gánh gồng nắng mưa/Ngày mai em lên xe hoa/Gàu giai đây gác chị qua gàu sòng/Ngày mai em về nhà chồng/Gối đôi chị tặng tơ hồng chị thêu…”Mừng cho em,nhưng giờ khắc ấy trong lòng người chị cũng bao nhiêu “bão bùng”.Với niềm thấp thỏm tự vấn treo lơ lửng: “Ngày nao chị về nhà chồng/ Ngày nao duyên đến hay không…ngày nào?”.
Không chỉ chị bán ngô,những người chị tần tảo,lam lũ hiện khá nhiều trong thơ Nguyễn Ngọc Tung, như chị bán cà muối,mà “Tôi cầm túi cà muối mặn/ Xót cả mười đầu ngón tay”.Rồi chị bán ốc đêm,bà bán trầu chợ quê,…đến người đào giếng,em bé đánh giày,anh hàng xóm làm nghề xe ôm thường đi sớm về hôm,bởi vợ anh vỡ hụi bỏ trốn,đánh một bề gà trống nuôi con. Có cái gì đó thật bất an đã xâm thực tận làng quê trong trẻo.Và kia bác nông dân dắt trâu gặm cỏ: “ Con trâu chăm chỉ ăn nắng vàng/Ăn cạn cuộc đời bác nông dân”( Trên cánh đồng). Một thế giới làng quê sống động. Những kiếp người bám vào bùn đất quê hương,thức ngủ trên cánh đồng mùa vụ.Đến giờ vẫn chủ yếu là con trâu,cọng cỏ, cũng chính con trâu cơ nghiệp đang gặm mòn thân phận của người nông dân lao động cơ bắp.Nhưng những công cụ,nguồn tư liệu làm ăn đời này đời nọ của họ đang biến động,đang bị xâm lấn một cách chóng mặt khi các dự án và đô thị mới mọc lên. Người nông dân cả đời bám ruộng ấy,chỉ còn biết dắt trâu “Lẽo đẽo lùi sau đường cao tốc”mà thôi. Hiện thực xót xa len lén ,đối nghịch về cảnh ngộ,sự giàu nghèo, sang hèn, như một cơn lốc tràn về, ẩn chứa nhiều âu lo, không chỉ ở một vùng quê.
Nguyễn Ngọc Tung đan xen truyền thống và hiện đại,nhưng chủ yếu là thi pháp truyền thống.Có những bài thơ có giọng mới, câu mới, thi thoảng gặp thi ảnh lạ, gây ấn tượng,tuy còn gồ ghề,cần độ nhuyễn,độ nén,cần đẩy hết công lực của thi tứ.Những bài thơ tiêu biểu cho xu hướng ấy là:Nụ mồ hôi,Mầm trăng,Huyền toại cái đấu của mẹ,Trên cánh đồng, Những người đàn bà đánh dậm…Anh lại có nhiều bài thơ hoàn toàn trên cấu trúc và cảm hứng truyền thống,cả thơ năm chữ, thơ tứ tuyệt, lục bát .Tứ tuyệt Nguyễn Ngọc Tung cũng long lanh huyền ảo lắm: “Khói chiều bịn rịn bờ tre/Đàn trâu đủng đỉnh đi về ngõ sen/Cốm thơm đầy cả trăng liềm/Chiều se se lạnh buông rèm vào thu”(Vào thu).
Phần cuối tập thơ là Lục bát hai dòng ,với 18 câu lục bát.Những câu thơ thật đặc biệt,nó chỉ nói về chữ nghĩa,về nghiệp thơ bằng chất liệu thiên nhiên đồng quê,công cụ nhà nông như một thứ đặc sản của riêng anh.Thế mà nhuyễn mà duyên,mà bảng lảng,mà tinh nghịch ,mà thích…Có thể gọi ra một loạt câu để nhấm nháp cái sự chơi nghề của anh: “Em thì hái lá nuôi tơ/Còn tôi đéo gọt câu thơ làm cày; Cho anh mượn cái gàu sòng/Tát câu lục bát ra đồng cho xanh;Ngửa yếm mà hứng trăng vàng/ Về phơi ra chiếu cho chàng làm thơ; Em mang cái đấu ra đong/Câu thơ mưa nắng uằn cong tháng ngày; Ai ngồi bỏ muối vào dưa/Câu thơ vừa mặn vừa chua chát lòng; Dệt tơ nối sợi cho dài/Dong thơ ta thả ra ngoài gió sương;Heo may héo giọng hát rong/Trời bao sương gió thơ đong sao đầy;Ai đem hun khói câu thơ/Để con mọt sách ngậm bồ hóng cay.”…
Không chỉ viết về quê làng,anh viết nhiều mảng đời sống khác: những người thợ xây (anh vốn là một kỹ sư xây dựng,nhà quản lý xây dựng), viết về phố,về thiên nhiên,bạn bè hoặc tình yêu… “Vẫn là bên lở bên bồi/ Mà đi quá nửa đời người chưa sang/Vẫn là thúng mủng dần sàng/ Mà chưa đổi được vầng trăng đem về/ Đường đời còn có nẻo quê/ Để cho ta thả chiều về với em.”( Thả chiều). Dù viết về gì,rõ ràng cảm hứng và hồn quê kiểng vẫn là dòng mạch chính lúc len lỏi,lúc dào dạt trong thơ Nguyễn Ngọc Tung.Ấy là thế mạnh,là những quan sát tinh tế,là sự chiêm nghiệm,qua chất liệu đất đai,cỏ cây mùa vụ,con đê,cổng làng,giếng làng, dưa muối, trầu cau, cánh đồng, ánh trăng, sương khói…Những thứ mà anh “ Bòn trong góc ruộng nhân gian”để gieo vào mùa vụ những câu thơ lấm đất ,câu thơ đẫm vị quê của mình.
“Bến trong ai vục mặt trời/Gánh dòng sông tưới ngời ngời bình minh”(Bình minh).Tôi tin,với niềm tin trong trẻo,sự mẫn cảm và mê đắm ấy,góc ruộng nhân gian của Nguyễn Ngọc Tung sẽ thơm tỏa những mùa màng “đặc sản”.
 
T.Q.Q
 
 
 
 
 
 
THƠ NGUYỄN NGỌC TUNG,
ĐÔI ĐIỀU CẢM NHẬN
                                                                                    
Nguyễn Hoàng Đức 
Giữa cuộc đời hiện đại đang tất bật, bon chen, bề bộn; không ngờ lại gặp một tâm hồn thơ thuần phác đến vậy. Một nhà thơ thuần phác đến độ, dường như ở đâu anh cũng đưa cặp mắt của mình mở to, chớp được những cái đẹp của cuộc sống. Anh có vẻ giống như một họa sĩ nhìn đâu cũng thấy màu để đưa vào tranh. Anh còn giống một nhạc sĩ nghe đâu cũng thấy âm thanh đang chuyển động vào âm nhạc.Chưa đủ, anh còn giống một thợ gốm thấy cả bụi đất đang tự nhào nặn mình để hóa thành nét đẹp rực rỡ của sành sứ…Tóm lại, nguyên liệu thơ, đề tài thơ, đa mê thơ và cả kiến trúc thơ của Nguyễn ngọc Tung rất dồi dào, bình dị, mênh mang ở khắp nơi. Chúng ta thử lắng nghe cái dần,cái sàng trong bếp quê nhà, tác giả cũng bắt nhịp cho chúng cất tiếng hát bi bô như trẻ nhỏ:“Trời nắng chang chang/Cái nia cái nong/Phơi ngô phơi đỗ/Tròn tựa vầng trăng/Cái thúng đựng lúa/Cái mủng đựng gạo/Ngày mùa đầy ắp/ Như đầy trăng sao…” bài “Bé kể chuyện quê” tập “Cánh diều tuổi thơ”.Tài thơ của tác giả không đơn giản tả cái nong cái nia, mà tu từ của anh đã nâng cao nhưng rất nhẹ nhàng cất cánh vào nghệ thuật với tính biểu tượng cao “Ngày mùa đầy ắp /Như đầy trăng sao”. Nguyễn Ngọc Tung không xuất hiện ngẫu nhiên như một tác giả thơ được chăng hay chớ, mà ngắm toàn bộ quá trình sáng tác thơ của tác giả, ta thấy anh đã vật lộn ,chắt lọc và tinh chế rất sáng tạo cho nghệ thuật thơ.Trong tay tôi là năm tập thơ của anh.Tập đầu là “Ô cửa trăng lên”( NXB HNV-2003), tập thứ hai là “Khúc hát đôi bờ”(NXB HNV-2006), tập thứ ba là “Cánh diểu tuổi thơ”(NXB HNV-2009),tập thứ tư là “Những câu thơ từ đất”(NXB HNV-2011), tập thứ năm đang dàn trang để ra mắt. Tên các tập thơ của Nguyễn Ngọc Tung thấy rất rõ con người yêu thiên nhiên, làng quê và nghề nghiệp của anh. Đặc biệt với tập thơ “Những câu thơ từ đất” thấy như tác giả đang lột tả tâm can,cội nguồn; những bài thơ chắt ra từ đất mẹ quê hương. Đi trên cánh đồng làng, tác giả như nhìn thấy tất cả từ bờ tre, lối mòn, gốc rơm rạ đều đang hóa thơ. Nhìn người nông dân dắt trâu gặm cỏ, tác giả cảm thấy con trâu đang gặm cả mặt trời, gặm cả cuộc đời nghèo khó của người nông dân có liên đới mật thiết với nó: “Con trâu chăm chỉ/Gặm cỏ non/Ăn nắng vàng/Ăn cạn cuộc đời bác nông dân/Sợi thừng buộc bác với con trâu và cùi cũi cánh đồng/  Bông lúa cong vành trăng/Bao dấu hỏi tủa trên mặt ruộng!”(Trên cánh đồng-Tập thơ “Những câu thơ từ đất”).“Sợi thừng buộc bác với con trâu và cùi cũi cánh đồng”cái nhìn của Nguyễn Ngọc Tung thêm một lần nữa không chỉ đơn giản nhìn thấy vẻ đẹp của đồng quê yên bình, thẳng cánh cò bay, mà tác giả đã nhìn thấy chiều cạnh vất vả,lam lũ của làng quê.Trong thời đại công nghiệp đang tiến lên như vũ bão mà người nông dân vẫn chậm rãi cầm cái thừng đi trước con trâu gặm cỏ.Tác giả đặt bao câu hỏi như bông lúa cong trên mặt ruộng. Phải chăng cách làm ăn nhỏ, manh mún của nông dân đang bị chính con trâu gặm nhấm.
Thơ của anh có cả nỗi lo thấp thỏm cho việc thất bát, mất mùa, hay rủi ro không thể lường trước của nghề nông. Nhìn cảnh chợ quê, tác giả trăn trở cảnh đói kém vất vả đeo đẳng người nông dân:“Xưa liềm cắt trấu chợ quê/Tháng ba ngày tám gặt về lúa non./…Chợ quê thúng mẹt lồng bồng/Mẹ ngồi bán gió lại đong nắng về./…Bây giờ thúng thiếu gạo thừa/Sắc hoa sắc áo ngẩn ngơ lối về”…(Chợ quê ngày ấy…bây giờ)
Hai câu thơ “ Chợ quê thúng mẹt lồng bồng/ Mẹ ngồi bán gió lại đong nắng về.”thể hiện rất rõ tính nhảy vọt tâm hồn thi sĩ trong nhà thơ.“Chợ quê thúng mẹt lồng bồng”, rõ ràng chỉ tả một hiện thực bình dị, nhưng trong đó ẩn chứa cái quan sát tinh tế và ngôn ngữ chính xác của nhà thơ. Cụm từ “lồng bồng” thể hiện những thúng mẹt nhẹ tênh, sản vật bán chẳng có gì nhiều nhặn, đáng kể.Nhưng từ cái hiện thực nhỏ bé đó đã bắn phaó thăng thiên lên câu thứ hai quả là tài tình và nó vừa chắt lọc vừa thăng hoa cho đôi cánh của hồn thơ “Mẹ ngồi bán gió lại đong nắng về”.Ở đây, nghĩa là mẹ chẳng bán được gì, nỗi lo cơm áo chẳng thu về được một đồng trinh, cắc bạc nào. Như vậy là nỗi buồn, khổ ải đến mưu sinh. Nhưng tác giả vẫn nhìn thấy cái đẹp,cái lãng mạn của sự cam chịu, nhọc nhằn mưu sinh đó.Nhà thơ đã hóa giải nỗi ưu tư,lo sầu của cuộc mưu sinh bằng phương thuốc của cái đẹp “Bán gió lại đong nắng về”.Chiêm nghiệm cái bình dị trong đời sống,thông cảm rồi nhìn ra vẻ đẹp lao động tần tảo, miệt mài,chăm chỉ,hay lam lũ là đặc trưng của thơ nguyễn Ngọc Tung; thậm chí hơn cả vẻ đẹp ấy, tác giả luôn nhìn ra số phận của mỗi con người,cho đến mỗi đồ vật. Trong tập “Ô cửa trăng lên” và “Những câu thơ từ đất” tác giả viết về các số phận con người như: “Bà bán trầu chợ quê”,”Chị bán ốc đêm”, “Duyên phận và vé số”, “Chị bán bánh cuốn sáng”, “Ở hiệu cắt tóc”,”Chị bán cà muối”,”Em bé bán tăm”, “ Ông xẩm hát rong”,”Người đào giếng”,”Anh hàng xóm”, “Em bé đánh giày”, “những người đàn bà đánh dậm”…và các đồ vật gắn với cuộc sống, gắn với thân phận con người như :“Cái cối xay”, “Huyền thoại cái đấu đời mẹ”. “Hòn đá nén dưa”,…Nhưng mở đầu khúc thăng trầm của cuộc đời với những số phận hay đồ vật bình dị, thấm đẫm trong tim tác giả luôn là tình yêu ,tình thương của người với người.Tác giả đã sáng tác bày tỏ nguồn gốc khởi nguồn đó trong cả tập thơ “Những câu thơ từ đất”.Ngay ở những bài thơ đầu tiên,nhà thơ đã trải lòng thương yêu,nhớ nhung,biết ơn quê hương qua những kỷ niệm thời ấu thơ. Nhà thơ sung sướng biết bao mỗi lần trở về cội nguồn nghe giọng quê mình: “Về quê nghe giọng quê/ Trong như là nước giếng/ Ấm như tiếng trống làng/ Thanh cao như ngọn tre”( Giọng quê).Bởi cái nhìn luôn tha thiết,trìu mến với quê hương mà tác giả đã chắt lọc để vắt ra những vần thơ đẹp đến mức lộng lẫy “Ánh ngày khẽ vén sương mai/Gánh hai bến nước với hai triền đồi/Bến trong ai vục mặt trời/Gánh dòng sông tưới ngời ngời bình minh”.Bài “ Bình minh” trong tập “Những câu thơ từ đất”.Câu thơ 3 và 4 thật là đẹp, rực rỡ và hoành tráng “Bến trong ai vục mặt trời”còn làm cho vũ trụ vĩ đại có được một vẻ đẹp thật gần gũi. Mặt trời chói sáng,chói loà rực rỡ khiến người ta nóng bức, nheo mắt, nhăn mặt khi ngắm. Nhưng ở đây một bến nước trong đã vục được mặt trời, tác giả làm chúng ta cảm nghiệm từ trong máu,mặt trời là nguồn ánh sáng đem lại sự sống rất gần gũi.Tác giả không chỉ nhìn thấy quê hương trong bình minh rực rỡ và lộng lẫy,anh còn nhìn thấy vẻ đẹp trong sự lam lũ, tất tưởi, bê bết bùn đất sau cơn mưa,cũng như dấu vết của lao động nhọc nhằn:“Sau cơn mưa ngọt ngào/Những đoàn xe ra vào tất tả/ Sắt thép, xi măng, gạch đá/ Lặc lè ổ gà ngả nghiêng/ Mặt đất ngoằn ngoèo hằn những nếp nhăn/ Sóng bùn,sóng trăng loang loáng.” Bài “ Sau cơn mưa” tập “Ô cửa trăng lên”.
Nguyễn Ngọc Tung là một trí thức, một kỹ sư, một cán bộ quản lý ngành xây dựng.Vậy mà anh vẫn yêu tha thiết cái nguồn gốc đất đai, cái chân quê của mình là điều đáng quý.Nhưng tình yêu quê hương của anh không hề hời hợt, mà anh yêu bằng con mắt của một kiến trúc sư lắp đặt các công trình.Yêu như một trí thức không bao giờ quên cội nguồn,quê hương còn nghèo khó,lam lũ.Yêu như người lao động biết trân trọng mồ hôi và thành quả của mình. Anh làm thơ bằng cảm xúc và bằng lý trí, học vấn và văn hoá luôn muốn vươn lên tìm tầng cao mới.Tác giả suy tôn chữ nghĩa như một vị thánh thiêng liêng trong bài “Ngọn đèn thắp chữ”: “Một bóng một đèn thức với sao khuya/Vầng trăng học bên đồi sương bạc/ Chữ là đường cày cha sôi nước mắt/ Chữ là cánh đồng mẹ đổ mồ hôi/ Cây bút nhỏ đêm đêm miệt mài/Lật con chữ như cha cày mẹ cấy/ Mồ hôi đổ trên đồng không nắng cháy/ Không gió mưa mà dữ dội vô cùng/ Đèn thắp chữ tự mình vượt dốc/Qua chông gai để đến chân trời”.Thật rõ ràng và mạch lạc, Nguyễn ngọc Tung vừa tôn vinh con đường chữ nghĩa, vừa đặt chữ nghĩa thành thách thức gian lao cho mình. Đó cũng chính là anh cho rằng lao động nghệ thuật là cách vượt dốc chông gai để nhằm về chân trời lý tưởng tươi sáng. Ở đây cũng phản ánh khát vọng của tác giả muốn đạt tới mục đích nghệ thuật. Anh không phải là người ảo tưởng thơ phú bằng vài chữ lèo tèo,mà tự mình xác định đó là một quá trình lao động khổ luyện, gạn chắt tinh hoa, như hoa trái mọc lên từ đất cằn đá sỏi: “Chữ là đường cày cha sôi nước mắt/Chữ là cánh đồng mẹ đổ mồ hôi.”Vì tôn trọng chữ nghĩa, nên thơ Nguyễn ngọc Tung dày đặc hình ảnh cuả tri thức tiến bộ, đan xen cùng cảnh vật hồn hậu của làng quê.Thơ anh không chỉ có chất trữ tình,yêu thiên nhiên mềm mại, mà đôi khi xộc vào mắt độc giả những tư duy đầy chất lý trí,cũng như hiện thực gắt bỏng: “Tôi theo mặt trời săn ảnh/ Săn hơi thở cánh đồng đang chín/ Cánh đồng đang non/ Săn biêng biếc tiếng chim/ Roi rói nụ cười mùa rơm mới/Mồ hôi treo nắng núi/Vai gầy gánh phố đang hoa.”(Theo mặt trời săn ánh-“Những câu thơ từ đất” ) .Săn ảnh tức là chụp bắt hình ảnh của hiện thực ,có tính chất lấy thông tin tư liệu, nhiều khi cứng nhắc.Vậy mà “săn ảnh” cũng nhẹ nhàng lách mình qua ống kính thơ của tác giả để biến thành vẻ đẹp của nghệ thuật “Mồ hôi treo nắng núi/Vai gầy gánh phố đang hoa.” Rồi chỉ một sự kiện mua sách cũ, nhà thơ cũng có ngay một tứ thơ.Tứ thơ này lại là sự bắt mạch suy lý về chữ nghĩa và cuộc đời.Và chúng ta hiểu Nguyễn ngọc Tung nhất quán trong việc kiên trì theo đuổi vẻ đẹp của nàng thơ phải bằng tri thức: “Những quyển sách cũ mèm/ Bạc màu theo tháng năm/Lì lẫm giữa nhân gian/Tôi trả tiền/ Sách cũ -Tri thức không bao giờ cũ ”. Chỉ có người trí thức hiểu biết thâm sâu mới nói không chút do dự “Tri thức không bao giờ cũ”. Đó có thể coi là mạch lý trí chảy phía sau cảm xúc của nhà thơ. Vì lẽ đó, nhà thơ thấy cảnh vật đẹp, cả lúc nắng lộng lẫy bình minh,cả khi lấm bùn đất bê bết sau trận mưa rào. Cái đẹp thăng hoa ngay trong mồ hôi lao động. Có thể xem như đặc trưng của tác giả mà ít nhà thơ có được: “Tôi gặp em nơi nắng cháy trời/Hối hả xe chở đầy gió bụi/Cánh tay thép nâng mặt trời lên núi/Mồ hôi quánh hoàng hôn/Tôi gặp nụ cười/Gieo từ nụ mồ hôi.” (Nụ mồ hôi-Tập Những câu thơ từ đất).Nhà thơ rất nghiêm túc,trăn trở và đầu tư rất nhiều cho việc tìm câu, tìm tứ, bởi thế tác giả có rất nhiều câu hay vào loại xuất thần. Hay nhưng lại tự nhiên: “Bước chân nào xuôi ngược/Ai ở cuối trời/Ai góc bể chân mây/Có nghe sóng đất vỗ chân người”. “Sóng đất vỗ chân người”đây là một phát hiện táo bạo,có lẽ tác giả lấy từ ý “đất bằng nổi sóng”chăng? Nhưng dù vậy,cái ý tưởng đó thật sáng taọ và tinh tế.Thơ Nguyễn Ngọc Tung có thể nói đã vượt lên chính mình. Đó không phải là nhận xét vô đoán vu vơ, mà đọc kỹ thơ anh luôn thấy nổi lên những đặc điểm “gấp đôi” như: Cái đẹp thiên nhiên hùng vĩ đi kèm vẻ đẹp của con người lao động. Cái đẹp thiên tạo hoành tráng đi đôi với sự kiến thiết nhân tạo của con người.Cảm xúc đẹp lóng lánh sóng đôi cùng lý trí suy tư về nhân quả. Tình yêu thiên nhiên kiến trúc cùng học vấn.
Chính vì có tri thức song hành với thơ mà Nguyễn Ngọc Tung luôn hướng về sự phát triển và tiến bộ.Trong thơ anh hầu như không thấy tâm cảm giành cho sự ca thán những miền quê bị cày xối, phá bỏ, hay đô thị hóa…mà từ đó anh luôn nhìn thấy cái đẹp của cuộc sống thay da đổi thịt: “Đâu rồi những lũy tre xanh/Nhớ dậu mồng tơi ngày ấy/Lũy tre bờ ao ve gọi/Cơn mưa dắt nắng qua cầu”(Về làng). “Cơn mưa dắt nắng qua cầu” đúng là một câu thơ hay xuất thần, nhưng chuyển mình rất nhẹ nhàng.Như một kiến trúc sư hiểu rõ từng viên gạch hay mối hàn gắn kết nhau xây nên tầng cao công trình. Hồn thơ Nguyễn Ngọc Tung luôn say sưa cùng gió thời đại,chiêm ngưỡng thành quả của những công trình chạm đỉnh vào mây: “Nắng gió cài tóc em/Tầng cao muôn ánh đèn/Vầng trăng treo đỉnh tháp/Giọt mồ hôi thắp lên”(Nắng gió thợ xây).Trồng cây nào hái cây nấy.Chúc mừng bằng tình yêu thơ nồng nàn,cảm xúc thơ tinh tế dồi dào và trí tuệ, thơ chuẩn bị cao viễn mênh mông mà tác giả đã gặt hái. Năm tập thơ của Nguyễn Ngọc Tung có nhiều tứ, nhiều vần, nhiều câu xuất thần và hay không dễ quên./.
 
N.H.Đ
  
B - MỘT SỐ TÁC PHẨM TIÊU BIỂU
 
LÀNG TÔI KẺ BỎI
  
Làng tôi xưa có tên Kẻ Bỏi
Đất trầu không tất tưởi ngược xuôi
Vườn Đò bên lở bên bồi
Hỏi ai còn nhớ bánh trôi chợ Đường?
 
Có phải cha ông trồng cổ thụ
Neo chòm sao Bắc Đẩu giữa làng
Để cháu con xa quê mà nhớ
Trông sao hướng đất cội nguồn.
 
Tôi lớn lên bằng ca dao cổ tích
Giếng làng trong tắm mát bao ngày
Mái đình bưng vòm trời mơ ước
Lối đi về vẫn dấu cỏ may.
 
Lớp học thành hầm một thời bom đạn
Làng dẫu nghèo vẫn tiến sỹ, nhà thơ
Giọng Kẻ Bỏi đường Trường Sơn vang dội
Người về quê người nằm lại đến giờ!
 
Ta đưa nhau về chợ Đường làng Bỏi
Phiên chợ xuân ửng sắc hoa đào
Câu thơ đọng môi trầu ai đỏ thắm
Mái đê làng nghiêng nắng xôn xao.
 
 
 
 
 
CỔNG LÀNG 
 
Nứt nẻ gió mưa
Tổ tò vò chết khô mạng nhện
Khe nứt tia sét
Thạch thùng đẻ cái sinh con
Rễ si xuyên tường
Rêu già mấy lớp
Sừng sững hồn làng.
 
Năm tháng đi qua
Con chữ lon ton chạy về nhà
Hạt thóc kĩu kịt chảy về sân
Đám rước dâu cười như pháo tết
Đám đưa ma kèn trống khóc như mưa
Cờ lọng vinh quy
Khói bom và nước mắt
Mẹ ngóng con chân trời dằng dặc...
 
Bước chân nào xuôi ngược
Ai ở cuối trời
Ai góc bể chân mây
Có nghe sóng đất vỗ chân người?!
 
 
 
 
 
 
HUYỂN THOẠI CÁI ĐẤU CỦA MẸ
  
Mẹ đi xa
Cái đấu cũ mòn
Có hạt thóc vàng ở lại
Như tuổi thơ con trong nôi mẹ hời ru.
 
Chiến trường cha xông pha
Mẹ lam lũ nắng mưa cày cấy
Cơn gió bấc làm bông lúa lép
Nắng đốt cháy trời, khát mạ non
Trận bão lốc đè nát lúa ngậm đòng
Mùa trắng tay
Hạt cơm cõng củ sắn củ khoai
Cái đấu mẹ đong
Đói no, nghèo khó đầy vơi.
Đêm đêm mẹ thức
Cái đấu nghiêng về phương cha đánh giặc
Đổ đầy trăng sao thương nhớ lên trời
Con thương mẹ tóc thêm bạc.
Cái đấu cũ mòn
Cả đời mẹ đong
Chẳng hết mồ hôi
Chẳng vơi nước mắt
Con bưng lên nắng ấm đong đầy
Rưng rưng bóng mẹ…

LỜI CHỊ
Ngày mai em đi lấy chồng
Đôi quang ở lại gánh gồng nắng mưa
Ngày mai em lên xe hoa
Gàu giai đây gác chị qua gàu sòng.
 
Ngày mai em về nhà chồng
Gối đôi chị tặng tơ lòng chị thêu
Niềm vui hoa thắm chỉ điều
Mà sao lòng chị bao nhiêu bão bùng.
 
Ngày nao chị có lấy chồng
Ngày nao duyên đến hay không… ngày nào?!
 
 
 
 
 
 
LỤC BÁT HAI DÒNG
  
Đào thơ tận đáy cõi người
Đục trong gạn chắt lấy lời ruột gan.
 
Bòn trong góc ruộng nhân gian
Câu thơ lấm đất ta mang gieo mùa.
 
Em thì hái lá nuôi tơ
Còn tôi đẽo gọt câu thơ làm cày.
 
Mang thơ ra cối mà xay
Chữ thì ra gạo trấu bay ra vườn.
Người đi đãi cát tìm vàng
Tôi đi mót chữ cho nàng dệt thơ.
 
Nhớ thơ mà chẳng có đò
Lục bát em mượn cánh cò sang sông.
 
Câu thơ úp mặt ngoài đồng
Chữ thơm hương đất chữ nồng sắc hoa.
 
Ai ngồi bỏ muối vào dưa
Câu thơ vừa mặn vừa chua chát lòng.
 
Cho anh mượn cái gàu sòng
Tát câu lục bát ra đồng cho xanh.
 
Về mang đòn sóc cho anh
Quảy câu lục bát ra đình phơi trăng.
 
Em mang cái đấu ra đong
Câu thơ mưa nắng oằn cong tháng ngày.
 
Dệt tơ nối sợi cho dài
Dong thơ ta thả ra ngoài gió sương.
 
Heo may héo giọng hát rong
Trời bao sương gió thơ đong sao đầy.
 
Câu thơ gói tiếng đàn bầu
Tình trong nét chữ đã nhàu gió sương.
 
Ngày, thơ bì bõm ruộng sâu
Đêm lại vục đầu cày cuốc gió trăng.
Ngửa yếm mà hứng trăng vàng
Về phơi ra chiếu cho chàng làm thơ.
 
Nón mê xấp ngửa đồng xu
Mưa rơi hốc chữ buốt nhừ con tim.
 
Ai đem hun khói câu thơ
Để con mọt sách ngậm bồ hóng cay.
 
 
 
 
 
 
NHỊP XUÂN
 
Anh thợ đồng hồ đầu phố
Một mắt đeo kính lúp
Một mắt đeo hố bom.
 
Đêm tiến công
Pháo dội lửa, đường đạn căng tia chớp
Anh bắn xe tăng địch
Bằng cả con ngươi
Một mặt trời đã lặn vào đáy mắt.
 
Hý hoáy trong thế giới bánh xe bé nhỏ
Cho chiếc kim lại quay
Tim thời gian lại đập
Cô giáo đúng giờ lên lớp
Người thợ thay ca…
 
Phút giao thừa
Anh thương binh không ở phố
Những chiếc đồng hồ
Đếm nhịp xuân…
 
 
 
 
 
 
HÒN ĐÁ NÉN DƯA
 
Hòn đá gan gà
Ngâm trong muối mặn
Dưa quả sung, dưa cải dưa cần
Bữa cơm canh cua cà pháo
Ngày mùa, mẹ vơi nỗi nhọc nhằn.
 
Giặc dội bom xuống làng
Nhà cháy
Con theo mẹ vượt sông sơ tán
Hòn đá ở lại giữ quê.
 
Dân công bộ đội về
Vại dưa của mẹ vơi đầy năm tháng
Các anh ra trận vẫn nhớ dưa rau sắn
Nhớ dưa hành tết hành quân.
 
Hòn đá hiền lành
Nén tháng năm…
 
 
 
 
  
 
TRÊN CÁNH ĐỒNG
 
Bác nông dân dắt trâu gặm cỏ
Con trâu chăm chỉ ăn nắng vàng
Ăn cạn cuộc đời bác nông dân.
 
Sợi thừng buộc bác với con trâu
                             và cùi cũi cánh đồng
Những bông lúa cong vành trăng
Bao dấu hỏi tủa trên mặt ruộng.
 
Cánh đồng thay tưng bừng ánh điện
Tiếng máy rộn ngày đêm
Những dự án mọc lên
Chóng mặt.
 
Bác nông dân dắt trâu gặm cỏ
Lẽo đẽo lùi sau đường cao tốc.
 
 
 
 
 
 
MẦM TRĂNG
 
Chị ủ mặt trời vào đêm
Bật thức mầm trăng
Mầm trăng ngơ ngác.
 
Mầm trăng khóc
Chỉ thấy gió ru lời cánh đồng
Mơ mùa sây bông.
 
 
Vỏ trấu rỗng sinh lực
Xác xơ chiếc thuyền vượt cạn
Chị thầm nước mắt
Nghĩ về những đứa con.
 
Chị một bóng một đèn
Giấu mặt đêm
Bóng chị in lên cánh đồng
Lấp lánh những mầm trăng.
 
 
 
 
 
LÀNG MỘC
 
Làng mộc có tự bao đời
Nét phượng bay, nét rồng uốn gió
Cuốn theo ta trong nhà, ngoài ngõ
Hương gỗ thơm rưng rức quê.
 
Làng trên,bến dưới  bè gỗ đi về
Vợ chồng choãi chân kéo cưa, lừa xẻ
Kéo bao chân trời, lùa bao góc bể
Cưa đục long đong đẽo gọt  phương người.
 
Cái mộng, cái mẹo ngón nghề truyền đời
Nét khắc, nét chạm buồn vui mặt gỗ
Nét ẩn nét hiện bên hoa lồng nụ
Lắng hồn quê ngàn năm.
Tóc bạc một đời nghệ nhân
Đục đã chai tay, tràng vung mòn thiên hạ
Người làng mộc thật như lõi gỗ
Chỉ bếp là giàu đầu mẩu cám cưa.
Làng mộc bao đời, thời cuộc cũng khác xưa
Sớm chiều vào ra dập dìu chợ gỗ
Nào ai biết vòng quay thế sự
Vẫn những cuộc đời lừa xẻ, kéo cưa…
CHỢ QUÊ NGÀY ẤY, BÂY GIỜ
Xưa liềm cắt chấu chợ quê
Tháng ba ngày tám gặt về lúa non
Đến như cọng muống cũng còm
Đem ra chợ bán mà buồn chẳng vơi.
Cái nghèo giẫm nát bùn tươi
Một thời thiếu thóc, một thời thừa nong
Chợ quê thúng mẹt lồng bồng
Mẹ ngồi bán gió lại đong nắng về.
Chợ nay buôn bán trăm nghề
Xe xuôi hàng ngược, bộn bề sớm trưa
Thúng thì thiếu, gạo thì thừa
Sắc hoa sắc áo ngẩn ngơ lối về.
Đường làng mặt phố... chợ quê
Ai như mẹ quẩy xuân về cuối thôn.
DƯỚI BÓNG CỔ THỤ LÀNG  
Lồng lộng xanh, xanh lên từ đất mẹ
Cây đội bão giông, cây đội nắng trời
Sừng sững giữa làng như núi đứng
Cổ thụ cây, cổ thụ tình người.
Cây chép sử từng vòng theo thớ gỗ
Bao buồn vui nhân tình thế sự
Lá xanh nuôi trời, lá vàng nuôi đất
Đời cây đời người, vạn kiếp đi qua.
Sông lở bồi nên Đồng Chĩnh, Vườn Đò
Chợ Đường, trầu không làng Kẻ Bỏi
Bến nước sân đình lồng hồn cây nghìn tuổi
Thành ca dao, cổ tích nuôi đời.
Tôi lớn lên, mái cổ thụ che nôi
Tiếng tắc kè chẵn mưa, thừa nắng
Giọng xẩm ngày nào nghẹn nỗi đời cay đắng
Và câu Kiều kẽo kẹt mẹ ru.
Một thời cổ thụ giấu bí mật tình thư
Bao triều đại đi qua, cây chứng nhân lịch sử
Nơi em tiễn anh, con đường ngập gió
Điểm hẹn còn rung trên mỗi lá cành…
CHÂN ĐẤT
Tưởng nhớ cha, mẹ tôi
Mẹ, cha chân đất quanh mùa
Mùa cày chân cha rỗ tổ ong
Mùa cấy bùn chua mòn tay mẹ
Nắng mưa tất bật tháng năm. 
Nắng nứt ruộng, trán cha thêm nếp nhăn
Bão nát đòng đòng, tóc mẹ thêm sợi bạc
Dõi trăng quầng, mẹ làm luống tra hạt
Nhìn trăng tán, cha lo chống bão mưa.
Thương con học vất vả đường xa
Mẹ nhịn cơm, phần con ngày giáp hạt
Cha đói lả vẫn cuốc cày tối mặt
Vun cây mong quả tới ngày.
Mẹ về trời lẻ bóng gàu giai
Cha cùi cũi, căn nhà trống trải
Cơi trầu trống nỗi buồn ăn rỗng đáy
Dấu chân cha nhiều hơn gốc rạ trên đồng.
Đường đời là mấy bước chân
Ngày tiễn cha chúng con đi chân đất
Mưa chảy hai hàng rưng rức
Hoa rơi trắng cả tháng ba!
4/2012
KHÚC RU CHIỀU
Chiều ru cái nắng bồng bông
Hái dâng mẹ lá trầu không xanh giòn
Ngọt bùi mẹ để phần con
Đắng cay mẹ ngậm, mỏi mòn mẹ trông
Con đi mấy chục mùa mong
Nắng mưa mẹ gánh lưng còng tóc mây
Rưng rưng từng đốt trầu gầy
Con về bên mẹ rụng đầy gió đông.
19/1/2018
Xuân Mai - Nguyễn Ngọc Tung
Nguyễn Nhuận Hồng Phương
Theo http://hoivhntvinhphuc.org.vn/ 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Giải mã tục cúng Thần Tài vào mùng 10 tháng giêng âm lịch

Giải mã tục cúng Thần Tài vào mùng 10 tháng giêng âm lịch Khoảng hơn 10 năm trở lại đây, trên báo chí và mạng xã hội thường phản ánh chuyệ...