Nhà văn Vĩnh Phúc hiện đại
(Phần 4a; Quyển 1)
HỮU THỈNH
- Họ và tên khai sinh: Nguyễn Hữu Thỉnh
- Sinh năm 1942
- Quê quán: Làng Phú Vinh, xã Duy Phiên, huyện Tam Dương, tỉnh Vĩnh Phúc
- Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (từ 1976)
- Tác phẩm chính đã xuất bản:
* Âm vang chiến hào (Thơ in chung, 1976)
* Đường tới thành phố (Trường ca, 1979)
* Từ chiến hào tới thành phố (Thơ ngắn, trường ca,
1985)
* Khi bé Hoa ra đời (Thơ thiếu nhi, in chung, 1985)
* Thư mùa đông (Thơ, 1994)
* Trường ca biển (Trường ca, 1994)
* Thơ Hữu Thỉnh (Thơ tuyển, 1998)
* Sức bền của đất (Trường ca, 2004)
* Thương lượng với thời gian (Thơ, 2005)
* Mùa xuân trên tháp pháo (Bút ký, truyện ngắn,
2009)
* Lý do của hy vọng (Tiểu luận, phê bình, 2010)
Ngoài ra còn viết nhiều bút ký văn học, viết báo.
- Giải thưởng văn học:
* Giải A, cuộc thi thơ báo Văn nghệ 1975 - 1976 bài Chuyến
đò đêm giáp ranh, Trường ca Sức bền của đất.
* Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 1980 với Trường
ca Đường tới thành phố.
* Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 1995 với tập thơ Thư
mùa đông.
* Giải thưởng Văn học ASEAN, 1999.
* Giải xuất sắc Bộ Quốc phòng năm 1994 với Trường ca Biển.
* Giải thưởng Nhà nước về Văn học đợt I, 2001.
- Suy nghĩ về nghề văn:
Tôi rất tin: Thơ là kinh nghiệm sống.
A - TRONG KÝ ỨC BẠN BÈ
MÔ - TÍP THỜI GIAN, MÔ - TÍP THIÊN NHIÊN TRONG THƠ
HỮU THỈNH
(Đọc Thương lượng với thời gian1)
Hoàng
Ngọc Hiến
Tác giả không thể không suy ngẫm về thời gian, vì thời gian đầy
những sự bất trắc, cả những sự tráo trở nữa: “Đem cho”… “Đòi lại” (Và “Đòi lại
không hề thương tiếc”), “bày ra” “rồi xóa đi”, “ham chơi và bỏ cuộc… “Thời
gian, ông là ai?” (xem II, tr.21). Với người viết, thời gian càng bất trắc:
Chú thích:
1Hữu Thỉnh- Thương lượng với thời gian. Nxb Hội Nhà văn,
2005. Được dẫn từ của cuốn sách này, thì số trang đề là II, tr… Được dẫn từ cuốn
Thơ Hữu Thỉnh, Nxb Hội Nhà văn, 1997, số trang đề là I, tr…
Chưa viết giấy đã cũ
Chưa viết sông đã đầy
Đám cưới đi qua có người đang khóc
Chưa viết chợ đã đông
Chưa viết đồng đã bạc
Người than thở vì mất mùa nhân nghĩa
Trước những sự bất trắc (bất trắc nào cũng ít nhiều thô bạo),
câu thơ hầu như bất lực vì quá mong manh:
Câu thơ đứng giữa trời
Vó nhện cất sương rơi.
(I, tr.153)
Tác giả cảm nhận sâu sắc sự mong manh của đời người và muôn
ngàn sự bất trắc, hiểm nguy rình rập khi con người ta lẽo đẽo đi vào ngõ thu cuộc
đời: “muôn nỗi cánh diều mong manh”, ngày thì mau sập chiều, xoáy vực thì
“chông chênh”, chỉ một cơn gió, bóng mẹ già bỗng thành thiên thu.
Tuy nhiên cũng có những sự bất chợt thú vị:
Bất chợt
được sưởi ấm
từ những ai không quen biết qua đường
Bất chợt
những cánh chim vụt hiện
vẽ đường đi vô định của con người
(xem
II. tr.33)
Mô típ thời gian vĩnh cửu xuyên suốt bài thơ nổi tiếng của Hữu
Thỉnh Phan Thiết có anh tôi:
Vuông đất là không gian hữu hạn, “Đồi”có rộng đến mấy thì
cũng là hữu hạn. Đất và trời Phan Thiết là không gian bao la. Đất và trời
là sự vĩnh cửu. Hình ảnh người anh hòa vào đất và trời vĩnh cửu.
Em chưa hay cánh đồi ấy tên gì
Nhưng em biết ngày ngày anh vẫn đứng.
(tr.164)
Anh không ngủ người đi câu không ngủ
Biển đêm đêm trò chuyện vời hai người.
(tr.165)
“Ngày ngày”, “đêm đêm”, “thăm thẳm” (trong câu thơ biển
màu gì thăm thẳm lúc anh đi, “thăm thẳm” thuộc phạm trù thời gian) là những
điệp ngữ của sự vĩnh cửu.
Vẫn không ngờ có một trưa Phan Thiết
Em một mình đứng khóc ở sau xe.
Khoảnh khắc thời gian hữu hạn này làm sống động dòng liên tục
thời gian vô hạn.
Thương lượng với thời gian, tác giả ngổn ngang tâm trạng và
đau đáu nỗi niềm. Đây là một tác phẩm trữ tình. Trong tác phẩm này nổi lên hình
ảnh hoành tráng hai nhân vật “sử thi”: người lính gỡ mìn và người thợ lặn
cầu Thăng Long. Hoành tráng mỗi nhân vật một vẻ. Trong chiến trường chật chội,
đấu tay đôi của người lính gỡ mìn, tính hoành tráng là ở cái biên giới nhỏ
nhoi, khắc nghiệt nằm dưới đầu kim hỏa mỏng như hơi và hiệu quả vô cùng to lớn
của công việc ô cùng nguy hiểm này:
Đất mới thật là đất sau lưng anh
Cỏ mới thật là cỏ sau lưng anh
Anh dọn bữa tiệc xanh
Gọi đàn bê tung vó.
(II, 52)
Hình ảnh người thợ lặn cầu Thăng Long hoành tráng một cách
khác: bộ đồ lặn tám mươi cân, xoáy lũ sông Hồng, đám bùn nhão dưới năm mươi thước,
và:
cả dòng sông đè lên trái tim anh
(II,
tr.64)
Sóng nặng trĩu thét gào trên mạch máu
(II, tr.65)
Hình ảnh của họ hoành tráng,con người của họ lớn, họ giống
nhau ở một điểm: niềm vui của họ vô cùng giản dị, người lính gỡ mìn trong mấy
phút chỉ ngắn ngủi ngước mắt nhìn “mây tê tê một dải vắt ngang trời/ ngón
tay lấm nghỉ ngơi trên điếu thuốc”, còn người thợ cầu Thăng Long “giật
mình sửng sốt, khi lên bờ bắt gặp lá tre non” (II, tr.66). Họ chỉ là những
người lao động bình thường, những con người vô danh. Xã hội nhìn họ như vậy,
không hơn không kém, có khi vợ con họ và bản thân họ cũng nghĩ vậy vậy thôi. Với
chân dung người lính gỡ mìn và người thợ lặn cầu Thăng Long, Hữu Thỉnh đã
đóng góp cho thơ ca hình ảnh trác việt nhưng anh hùng vô danh thời bình…
Khổ thơ thể hứng cổ điển được kết cấu bởi tương
quan giữa mô-típ thiên nhiên và mô-típ nhân văn, mô-típ thiên nhiên được trình
bày trong những câu đầu, tiếp theo là những câu được trình bày theo mô-típ nhân
văn. Chẳng hạn, trong chương I bài Ẩn kỳ lôi (Tiếng sấm ầm ầm), bài
thứ 19 trong Kinh thi, thì 2 câu đầu (Tiếng sấm ầm ầm/ ở phía nam núi nam)
là mô-típ thiên nhiên, những câu còn lại là mô-típ nhân văn: tâm trạng chinh phụ
cô quạnh, mong nhớ chồng trở về (Sao chàng một mình rời khỏi chốn này/Mà không
dám được tí gì rảnh rang). Trong thơ Hữu Thỉnh có những đoạn (hoặc khổ) thơ được
kết cấu theo thể hứng cổ điển.
Chim tha phương đậu xuống bụi chà là
Câu vọng cổ theo người đi mở đất
(II, tr.69)
Trong đoạn thơ này, câu 1 là mô-típ thiên nhiên, câu 2
là mô-típ nhân văn, giữa câu 1 và câu 2 có một liên hệ lô-gích nào đó, không
xác định, chính tính không xác định này tạo ra sự khởi hứng ở người đọc.
Trong khổ thơ sau đây:
Mưa thanh xuân mưa trước cửa thiền
Sông chảy chậm đợi chiều đang bị ướt
Ta khoác chiều mưa
Buồn chẳng vơi thêm
Vui chẳng ngập
(II, tr. 56)
2 câu đầu là mô-típ thiên nhiên, 3 câu sau là mô-típ nhân văn
(trạng thái an nhiên của người đã hòa nhập vào thiên nhiên).
Nhưng tiêu biểu cho thi pháp Hữu Thỉnh là cách kết cấu ngược
lại với thể hứng cổ điển: mô-típ nhân văn đi trước, tiếp theo là mô-típ
thiên nhiên.
Có gì mới? Ngày đi hay cát đến?
Có gì vui? Gió thổi lấy lòng cây
Có gì bền? Nhân nghĩa có còn đây?
…
Ta im lặng vì quá nhiều mây trắng.
(II, tr. 9)
Ba câu đầu là những câu hỏi có ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Chẳng
hạn, câu thứ hai, trước câu hỏi Có gì vui?Tác giả đón trước hàng trăm câu
trả lời mà hầu hết chẳng qua chỉ là “Gió thổi lấy lòng cây”.
Câu 4 là một hình ảnh thiên nhiên (“quá nhiều mây trắng”) và
một quan hệ lô-gích: trước những câu hỏi nhân văn hệ trọng ta im lặng vì quá
nhiều mây trắng. Một quan hệ lô-gích khó hiểu, mỗi người sẽ hiểu một cách,
hoặc chịu, không hiểu nổi. Chính sự không hiểu này tạo ra sự khởi hứng ở người
đọc. Như vậy với một kết cấu ngược lại vẫn đạt được hiệu quả của thể hứng cổ điển.
Ba câu đầu là trạng thái nhân thế và miệng thế. Câu thứ tư là sự im lặng được
giải thích là vì quá nhiều mây trắng.Xem ra tác giả nghi ngờ miệng thế bao
nhiêu thì tin ở mây trắng bấy nhiêu. Mây trắng là biểu tượng của thiên nhiên.
Phép mầu nhiệm nào của thiên nhiên đã cuốn hút lòng tin của nhà thơ?
Trong bài Thấy (II, tr, 11, 12), 5 câu đầu là
mô-típ nhân văn: những bộ mặt của sự gian ác, thế thái nhân tình ngày càng khó
sống, một sự trì trệ vô vọng: hóa ra tất cả vẫn nguyên như cũ. Câu 6 chốt khổ
thơ này là mô-típ thiên nhiên: Tháng ba đầu cành hoa bưởi còn kia. Tưởng
như là một câu thơ vu vơ. Thực ra trước những điều trông thấy đau lòng cõi nhân
sinh, với một tâm trạng ngao ngán đến tuyệt vọng, tác giả chẳng còn cách nào
khác là níu lấy thiên nhiên, dù chỉ là níu lấy một cành hoa bưởi? Mô-típ thiên
nhiên trong thơ Hữu Thỉnh rất khác mô-típ thiên nhiên trong những bài hứng cổ
điển của Kinh Thi. Bức xúc, căm uất, có khi gần như tuyệt vọng trước
những sự ngang trái và độc địa, những sự phản phúc và gian trá bày ra trước mắt,
lại còn huênh hoang và nghênh ngang nữa, nhà thơ sống không nổi, anh tìm đến
thiên nhiên, không phải để tìm những lời giải đáp, thiên nhiên không giải đáp,
không giải quyết được bất cứ vấn đề gì. Anh níu lấy thiên nhiên, tựa vào
thiên nhiên để lấy lại sự bình tâm, sự an nhiên, sự thanh thản. Không có sự
bình tâm này, trước sau sẽ quay cuồng, điên loạn với đa đoan của thế sự và chìm
nổi của dâu bể. Mà cũng chẳng có thơ nữa. Quan niệm của Lưu Hiệp: thơ
ở lưng chừng giữa động (cảm xúc xao xuyến) và tĩnh (sự bình
tâm, an nhiên). Trong mọi sự vật của thiên nhiên đếu có cái gì đó kỳ diệu (Aristote).
Kinh tế thị trường man rợ cũng như công nhiệp hóa và hiện đại hóa mù đương tiêu
diệt một cách tàn bạo và quy mô toàn cầu năng lực bẩm sinh của con người giao cảm
với thiên nhiên kỳ diệu. Hữu Thỉnh dường như còn cảm nhận được cái kỳ diệu của “mây
trắng và cành hoa bưởi”, của “tiếng gà trưa” và “nhành sim
tươi”, của “trời xanh và mây thắm” của “mặt trăng buồn và
những cánh chim vụt hiện”…Anh còn nghe được hoa trong vườn Nguyễn Huệ kẻ sự
nghiệp người anh hùng bằng ngôn ngữ của “mùi hương thao thiết” và “mây
thắm trên đầu” (xem II, tr.58). Không biết tác giả đã đạt đến minh triết của
Walt Whitman chưa: “Sau khi anh đã nếm đủ mùi của kinh doanh, chính trị,
tiệc tùng và vân vân, anh thấy được rằng cuối cùng chẳng có món nào làm anh thỏa
mãn hoặc có giá trị lâu bền vậy thì còn lại cái gì? Còn lại thiên nhiên”.
Cây là biểu tượng của thiên nhiên mà tác giả yêu thích hơn cả.
Hơn một lần anh thích làm cây.
Tôi như cây biết dấu lá vào đâu
Giữa gió bụi cõi người.
(II, tr. 18)
Dường như chỉ có cây là thanh cao, còn con người mãi mãi kiếp
phong trần.
Trong bài thơ ngụ ngôn Một thoáng làm người (II,
tr.35), cây muốn đổi bóng cho người để “được làm người trong chốc lát”, dè
đâu “mới một thoáng làm người cây đã đòi bóng lại”.
Bão trời ta coi khinh
Bão người không chịu nổi
Hữu Thỉnh làm thơ triết lý mà không triết luận.
Không biết bài Thương lượng với thời gian (II,
tr.36) có phải là bài chốt của tập thơ mang tên bài thơ.
Buổi sáng lo kiếm sống
Buổi chiều tìm công danh
Buổi tối đem trí khôn ra mài rũa.
Đây là thời gian biểu thảm hại của những con người thảm hại
kiếp phong trần. Tuyệt đại đa số không biết số kiếp mình thảm hại:
Tỉnh thức
Những hàng cây bật khóc
Tác giả phải nhờ đến cây vốn thanh cao, vô tư, thẳng thắn để
biểu lộ đau thương và xót xa cho những con người kiếp phong trần.
Với bài thơ này Hữu Thỉnh vừa quyết liệt, vừa xót xa trước sự
xuống cấp của con người, trước những sự tha hóa và đốn mạt của con người.
Trong bài thơ Lời mẹ, người con mỗi lần lận đận
trên đường đời lại quay về hỏi mẹ. Lời của bà mẹ:
Hãy yêu lấy con người
Dù trăm cay nghìn đắng
Đến với ai gặp nạn.
Bất cứ bà mẹ truyền thống nào cũng có thể đưa ra một lời
khuyên như vậy.
Lời cuối cùng mới quan trọng:
Xong rồi, chơi với cây.
Đây là lời của một nhà hiền triết, một nghệ sĩ.
Xong rồi, chơi với cây là một tứ thơ quí trong thi phẩm
của Hữu Thỉnh.
H.N.H
CHẤT DÂN GIAN THẤM ĐẪM TRONG “SỨC BỀN CỦA ĐẤT”
(Trường ca Biển của Hữu Thỉnh -
Nxb Quân đội nhân dân, 2004)
Vĩnh Nguyên
Trước khi nói đến chất dân gian, dân ca thấm đẫm với những ưu
điểm trong Sức bền của đất, ta hãy nghe nhà thơ Hữu Thỉnh có đôi lời
phi lộ ở đầu sách. Lời tác giả: Trường ca này tôi viết từ sau phút đón
giao thừa Tết Ất Mão 1975, tại một tiểu đoàn xe tăng, Lữ đoàn xe tăng 273 Anh
hùng. Lúc đó, tiểu đoàn đang trong tư thế tấn công giải phóng thị xã Công Tum
trong chiến dịch Tây Nguyên 1975.Tôi viết một mạch hết đêm giao thừa, cả ngày mồng
một và đến quá nửa đêm hôm ấy thì xong. Tôi chép nó trong sổ tay và mãi đến khi
kết thúc chiến tranh (30-4-1975) mới giở ra xem lại và gửi dự cuộc thi thơ
1975-1976 của Tuần báo Văn nghệ Hội Nhà văn Việt Nam. May mắn thay, Sức bền
của đất và Chuyến đò đêm giáp ranh đã vinh dự được trao giải A của
cuộc thi này.
Qua lời giải thích trên, ta thấy Sức bền của đất được
viết rất nhanh. Với 5 chương (không có tựa đề ở mỗi chương), tất cả có 530 câu
thơ, chương 2 dài nhất (251 câu) mà chỉ viết một ngày, một đêm, thêm nửa đêm nữa
là xong (Tất nhiên sau này, trước khi in sách ông có sửa chữa và viết thêm),
nhưng như thế cũng có thể nói rằng, thơ đã chưng cất sẵn trong ông như đập nước
đang trữ nước và chỉ chờ khơi một cái là tuôn trào.
Thực vậy:
Anh nhớ em như cơn mưa tích nước
Cứ chực òa chỉ một cớ không đâu
Đất. Ở đâu cũng đất. Lữ đoàn xe tăng 273 trong tư thế tấn
công là đi trên đất. Nhưng sức bền của nó còn tiềm ẩn vững chãi oai hùng là ở
hướng khác nữa.
Mở đầu trường ca, tác giả viết:
Đom đóm bay ra hoa gạo đỏ
Mẹ ở nhà đã cất áo bông?
Mẹ có ra bờ sông
Qua bến đò tiễn con dạo trước?
Đường xuống bến có mười sáu bậc
Mẹ nhớ thương đã bạc mái đầu…
Và, chỉ cách đó 19 câu, theo mạch vỉa cảm xúc này, tác giả đã
khắc họa rất rõ:
Mẹ là người chúng con thương nhớ nhất
Đất nước ngày có giặc
Mẹ vẫn đỏ miếng trầu
Ấm một vùng tin cậy phía sau.
Vùng tin cậy phía sau ấy chính là hậu phương hùng hậu! Là mẹ,
là em, là ruộng nương châu thổ. Bởi vậy, trong chương một (66 câu), đã có 11
câu thơ nói về mẹ.
Ở trại sáng tác Tam Đảo năm 2010, Hữu Thỉnh lên thăm và tổng
kết trại, ông nói vui: đây là vùng đất rừng quê tôi, lúc nhỏ tôi đã từng là
“lâm tặc”. Ở vùng quê, ai mà chẳng thương mẹ đun nấu rạ rơm sáng, trưa, chiều
khói bụi mù mịt. Phải vào rừng kiếm củi thôi. Nhưng củi khô thì hiếm. Củi tươi
thì nặng gánh vác không được nhiều. Vậy phải chờ ngày nắng to, vào rừng chọn
cây dẻ, cây ngạnh tươi mà đốn hạ một vạt. Ba ngày sau vào tuốt lá, bó hai bó củi
khôn gánh về cho mẹ. Thế đấy. Từ “lâm tặc” là nói lũ cướp ngày tàn phá bây giờ
còn ngày trước làm gì có từ đó?
Từ mẹ, từ cây đa bến nước sân đình, từ cái nôi của hát xoan,
hát ghẹo. Bao kỷ niệm từ thuở nhỏ của ông với đồng đất quê hương, những tối sân
đình hát vui chơi cùng bạn. Lại được người mẹ giỏi hát đã gieo vào lòng cậu con
trai thông minh hoạt bát những lớp lang bài bản. Hát xoan, bước một: Giáo trống,
bước hai: Xuân cách - Thu cách, bước ba: Bỏ bộ - xin huê - đố chữ. Hát ghẹo
thì: Ví đặt trầu, Giọng sổng, Sang giọng, Ví tiễn chân. Và nhiều ngạn ngữ,
thành ngữ, tục ngữ, ca dao trữ tình đã nhập vào ông để bây giờ ông khéo léo huy
động hết vào trường ca Sức bền của đất.
Nhưng cái giỏi của người sáng tác là không hề bê nguyên xi một
câu xoan, câu xẩm, bỏ bộ, xin huê, đố chữ nào. Mà có thể chỉ là một nét hư ảo
thoán qua, một giai điệu, một bóng hình tưởng tượng thuở nào cho ông phát triển
những câu thơ, những đoạn thơ theo mạch cảm xúc những giọng của hát ghẹo hay Bỏ
bộ của hát xoan? Vv…
Cây vối đứng bờ ao, cặp thừng treo gác bếp
Bồ muối để dành vần cạnh bếp tro
Cái cối cái chày đếm nhịp nhỏ to
Bao truyền thuyết được kể ra từ đấy…
Hai chữ thủy chung đính ở góc khăn
Bớt chông chênh những ngày chờ đợi
Kim chỉ có đầu hoa thơm có cội
Bèo trôi lôi bến tiễn đưa nhau
Tre làm nhà ngâm ba năm mới vớt
Ớt cựa gà ba vụ mới cay
Trời có mưa có nắng
Giếng có cạn có đầy
Con gái ở bền không chê tấm vá
Con trai ở bền như đá muối dưa…
Con trai ở bền như đá muối dưa? Chỉ nghĩ về câu thơ này ở
đoạn thơ này đã thấm thía lắm. Muối dưa phải có nghề. Phải có tay muối dưa. Chỉ
thao tác sai một công đoạn thì dưa sẽ khú. Dưa khú là lo đi đổ ngay không thì
nó khắm lắm!
Thuở nhỏ, tôi đã thấy vú (mẹ) tôi muối dưa cải. Cải Bắc,
trong tôi gọi là cải bẹ, cành dày, lá to. Vú mua ở chợ Đồng Hới, đường xa, gánh
về đến nhà đã héo. Vú lột ra từng cánh, rửa sạch, cắt ngắn bằng hai đốt lóng
tay, để trên xảo thưa cho ráo nước. Vú nấu nước sôi, pha muối vừa phải. Vớt bọt,
lắng cặn bã. Nước vừa hẩm mới cho cải vào vại hình tròn. Tay vú nén cho cải chặt
xuống. Đặt lên tấm vỉ tre thưa đan lóng mốt. Và động tác cuối cùng là đằn lên
nó một hòn đá mồ côi. Nước dần dẫy lên ngập nửa hòn đá. Chừng hai ngày, vắt dưa
ăn đã giòn, đã ngon. Để thêm vài ngày nữa thì dưa vàng, chua và bốc mùi thơm
dưa. Dưa cải vàng và chua là đúng dưa chín. Từ nó, có thể chế biến cùng với thịt,
cá, tương đậu mà thành nhiều món ăn (cả chay và mặn) dân dã rất ngon, rất Việt
Nam! Tôi còn nhớ, dưa cũ chưa hết, vú đã nén vại khác. Một phần ít dưa chua, vú
dành nấu riêng cho thầy tôi thời chay. Còn hầu hết là nấu mặn cho cả nhà và thợ
cày, thợ gặt. Nhà tôi xưa nhiều ruộng. Nhưng trong nhà không ai biết gì đến việc
cày bừa nên vú tôi phải thuê tất. Thợ cày, thợ gặt họ rất thích ăn cá mè kho
dưa và canh dưa chua nấu cá tràu (cá quả). Dưa cải, rồi còn dưa hành, dùng vào
dịp lễ Tết truyền thống. Dưa cải bắp có thêm rau răm (hai thứ đều thái chỉ). Ở
Nghệ - Tĩnh có muối cà (cà nghệ), còn muối xơ mít (gọi nhút) vv…Tất cả các loại
muối và mắm đều phải có tấm vỉ đan thưa và hòn đá đằn lên trên. Ồ, hóa ra hòn
đá mồ côi lại bền, lại chung thủy lắm ru? Và qua hòn đá muối dưa cho ta thấy
tác giả trường ca này mới thật “đáo để” và sắc sảo đến ngần nào!
Hai câu thơ:
Con gái ở bền không chê tấm vá
Con trai ở bền như đá muối dưa.
Nếu bạn đọc nào cần biết, thì theo tôi nên hỏi ông Hữu Thỉnh
lấy từ câu ca, tục ngữ hay từ câu xoan, câu xẩm nào ở quê ông mà giỏi đến vậy?
Một trường ca dài thấm đẫm chất văn học dân gian, nhưng ông
chỉ lấy bốn câu cần thiết (có đóng dấu ngoặc) “Nàng về nuôi cái cùng con”,
“Mẹ tham khúc cá thu/ Gả con về biển mịt mù tăm tăm”, “Chim bay về núi túi rồi” và
mười câu hát đồng dao trẻ em: “Thả đỉa ba ba/ Chớ bắt đàn bà/ Phải tội đàn
ông/ Cơm trắng như bông/ Gạo tiền như suối/ Bỏ mắm bỏ muối/ Bỏ chuối hạt tiêu/
Bỏ niêu cứt gà/ Bỏ cho bà nào/ Bỏ cho bà này”. Còn từ đầu chí cuối trường
ca là ông tự tung tự tác mà nên chương.
Theo năm tháng sáng tác ghi trong văn bản của ba trường ca,
thì bản thảo đầu tiên Sức bền của đất, viết trước Đường tới
thành phố hai năm, và viết trước Trường ca biển sáu năm. Và bây
giờ bạn đọc được đọc một lúc cả tập (ba trường ca) thì dễ dàng nhận định, đánh
giá sức vóc trường ca Hữu Thỉnh. Riêng tôi, giá như tôi mới chỉ đọc Sức bền
của đất thôi, thì cũng đã thấy đã đời lắm, tin cậy lắm. Bởi không đầy bản
lĩnh, vốn sống dồi dào và tinh thông để công phá vào lĩnh vực văn học khó mà vẫn
thành công. Nói ngắn: Hữu Thỉnh có tài viết trường ca.
Quải lưới đương ngàn, trong hát xoan, hát ghẹo đều có trò
chơi bắt cá, thường tổ chức ở sân đình. Nam làm lưới, nữ làm cá. Khi bắt được
cá, theo nghĩa bóng bẩy là họ đã trao tình cho nhau. Nhưng bởi tổ chức vui chơi
nên dầu đã bắt được cá mà vẫn như là chưa có gì.
Một ví dụ (chương hai), tác giả còn hồn hậu hơn, trẻ trung
hơn và vui không kém gì trò chơi quải lưới (Sang giọng - Hát ghẹo):
Ta sang xóm Chùa
Giếng đông người tắm
Con gái con trai đàn ông đàn bà
Họ chỉ mặc buổi chiều cho đỡ vướng
Anh và em cùng nhau đến tắm
Đứng như khoai như sắn giữa đông người
Anh ngó em
Em cũng ngó anh
Như bức vách nhìn vào bức vách
Em chưa chúm cau
Anh chưa thóc mách
Em và anh bong bóng sinh đôi
Rồi em lớn lên
Biết thử yếm đào
Anh cũng lớn lên
Biết đo quần lá tọa…
Sợi chỉ bền từ cây tre cây trúc
Sợi chỉ bền từ cây sui cây gai…
Sông ta quăng lưới giặc đến đằng sông…
Trăng mười bảy lại vá lành bến gãy…
Tôi trích thơ nhiều bởi tôi cố ý, để bạn đọc xem ra cách vận
dụng câu chữ dân gian của người xưa có chỗ nào kháp ý, kháp chữ với người viết
bây giờ? Ở đoạn thơ trên, phía người lớn, Họ chỉ mặc buổi chiều cho đỡ vướng, còn
trẻ nhỏ thì, Em chưa chúm cau/ Anh chưa thóc mách, thì vui quá là
vui. Cả làng đêm tối kéo nhau tới tắm giếg làng (theo tập quán không quần áo)
mà chẳng ai để ý đến chuyện sex (như bây giờ) và bắt bẻ gì được ở người viết. Họ
chỉ mặc buổi chiều cho đỡ vướng, là tài thơ và diễn quá
khéo! Em chưa chúm cau/ Anh chưa thóc mách/Đứng như khoai như sắn giữa
đông người/ Như bức vách nhìn vào bức vách… thì, tác giả là ông nhộn trẻ,
ông hóm trẻ nên không có ai chê khuyết chỗ nào!
Tuổi thơ quê nhà - Tình yêu -Chiến trận đan xen quay cuồng
trong người lính:
Mưa đựng hết trê tàu lá cọ
Trên trời có ông đùng bà đoàng
Làm sấm làm chớp
Dưới đất có anh và em
Lập một thiên đường không biết sợ
Chỗ ta đứng ngày xưa
Thành chỗ ngắm của pháo bầy bom chụp
Chúng nó chia ô bản đồ Tổ quốc
Tính suất bom cho mỗi con người…
Kẻ thù điên lên pháo chụp bom giờ
Trăng mười bảy lại vá lành bến gãy
Con gái lại lên rừng con trai xuống biển
Nghe tiếng súng biết nhau đang ở đâu…
Kẻ thù suốt ngày mong cho ta chết
Còn ta thì nhớ em và thương mẹ mòn đêm…
Và
Có miếng cao nai không sao gửi được
Mẹ ta đã ngoài sáu mươi!
Truyền thuyết Thánh Gióng được tác giả chuyển sang sự tích
ông Khổng Lồ cũng rất hợp lý:
Hiện ra bước chân ông Khổng Lồ
Cơm gạo xềnh xoàng tình yêu quá cỡ
Bước chân ông Khổng Lồ thành giếng
thành ao
Con trai rửa mặt đánh trận xa nhà
Con gái gội đầu thành dâu hiếu thảo…
Rồi, dần hiện lên những vị anh hùng giữ nước chống giặc ngoại
xâm làm nên những trang sử ngời chói của dân tộc:
Sông ta quăng lưới giặc đến đằng sông
Núi ta lấy nâu giặc tràn qua núi
Ngô Quyền nhìn người dân binh
cuối cùng trước giáo gươm giặc tới
Người lệnh cho thủy triều đầu quân
Sai rừng gỗ lim trùng trùng làm cọc.
Trần Quốc Tuấn đại bản doanh trên nước
Kế đầu tiên là kế nhân hòa
Lệnh đầu tiên: người hiền không bỏ sót
Đại yến của Quang Trung chỉ cơm nắm
muối vừng
Ăn trên mình ngựa
Yêu sĩ phu Bắc Hà không phải là một kế
Mà là luật tồn vong
Những danh tướng tra gươm vào vỏ
Huyền Trân công chúa ra đi một mình…
Tiếp đến:
Sau này người ta sẽ bới tro lật cỏ đi tìm
Giải thích nhiều từ cổ
Trọng điểm là gì?
Chốt là gì?
Hủy diệt là gì?
Khi ấy
Anh và em chẳng còn ai nhớ nữa
Bởi:
Ta đi từ đầu sông Lô tới cuối sông Thương
Từ thung lũng Sa Thầy ra sông Trường
trắngcát
Ta để lại Quán Hàu, Phà Hianh, Đường 20,
Đắc Tô, Ban Mê Thuột…
Nơi đói ăn mơ mộng sống quên đời!...
Thì ra, trong những cuộc chiến tranh vệ quốc ở tất cả mọi thời,
những người con của dân tộc Việt Nam ra trận đều coi cái chết nhẹ như lông hồng!
Trường ca Sức bền của đất, dù tác giả không đặt đề
từng chương, chỉ là chữ số La mã I, II, III, IV, V, người đọc cũng có thể biết.
Ví dụ (Xin lỗi tác giả trước) chương I có thể là “Lên đường”, bởi cuộc đưa
tiễn của người mẹ xa con, con xa mẹ mới da diết làm sao:
Con không dám nhìn mẹ lâu
Mái chèo khua sóng đánh
Nước ngấn lưng đê sẫm lời mẹ dặn
Mùi trầu cay ấm hoài trên vai…
Để sang chương hai, Sức bền của đất là sự huy động
Tổng lực của hậu phương với tiền tuyến, người đi xa với người ở lại, sự khốc liệt
đạn bom ở chiến trường với lời xoan lời xẩm êm ả ở quê nhà. Tình mẹ con, tình bạn
bè, tình yêu được tác giả dựng lên một thế trận đại cục của cuộc chiến tranh
nhân dân (được trích nhiều thơ ở trên), thì đến chương ba là chương “Đối
kháng và sự nham hiểm của kẻ thù”.
Kẻ thù không ưng ta gọi anh, em
Đừng chú bác ông bà gì ráo
Muốn phá vỡ quê hương bền dai trong máu
Chúng nhổ làng đi dồn vô ấp tân sinh.
Kẻ thù thật là “chu đáo” với ta
Bày trăm kế đầu hàng và phản bội
Duy có điều chúng không sao hiểu nổi
Người đến chiến hào mỗi sáng lại đông thêm
Con đường tấy lên như một lời thề
Đất gọi ta
Làng gọi ta
Nóng bỏng
Vịn vào cây ven đường nhẵn bóng
Ngỡ như đồng đội đỡ ta lên
Phục kích bất ngờ bắn giặc xóc xâu
Đánh bộc phá theo đội hình cuốn chiếu
Đột kích xe tăng đập rắn trúng đầu
Mọi cách đánh đều lấy lời chỉ vẽ
Từ công việc ăn làm mộc mạc ngày xưa…
Ở các chương, chương nào cũng khắc ghi vào tim người lính là
dù ở đâu cũng phải sống đúng, sống tốt với bạn bè, có người trên kẻ dưới, mới
hòa hợp mới làm nên công chuyện, để bước sang chương bốn là chương “Hồi tưởng”, và,
những kỷ niệm của người lính về quê hương bản quán, về mẹ, về bạn bè trường lớp,
về em lại càng thêm sâu nặng ân tình.
Còn bao sách chúng ta chưa đọc đến
Nhỡ hẹn liên miên với các giảng đường
Nhỡ hẹn với mưa phùn ải Bắc
Mai một cành thắt ruột kẻ tha hương
Nhỡ hẹn Chùa Thầy
Vặn nhỏ mặt trời để vào hang Cắc Cớ
Nhỡ hẹn Yên Tử, nhỡ hẹn Chùa Hương
Nhỡ hẹn Đền Hùng, chùa Tây Thiên,
chùa Độc Cước
Chưa đến Hội Lim
Thẫn thờ
Dải yếm
Chưa đi Hội Phủ Giầy, mê mẩn chầu văn…
Những ước mơ đẹp thế, mê ly thế nhưng quân thù trước mặt, cả ở
sau lưng
Có những thằng còn núp trong bóng tối
Thằng sống sót rình bắn anh sau gáy
Thằng viện binh gào đại bác tầm xa
Báng súng gãy,
Lưỡi lê quăn
Trong trận giáp lá cà
Giặc chạy rồi
Anh dựa vào gốc cây ô môi mà thở
Khốc liệt quá, giữa sự sống và cái chết đang nằm trong gang tấc,
nhưng khi tỉnh lại, người lính đã nhớ mẹ với ước mơ rất bình dị:
Sau cuộc chiến tranh này
Ta chỉ mang về một chiếc vỏ đạn
Làm cối giã trầu cho mẹ của ta.
Đến chương kết - tổng kết trận đánh. Thắng và bại, được và mất,
tác giả không khai triển gì thêm, chỉ gói gọn trong 39 câu là vừa đủ ý và tứ
cho một bản anh hùng ca của cuộc chiến tranh vệ quốc, lập lại non sông gấm vóc
của đất nước Việt Nam thống nhất mà tác giả - nhà thơ Hữu Thỉnh là người lính
trong cuộc. Bởi thế, kẻ viết bài này cũng chỉ cần trích vài câu thơ ở cuối bản
trường ca là đủ ý và tứ cho một thứ …gọi là… “Cảm thức văn chương”, vậy:
Chừng như là đã cuối cuộc chiến tranh
Nghe lá đạp trên đầu xao xác quá
Anh không còn trẻ nữa
Những khẩu súng kia đã lớn tuổi rồi
Mộ bạn nhờ rừng thiêng giữ hộ
Bè bạn xanh rờn ngày nhập ngũ
Thành vô danh trên khắp địa bàn
Thành tướng lĩnh cầm quân trận cuối
Và:
Mùa xuân sẽ đến thay lời kết
Trong khói bụi tơi bời anh và em tong tả
tìm nhau
Ta chao chân trên những mảnh bờ
Lặng lẽ nhận sức bền của đất
Đạp cứ điểm lần theo từng dấu dép
Ta nhận ra màu bùn qua những cánh
đồng chiêm.
V.N
B - MỘT SỐ TÁC PHẨM TIÊU BIỂU
TRƯỜNG CA BIỂN
Giải thưởng Văn học xuất sắc của Bộ Quốc phòng
nhân dịp kỷ niệm 50 năm ngày thành lập QĐNDVN (22/12/1944-22/12/1994)
Giải thưởng Hồ Chí Minh năm 2012
CHƯƠNG MỘT:
Dốc biển
Đi hết Trường Sơn ra với Đảo
Dốc lại dựng lên trong mỗi ngày thường
Mỗi ngọn sóng một đỉnh đèo thác trắng
Bóng mát thật hiền dưới vành mũ gian nan
Đến một
ngày kia những người lính đã tới
biển của
mình. Cuộc gặp gỡ của triệu năm với
đứa
con trận mạc. Không chỉ là người lính lạ
lẫm,
chính biển lạ lẫm đầu tiên. Biển thốt lên:
“Người
thắng trận sao mà hốc hác quá”.
Những
người lính cầm le te cành sú hoe vàng,
cầm
luôn cả một miền che chở mới. Người lính
nói:
“Tôi đi qua nhiều bóng mát để về đây”.
Bóng mát đã lùi xa. Mực tím đã trả lại cho
tuổi học trò. Tiếng gàu sòng đã trả về cho con
hạn hán. Trước mặt là biển, bốn bề là biển,
hình như phải nói một câu gì với biển. Và
người lính nói:
- Hôm nay tôi thấy biển lần đầu.
Biển nói:
- Mái gianh nhà anh không nói thế
Vại nước gốc cau nhà anh không nói thế
Người lính nói:
- Tôi phải làm gì.
Biển nói:
- Sống với nước hãy bắt đầu từ nước.
Đó là cử chỉ đầu tiên và nghi lễ cuối cùng.
Người lính nói:
- Mẹ dặn tôi: Ra sông lấy sóng mà yêu
Đường xa gặp núi lấy đèo mà tin
Tôi đã tin và chưa hề bị ngã
Biển nói:
- Không ngã chưa chắc đã khỏi chìm.
Người lính nói:
- Có bí quyết gì sau lớp sóng kia chăng?
Biển nói:
- Sống với nước hãy bắt đầu từ nước.
Người lính nói:
Tôi đã đi suốt hai đầu đất nước
Biển hiu hiu thán phục
- Những vết thương của tôi nhiều hơn cả tuổi đời
Biển hiu hiu thán phục
Và biển chỉ hỏi anh đơn giản điều này:
- Anh có biết bơi không?
Người lính nói:
- Không phải ai cũng biết bơi. Thế mà sao vẫn
rất nhiều cái huơ tay hãnh tiến.
Biển nói:
- Họ đang bơi trên số phận của mình.
Một nửa trí khôn của con người là tìm cách
chứng nhận mình và chứng nhận lẫn nhau.
Người lính nói:
- Cây không đi tìm gió, nhưng kẻ thù sẽ đến
tìm ta. Ta lấy gì để che mắt chúng? Màu cát
hay màu biển.
Biển nói:
- Còn lại một mình anh.
Người lính nói:
- Tôi phải làm gì?
Biển nói:
- Sống với nước hãy bắt đầu từ nước.
Người lính nói:
- Tôi có nhiều bạn
Tôi cầm tay nhiều người
Nhiều người cầm tay tôi
Tôi sẽ gọi tên ai đầu tiên trong cơn khát biển?
Biển nói:
- Kẻ thù nói ngoài khơi có vàng và tìm cách
cướp vàng
Bạn bè nói ngoài khơi có sóng dữ và chia sóng
cùng anh
Hãy gọi ai không biến sóng dữ của kẻ khác
thành quà tặng cho mình
Người lính nói:
- Bao năm rồi tôi nhìn mây biết gió nhìn cỏ
biết mưa, cả cánh chuồn cũng giúp tôi chạy
thóc vào nhà trước khi cơn giông đến. Gió ấy,
cỏ ấy và cánh chuồn mau mắn ấy có giúp gì tôi
ở biển?
Biển nói:
- Đó là những đồng tiền để tiêu trên mặt đất.
Người lính nói:
- Bao vốn liếng cả một đời cóp nhặt
Bước xuống tàu thành kẻ tay không?
Biển nói:
- Những chiếc huân chương còn soi sáng trên bờ
Sống với nước hãy bắt đầu từ nước
Người lính nói:
- Xin tạm biệt những dây hòm dây cóc day mai
Đến thay đôi thiếu đứt
Giúp ta xong buổi cày
Xin tạm biệt những củ nâu mê mệt ngủ
Chín dần bên dấu chân voi
Xin tạm biệt những buổi trưa bát vỡ
những buổi tối hết dầu những ban mai thổi lửa.
Tạm biệt em, nỗi éo le của anh, dang dở của
anh cay đắng của anh; tạm biệt cơn khát tình
vằng vặc.
Em đã đến thở than trên sáo trúc
Xua đêm đi thành mộng mị đời anh…
Lời sóng 1
Những người lính ra đảo
Có dòng sông đồng hành
Năm dài và đất rộng
Vui buồn sau chiến tranh
Có người lính xây thành
Lẫn vào lau biên ải
Có bao người con gái
Đến thăm nàng Vọng Phu…
Biển thành nắng thành mưa
Của đất liền vòi vọi
Biển thành đêm thành ngày
Nồng nàn trê gối cưới
Em muốn đem tóc xanh
Buộc trời cho đỡ bão
Em muốn gửi tròn tay
Gối mềm trên đảo cát…
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét