Bản sắc âm nhạc trong tác phẩm đương đại
Văn hóa nghệ thuật luôn được Đảng và Nhà nước ta xác định vị
trí và vai trò quan trọng xuyên suốt các thời kỳ cách mạng đấu tranh giành độc
lập dân tộc và xây dựng xã hội XHCN. Văn hóa nghệ thuật được xem là nền tảng,
là động lực thúc đẩy phát triển nền kinh tế - xã hội một cách toàn diện, vững
chắc. Trong xu thế toàn cầu hóa, ở thời kỳ hội nhập, xây dựng nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN, nếu không có định hướng đúng, khoa học, trong quá trình
giao lưu, tiếp biến với những làn sóng dữ dội của các nước có nền kinh tế phát
triển, có nền công nghệ giải trí phát triển cực mạnh, nguy cơ bị “hòa tan”, tự “đánh
mất mình” là khó tránh khỏi. Chính vì vậy Đảng và Nhà nước ta đã xác định nhiệm
vụ chiến lược lâu dài:
“Xây dựng một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”.Các chuẩn mực đạo đức biến đổi theo sự phát triển của đời sống
kinh tế - xã hội. Quan hệ giữa sinh viên và giảng viên tích cực hơn theo phương
pháp giáo dục mới - phương pháp mở, dân chủ trong cách giảng dạy, trao đổi,
thảo luận, phát huy khả năng tự nghiên cứu, sáng tạo của người học. Không
còn cảnh “Nhất tự vi sư, bán tự vi sư” nhưng tinh thần tôn sư trọng đạo vẫn là
nét đẹp của sự hiếu học truyền thống, dấu ấn tạo nên bản sắc văn hóa.
Bên cạnh đó, sự thay đổi của các thang bậc giá trị trong đời
sống đã làm cho chuẩn mực, tiêu chí để đánh giá một tác phẩm nghệ thuật cũng có nhiều khác biệt, các chức năng cơ bản của văn học
nghệ thuật như nhận thức, thẩm mỹ, giáo dục, giải trí, giao tiếp, thông tin, dự
báo… dường như phải nhường chỗ, “thỏa hiệp” cho tiêu chí hiệu quả kinh tế. Điều
này phụ thuộc vào mối quan hệ giữa tác phẩm và khán giả, một tiêu chí, chuẩn mực
bất thành văn. Ngày nay, trong cơ chế của nền kinh tế thị trường thì mọi cái đều
trở thành hàng hóa, và khán giả (Khách hàng) là “Thượng đế”, vì vậy văn nghệ
sĩ dù muốn hay không vẫn phải cố gắng hế sức để sản xuất ra những sản phẩm
mà “Thượng đế” cần chứ không phải là cái mình có, mình mong muốn. Không ít những
tác phẩm được các hội đồng nghệ thuật đánh giá cao nhưng khi diễn, trình chiếu
thì không thu hút được khán giả. Tất nhiên, đối tượng khán giả cũng chia làm
nhiều loại khác nhau, nhưng số đông - Đại chúng vẫn là mục đích, động cơ mà các
nhà hoạt động nghệ thuật hướng đến. Trước thực tế này, sự phân hóa trong cách
làm nghệ thuật của các nghệ sĩ, các nhà quản lý diễn ra ngày càng gay gắt, quyết
liệt, đúng như tấm gương phản ánh xung đột xã hội trong quá trình phát triển, ở
đó cần sự sáng tạo của nghệ sĩ, sự kiên trì và dũng cảm của các nhà quản lý.
Nhu cầu thẩm mỹ của khán giả biến đổi theo thời đại mà công
nghệ giải trí phát triển cực mạnh, đa dạng, miễn phí, tiện dụng. Người lao động
không còn thời gian đến các điểm sinh hoạt văn hóa - nghệ thuật cộng đồng, họ
có thể ngồi tại nhà“ bấm nút” xả stress để bổ sung năng lượng. Tất nhiên, mỗi tầng
lớp dân trí có một cách giải trí khác nhau, nhu cầu đó được hình thành từ nhiều
yếu tố khách quan và chủ quan hợp lại để hình thành thẩm mỹ như yếu tố xã hội,
nghề nghiệp, lứa tuổi, giới tính… nhưng ở đây chúng ta chú trọng việc xây dựng lực
lượng khán giả tương lai, xây dựng bằng cách nào, như thế nào đòi hỏi có sự đồng
bộ của cả một hệ thống xã hội. Tài liệu trung hoa cổ đã có ghi chép về phương
pháp “Thai giáo”, nghĩa là giáo dưỡng thai nhi bằng các điệu nhạc được cho là
sẽ hình thành nên nhân cách tốt sau này. Khoa học hiện đại cũng đã phát triển
phương pháp này, họ khuyên các bà mẹ khi mang thai nên nghe nhạc nhẹ, êm dịu sẽ
tốt cho đứa trẻ, điều này giúp hình thành cảm xúc thẩm mỹ ngay khi đứa trẻ còn
nằm trong bụng mẹ. Gần đây người ta còn phát hành một loạt các Smart CD trích
đoạn các tác phẩm giao hưởng của Bethoven, Moza, Traikopski… để cho trẻ nghe sẽ
phát triển trí thông minh. May mắn, những đứa trẻ Việt Nam lâu nay vẫn được
nghe các điệu ru con tha thiết, dịu êm qua nhiều thế hệ. Thế nhưng thế hệ 8X,
9X của chúng ta có mấy người biết ru con? Nhiều trường hợp ru con mà toàn hát
nhạc trẻ, thậm chí cả Blue, KPop, Rock… khán giả tương lai của chúng ta đó ư?
Không nghi ngờ gì, đa số lớp trẻ ngày nay tiếp thu văn hóa nước ngoài một cách
thụ động, chưa được sàng lọc, tất nhiên sự sàng lọc đòi hỏi thời gian của quá
trình giao lưu, tiếp biến, nhưng lẽ ra chúng ta có thể rút ngắn việc này lại được
thông qua công tác quản lý. Ngay cả một số nghệ sĩ cũng sáng tác Pop, Rock, Rap
theo trào lưu chung của thế giới, nhưng họ không hiểu rằng các nghệ sĩ nước
ngoài sáng tác các tác phẩm hay được nhiều nước đón nhận nồng nhiệt như vậy là
nhờ có cảm xúc thẩm mỹ từ cội nguồn của chính họ, bản sắc văn hóa của dân tộc họ.
Vả lại, nếu mình bắt chước thì chỉ là việc đi theo lối mòn của người khác và chẳng
bao giờ có được điều minh mong muốn, tác phẩm mang dấu ấn bản ắc của chính
mình, có được sự đóng góp đích thực vào nền văn hóa thế giới. Dù rằng, hiện nay
âm nhạc của ta đã xuất hiện nhiều bài nhạc trẻ rất hay được đông đảo công chúng
tán thưởng chính vì những tác phẩm đó đã sử dụng chất liệu âm nhạc dân tộc
nhưng được sáng tạo theo cấu trúc, nhịp độ, diễn tấu… rất hiện đại, thỏa mãn được
nhu cầu thẩm mỹ đương đại. Mặt khác, chúng ta cũng thấy rằng âm nhạc cổ truyền
của dân tộc ta cần phải phát triển mới có thể phản ánh, đáp ứng được nhu cầu thưởng
thức đương đại. chúng ta sẽ bàn kỹ hơn ở phần sau.Vấn đề là phải tiếp thu có chọn lọc để làm giàu cho nền âm nhạc
của ta chứ không phải việc bắt chước. Thiết nghĩ, các thế hệ sinh viên của
chúng ta rất cần có tri thức, hiểu biết về sự giàu có, nét đẹp của văn hóa truyền
thống, có lòng yêu quê hương, đất nước, tự hào và có tâm huyết, sự say mê, có
hoài bão, khát vọng lớn để tạo nên những tác phẩm lớn mang thương hiệu Việt
Nam, khẳng định vị thế của văn hóa dân tộc trên trường quốc tế. Cố nhiên, “Chuyện áo cơm không đùa với khách thơ” nhưng cũng đừng để “ Giấc mơ con đè nát
cuộc đời con”. Hãy thử hình dung là một ngày nào đó, cả thế giới đều hát một
bài, cùng nhảy poping, cùng sử dụng một loại nhạc cho sân khấu, điện ảnh, truyền
hình thì cuộc sống sẽ nghèo nàn, đơn điệu biết mấy.
Nghệ thuật sân khấu cũng như điện ảnh, truyền hình đều là nghệ
thuật tổng hợp của nhiều loại hình nghệ thuật khác nhau, trong đó âm nhạc tồn tại
ở mọi chỗ, kể cả lúc ngưng lặng, “Ngưng lặng là đỉnh cao của âm thanh”. Bài học
xử lý ngưng lặng của công tác đạo diễn được đúc rút từ cuộc sống, trước một
hành động mang tính quyết định thường là một khoảng lặng đầy ắp cảm xúc, tiết tấu
mạnh mẽ dẫn đến đỉnh điểm, cao trào.
Xem xét rộng hơn thì cái gì trong cuộc sống cũng mang tính nhạc.
Người ta nói: Trong thi có họa, trong họa có thi, và ở cách nhìn khác ta cũng
thấy trong thơ, họa có nhạc. Nét thanh, nét tù, chỗ dày đặc, chỗ thưa thớt, vần
điệu, tiết nhịp đều tạo nên tiết tấu một cách đa dạng, phong phú. Ngôn ngữ của
dân tộc ta đa thanh tạo nên ngữ điệu, ngữ khí rất hay, chỉ nói thôi cũng nghe
có tính nhạc. Chẳng thế mà trong dân gian còn lưu truyền cả các câu “mắng mỏ,
chửi bới” thành bài bản hẳn hoi. Vì vậy, kỹ thuật đài từ, tiềm đài từ của diễn
viên đòi hỏi rất tinh tế. Nói thêm, đây cũng là một đặc điểm văn hóa để khi
sáng tác nhạc trẻ thì nếu các nhạc sĩ cũng nên chú trọng đến ca từ sẽ tạo nên sự
khác biệt. Chúng ta đều biết sự tác động qua lại giữa con người và môi trường sống
xung quanh, phương Đông cổ gọi đó là “ Thiên nhân hợp nhất” hay “Thiên nhân cảm
ứng”, ngôn ngữ khoa học ngày nay gọi là trường sinh học. Sự vận động của môi
trường sống tương tác với nhịp độ sinh học trong cơ thể chúng ta tạo nên không
- Thời gian của một bối cảnh nhất định. Ví như khi đang ở trong thành phố công
nghiệp, rồi về vùng nông thôn chúng ta sẽ cảm nhận rõ tiết tấu khác nhau của cuộc
sống. Quan sát từng bước đi của một cụ già, giọng nói chậm rãi, em bé nhảy chân
sáo đến trường, công nhân vôi vã vào ca, cuộc sống như dừng lại khi tiễn biệt
người thân… đều có thể nhận rõ tính nhạc tự nó tồn tại và phát triển trong cuộc
sống và trong tác phẩm nghệ thuật. Vì vậy, khi nói đến xử lý âm nhạc trong một
tác phẩm nghệ thuật sân khấu, Điện ảnh, truyền hình dường như người nghệ sĩ phải
chú trọng đến từng nhân vật, từng chi tiết, ngôn ngữ, đạo cụ, phục trang, cảnh
trí…
Các nhà nghiên cứu mỹ học nghệ thuật phân định hội họa, kiến
trúc là nghệ thuật không gian, âm nhạc là nghệ thuật thời gian và sân khấu, điện
ảnh, truyền hình là nghệ thuật của không gian - thời gian. Như vậy, khi tham
gia vào sân khấu, điện ảnh, truyền hình thì âm nhạc không còn là một tác phẩm độc
lập, mà nó hòa quyện vào tổng thể để xử lý không gian - thời gian vở diễn. Nói
cách khác thì âm nhạc trong một tác phẩm nghệ thuật sân khấu, điện ảnh, truyền
hình thì cũng có tính đặc thù của sân khấu, điện ảnh, truyền hình, đó là tính
hành động. Hành động của nhân vật và hành động của tác phẩm.
Chúng ta sẽ không nói đến không gian- thời gian vật lý, tùy
theo quan niệm thẩm mỹ về cuộc sống mà người nghệ sĩ sẽ tạo ra không gian - thời
gian tâm lý, và cả không gian - thời gian mang tính triết lý sâu sắc trong tác
phẩm của mình. Ví dụ: không gian - thời gian trong vở Hồn Trương Ba da Hàng Thịt,
hay cảnh Chợ Âm phủ trong phim Bao giờ cho đến tháng mười . Như đã nói ở phần
trên, âm nhạc trong cách xử lý không gian- thời gian mang tính đặc thù càng đòi
hỏi sự sáng tạo độc đáo của nó trong việc tạo không khí, xử lý tình huống, cảm
thụ, đánh giá sự kiện, diễn biến xung đột, dẫn - gợi cho người xem đến những
không gian - thời gian đa chiều, và một khi mọi ngôn ngữ, hành động không thể diễn
đạt, biểu hiện được thì âm nhạc xuất hiện một cách thầm kín, mạnh mẽ, lôi cuốn
như chính tiếng nói của tâm hồn, tình cảm lặng lẽ, ẩn khuất, sâu xa của con người.
Âm nhạc có sức thể hiện vô cùng hiệu quả khi người đạo diễn khai thác, xử lý
đúng yêu cầu của tác phẩm.
Mỗi trường phái sáng tác lại có cách xử lý âm nhạc khác nhau
trong tác phẩm. Trường phái tả thực xử lý âm nhạc theo trình tự thời gian của
câu chuyện được kể theo hệ thống sự kiện và đường dây hành động. Âm nhạc giúp
người xem cảm nhận không khí bối cảnh - không gian - thời gian - cụ thể đang diễn
ra, nhấn mạnh vào sự kiện, xung đột, hành động và chủ đề. Trường phái tả cũng
có kết cấu âm nhạc theo vở diễn, nhưng không cụ thể không gian - thời gian do sự
thống nhất của tính ước lệ và cách điệu cho toàn bộ tác phẩm.
Năm 2012, các nhà làm phim của Viện Goeth đến Trường trao đổi,
hướng dẫn sinh viên sáng tác và quy trình xin tài trợ kinh phí từ các quỹ của
quốc tế, họ khuyên sinh viên nên tập trung vào các vấn đề chung của nhân loại
hiện nay như môi trường, sắc tộc, dân chủ, bình đẳng giới… cuối buổi, tôi có hỏi
riêng và được Bà trả lời:
– Cũng những vấn đề đó, nhưng mỗi nước sẽ có cách suy nghĩ,
cách giải quyết khác nhau.
Vâng, đúng là như thế, vấn đề đã và sẽ xảy ra ở mỗi nước khác
nhau, phong tục tập quán, tâm lý, tình cảm gia đình, xã hội khác nhau sẽ có những
câu chuyện, xung đột, hành động khác nhau, sự đau khổ và niềm hạnh phúc cũng rất
khác nhau. Vậy sân khấu (Kịch nói), điện ảnh, truyền hình Việt Nam có những gì
khác biệt với thế giới?
– Chúng ta đã và đang làm được nhiều điều, nhưng một số tác
phẩm được bạn bè trên thế giới biết đến chủ yếu là sự khác biệt về phong tục, tập
quán với tính nhân văn của nó. Vấn đề đặt ra là bản sắc văn hóa trong cách thức
xử lý nghệ thuật vẫn còn nhiều suy nghĩ, băn khoăn cho các nghệ sĩ. Cách khai
thác, sử dụng âm nhạc dân tộc, một thành tố thẩm mỹ trong sân khấu, điện ảnh,
truyền hình còn nhiều hạn chế, cần nghiên cứu, phát triển để tạo ra được bản sắc
nghệ thuật đương đại Việt Nam.
Dân tộc ta có một nền âm nhạc phong phú, đa dạng nhưng
thống nhất trên nền tảng của văn hóa Đông Nam Á. Các điệu lý, hò, vè trải rộng
ba miền Bắc - Trung - Nam được lưu truyền qua bao nhiêu đời nay. Vùng cao có điệu
hát Then, Cồng Chiêng Tây Nguyên, đồng bằng Bắc bộ có Ca trù, miền Trung có Nhã
nhạc, miền Nam có Đờn ca tài tử đã được UNESCO công nhận là di sản văn hóa của
nhân loại, cần được bảo tồn.
Âm nhạc vừa là di sản văn hóa phi vật thể (Intangible) vừa
là văn hóa vật thể (Tangible) thì bảo tồn như thế nào? Có học thuyết bảo tồn
nguyên vẹn, có học thuyết bảo tồn trong sự phát triển. Người ta có thể cất giữ
các nhạc cụ, bản ghi chép vào tủ kính, có thể ghi âm toàn bộ các làn điệu, bài
bản và lưu trữ trong các thiết bị hiện đại, nhưng lưu giữ các nghệ nhân, nghệ
sĩ bằng cách nào? Quay phim chụp ảnh thì cũng chỉ lưu giữ được một lần họ
trình diễn mà thôi, còn các làn điệu thấm đẫm tình cảm, tâm hồn của người nghệ
sĩ, nghệ nhân ấy sẽ theo họ đi mãi khi tuổi đời đã cạn. Nhân tiện, chúng ta
cũng nên nhắc đến sai lầm trong cách bảo tồn của một số nơi đã và vẫn đang diễn
ra: Khi được công nhận là di sản văn hóa của nhân loại, khắp nơi thuộc vùng
cao Tây Nguyên sản xuất rất nhiều cồng, chiêng phục vụ khách đến thăm quan, thậm
chí đưa lên sân khấu để trình diễn phục vụ các hội nghị. Các nhà hoạt động văn
hóa giật mình, sửng sốt, vội vàng có ý kiến: UNESCO quyết định bảo tồn “Không
gian văn hóa Cồng, Chiêng” chứ không phải bảo tồn Cồng, Chiêng. Quả thực, không
thể tách rời tiếng cồng chiêng ra khỏi cuộc sống của núi rừng Tây Nguyên. Đó là
một thực tế hữu ích cho cả việc bảo tồn Đờn ca tài tử, cho việc khai thác, sử dụng
âm nhạc dân tộc trong các tác phẩm nghệ thuật đương đại.
Vấn đề đặt ra là sự chuyển giao giữa các thế hệ một cách có ý
thức, giữ gìn và phát triển.
Sân khấu truyền thống của ta đã sàng lọc, phát triển vốn âm
nhạc đã có hàng nghìn năm thành các làn điệu, bài bản chuyên dùng và đa dùng,
có đặc trưng của nghệ thuật sân khấu. Các làn điệu, bài bản đó biểu hiện tất cả
các trạng thái tình cảm của con người như hỷ, nộ, ái, ố… là điệu Làn Thản, Chầu
Văn, Nam Xuân, Nam Ai, Nam Bình, Cổ Bản, Xàng Xê, Xuân Nữ, Thán, Oán, Khách, Tẩu,
các điệu nói Lối… và các điệu cho tình huống kịch tính, chuyển đổi không gian -
thời gian.
Đặc điểm âm nhạc truyền thống của dân tộc ta:
– Chủ yếu là âm nhạc có lời, hay còn gọi là dạng
hát nói.
– Ngoài nhạc lễ, không có nhạc giao hưởng.
– Thang âm, điệu thức có đặc điểm chung của văn
hóa vùng Đông nam Á, khác với cấu trúc âm nhạc của phương Tây.
– Không có hòa thanh.
– Làn điệu, bài bản là các mô hình, dạng cấu trúc
mở (cấu trúc động, không khép kín)
Các đặc điểm trên chính là một phần của bản sắc văn hóa trong
âm nhạc dân tộc. Vậy chúng ta khai thác, xử lý, phát triển như thế nào khi mà
tâm lý, tình cảm của con người Việt Nam trong xã hội đương đại đã thay đổi rất
nhiều, cũng là buồn, vui, giận, thương, ghét, quý, yêu…thậm chí vừa yêu vừa
ghét, vừa thương vừa buồn, vừa giận vừa vui…phức tạp, đa dạng như chính hiện thực
cuộc sống, như chính sự biến thể của thể tài, không còn là bi hay hài, trữ tình
hay anh hùng mà là bi kịch trữ tình, bi kịch lạc quan, bi hùng kịch… Như vậy,
chúng ta không thể đưa nguyên các làn điệu, bài bản cổ truyền vào trong các tác
phẩm nghệ thuật đương đại, mà khai thác chất liệu âm nhạc truyền thống để sáng
tác các tác phẩm nghệ thuật đương đại như rất nhiều nhạc sĩ đã thực hiện thành
công trong nhiều năm qua.
Dĩ nhiên, âm nhạc thể hiện các trạng thái “Người” chung cho
toàn thể nhân loại, nhưng có dấu ấn riêng của từng dân tộc, vì thế các đạo diễn
có thể chọn bất cứ một đoạn nhạc nào trên thế giới phù hợp cho tác phẩm của
mình, nhưng như thế có nghĩa là bạn tự đánh mất đi bản sắc văn hóa của mình, tư
cách nghệ sĩ của bản thân trước cộng đồng thế giới. Họ không làm như thế. , Khi
xem một tác phẩm điện ảnh hay truyền hình của Trung Quốc, Ấn Độ chẳng hạn,
chúng ta nhắm mắt lại cũng nhận ra chủ nhân của những sáng tạo ấy chính là do
âm nhạc với dấu ấn bản sắc văn hóa rõ nét, không lầm lẫn với dân tộc khác được.
Có một số đạo diễn than phiền do kinh phí, và cả thời gian hạn
hẹp nên không thể cùng nhạc sĩ nghiên cứu, sáng tạo tác phẩm như ý. Vậy thì chờ
đến bao giờ mới có đủ kinh phí, thời gian để chúng ta thực hiện khát vọng, hoài
bão đưa tác phẩm sân khấu, điện ảnh, truyền hình của chúng ta đi lôi cuốn, hấp
dẫn khán giả quốc tế? Ý tưởng lớn lao quá chăng? Không! Với tài năng, trách
nhiệm, lương tâm, và khát vọng của những nghệ sĩ chân chính, đích thực, tôi có
niềm tin chúng ta sẽ làm nên những tác phẩm nghệ thuật Việt Nam đương đại đích
thực, vượt không gian - thời gian.
11/5/2015 Hoàng Hoài Nam
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét