Nhà văn Vĩnh Phúc hiện đại
(Phần 5a; Quyển 2)
XUÂN MAI
- Họ và tên khai sinh: Lê Xuân Mai
- Sinh năm 1945
- Bút danh: Mai Văn Vân
- Quê quán: Làng Ao Gỗ, xã Tam Sơn, huyện Lập Thạch, tỉnh
Vĩnh Phúc
- Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (từ 1997)
- Hội viên Hội Nhà báo Việt Nam, Hội viên Hội văn nghệ
dân gian Việt Nam.
- Tác phẩm chính đã xuất bản:
* Trận địa đồi sim (1987)
* Một buổi đi săn (1992)
* Giếng làng (1997)
* Những người đang đi ở cuối hàng (2003)
* Nơi gặp gỡ hai con sông (2006)
* Vĩnh Phúc - Đất thắng tích và lễ hội (2008)
* Điều nó dối đáng yêu (2010)
* Người về chốn cũ (2014)
- Giải thưởng văn học:
* Giải A, Giải B, Giải C, Giải thưởng Văn học Nghệ thuật Vĩnh
Phúc 5 năm lần I, II, III
* Giải thưởng Văn học thiếu nhi lần thứ II của Nhà xuất bản
trẻ và nhiều giải thưởng Văn học Nghệ thuật khác.
- Suy nghĩ về nghề văn:
Giá như không được sinh ra, lớn lên ở một vùng quê trung du,
tuy nghèo nhưng lại giàu về bản sắc văn hóa; giá như không trải qua những năm
tháng chống Mỹ, cứu nước hào hùng của dân tộc... thì có thể tôi chỉ là một người
yêu văn chương chứ không trở thành một nhà văn.
Mọi sáng tác của tôi đều hướng về những người nông dân ở làng
quê mình, hướng về những đồng đội trong chiến tranh với mình…Nghĩ ngợi nhiều,
mong ước nhiều mà nhìn lại sự “viết lách” của mình chưa được bao nhiêu nên nỗi
niềm đau đáu kia càng day dứt mãi trong tôi, mãi còn thôi thúc tôi cầm bút.
A- TRONG KÝ ỨC BẠN BÈ
MẤY GHI NHẬN TRONG SÁNG TÁC VĂN XUÔI CHO THIẾU NHI
CỦA NHÀ VĂN XUÂN MAI
Thanh Vĩnh
Trong khoảng thời gian từ năm 1975 đến nay, văn chương Vĩnh
Phúc có thêm những bước phát triển mới. Đông hơn về số tác giả. Nhiều
truyện ngắn và rồi tiểu thuyết - thể loại được xem là “cỗ trọng
pháo” của văn học đã xuất hiện. Tuy nhiên, những sáng tác cho thiếu
nhi thì vẫn không nhiều. Số tác giả viết cho thiếu nhi cũng chỉ “đếm
trên đầu ngón tay”: Hoàng Tá (đã mất), với Nguyễn Công Dương và Trần
Thịnh. Khoảng mươi năm lại đây, đội ngũ viết cho thiếu nhi ở Vĩnh Phúc
tuy có được “tăng cường”, nhưng vẫn rất khiêm tốn: Nguyễn Ngọc Tung (Cánh
diều tuổi thơ), Bùi Xuân Dũng, Phùng Quang Ngọc (Trăng đầu tiên) và Chu
Thanh Trung. Các tác giả này đều thuộc chuyên ngành thơ. Bởi thế, mảng
văn xuôi cho thiếu nhi ở Vĩnh Phúc, nhiều năm nay, vẫn là vắng vẻ. May thay,
còn có một người, luôn cặm cụi dồn tâm huyết trên từng trang viết dành cho các
em. Người đó, là nhà văn Xuân Mai!
Một mình một ngựa*, Xuân Mai độc hành trên con đường
sáng tạo văn chương vì trẻ em, cho trẻ em. Ông viết trong niềm đam mê
làng, trong khát vọng lưu giữ hình ảnh, chân dung làng: nơi ông luôn coi
là cội nguồn của yêu thương. 7 đầu sách của ông viết cho thiếu nhi,
gồm các tập truyện ngắn Trận địa đồi sim - Nhà xuất bản Kim Đồng
1988; Một buổi đi săn - Nhà xuất bản Kim Đồng 1993; Cỏ
hoang - Nhà xuất bản Kim Đồng 1997; Giếng làng - Nhà xuất bản Trẻ
1997(tập truyện Giếng làng đoạt Giải khuyến khích sáng tác văn
học thiếu nhi - Vì tương lai đất nước lần thứ II do Hội Nhà văn thành
phố Hồ Chí Minh và Nhà xuất bản Trẻ phối hợp tổ chức vào 1/6/1997(cuộc
thi này có 174 tác phẩm tham dự trên phạm vi cả nước, và chỉ có 11
tác phẩm được trao giải).Tiếp đến là tập truyện Con trai người đi
xa - Nhà xuất bản Kim Đồng 2001; Chuyện cổ tích về bà - Nhà xuất
bản Kim Đồng 2003; “Quà của dòng sông” (Hội VHNT Vĩnh Phúc - 2005)
Người lớn và trẻ em đều là đối tượng để nhà văn
Xuân Mai hướng tới qua trang viết của chính ông. Ở lĩnh vực nào, Xuân
Mai cũng đã gặt hái thành công, nhưng bạn viết và bạn đọc đều nhận
thấy: sáng tác của ông viết cho tuổi thơ có “sức nặng” hơn hẳn. Mặc
dù, ai cũng biết, viết cho thiếu nhi không hề dễ dàng. Không giàu vốn
sống, cảm xúc, không yêu trẻ, không có cho mình một “con mắt trẻ thơ”
nhìn cuộc sống thật trong trẻo, hồn nhiên… sẽ khó mà viết cho thiếu
nhi thành công. Nếu có cố, cũng chỉ là những “sáng tác người
lớn”, “mang danh” viết cho các em mà thôi.
Chân dung làng
7 đầu sách, với hơn 40 truyện ngắn (in trong 6 tập) và
một truyện vừa (Con trai người đi xa) của Xuân Mai; có cái là truyện
ngắn hoàn chỉnh, có cái mang dáng dấp một tản văn, có cái như một
đoản khúc, một hoài niệm, một hồi ức… tất cả đều tập trung xây dựng,
hoàn chỉnh một chân dung làng. Hầu hết các tác phẩm viết cho tuổi thơ
của Xuân Mai đều dẫn dắt người đọc trở về làng - cội nguồn thân thương của
bao thế hệ người Việt Nam. Cội nguồn ấy luôn gắn bó với những tên đất tên
người ruột thịt, với bao kỷ niệm buồn vui, cả ngọt ngào hay đắng đót của những
tuổi thơ ở làng… dù lấm láp lam lũ nhưng thật bình yên. Cội nguồn ấy còn gắn với
bao số phận, với những kiếp người quê nhọc nhằn vất vả; nhưng nồng ấm tình người
mộc mạc, chất phác. Cội nguồn ấy, trong trang viết của nhà văn Xuân Mai, là
một làng quê rất cụ thể có tên: làng Ao Gỗ (còn gọi là làng Bình
Lạc, làng Mộc Cụm) nay là tổ dân phố Bình Lạc, TT Tam Sơn, huyện Sông
Lô.
Chân dung làng được phác thảo những nét đầu tiên bởi
tâm thức nhân vật, hay cũng chính là tâm thức nhà văn “Ao Gỗ là tên gọi
của làng tôi” - (như lời kể của nhân vật, khi mở đầu truyện ngắn)
Làng Ao Gỗ – quê hương nhà văn là một ngôi làng cổ. Làng có tự bao giờ,
người cao tuổi ở làng cũng không thể biết. Làng không lớn. Nhưng bởi
đất lành, nên “người dân nhiều nơi mới rủ nhau về, đánh gốc, bốc
chà, phát nương, làm rẫy, sinh cơ, lập nghiệp…” để “từ đó mà thành
bản, thành làng!”. Sự tích về làng còn gắn với một câu chuyện bi
thương thủa xửa xưa (Sự tích núi Hình Nhân). Ngay cái tên làng cũng
là một câu chuyện thú vị: thủa trước, làng dựng đình. Đình to lắm,
mấy năm mới làm xong. Gỗ ngâm để làm đình chật đầy cái ao to nơi cửa
đình. Ao ngâm gỗ nên gọi là Ao Gỗ, gọi mãi mà thành tên làng! Làng
Ao Gỗ nằm gần chân núi Sáng, không có bến nước, không có cây đa. Bù
lại, làng có một cây gạo “to hơn tất cả các loại cây có trong làng”.
Đó là “cái mốc” để “người đi xa, mỗi lần về quê, ai cũng nhận ngay
ra làng mình đầu tiên là nhờ cây gạo ấy”.
Ngôi làng nhỏ, nhưng qua trang viết của nhà văn, bạn
đọc được tiếp cận cả một thế giới những câu chuyện muôn đời về
làng quê. Những câu chuyện bình dị, luôn gợi nỗi thân thương khôn nguôi
về làng. Nơi ấy có “Đình làng”; “Chợ Then”; “phố nhỏ bên sông”; “Rừng cò
Chằm Sai”; ao làng, rồi còn cả một “dòng sông Cửa Ngòi”… Dòng sông mà
trong mắt những đứa trẻ của làng luôn ăm ắp những điều huyền diệu.
Sông tuy nhỏ, nhưng chỉ cần nhìn màu nước sông, người ta đã nhận ra những sắc
màu của bốn mùa thiên nhiên luân chuyển với những êm đềm ngọt ngào hay sục
sôi dữ dội… Riêng với Giếng làng, nhà văn cho bạn đọc thấy đó còn
là một cổ tích, khiến người làng mãi tự hào, rằng: Giếng làng là
do ông tổ, cũng là ông vua đầu tiên của nước ta: Vua Hùng - trong một
lần đi săn tới làng, đã nghỉ chân, cắm trại, và cho người đào nên. Giếng
cho dân làng nguồn nước trong lành mát ngọt, giếng là nơi dân làng
gặp gỡ, thăm hỏi nhau trong lúc gánh nước ăn hay giặt giũ đêm trăng;
giếng là chốn trai gái làng hẹn hò; đặc biệt, cũng tại giếng này,
thời kháng chiến chống thực dân Pháp, đã có anh bộ đội anh dũng
chiến đấu, rồi hy sinh để bảo vệ kháng chiến, bảo vệ dân làng…
Theo chân người viết, bạn đọc sẽ được tham dự những
đêm soi ếch, những buổi đặt nắn, đánh lờ cá rô, những mùa
tát cá đẫm mùi bùn, mùi cá tép, cái mùi mà “không phải tuổi thơ ai cũng
có”. Rồi ta sẽ được thưởng thức Tết cơm mới, biết đến Hương cây
rơm; đến vị rau má gắn liền với những ký ức để đời của cái thời “đói
quay đói quắt”; biết đến nỗi cực nhọc “đi núi nằm” sơn tràng bòn kiếm
cái ăn cầm hơi qua ngày vào buổi “ngoài đồng vàng mơ, trong nhà mờ mắt” …
của bao vùng quê nghèo Việt Nam hôm qua.
Chân dung làng còn hiện hữu sắc nét qua những ký ức
êm đềm của tuổi thơ: một buổi đi săn, tắm mưa, quê ngoại, tháng
Mười, một mùa phá đỗ gợi nhớ câu ca “trâu bò được
buổi phá đỗ…”, một trận đánh trận giả, một buổi bắt ốc nơi đồng
chằm, một buổi gặt đầu tiên của một cô bé. Cô được theo mẹ
ra đồng, vụng về đưa liềm tập cắt những bông lúa chín đầu tiên trong
đời. Nhẹ nhàng, thủ thỉ, Xuân Mai giúp tuổi thơ Việt, giúp chính mỗi
người lớn chúng ta cảm – nhận quê hương.
Chân dung làng trong sáng tác cho thiếu nhi của Xuân Mai
còn được lưu giữ bởi rất nhiều mùi hương vị và âm thanh: hương đồng
hăng hoải buổi gặt chiêm, cấy mùa, hương cây rơm, vị rau má; là tiếng
cò tao tác rừng chiều khi bị con người phá tổ, là tiếng ếch như chỉ
còn vẳng lên từ ký ức bởi sự huỷ diệt thiên nhiên của con người.
Nhiều địa danh trong truyện ngắn viết cho tuổi thơ của
Xuân Mai đều là địa danh có thật ngoài đời, chân thật, gần gụi như
máu thịt.
Yêu quê, nên nhà văn dường như đã đưa nguyên vẹn
hình dáng, tên gọi làng quê vào trang viết. Hay đó cũng là cách ông
lưu giữ lại cùng mai sau về những gì đã hiện hữu nơi làng quê mình?
Nhất là khi một cuộc sống với guồng quay gấp gáp, dữ dội như hôm nay
chúng ta đang sống luôn sục sôi, cuộn chảy, kéo theo, sẵn sàng cuốn đi
tất cả. Nhanh tới mức nhiều khi con người dường như bị nó lôi tuột
đi, hút xoáy vào, xoáy vào mà không thể tự dừng lại, tự thoát ra…
Có một sự thực đang hiển hiện: Những tên xóm tên thôn
tên làng mộc mạc, xưa xa như cổ tích của làng Việt dần bị mai một,
bị đánh mất, xoá mất, thay vào là những khu hành chính, tổ dân phố
được đánh số khô khốc, cụt lủn theo thứ tự; như ai đó ví là “trại
lính”… Thế thì, chả mấy nỗi mà không còn những cái tên của một
thưở một thời. Trong khi, đó chính là một phần hồn vía dân tộc. Làm
cách nào để giữ lại cho mai sau? Nhà văn Xuân Mai làm theo cách của
ông: ấy là, đưa chúng vào trang viết, cho ai? Cho tuổi thơ, để mai sau,
các em còn biết được, nơi em và gia đình đang sống, tự thời cụ kỵ
ông bà… có tên là gì, sự tích thế nào, đã ra đời, tồn tại ra sao,
có những thăng trầm buồn vui hay dở gì… Những điều ấy, cần lắm chứ.
Bởi, ít nhất, cũng giúp con người biết về nơi gọi là nguồn cội, là
quê hương của mình mà biết sống sao cho xứng đáng. Để rồi bạn đọc,
hẳn cũng đồng ý với triết lý của nhân vật trong truyện Làng quê
thương nhớ, rằng “Chỉ nơi nào có mộ những người ruột thịt của mình
thì đó mới là quê hương con ạ. Ở đời thật buồn cho ai vì lý do nào
đó mà quên mất quê hương, hay không có một vùng quê để mà thương nhớ”
“Làng Ao Gỗ” của Xuân Mai giờ là một tổ dân phố của
thị trấn huyện lỵ Sông Lô. Làng lên phố. Ít nhiều đồng chằm
ruộng dộc, nơi mồ hôi người làng bao đời đầm đầm đổ xuống những
buổi gặt chiêm, buổi cấy mùa… giờ đang lùi vào quá khứ, nhưỡng chỗ
cho công sở, phố xá. nhưng cái giếng làng huyền thoại ấy giờ cũng
đã không còn. Những cánh đồng cầu Giát, cầu Dài, Đề Lương…nơi bao
thế hệ người làng Ao Gỗ vẫn lặn lội cấy gặt, vẫn be bờ tát
vét kiếm con cá con tép…đang dần bị san lấp để xây công sở, cơ quan,
bến xe bus… Vẫn biết, trong vũ trụ này, đâu có điều gì là tồn tại
mãi mãi, mà sao mỗi cuộc đổi dời như vậy, cứ thấy lòng hẫng hụt
mất mát vô cùng. Như cảm giác của nhân vật trong truyện mỗi lần về
quê, đi qua cánh đồng Cầu Giát, nhớ về buổi tát vét thời thơ dại hôm
nao, vẫn thấy vẹn nguyên cảm giác nhói buốt nơi ngón tay bị
ngạnh con cá trê đánh trúng hôm nào, giờ bỗng tấy nhức, tận tâm can.
Bằng nhạy cảm đặc biệt của một người cầm bút, nhà
văn Xuân Mai đã sớm nhận thấy những mất mát không thể tìm lại đó.
Nên từ cách nay nhiều năm, ông đã đưa làng vào trang viết, bằng cả
tình yêu, sự nâng niu, trìu mến đặc biệt!
Thân phận con người
Trong những tác phẩm của Xuân Mai, làng Ao Gỗ hiện lên thật
sinh động còn bởi nhà văn đã dành tình cảm yêu thương máu thịt của mình để viết
về con người. Phần lớn các nhân vật của truyện ngắn Xuân Mai viết cho
các em đều có nguyên mẫu ngoài đời. Họ không hề xa lạ với chúng ta. Họ
là người làng của những ai sinh ra lớn lên từ làng. Họ, những
người nông dân cả cuộc đời lam lũ, quanh năm suốt tháng có lẽ chẳng đi đâu ra
khỏi làng. Nhưng họ chính là cuộc sống này, và thân phận của họ, qua sáng
tạo của nhà văn Xuân Mai, đã làm nên tác phẩm, làm nên những trang viết gây
xúc động lòng người. Đọc truyện của Xuân Mai, bạn đọc gặp một ông Thủ Lộ
có tài làm diều, thả diều mê hoặc lòng người, rồi cô hàng xén mau mắn; ông
lão nặn tò he nơi cổng chợ Then, rồi bố tôi, mẹ tôi, bà nội, ông nội,
bà vãi, ông vãi, bác tôi bá tôi, chị tôi, em tôi, những thằng bạn
trong “hội tát vét” tóc cháy nắng dãi dầu… cho đến cả những con vật thân
quen: con Miu, chú ngựa đá trên gò Ngọc Nhớ, con gà mái hoa mơ…
Có những nhân vật được miêu tả cụ thể, kỹ lưỡng từ ngoại hình,
tính cách đến số phận, cả cái chết của họ… Lại có những nhân vật,
được nhà văn “điểm nhanh” bằng một câu viết mà vẫn hiển hiện rõ nét
thân phận: Ông Chấn hay đi cúng nên gọi là Đồng Chấn, Bà cụ Đức chuyên
bán thuốc cam nên được gọi là bà Lang Đức.
Bao nhiêu thân phận là bấy nhiêu những trang đời rất bình dị.
Trước vô cùng vô tận của không gian và thời gian, sự bình dị ấy âm thầm
góp phần làm nên những giá trị của cuộc sống.
Văn hoá làng Việt
Trong những sáng tác cho thiếu nhi, nhà văn Xuân Mai còn
giúp bạn đọc thêm hiểu, thêm yêu hơn một văn hoá làng Việt Nam mộc mạc, đặc sắc
qua những tục lệ rất đặc trưng của một làng quê trung du, cũng là
nét quen gặp ở nhiều làng quê trung du Bắc Bộ. Ấy là tết cơm
mới, tết giết sâu bọ, tục khảo cây mít, lệ nấu chè kho
cúng thành hoàng làng. Nhân vật trong Tết cơm mới kể: Mẹ
tôi là người rất chăm lo đến ngày lễ, tết. Tháng ba cụ làm bánh trôi, bánh
chay. Tháng năm cụ bắt chúng tôi nhuộm móng tay, móng chân. Sáng ngủ dậy phải
ăn hoa quả để giết sâu bọ và không ngồi ở bậu cửa để tránh mọc mụn nhọt.
Một cách khéo léo, nhà văn chỉ cho trẻ em biết về
những tục lệ truyền thống của cha ông, qua đó, biết yêu kính, biết
ơn, tri ân tổ tiên ông bà cha mẹ đã sinh ra ta, đã lam làm tạo dựng cho
ta cuộc sống: Tháng bảy cụ mua vàng mã đốt gửi người thân đã mất . Tháng
tám cụ mua bưởi, hồng và giục anh em tôi làm đèn kéo quân, đèn ông sao cho
các em. Cái gì cũng thế, từ quả na, quả chuối trong vườn chín bói đến đồng quà
tấm bánh ai đó biếu bao giờ cụ cũng đặt lên bàn thờ giục cụ ông thắp hương xong
các con mới được ăn. Với Tết cơm mới, mẹ tôi lo, chuẩn bị còn cẩn thận, chu đáo
hơn. Và sự chu đáo, thành tâm của bà mẹ đã được Xuân Mai mô tả thật tỉ mỉ,
từ việc mẹ nuôi, chăm chút đặc biệt một chú gà trống có cái mào đỏ
màu cờ, đôi chân vàng như màu hạt ngô già, mới tập gáy nhưng chưa áp
mái, hằng ngày chú gà này được ăn ngô, thóc, được uống nước mưa chứa trong một
cái chum đặt dưới gốc cây cau. Tiếp đến, mẹ xay, giã một cối gạo nếp cái hoa
vàng, một cối gạo tẻ tám thơm, hai thứ gạo mà chỉ mới là gạo thôi đã có mùi
thơm lan toả ra tận ngoài ngõ …Không hiểu sao, đọc những trang viết trong “Tết
cơm mới”, đến phần Xuân Mai mô tả cảnh người cha trịnh trọng làm lễ khấn tổ
tiên, và cái cách ông đưa gần như nguyên vẹn bài khấn cúng tổ tiên
vào trang viết, tôi bỗng thấy lòng mình rưng rưng một cảm giác thật khó tả: Cỗ
bàn, trầu, nước… được bày biện đầy đủ lên ban thờ; bố tôi mới ra
chum múc nước rửa mặt. Ông cụ lại thay quần áo mới, ăn mặc rất
chỉnh tề rồi mới đi đến bên bàn thờ, thắp hương, ra rượu. Nhìn bố
quỳ trên phản, hai tay chắp vào nhau, giơ ngang trán, miệng lẩm nhẩm
khấn, tôi cảm thấy có một cái gì đó rất thành kính, rất thiêng
liêng. Đọc đoạn văn, thấy điều gì như vừa trỗi dậy, tha thiết nhắn nhủ… Điều
gì vậy, hay đó chính là những tiếng gọi nơi thẳm sâu cội nguồn vang vọng? Khiến
ta thấy như được sống lại tuổi thơ, đang cùng mẹ cha anh em quây quần bên mâm
cơm mới dù đạm bạc mà đầm ấm thủa nào. Điều đơn giản vậy, sao bây giờ như
là cổ tích khiến tim ta xa xót.
Tính giáo dục, tính thời sự, tính dự báo của người
cầm bút
Đọc xong, gấp lại trang cuối mỗi tập truyện của Xuân
Mai viết cho các em, đều nhận thấy một điều: Ông viết Trận địa
đồi sim; Quà của dòng sông; Con trai người đi xa, Giếng làng; Quê ngoại,
Tháng Mười, Điều day dứt…đâu chỉ dành tặng riêng con trẻ. Bằng giọng văn
hiền lành, nhẹ nhàng, thủ thỉ, trang viết cho thiếu nhi của Xuân Mai
đang nói với tất cả chúng ta – những ai đang là người lớn nhiều điều về lẽ sống
ở đời, về những gì rất đỗi bình dị mà cũng vô cùng quý giá, như bối cảnh
thanh bình mà truyện ngắn Buổi tối bình thường, Ông cháu Mít -
su… Phú… đã mô tả.
Qua trang viết, nhà văn muốn gửi đến các em nhiều
thông điệp: về tình yêu thương, lòng khoan dung giữa con người với nhau,
với cả môi trường xung quanh (Một mình, Rừng cò ở Chằm Sai, Cái chết
của con Miu), riêng với Chuyện về loài kiến, bạn đọc nhỏ tuổi
sẽ có được một “bài học” lý thú từ loài kiến về tình thân ái,
biết đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau để cùng sinh tồn; biết yêu lao động
và trân quý thành quả lao động (Buổi gặt đầu tiên)
Xen kẽ với những hồi ức đẹp về quê hương thời thơ ấu, những
truyện ngắn viết cho thiếu nhi của Xuân Mai còn gửi đến bạn đọc những day
dứt. Ấy là việc vì sao một người sống hiền lành như ông Thủ Lộ cũng bị người
khác ghen ghét tư thù? Tại sao ông già nặn tò he khéo tay thế, tốt bụng thế
mà ông trời lại bắt phải chết khổ? Quyền được học hành, được chăm sóc,
yêu thương, được vui chơi, phát triển, vv… là những quyền cơ bản của
trẻ em – thế hệ tương lai của dân tộc, đất nước, nhân loại, vậy nhưng
có bao nhiêu em nhỏ như bé Khoa trong truyện ngắn Đi học, Khoa ơi! phải
bỏ học, không được đi học, thậm chí bị lạm dụng, lợi dụng, bức hại
hằng ngày? Xã hội hôm nay từng nhiều lần bất bình đến căm phẫn khi
chỗ này chỗ kia, những thân phân trẻ em bị bạc đãi, bị vứt bỏ, đánh
đập, hành hạ, mua bán, lạm dụng… nhằm phục vụ cho mục đích xấu xa
của kẻ ác. Bé Khoa trong truyện ngắn đã được đi học, nhưng vẫn còn
bao trẻ em khác ngoài đời đang chịu những cay cực, nhọc nhằn mưu sinh,
không được đến trường, không được yêu thương chăm sóc? Viết về vấn đề
này, nhà văn Xuân Mai đã góp thêm một tiếng chuông cảnh tỉnh: vì tương
lai, hãy thiết thực quan tâm, yêu thương, chăm sóc trẻ em.
Dự cảm về môi trường sống của con người đang bị
chính con người huỷ hoại, khi ngắm dãy núi Sáng “sau bao nhiêu năm bị
con người tàn phá, khai thác giờ nhìn trọc lốc như đầu ông sư và tiếng chim hót
thì thưa vắng đi rất nhiều. Riêng tiếng “bắt tép cho ta” của chim ca ca thì hầu
như không còn nữa” nhân vật trong câu chuyện của Xuân Mai đã tự hỏi
mình: Liệu có phải buổi đi bẫy ca ca đầy vẻ thích thú của bố con tôi từ mấy
chục năm trước đây đã góp phần làm vắng bóng ca ca ? Tôi bâng khuâng hỏi
thế. Và, câu hỏi ấy dần thành điều day dứt mãi trong tôi”. Câu hỏi ấy, không
chỉ dành cho trẻ em, mà cho tất cả chúng ta. Vấn đề môi trường, hơn
bao giờ hết, đang là vấn đề nóng khiến toàn cầu lo âu. Những hậu
hoạ từ biến đổi khí hậu đang khiến con người phải trả giá. Vậy thì
sự linh cảm của nhân vật trong truyện ngắn viết cho các em của Xuân
Mai có phải là thông điệp cảnh báo con người từ cách nay cả chục năm
trời? Đến lúc này, điều dự cảm ấy vẫn đang vẹn nguyên tính thời
sự?
Tính giáo dục, tính thời sự, chức năng dự báo, nếu
có, của văn học, chính là đã được bắt đầu từ những trang viết giản
dị, trong trẻo mà trĩu nặng suy tư như thế của Xuân Mai.
Để cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn, có biết bao nhiêu điều
còn khiến mỗi người chúng ta phải day dứt suy nghĩ và tìm hướng hành động. Hy vọng,
những trang viết dành cho các em của nhà văn Xuân Mai sẽ là hành trang
đi cùng tuổi thơ, đi cùng thời gian để lưu giữ lâu dài trong lòng dân
tộc thêm những hình ảnh đẹp về làng quê của chúng ta.
T.V
MỘT NỖI ĐAU TRUYỀN ĐỜI
Phạm Ngọc Chiểu
Đó là nỗi đau, truyền qua mấy chục thế hệ con cháu suốt 585
năm qua, kể từ ngày 26 tháng 2 năm Kỷ Dậu (1429), ngày vị tướng quân tài ba họ
Trần là Tả tướng quốc Trần Nguyên Hãn cùng đoàn gia thần nội thủ và đồng chí hướng
nhất loạt trầm mình, lấy cái chết để tỏ tấm lòng và khỏi phải chết bởi tay Thái
tổ Cao hoàng đế Lê Lợi. Câu hỏi lớn của Tả tướng quốc khi ông ngửa mặt hỏi trời
cao, trước khi cùng mọi người lao xuống ghềnh Đông Hồ tự chết, còn vang động đến
hôm nay:
- Tôi với Hoàng thượng cùng mưu cứu nước cứu dân. Nay nghiệp
lớn đã thành, Hoàng thượng nghe lời dèm pha mà hại tôi,Hoàng thiên có biết
không?
Sự kiện động trời này, lạ thay, trong bộ Đại Việt sử ký
toàn thư, tập 2 trang 374, NXB Khoa học Xã hội, 2009 (in theo Quyển 10, bộ cổ,
phần Kỷ Nhà Lê Thái Tổ Cao hoàng đế (1418 - 1433), Thuận thiên năm thứ 3, Kỷ Dậu),
chỉ ghi vẻn vẹn có một dòng chú thích như sau: “Tháng 2 này còn có việc bắt giết
Trần Nguyên Hãn”, với lời dặn: xem Cương mục chính biên, Quyển 15, tờ 20A. Đang
đi tìm sách đọc theo lời dặn nhưng chưa tìm được thì may sao lại nhận được tiểu
thuyết “Người về chốn cũ” của nhà văn Xuân Mai gửi cho, mà, ngay trang đầu cuốn
sách ông đã trân trọng ghi lại: “Sử làng Sơn Đông viết về Tả tướng quốc Trần
Nguyên Hãn: “Thập đại kinh luân mao ức lý, nhân trạch từ miếu” (Sau mười năm đi
chinh chiến, về ở lại nơi nhà cũ).
Từ một câu chú thích trong sách Sử và thêm một tờ 20A ở Cương
mục chính biên, với sự giúp đỡ của nhà nghiên cứu lịch sử Lê Kim Thuyên và bà
Trần Thị Phú mà nhà văn trân trọng cảm ơn ngay ở “Lời đầu sách”, ông đã viết
nên quyển tiểu thuyết lịch sử đầy đặn ba trăm trang in, đủ thấy công sức nhà
văn dành cho vị Tả tướng quốc đầu tiên của triều vua Lê Lợi đến mức nào.
Câu chuyện bắt đầu từ việc dân thôn Đa Cai, trang Sơn Đông một
ngày nọ bỗng thấy một cặp vợ chồng trẻ đến ngụ cư ở bên khoảng rừng cuối làng,
ngày ngày phát nương trồng lúa, trồng ngô, lại biết làm ra thứ dầu từ quả dọc
đem bán. Hỏi mới biết chồng là Trần Nguyên Án, con quan Tư đồ Trần Nguyên Đán,
dòng dõi đời thứ bảy của Thượng tướng Thái sư Trần Quang Khải, vì lánh nạn tìm
diệt dòng dõi nhà Trần của Hồ Quý Ly mà cùng vợ là Lê Thị Hoàn phải dạt lên Đa
lai, chờ thời. Rồi họ sinh được cậu con trai kháu khỉnh, hơn tháng tuổi mà dài
rộng như con nhà người ta ba bốn tháng, tóc xanh ngần, miệng rộng, tai to, mắt
sáng và xếch. Ba mươi tám năm sau, cậu bé có dung mạo khác thường ấy đã là vị
quan đầu triều, với tước phong Tả tướng quốc khi Lê Lợi lên làm vua, xưng hiệu
là Thái tổ Cao hoàng đế. Đó chính là Trần Nguyên Hãn, một vị tướng hữu học thức,
tinh binh pháp, lập những chiến công lẫy lừng, lên đến tột đỉnh chức quan nhưng
rồi phải trầm mình tự vẫn vì sự đố kỵ, nhỏ nhen của bọn gian thần và của chính
người ông từng tôn là minh chủ. Lịch sử các bậc quân vương nước nhà, Lê Lợi là
con người thật đặc biệt. Công lao của ông đối với non sông đất nước rất to lớn,
đánh đuổi được giặc Minh, dựng lên nhà hậu Lê dài 354 năm, riêng thời Lê Sơ thực
quyền của ông và con cháu đã 99 năm. Nhưng, cũng chính vị vua xuất thân hào trưởng
này đã nghe bọn gian nịnh mà giết hại các bậc khai quốc công thần từng nằm gai
nếm mật, vào sinh ra tử giúp ông lên tột đỉnh vinh quang, trong đó tiêu biểu là
Tả tướng quốc Trần Nguyên Hãn, Lê Lai, Phạm Văn Xảo… Sau này, con ông giết tiếp
bậc Đại quân sư Nguyễn Trãi, để lại những nỗi đau trong lịch sử. Về cái chết của
Nguyên Trãi thì Văn học - Nghệ thuật đã có nhiều tác phẩm nổi tiếng, nhưng nỗi
đau về vị quan võ đầu triều Trần Nguyên Hãn, thì “Người về chốn cũ” của nhà văn
Xuân Mai, như tôi biết, đây là cuốn sách đầu tiên - một tiểu thuyết dã sử viết
công phu và khá thành công.
“Người về chốn cũ” là tiểu thuyết dã sử viết theo lối cổ
điển, gợi ta nhớ về bộ tiểu thuyết nổi tiếng “Pi e Đại đế” của văn hào A lêc
xây Tôn-stôi. Nhân vật chính của tiểu thuyết là một nhân vật có thật trong lịch
sử, được nhà văn chăm chút tái hiện từ lúc sinh ra cho đến tận cuối đời. Việc
này thật không dễ. Vốn liếng “thực tế” chỉ là một ít trang sách và mấy câu chuyện
dã sử lưu truyền trong dan gian, trong khi nhà văn phải giới thiệu với người đọc
cả cuộc đời của nhân vật, với đầy đủ dung mạo, tính tình, mối quan hệ xã hội, rồi
những biến cố lịch sử nhân vật trải qua cách nay ngót sáu trăm năm.
Thật mừng là nhà văn Xuân Mai đã hoàn thành rất tốt các ý tưởng
của mình khi viết cuốn tiểu thuyết dã sử này. Một Trần Nguyên Hãn hiện lên trước
mắt người đọc khá sống động, từ lúc còn là cậu bé con, đến lúc là trang nam nhi
tuấn tú luôn ấp ủ thù nhà nợ nước, biết yêu và lấy vợ, sinh con, cho đến khi là
tướng võ nghệ cao cường, tinh thông binh pháp, đánh đâu thắng đó. Những trận Trần
Nguyên Hãn cùng Thượng tướng Doãn Nỗ dẫn quân vào đánh chiếm hai xứ Tân Bình,
Thuận Hoá, sau đánh thành Xương Giang trên xứ bắc chỉ vẻn vẹn trong có hai giờ
lấy được thành, cho đến những trận đánh viện binh của Liễu Thăng khi cùng Lê
Sát, lúc cùng Lê Lý… được ngòi bút Xuân Mai tái hiện thật sinh động. Đọc những
trang sách này của nhà văn Xuân Mai gợi ta nhớ những trận đánh thời Tam Quốc
bên Tàu được La Quán Trung viết lại vậy.
Một thành công nữa rất đáng ghi nhận là trong “Người về chốn cũ”
Xuân Mai đã kết hợp đưa vào mạch truyện chính rất nhiều truyện dân gian, những
phong tục tập quán, những lễ hội, những trò chơi dân gian. Người đọc sẽ khó
quên món “kẹo đất”, còn gọi là “bánh ngói” của dân Sơn Đông dành cho đàn bà có
mang ăn “rở”; trò thi tài nấu cơm nồi đồng điếu; trò chơi đánh “phết” trong hội
xuân, đến lễ hội Thánh Gióng ở Cổ Loa… Cả lối triết tự cắt nghĩa các chữ Hán,
những câu thơ cổ,những lời Khổng Tử,những bài khấn… cũng được nhà văn đưa vào
truyện đúng cảnh đúng dịp. Có thể thấy nhà văn Xuân Mai có một vốn liếng văn học
dân gian dày dặn, phong phú và ông có ý thức dân gian hoá lịch sử nên đã chọn lọc,
đưa vào “Người về chốn cũ” những chuyện dân gian khá đắc địa, giúp
cho tiểu thuyết có không khí xã hội sinh động để nhân vật chính có đất sống và
hoạt động “như thật”, không bị khô cứng.
Tôi rất ấn tượng với trang miêu tả về cái chết đầy bi tráng của
Trần Nguyên Hãn và đoàn người đi theo ông khi họ nhất loạt gác chèo để thuyền
lao xuống ghềnh Đông Hồ. Câu hỏi lớn của Trần Nguyên Hãn khi ông ngửa mặt hỏi
trời cao trước khi chết thật có sức lay động người đọc - một thành công trong
sáng tạo của Xuân Mai khi khép lại câu chuyện về bậc danh tướng.
“Người về chốn cũ” đã đến tay người đọc. Mừng cho nhà
văn Xuân Mai, bước vào đúng tuổi “xưa nay hiếm” lại có sách mới tặng bạn Văn, bạn
đọc một tiểu thuyết dã sử viết công phu, sinh động, rất đáng được ghi nhận.
P.N.C
B - MỘT SỐ TÁC PHẨM TIÊU BIỂU
GIẾNG LÀNG
Nhờ sự giúp đỡ của y tế, nhà tôi khoan được cái giếng nước sạch
ngày hôm trước thì ngày hôm sau là đến Tết Đoan Ngọ. Nhìn những xô, những chậu
nước mới được bơm lên trong suốt, bà tôi cứ ao ước: ‘Giá như ngày xưa làng ta
có nước trong thế này mà nấu chè kho thì quý hóa quá”. Tôi hỏi bà: “Sao nấu chè
kho lại cần đến nước thật trong hả bà?” – “Vì đó là chè nấu để cúng cháu ạ.
Cúng ông Thành hoàng làng thì nước phải thật tinh khiết. Cháu còn bé chưa biết
chứ ngày xưa…”.
Như rất nhiều lần, lần này tôi lại đụng đến cái ngày xưa của
bà. Dường như bà chỉ còn có chuyện ngày xưa nữa thôi. Bà rủ rỉ kể rằng: Ở làng
ta ngày xưa mỗi năm đến Tết Đoan Ngọ (tức là Tết vào ngày mùng 5 tháng 5 âm lịch)
được ăn to chỉ kém Tết Nguyên Đán. Ngày bà còn bé, năm nào cũng vậy, hễ đến Tết
Đoan Ngọ là từ sáng sớm trẻ con nhà nào cũng được bố mẹ cho ăn hoa quả, rượu nếp,
trứng luộc, bôi hồng hoàng vào thóp đầu, vào ngực, vào rốn để giết sâu bọ. Còn
người lớn thì giết sâu bọ bằng cách uống rượu hòa với tam tần đơn, hoặc ăn rượu
nếp. Trẻ con “giết sâu bọ” xong thì rửa mặt mũi, chân tay thật sạch rồi nhuộm
móng tay, móng chân, đeo chỉ ngũ sắc… Buổi sáng hôm ấy không đứa nào được ngồi ở
bậu cửa, bởi ngồi ở đấy sau này rất dễ mọc mụn nhọt. Riêng bà, bà rất hay được
bố của bà bắt trèo lên cây mít. Theo lời dặn của bố, mỗi lần bố đánh một roi
vào cây mít và hỏi: “Mít, sang năm mày có ra nhiều quả không?” Bà lại phải giả
vờ làm vẻ đau đớn và nói: “Thưa ông, có ạ!” Quả nhiên năm sau cây mít có nhiều
quả hơn năm trước thật. Làm xong cái công việc linh thiêng, huyền bí ấy bà mới
được đi tắm. Mà là tắm nước giếng làng do mẹ bà giánh về từ sáng tinh mơ. Ai được
tắm loại nước ấy đến mùa hạ sẽ không có rôm sảy! Tắm gội sạch sẽ xong, mặc váy
áo mới, bà theo bố đem chè kho ra đình cúng Thành hoàng làng.
Bà cũng không biết tại sao Tết Đoan Ngọ là ngày giỗ ông Khuất
Nguyên – (Ông này ở mãi bên Trung Quốc, thờ vua Sở Hoài Vương. Vì ngăn cản vua
không được, bực mình ông ôm đá nhảy xuống sông Mịch La mà chết. Hôm đó là ngày
mùng 5 tháng 5). Vì thương tiếc một người con trung nghĩa nên hàng năm đến ngày
ấy nhân dân lại làm bánh ngọt, quấn chỉ ngũ sắc, rồi đua nhau bơi thuyền ra giữa
dòng sông ném bánh xuống để cúng ông, làng ta lại có lệ nấu chè kho cúng Thành
hoàng làng? Bà chỉ nhớ là, nước nấu chè kho phải thật trong, thật sạch. Bởi vậy
năm nào làng cũng phải tát giếng làng từ đêm hôm mùng 4. Tát thật cạn, vét hết
bùn, rác… Những gàu nước đầu tiên sẽ được đem đi nấu chè và giành cho trẻ con tắm.
Chả hiểu có phải do được tắm nước tinh khiết ấy của giếng làng hay không mà trẻ
con làng ta da dẻ đứa nào cũng nhẵn nhụi như hạt mít.
Câu chuyện của bà đã kích thích trí tò mò của tôi. Tôi không
thể làm ngơ trước cái “ngày xưa” nữa:
- Bà ơi, thế giếng làng ở chỗ nào hả bà?
- Ở đâu ư? Ở phía đầu làng, gần nhà cụ Tùng. Chỗ có cây đa ấy
cháu ạ.
Từ lúc nãy bố tôi vẫn đang mải mê với công việc xây lát nền
giếng, giờ nghe bà bảo thế, vội nói:
- Là bà bảo giếng từ ngày xưa chứ hàng chục năm nay làng ta
làm gì còn giếng làng nữa.
- Thế giếng làng bị lấp mất rồi hả bố thằng Hùng?
- Vâng! Lấp rồi. Bây giờ ở đấy chỉ còn mỗi cây đa già.
Nghe bố tôi nói vậy, bà tôi thở dài. Tôi có cảm giác như bà vừa
đánh mất một cái gì đó quý lắm. Cái gì đó rất quý của bà thì tôi chưa thể hiểu
được nhưng công việc đầu tiên của tôi là phải tìm ra nơi có cái giếng làng của
làng tôi. Bụng bảo dạ như thế, tôi chạy phóng sang nhà thằng Dũng.
Thằng Dũng là cháu đích tôn của cụ Tùng. Nó bằng tuổi tôi, học
cùng lớp với tôi. Tôi thân với nó bởi hai thằng khoái chơi những trò mạo hiểm.
Đặc biệt là rất thích tìm hiểu những cái gì mà mình chưa biết. Keo này tôi với
thằng Dũng sẽ tìm xem cái giếng của làng mình ngày xưa nằm ở đâu?
Nghe tiếng huýt sáo hiệu của tôi, thằng Dũng đang cùng ông nó
lau lá giúp mẹ nó làm bánh rợm, bánh gai cũng phải đứng dậy chạy ra cổng. Tôi
ghé tai nó, hỏi với giọng đầy vẻ quan trọng:
- Mày có biết hôm nay là ngày gì không?
Chắc cho tôi đã hỏi một câu ngớ ngẩn, thằng Dũng nhe răng ra
cười thay cho câu trả lời. Tôi lại hỏi:
- Thế mày có biết ngày xưa các cụ phải lấy nước giếng làng để
nấu chè kho cúng Thành hoàng làng vào ngày hôm nay không, hả?
Đến lúc này tôi biết thằng Dũng mới thật chú ý tới điều tôi gợi
ra. Thấy nó lắc đầu, tôi liền “sì” một cái, đoạn với giọng kẻ cả, tôi bĩu môi:
- Vậy mà cũng đòi là nhà thám hiểm. Này, mày có biết ngày xưa
làng mình có một cái giếng làng không?
Thằng Dũng lại lắc đầu. Tôi thật sự lấy làm buồn cho cái thằng
bạn chí cốt của mình:
- Bà tao bảo, ngày xưa làng mình có cái giếng làng. Giếng ở gần
nhà mày thế mà mày lại không biết!
- Giếng ở gần nhà tao?
- Là bà tao nói thế.
- Ồ, nếu vậy thì vào hỏi ông tao xem có đúng không? Đi! Nhanh
lên!
Ông thằng Dũng năm nay đã hơn 80 tuổi. Râu tóc ông trắng như
cước. Da dẻ ông đỏ đắn, hồng hào nhìn đẹp như ông tiên trong truyện cổ tích.
Ông là người vui tính, rất yêu chúng tôi. Ông hay kể chuyện cho chúng tôi nghe
lắm. Nhiều lúc tôi cứ nghĩ, trong đầu ông có chứa đến hàng ngàn pho sách. Ông
hiểu biết nhiều thế thì chuyện về cái giếng làng làm gì ông không biết cơ chứ!
Quả đúng như tôi dự đoán, sau khi nghe tôi với thằng Dũng hỏi,
không lau lá nữa, ông đứng dậy đi súc ấm, pha trà. Nhấm nháp gần hết chén trà
đoạn ông mới chậm rãi nói:
- Các cháu có hỏi thì ông mới nhớ. Phải, ngày xưa cả làng ta
chỉ có mỗi một cái giếng nên mới gọi là giếng làng. Xung quanh cái giếng này
cũng có nhiều chuyện vui, buồn đấy các cháu ạ. Hai đứa có biết không, ngày xưa…
Ông thằng Dũng kể là, ngày xưa, nghĩa là từ lâu lắm rồi, khi
lớn bằng chúng tôi, ông đã thấy làng có cái giếng ấy. Đó là một cái giếng tròn,
to bằng ba cái nong. Tang giếng cao chừng 1 mét, nền giếng lá gạch nghiêng. Từ
đáy đến tang giếng được chồng toàn bằng đá. Mùa hạ cũng như mùa đông, giếng lúc
nào cũng đầy nước. Nước trong, ngọt và rất mát. Tương truyền rằng, từ ngày xửa
ngày xưa có một lần Vua Hùng (tức là ông vua dựng nước Việt Nam ta
ngày nay) đi săn tới đây thì dừng chân nghỉ. Người cho lính cắm trại, rồi đào
giếng lấy nước nấu ăn. Người đi để lại cho dân làng cái giếng. Thấy nước giếng
trong mát hơn nước ao hồ bà con mới bảo nhau đào rộng ra, sâu hơn. Tỏ lòng biết
ơn vua cha đã cho mình cái giếng, dân làng lại xây một cái miếu thờ dưới gốc
cây đa gần đó. Thời gian trôi đi, cây đa lớn lên, cái giếng vẫn còn, riêng cái
miếu thì bị đổ nát chỉ còn lại mỗi móng với mấy chục viên gạch vỡ.
Vì cả làng mới có một cái giếng nên hầu như lúc nào ở ngoài
giếng cũng có người. Sáng sáng các bà, các chị ra giếng gánh nước; chiều chiều
người lớn, trẻ con ra giếng tắm giặt. Vô hình chung giếng là nơi tụ tập của dân
làng, đông và vui lắm. Không những thế, giếng còn là nơi hò hẹn thề thốt của những
đôi trai gái mới yêu nhau, khi phải xa nhau. Cụ Tùng bảo, chính cụ đã bắt gặp
bà nội tôi hồi còn trẻ đứng khóc bên một anh Vệ quốc quân ở bên giếng làng vào
một đêm trăng sáng. Anh ấy đóng quân ở làng tôi, yêu bà tôi. Khi phải chuyển
quân ra mặt trận, hai người phải chia tay nhau, kẻ đi người ở… Nghe tới đây tôi
chợt hiểu tại sao lúc nãy tôi lại có cảm nghĩ như bà tôi vừa đánh mất một cái
gì quý lắm.
Ông thằng Dũng đang kể thì dừng lại đột ngột. Cụ thong thả
rót nước ra chén. Sau một ngụm trà và lập bập rít mấy hơi thuốc lào thở khói trắng
mù trước mặt, với một giọng ngàn ngạt, cụ kể tiếp:
- Nhân nói với các cháu về cái giếng làng, có chuyện này ông
thấy cần phải kể để các cháu biết, nếu không nay mai ông chết, ông đem nó xuống
hố thì coi như ông có tội với anh ấy…
Cả hai đứa chúng tôi tròn mắt, kinh ngạc hỏi:
- Chuyện gì hả ông? Ông kể cho chúng cháu nghe đi!
- Phải, ông sẽ kể để các cháu nghe. Đấy là chuyện về một người
chiến sĩ hoạt động bí mật từ thời đánh Pháp. Các cháu không biết đâu, làng trước
kia là vùng địch tạm chiếm. Cái lô cốt ở đầu làng, nơi mà các cháu hay chơi trận
giả ấy là của thằng Pháp xây để giữ không cho bộ đội mình về làng. Một đêm,
cũng vào dịp Tết Đoan Ngọ như hôm nay, giữa lúc mọi người đang lịch kịch giã bột
làm bánh thì bỗng thấy có tiếng súng nổ rộ lên ở ngoài đầu làng. Tiếp đó là tiếng
chó sủa, tiếng hô đuổi bắt ai đó cứ ầm ĩ, huyên náo khắp nơi… Sáng ra dân làng
mới biết chuyện, đêm qua có một anh bộ đội từ vùng tự do bí mật về bắt liên lạc
với du kích trong làng để chuẩn bị phối hợp lực lượng phá đồn, diệt bốt, giải
phóng làng. Nhưng không may bị lộ, anh ấy bị chúng nó săn đuổi. Bí quá, anh liền
nhảy xuống giếng làng ẩn náu. Đã dìm mình xuống nước chỉ còn hở hai lỗ mũi
nhưng bởi nước giếng trong quá nên dẫu là đêm tối, chúng nó bấm đèn pin soi vẫn
tìm nhận ra anh. Chúng nó bắt anh lên, trói anh vào gốc đa suốt một đêm, đợi đến
sáng bắt mọi người đến xem chúng hành tội anh.
Anh bộ đội ấy còn trẻ lắm. Ông đoán anh chỉ ngoài tuổi hai
mươi nhưng nom thật rắn rỏi. Trước mặt dân làng chúng đánh đập tra khảo anh rất
dã man nhưng anh lì lợm không hé răng khai lời nào. Cuối cùng chúng trói giật
cánh khuỷu anh lại, kéo bùng biêng trên một cành đa, rồi thi nhau xả đạn
vào anh. Dây đứt, chúng nó xúm lại túm lấy xác anh quẳng xuống giếng, và cấm
không ai được vớt lên chôn cất. Tuy dân làng không ai được chôn cất anh nhưng
ông cũng không rõ bằng cách nào, anh chị em du kích vẫn vớt được xác anh ấy, bí
mật chuyển ra vùng tự do cho đơn vị của anh. Bà con mình chỉ ân hận một điều,
anh ấy đã chết vì làng mà cả làng đều không ai biết được tên anh ấy là gì? Quê
quán ở đâu? Mộ chôn ở chỗ nào? Phần thương anh, phần không thể bỏ được cái giếng
làng, bà con bảo nhau tát giếng để lại có nước ăn…
Tôi thầm hiểu quá khứ buồn đau đang hiện về trong tâm trí cụ
Tùng khiến cụ ngậm ngùi, nếu tiếp tục nói nữa khéo cụ bật khóc. Vì thế cụ lặng
đi, mắt cụ chơm chớp và hai tay thì run run vê điếu thuốc lào mà nhét mãi vẫn
không đúng nõ. Thấy vậy tôi vội vàng giúp cụ nhồi thuốc còn thằng Dũng giúp ông
nó châm lửa. Hút xong điếu thuốc, không chờ chúng tôi hỏi tiếp, cụ vừa nhìn ra
sân vừa bâng khuâng nói:
- Không biết có phải là từ ngày xưa năm nào dân làng mình
cũng lấy nước sạch từ giếng làng đem về nấu chè kho cúng Thành hoàng làng nên
được Ngài phù hộ, hay là nhờ linh hồn anh bộ đội vô danh phù hộ độ trì mà tuy
làng ta nhỏ bằng cái bàn tay, có mấy chục nóc nhà nằm chen chúc trong lũy tre
nhưng lại có vô khối người học hành cao, thi cử đỗ đạt. Như hai cháu thấy đấy,
người làm cán bộ tỉnh có, làm cán bộ huyện có, bác sĩ, kỹ sư có. Có hai ông làm
hiệu trưởng trường cấp ba, lại còn có cả hai ông làm nhà văn, nhà báo tầm cỡ
trung ương hẳn hoi… Hôm nọ họp Hội những người cao tuổi, các cụ bảo nhau tới
đây phải tu bổ lại cái đình làng. Rồi bàn với Hội cựu chiến binh xây lại cái miếu
thờ ở dưới gốc cây đa kia kìa…
Chà, đấy là những công việc hệ trọng của các cụ, chúng tôi trẻ
con đâu dám tham gia! Nghĩ vậy, chúng tôi chào ông và theo hướng tay ông thằng
Dũng chỉ, tôi kéo nó chạy về phía có cây đa.
Giếng làng xưa không còn nữa! Từ khi mỗi nhà có một cái giếng,
người ta đã lấp giếng làng rồi! Tôi và thằng Dũng đứng tần ngần cố hình dung ra
cái giếng làng theo lời cụ Tùng kể. Nhưng chịu, không thể biết nó nằm chính xác
ở chỗ nào. Hiện giờ ở đây chỉ còn cây đa thôi. Cây đa cũng đã già lụ khụ, rất
ít lá, chỉ thấy khẳng khiu, lòng khòng những cành, những rễ. Không rõ là bọn địch
đã treo anh bộ đội trên cành đa nào? Đang thầm hỏi thế bỗng chúng tôi giật mình
vì có mấy anh thanh niên vác đồ nghề khoan giếng đi qua. Có một anh lớn tiếng hỏi:
- Ê! Hai chú nhóc! Có đi khoan giếng với bọn anh không?
- Không! – Tôi trả lời – Chúng em đang tìm lại giếng làng
đây.
Anh ngửa cổ cười, vẻ nhạo báng:
- Giếng làng à? Thời buổi này làm gì còn giếng làng. Xưa rồi
chú mình ơi!
Ừ nhì? Giếng làng xưa, quá xưa rồi thật. Dẫu biết vậy mà sao
tôi vẫn thấy tiêng tiếc, vẫn ước ao giá như làng tôi còn một cái giếng làng để
có nước tắm cho chúng tôi không bị rôm sảy vào những ngày Tết Đoan Ngọ như ngày
xưa các cụ đã từng được tắm.
ỐC QUÊ
Ăn cơm tối xong, đang ngồi uống nước chè xanh bên bàn bỗng
ông bảo:
- Đã sang tháng mười rồi. Mùa này ốc đang béo. Sáng mai chủ
nhật đi bắt lấy ít ốc Phúc ạ.
Đang hí húi vót nan đan rổ ở ngoài hiên, cu Phúc hỏi lại:
- Bắt ở đâu hả ông?
- Ở dưới đồng Chằm Giàng. Chỗ năm ngoái hai ông cháu mình đi
soi chém được con cá quả to bằng bắp chân ấy. Cháu còn nhớ không?
Ồ tưởng đâu xa chứ ở đồng Chằm Giàng thì Phúc nhớ. Phúc
nhớ vì hàng ngày, những lúc không phải ngồi học, làm bài nó vẫn hay ra đó quăng
câu và đánh lờ cá rô. Đấy là một cánh đồng sâu mỗi năm chỉ cấy được một vụ, còn
một vụ bỏ trắng. Vụ không cày cấy ấy cỏ lác và cây hoa mặt mâm tha hồ mọc. Đây
chính là môi trường lý tưởng cho các loài tôm, cá, ốc, cua… sinh sôi, phát triển.
Ngày mai ra đó chắc là nó sẽ bắt được nhiều ốc lắm. Nghĩ thế, cu Phúc hào hứng
hẳn lên:
- Tối mai ăn bữa ốc luộc hả ông?
- Ông cũng định thế. Nhưng muốn bắt được ốc thì cháu phải đi
thật sớm, nếu không, nắng lên ốc lặn hết, khó mò lắm cháu ạ.
*
* *
Nghe lời ông dặn, Phúc bảo mẹ gọi dậy từ lúc gà mới ra chuồng.
Tuy bóng đêm còn vương đầy trên mặt đất nhưng nó đã vội vàng úp cái nón mê lên
đầu, buộc cái giỏ ngang hông, rồi con cón chạy ra cổng.
Thời tiết đã sang thu. Trời se se lạnh. Một màn sương mỏng nhẹ,
giăng mờ như khói phủ lãng đãng bên các sườn đồi và trên các dộc ruộng bậc
thang. Cu Phúc chạy một mạch qua con đường đất đỏ vắt mình trên đồi cọ là đến
cánh đồng Chằm Giàng.
Ở nhà cứ tưởng mình dậy sớm nhất, với lại chỉ có mình đi bắt ốc.
Có ra đến đồng mới biết khối đứa còn dậy sớm hơn cu Phúc và chúng nó đang đằm
mình mò ốc từ lúc nào.
Dường như sợ bạn bè bắt hết, cu Phúc vội tụt quần áo, vo tròn
lại, nhét vào bụi cây, đoạn mình trần như nhộng nó nhảy tùm xuống nước. Nó vừa
lội, vừa bì bõm bơi. Chiếc giỏ như cái phao bập bềnh sau lưng nó. Có đứa nào đó
lớn hơn cu Phúc thấy thế liền nhắc nó: “Đừng làm động nước, ốc lặn mất”. Cu
Phúc chợt nhớ đến lời ông bảo: “Mùa này đi bắt ốc, nếu đứa nào tinh mắt, nhanh
tay thì sẽ không phải mò”. Phúc liền dừng lại. Nó giương mắt nhìn xoáy xuống nước.
Trong làn nước trong veo, nó nhìn thấy những con ốc nhồi to bằng những quả ổi,
có màu xanh đen bám trên những chiếc lá hoa mặt mâm và thân cây lác… đang từ từ
khép miêng, lẹ làng lảng dần, lảng dần xuống đáy nước. Đó là những chú ốc đêm
qua nổi lên ăn sương giờ thấy động chúng vội vàng lặn trốn. Nhưng đã muộn! Cu
Phúc đưa cả hai bàn tay ra tóm lấy từng con và nhét luôn vào giỏ… Bằng cách
rình bắt ấy, đến khi mặt trời nhô lên khỏi dãy núi Tam Đảo, tỏa ánh nắng vàng
hoe trên cánh đồng thì cu Phúc có một giỏ ốc đầy. Chúng nó gọi rủ nhau lên bờ,
mặc quần áo (có đứa chỉ mặc quần còn áo vắt vai) đoạn rồng rắn kéo nhau về.
Cu Phúc vừa về đến cổng, mẹ đã hỏi: “Được nhiều không con?”
Ông từ trong nhà đi ra nhìn qua giỏ ốc rồi bảo: “Đem ngâm với nước vo gạo cho
nó nhả hết bùn để đến tối luộc ăn mới không bị sạn, mẹ cu Phúc ạ”.
*
* *
Trong lúc chờ mẹ đun lửa luộc ốc thì ở ngoài sân cu Phúc đang
cùng với ông hí húi pha nước chấm. Vừa làm ông vừa nói cho cu Phúc biết có khá
nhiều cách ăn ốc: Từ con ốc ta có thể chế biến thành nhiều món ăn khác nhau
như: Ốc nướng, ốc xào chuối xanh, ốc nấu canh sắn… riêng món ốc nhồi thịt hấp
lá gừng, “anh” đặc sản này phải là khách sang mới được ăn. Tối nay, ông cháu cu
Phúc sẽ ăn món ốc luộc là cách ăn thông dụng nhất mà ngon cũng không kém các
cách ăn khác đâu! Có điều ăn ốc luộc thì phải có nước chấm ngon. Mà xem ra ngon
nhất là món nước chấm đấy nhá. Vì thế ông pha món nước chấm cầu kỳ, công phu lắm.
Này nhé, ngoài nước mắm ngon còn phải có dấm này, mì chính này, gừng này, quất
này, ớt nữa này… Chà thơm quá! Hấp dẫn quá! Thoáng ngửi thấy mùi, chân răng cu
Phúc đã tứa đầy nước miếng.
Ông cháu cu Phúc pha nước chấm xong cũng vừa lúc mẹ nó luộc ốc
chín. Ông bảo mẹ nó bê cả nồi ra sân và sai nó vào nhà lấy chiếu trải trên cái
sân lát gạch. Sau đó ông lại bảo nó mở tủ lấy ra cho ông chai rượu trắng với
cái chén con để ông nhắm rượu với ốc.
Khi ba ông con đã ngồi quây quần bên nồi ốc, mẹ cu Phúc mới mở
vung ra. Một mùi thơm quyến rũ của lá bưởi, lá chanh cùng mùi mẻ, mùi ốc phả
lên thơm đến… nhức mũi. Mẹ định múc ốc bày ra đĩa nhưng ông bảo cứ để cả trong
nồi ăn cho nóng, ăn con nào nhúp con ấy như thế mới thật ngon.
Sau một lát nhấm nháp vài ba con, ông khề khà tợp vài ngụm rượu,
ông ngồi lặng nhìn hai mẹ con cu Phúc hí hoáy nhể ốc và liên tục phải sịt soạt,
hít hà vì vị thơm cay của nước chấm. Hình như ông có chuyện gì sắp nói? Cu Phúc
đoán thế bởi lần nào cũng vậy, hễ uống rượu là ông lại nói chuyện. Quả nhiên một
lúc sau, với một giọng trầm buồn, ông chậm rãi kể:
- Ngày xưa, nhà mình nghèo lắm. Bố mẹ vẫn phải đi mò
cua, bắt ốc, đem bán lấy tiền đong gạo nuôi con. Hồi còn sống, bà thằng Phúc mò
ốc tài lắm. Nhờ thế mới có đủ tiền nuôi bố nó lên tỉnh học. Bây giờ làm cán bộ
nhà nước, được đi đây đi đó, được ăn những sơn hào hải vị, chẳng biết bố nó có
còn nhớ đến món ốc luộc của quê mình nữa hay không?
Ông hỏi vậy rồi lại nâng chén rượu lên tợp một ngụm nhỏ. Bỗng
cu Phúc ngừng tay nhể ốc, nó nắm lấy cánh tay ông, lắc mạnh:
- Ông ơi! Đợi hôm nào bố cháu về, ông cháu mình sẽ chiêu
đãi một bữa ốc luộc như hôm nay xem bố cháu có khen ngon không, ông nhá?
19/1/2018
Xuân Mai - Nguyễn Ngọc Tung
Nguyễn Nhuận Hồng Phương
Theo http://hoivhntvinhphuc.org.vn/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét