(TM tặng anh Ái Văn để đáp
lại cd Đăng Khánh anh gởi trong đó có bài Mắt Em Vương Giọt Sầu)
Phỏng từ hai câu
thơ cuối của Hoài Khanh trong bài “Ngồi Lại Bên Cầu”, Đăng Khánh viết bài
“Mắt Em Vương Giọt Sầu” và chấm dứt bằng câu Ta ngồi lại nghiêng đời bên tuyết trắng, nghe gió về vin cửa gọi
đơn côi… Nghe
hoang liêu làm sao từ lúc tôi nghe được bài hát này mà giật mình nhớ lại bài
thơ năm xưa của Hoài Khanh tôi thương lắm chép vào nhật ký của mình. Hoài Khanh
qua đời chỉ hai tháng trước thôi, lặng lẽ để lại ít xôn xao, nhưng là người thi
sĩ được viết đến nhiều nhất trong đó có Bùi Giáng, Tuệ Sỹ và Phạm Công Thiên.
Tôi gởi đây bài hát “Mắt Em
Vương Giọt sầu” của Đăng Khánh và bài thơ “Ngồi Lại Bên Cầu” của Hoài Khanh,
Trần Trung Đạo diễn ngâm.
Tống Mai
May 20, 2016
Tình yêu, từ xa xưa như trái
đắng
Ngày chưa đi tiếng hát bỏ câu thề
Ta ngồi lại bên cầu thương dĩ vãng
Nghe giữa hồn cây cỏ mọc hoang vu
Thời gian làm thu phai trên
suối tóc
Buồn trên môi nước mắt chẳng thay mầu
Ta về lại thăm vườn xuân hoa cũ
Bên giáo đường nghe kể chuyện tương tư
Tình vẫn hoang mang tiếng buồn
vọng mãi
Dòng nước trôi mau em sẽ về đâu
Màu thời gian hoang vắng
Đã chết một đời sau
Tôi bên bờ dĩ vãng
Mắt em vương giọt sầu
Đành thôi cành phong xưa nay đã chết
Rồi mai kia bóng sẽ bỏ xa người
Ta ngồi lại nghiêng đời bên tuyết trắng
Nghe gió về vin cửa gọi đơn côi
NGỒI LẠI BÊN CẦU
Thơ Hoài Khanh
Trần Trung Đạo diễn ngâm
www.youtube.com/watch?v=S8l53jKXuOU
Người con gái trở về đây một bận
Con đường câm bỗng sáng ánh diệu kỳ
Tôi lẩn trốn vì thấy mình không thể
Mây của trời rồi gió sẽ mang đi
Em thì vẫn nụ cười xanh mắt biếc
Màu cô đơn trên suối tóc la đà
Còn gì nữa với mây trời đang trắng
Đã vô tình trôi mãi bến sông xa
Thôi nước mắt đã ghi lời trên đá
Và cô đơn đã ghi dấu trên tay
Chân đã bước trên lối về hoang vắng
Còn chăng em nghĩa sống ngực căng đầy
Quá khứ đó dòng sông em sẽ ngủ
Giấc chiêm bao nguyên vẹn có bao giờ
Ta sẽ gặp trong ý tình vũ bão
Con thuyền hồn trở lại bến hoang sơ
Rồi em lại ra đi như đã đến
Dòng sông kia cứ vẫn chảy xa mù
Ta ngồi lại bên cầu thương dĩ vãng
Nghe giữa hồn cây cỏ mọc hoang vu
GIỚI THIỆU THƠ HOÀI KHANH, "THÂN PHẬN"
PHẠM CÔNG THIỆN
Thôi nước mắt đã ghi đời trên đá
Và cô đơn đã ghi dấu trên tay
Chiều 30 Tết, sương mù xuống
nhiều, hai người lang thang trên mấy nẻo đường ở Đà Lạt…
Hoài Khanh bỏ Biên hòa và lên
Đà lạt ăn Tết với tôi. Bạn bè dăm đứa hắt hiu cuối trời… Hôm đó, tôi đi vắng.
Hoài Khanh bơ phờ đứng chờ tôi. Vừa bước về nhà, chợt thấy Khanh, tôi rưng rưng
ôm anh mà hôn… Xa nhau bao ngày, bây giờ lại trùng phùng nơi cảnh trời thơ mộng
vào ngày cuối năm. Ngày trước khi chia tay nhau chúng tôi có ngờ đâu lại gặp
nhau trong một khung cảnh thiên đàng, giữa mùa hoa đung đưa, dưới bầu trờ đầy
mây trắng lê thê trong hơi xuân mơ hồ của Đà lạt. Chúng tôi dẫn nhau lang thang
trên những đường phố tối tăm nhất, lắng nghe tiếng chó sủa và lắng nghe tiếng
lòng mình rạo rực đau khổ vì quá bơ vơ, vì quá lạc lõng giữa sa mạc loài người.
Người này nắm tay người kia, dắt nhau đi, lê thê như hai người mù đi xin ăn
giữa phố chợ: chúng tôi đi ăn mày một chút tình thương giữa con người, một chút
giao cảm, một chút rộng lòng, một ánh lửa ấm áp giữa đêm lạnh nhất và đen tối
nhất của ngày cuối năm. Người ta chết và không hạnh phúc.
Cuộc đời đã quá nhiều ngộ nhận.
Đêm ba mươi Tết không mưa. Chúng tôi nhắc đến những người bạn khác, nhắc đến
Bùi Giáng, Hoàng Trúc Ly,… Mỗi người bơ phờ ở một góc trời, ôm một nỗi lòng
tha thiết, nồng nàn dâng trọn hồn mình cho đời.
Hoài Khanh ở với tôi được vài
ngày, rồi không hiểu sao, tôi lại đuổi Khanh về Biên hòa… Tôi chịu anh không
được. Ngày anh đến, tôi hôn anh. Ngày anh đi, tôi muốn anh đi cho phức mắt.
Mấy ngày anh ăn Tết với tôi ở
Đà lạt, anh chỉ im lặng và ít nói. Chúng tôi thương nhau lắm. Thế mà chỉ nhìn
nét mặt của anh và chỉ nghe sự im lặng của anh, tôi kinh hoàng đi. Tôi muốn
đuổi anh đi ngay, tôi muốn đuổi một hình ảnh hãi hùng: tôi muốn được thanh bình
trong tâm hồn trong những ngày này. Bởi vì đây là hình ảnh bi đát của Đời, của
con người, của một kẻ bị đày giữa bãi đất hoang tàn của nghĩa địa trần gian.
Nhìn nét mặt Khanh, tôi thấy sự Chết, tôi thấy Bệnh hoạn, Đau khổ, Quằn quại,
Khắc khoải, Ray rức, Xao xuyến, Hãi hùng, Hoang liêu, Cô đơn; tôi thấy sự Chiến
bại, sự Thất vọng của con người. Nghe sự im lặng của Khanh, tôi cảm thấy Thượng
đế, tôi cảm thấy Quỷ ma, tôi cảm thấy Tiếng nói của một ngàn đêm, hai ngàn đêm,
triệu ngàn đêm, tiếng nói của muôn triệu ngàn đêm vọng về hiu hiu trong lòng
nhân thế. Tôi không muốn nghe, cũng như bao nhiêu người khác cũng không muốn
nghe, bởi vì đó là tiếng nói của sự thật: Tiếng nói của dòng sông vạn ngàn năm
chảy trôi về biển. Dòng sông kia cứ vẫn chảy xa mù…
Tôi muốn trốn thân phận con
người, tôi không muốn nhìn hình bóng lẻ loi của một kẻ bị đày ở cuối trời miên
viễn… Tôi lẩn trốn vì thấy mình không thể… không thể được. Không thể trốn. Chỉ
còn cách tự tử như Hemingway trong một cơn khủng hoảng thác loạn. Nếu không làm
thế thì đứng lại mà trừng mắt ngó nhìn nét mặt Khanh, lắng nghe sự im lặng của
Khanh và đừng chạy trốn nữa.
Thế rồi cách đây một tuần, lúc
về Sài gòn, tôi có ghé lại Biên hòa để gặp Khanh. Khanh chỉ ở một mình, trong
một căn nhà tồi tàn, tôi nhìn lên vách và gặp những bức tranh của Michel Ange,
của Van Gogh và Picasso, những bức ảnh của Pasternak, Evtushenko, Salinger,
Hemingway và Camus, rồi tôi nhìn Khanh. Bỗng nhiên, tôi thấy tất cả sự vật
ngừng lại, cả thế giới đứng lặng lờ và Hoài Khanh cũng đứng lặng lờ như một bức
ảnh treo tường; tôi bay ra ngoài thế giới này và có cảm tưởng như là một hồn ma
trở về viếng lại thế giới loài người, ngắm lại những hình ảnh bất di bất dịch
của con người giữa dòng đời trôi chảy và trong một thoáng giây, tôi lắng nghe
được tiếng nói miên man của sự im lặng đưa vọng ra từ đôi môi bất động của
những bức ảnh kia và bỗng nhiên tôi thấy sống lại và không còn là hồn ma nữa,
tôi nhìn mấy ngón tay, nhìn lại người mình đã mang lại xác người và tôi nhìn
lại Hoài Khanh, tôi thấy anh không còn là một bức ảnh nữa. Anh cũng cử động như
tôi và anh mở miệng cười. Tôi cũng mở miệng cười, nụ cười của một người mà linh
hồn vừa mới thoát ly ra thể xác.
Đà Lạt ngày 26
tháng 4 năm 1962
Phạm Công Thiện
HOÀI KHANH
BÙI GIÁNG
Từ Dâng Rừng tới
Thân Phận, Hoài Khanh đi một bước riêng biệt choáng váng trong dòng lục bát của
ông. Ông không bị một ảnh hưởng nào gò bó. Ông chỉ chịu ảnh hưởng của trời, của
sương, của dòng sông, bến quạnh quê hương.
Thỉnh thoảng cố nhiên, ông bị
vướng lụy trong bầu khí hậu văn nghệ của hiện tình đất nước chia năm xẻ bảy,
ông ngượng gạo viết vài bài khổ nhọc không có cách điệu bồng bềnh bất tuyệt
trầm hùng của ông. Nhưng đó là trường hợp hy hữu thôi.
Riêng biệt những bài “xuất
thần” bi ca của ông, thì quả thật vô song bát ngát.
Ngày sương thành phố dâng mùa
Bóng thu chìm tịnh cành thưa
khởi vàng
Tôi hoài trên bước lang thang
Yêu em vô lượng mà mạn dại buồn
Tóc huyền đó lạnh như sương
Mắt huyền đó mộng bình thường
không em
Mỗi đêm nhớ gió trăng tìm
Bãi sông triều dậy đi niềm
chia phôi
Khí thơ đi trầm trầm tịch nhiên
mà thống thiết như một khúc tân đoạn trường kết tụ dưới thanh hiên.
Mắt em hồ vỡ cung đàn
Thôi xuân nào cũng mộng tàn đêm
thâu
Ngùi thương bóng nhỏ giọng sầu
Cõi kia cũng quạnh quẽ màu lưu
linh
Thường mỗi phen đọc bài thơ
hay, tôi quen thói hình dung tâm hồn ông Nguyễn Du. Tôi tự bảo: nếu ông Nguyễn
Du đọc những bài thơ ấy, ông sẽ nghĩ sao về bọn hậu bối.
Suốt bài thơ, dường chẳng thấy
sự tình gì xảy ra hết cả. Chỉ nghe một dòng sông đi. Một triều sóng động.
Người ta chấp nhận bài thơ như
chấp nhận một trận mưa rào xuống ruộng tình biển ái.
Người ta đi vào bài thơ như đi
vào cõi như lai tịch mịch ngậm ngùi. Như đi vào một cung đàn diễm ảo nhớ nhung
khép mở, gây một trận tịch hạp chon von, cho nảy ra một niềm đốn ngộ. Người ta
không biết đâu bờ bến để phân tích. Không còn chủ nghĩa. Không còn lập trường.
Chỉ còn một niềm phiêu dật hồn nhiên tự phóng nhiệm hòa vào cây cỏ, nước mây,
là môi trường riêng tây của thi sĩ:
Biển mù mịt đó mưa đan
Tôi ngàn năm nhớ nào tàn mộng xưa
Vi vu màu gió đi mùa
Núi non đồng vọng cũng thừa xót thương
Đà nghe đất dậy môi trường
Cõi miên viễn bỗng vô thường thanh âm
Bơ vơ chiều dựng chuông trầm
Sông dài trôi quạnh hồi âm nẻo nào
Ta nhớ lại cung bậc ban đầu của
Dâng Rừng:
Lối xưa mây xám nghẹn màu
Thuyền xuôi qua mấy nhịp cầu chênh vênh
Tóc huyền chìm mấy mông mênh
Thiên thai đâu nhỉ mà quên lối về
Cố nhân chưa vẹn câu thề
Sắt son là mảnh hồn quê ngậm ngùi
Vào thu mây trắng tim rồi
Đêm sâu bỗng lạnh tiếng cười tri âm
Nhưng tại sao lại phải ghi ra
nhiều nữa? Hoài Khanh đã hồn nhiên đưa nguồn thơ mình vào lục bát, hồn nhiên
dẫn lục bát về cõi uyên nguyên, bỗng nhiên lại khơi mạch gì khiến uyên nguyên
trào trở dậy trong vẻ tân kỳ bình đạm thiết tha:
Người ơi năm tháng là gì?
Phải chăng mấy khóm tường vi
héo mòn
Đố ai che mảnh trăng tròn
Đố ai đo được lòng son của đời
Thật không thể tưởng tượng. Ông
bạn thuở ấy còn nhỏ tuổi, giọng thuần phác như nhiên, đùng một cái, đứng song
song lên ngang những thi bá đời Đường mà uyển chuyển như câu hát Kinh Thi, lại
pha màu cay đắng của thời đại lao lung nhược tiểu:
Biết bao giờ! đến bao giờ
Cố nhân thì chỉ hững hờ mà thôi
Khách qua tàu đã xa rồi
Là thôi còn một góc trời chênh
vênh
Nắng mưa còn thắm ân tình
Dâng đời tất cả riêng mình héo
hon
Con tàu nhược tiểu đi đâu như
thế? Nó trao được chút gì cho tứ hải hay không? Nó lận đận điêu linh, nó nhẫn
nại trong đêm dài bối rối, nó chắp nhặt ân tình, nó mang trở đi đâu, nó mang về
không dứt khoát, nó làm hết nhiệm vụ mình và có thể cứ như hờ hững trước mọi
tiếng tương giao:
Tàu qua tàu lại vẫn còn
Ngói trơ sương nắng dáng mòn cỏ
rêu
Sáo ai buông xuống lưng chiều
Nhà ai lên khói mà nhiều đắng
cay
Tàu qua tàu lại đêm ngày
Khăn xanh nào vẫy bàn tay nào
mềm
Lệ ai nhỏ ướt sân thềm
Tàu qua thì cả ân tình theo qua
Theo qua là qua mất? Hay theo
qua là qua về? Qua lại? Qua đi? Qua bờ bỉ ngạn? Kết tụ tử sinh ? Không biết.
Không biết? không biết.
Chỉ biết rằng thi sĩ đã đặt bàn
tay thân ái vào giữa cõi lang thang. Và toàn thể quê chung đã quy về cảm thương
trong cô độc.
Nát từng nếp áo hoàng hoa
Tâm tư lạnh cả bài ca độc hành
Nhịp đời lẻ khúc thơ xanh
Thế nhân chẳng khóc nhưng tình
đơn côi
Lòng ga còn trọn cuộc đời
Chỉ đưa chỉ đón là thôi chứ gì?
Đón đưa gì nhỉ? Tại sao vừa như
Tố Như Tử, vừa như Tử Tố Như? Vừa không phải Tố Như Như Tố gì cả?
Chút riêng chọn đá thử vàng
Biết đâu mà gửi can tràng vào
đâu
Còn như vào trước ra sau
Ai cho kén chọn vàng thau tự
mình?
Mặc người mưa sở mây Tần
Những mình nào biết có xuân là
gì?
Thế ra Hoài Khanh đã chạm vào
chỗ cốt yếu mà Nguyễn Du đã dành riêng cho tâm sự Thúy Kiều? Anh định làm cái
gì thế?
Mùa thu chừ đã đi qua
Lá khô bớt rụng sương sa lại
nhiều
Lơ đễnh một chút, ắt ta không
ngờ rằng những dư vang thâm hậu Nguyễn Du đã được âm thầm khơi dẫn trở lại một
cách kín đáo u nhã u nùng?
Lần lần tháng trọn ngày qua
Nỗi gần nào biết đường xa thế
này
Song sa vò võ phương trời
Nay hoàng hôn đã lại mai hôn
hoàng
Lần lần thỏ bạc ác vàng
Xót người trong hội đoạn tràng
đòi cơn.
Thì chính đó là mạch sầu riêng
biệt đã đi về ám lấy núi non. Hoài Khanh ngày xưa không đọc gì nhiều Nguyễn Du,
nhưng anh đã hồn nhiên nằm ngay vào giữa mạch sầu thiên cổ của thiên tài Hồng
Lĩnh.
Gió lên cuồn cuộn lưng đèo
Chao ôi tâm sự biết chiều hay đêm
Ấy bởi vì quê hương Phan Thiết
của anh, với sông, núi, đèo, truông hiu quạnh, những “chiều gió nồm” quả chứa
chan màu sắc núi sông Hà Tịnh. Tâm hồn con người cũng được hun đúc trong bầu
khí hậu long lanh ngang trái phảng phất những oan nghiệt biển dâu, thôi thúc
con người đi suốt xứ tìm trong viễn vọng chiêm bao những ân tình chung thủy:
Em ơi tháng sẽ về năm
Tình ơi chung thủy về thăm mộng
lành
Ngàn ngày núi biếc hương xanh
Cho nhau một tấm lòng thành mà
thôi
Chúng tôi tưởng, nếu người đọc
thơ không có một ý niệm gì hết về phong cảnh núi đồi Hà Tịnh, Phan Thiết, Phan
Rang, Tipasa… những phong cảnh bao la ngậm ngùi, đất nước quá đẹp và quá đau
thương, nếu không nhìn bằng hai con mắt những sự tình đó suốt bình sinh, ắt sẽ
không rõ từ đâu mà những bản bi ca lại xuất hiện trong Dâng Rừng giữa xuân xanh
như thế.
Ngàn sâu lắng xuống mịt mùng
Lãng du đêm quạnh lại chùng
bước chân
Từ đó chúng ta miên man đọc lại
những chiều “xa quê hương nghe gió nồm”, chúng ta trở lại với Dâng Rừng, cùng
thi sĩ gọi lại những âm thanh không lời, những lời không có tiếng:
Cố nhân ơi đã đành xa
Thâm u vọng tưởng bài ca sang
mùa
Khói hương còn quyện mái chùa
Sắt se chi nữa mà mua tị hiềm
Rừng thiêng mòn mỏi cánh chim
Cũng không giết chết buồng tim
đợi chờ
Rồi mai lá rụng cành trơ
Cuốn bao nhiêu gió chép thơ
tặng đời
(Dâng Rừng)
Ngậm ngùi một nửa quê hương
Lạnh lùng một dáng chiều buông
rủ sầu
Hồn về sáng lại đêm thâu
Lửa hương cầu nguyện cho nhau
thâm tình
Không gian chiều xuống thay hình
Thời gian giữ mãi tâm tình
trong ta
(Sầu Chiều)
Tập Dâng Rừng cố nhiên có vài
chút tạm gọi là “khuyết điểm” theo quan điểm văn nghệ thời nay. Nhưng những
khuyết điểm hoặc nhược điểm kia, chính là những đặc ân, ưu điểm của tuổi trẻ.
Ngày mai lớn lên, ta khắc phục được những nhược điểm kia, thì cũng chính ngày
đó chúng ta đành mất cõi thanh xuân, linh hồn bắt đầu tàn tạ, khép kín. (Kín là
kín bưng, kín bít, chứ không phải kín đáo u huyền).
Nhưng làm sao có thể khép kín
mãi được? Hãy thư thả nghe lại cung bậc lục bát dị thường trong Thân Phận:
Chim bay tàn bóng xa mù
Thôi sương ở lại đền bù tuổi tôi
Nằm đây lạnh suốt mặt trời
Hoài thương quá khứ đã ngùi
phiêu linh
Phố xưa hồn đẫm lệ mình
Sông xưa chiều đã lênh đênh mấy
mùa
Nghe tàn cõi mộng hoang thưa
Con chim lại hót trên mùa lang
thang
Mắt em hồ vỡ cung đàn
Thôi xuân nào cũng mộng tàn đêm
thâu
Ngùi thương bóng nhỏ giọng sầu
Cõi kia cũng quạnh quẽ màu lưu
linh…
Màu lưu linh
Chim bay tàn bóng xa mù
Thôi sương ở lại đền bù tuổi
tôi
Màu lưu linh là màu lưu ly,
linh đinh, hay lung linh sương bóng. Màu lưu linh là một tiếng lãng đãng chia
phôi.
Nếu nghĩ tới Kiều, thì đó là
màu sắc nhuộm suốt một đời lưu lạc của nàng. Và trong đó không chỉ có đoạn
trường thôi? Ly biệt, chia phôi? Nhưng còn ý nghĩa riêng của tu hành trong cuộc
Lữ.
Nếu nghĩ tới Nerval, thì màu
lưu linh của Hoài Khanh chính là màu của huyễn mộng Les Chi-mères, màu của el
desdichado (kẻ lang thang trần trụi, không chỗ dung thân khắp bến bờ đất
trích).
Je suis le ténébreuxe le veuf l’inconsolé
Le prince d’Aquitaine à la
tourablie
Ma seul etoile est morte - et
mon luth constellé
Porte le Soleil noir de la
Mélancolie…
(Ta là kẻ âm u, kẻ góa vợ, kẻ
khôn nguôi Hoàng tử của một cung thành vùi lấp).
Đã tử diệt là Ngôi Sao duy nhất
Mặt trời đen là cung bậc ta ca
Vừng Hắc Ô bám chặt cây đàn ngà
Ảo mộng của mối Sầu U suốt kiếp
Màu lưu linh của Hoài Khanh
ngân lên cung bậc dị thường kia của ông Chúa Siêu Thực Tây Phương, mà ngân lên
trong tiết điệu dịu dàng đôn hậu của lục bát. Cái mới thật là kỳ.
Chim bay tàn bóng xa mù
Thôi sương ở lại đền bù tuổi
tôi
Hai câu đơn giản như thế cũng
đủ sức xô ùa những Nerval Hölderlin vào cuộc hội đàm vô thanh vô tức với Nguyễn
Du. Cuộc hội đàm của bọn người cô độc. Và tuổi tôi chỉ riêng sương lạnh ở lại
đền bù.
Người ta có thể hỏi: giọt sương
hao mòn như thế, hột sương ở lại đền bù, thì đền bù được bao lăm?
Nhưng thi sĩ vẫn hồn nhiên tha
thiết bảo:
Thôi sương ở lại đền bù tuổi tôi
Sương của mùa thu dằng dặc? Vì
mùa xuân đã chết? Mùa xuân đã tàn phai theo cánh chim bay tàn bóng xa mù. Tôi
còn biết làm sao buộc cánh nó lại? Mà buộc lại để làm gì? Tôi xin chấp thuận
cuộc chuyển dịch kia và đem lời thơ trao nhau làm tặng vật.
Dâng đời tất cả riêng mình héo
hon
Đó là ý nghĩa của câu thơ Dâng
Rừng.
Nằm đây lạnh suốt mặt trời
Hoài thương quá khứ đã ngùi
phiêu linh
Phố xưa hồn đẫm lệ mình
Sông xưa triều đã lênh đênh mấy
mùa.
Phố xưa sông xưa, là sông phố ở
một tỉnh lỵ nhỏ miền Trung? Gió biển thổi vào từng trận, những chiều hè tha
thướt hoang liêu, những buổi sáng mùa đông thảm đạm. Một giai nhân dị thường
như những Sylvie, có lẽ đã cư lưu tại phố đó. Và một mối tình tuyệt vọng có lẽ
đã đem lệ về làm đẫm ướt phố xưa. Sylvie, Adrienne, Diotima, Alissa… vân vân…
Những con người như thế vốn từng đã khiến những thiên tài Hà Tịnh viết nên
những lời:
Ví chăng duyên nợ ba sinh
Làm chi đem thói khuynh thành
trêu ngươi
Hoặc:
Hồn lưu lạc chưa hề thờ một chúa
Yêu một người, ta dâng cả tình
thương
Nhưng tình thương đó đã vô vọng
và vì thế nó đã biến thành một thứ gì không tuổi không tên, nhân gian không có
lời gì để gọi nó ra được nữa. Gọi nó là màu lưu linh. Màu lưu linh đã giết con
người ta chết từ sơ ngộ, người ta sẽ bỏ phố xưa sông cũ ra đi để suốt đời nghe
tiếng chim thuở ban sơ về hót…
Nghe tàn cõi mộng hoang thưa
Con chim lại hót trên mùa lang
thang
Mắt em hồ vỡ cung đàn…
Trên bước lang thang người thơ
gieo những cung bậc vào cung đàn mà mỗi phen mỗi thấy hiện ra trước mắt mình
hai con mắt thiên tiên của công chúa, và hai con mắt u huyền đó đã làm vỡ cung
đàn bất tuyệt của tài hoa. Và mỗi phen lại nghe cung đàn mình chết lịm trong
cung đàn sơ khai kỳ ảo.
Il est un air pour qui je donnerais
Tout Rossini, tout Mozart et
tout Weber
Un air très vieu languissant et
funèbre
Qui pour moi seul a des charmes
secrets
Hoài Khanh chẳng bao giờ đọc
Nerval, và có lẽ ngày xưa anh cũng chẳng đọc gì Nguyễn Du, Huy Cận.
Nhưng tâm hồn anh mang chứa
tinh thể thi nhạc những tâm hồn kia. Những Mozart, những Chopin, những, những…
Tôi vốn là kẻ rủi ro thuở mười
lăm mười sáu đã gặp Huy Cận Nguyễn Du Nerval. Tôi đã giã từ hết sách vở meo mốc
nhà trường về quê sống với chuồn chuồn châu chấu. Thì cái ngày lạc lối vào
Sàigòn, bỗng nhiên tao ngộ tiếng thơ Dâng Rừng, tôi tưởng mình được phép nói
vài lời tuyệt đối, mặc dù ngày đó tôi chưa quen biết Hoài Khanh. Tôi nói với
ông Tạ Ký dịp nào gặp Hoài Khanh thì dẫn anh tới nhà chơi một cuộc. Từ bấy tới
nay ngót mười năm.
Hoài Khanh là hồn thơ thuần
nhiên điền dã.
Vậy thì cái bản “hòa âm điền
dã” của anh tất nhiên ngân lên một âm thanh gì khó lọt vào thính quan người văn
nghệ phồn hoa. Mỗi người hãy xin mang trọn cái nghiệp mình trong cái vũ trụ
riêng mình. Rồi mai sau, sẽ có dịp bất ngờ cái vũ trụ riêng mình sẽ chan hòa vào cái càn khôn chung thiên hạ. Chẳng nên sớm vội vã cưỡng cầu.
Chỉ thử tưởng tượng xem. Những
kẻ hồn lạc loài ngay từ thuở sơ sinh bỗng một hôm gặp Nàng Thơ đẹp nguy nga như
hoàng hậu trong bầu không khí ba cha bảy mẹ thế kỷ này… Thì từ đó?
Il est un air pour qui je donnerais
Tout Rossini tout Mozart et
tout Weber…
(Trích “Đi vào cõi thơ” của Bùi Giáng)
LỤC BÁT THƠ HOÀI KHANH
Tuệ Sỹ
Một thời xa xưa, đã qua rồi;
tuổi thơ được nuôi lớn bằng lời ru của Mẹ. Những buổi trưa nhiệt đới, mặt trời
nóng chảy, hoang vắng như tàn bạo, song đẹp một cách huyền ảo ngây người bởi
giọng ru tha thiết theo nhịp tiếng võng đưa, quyện theo âm điệu bất chợt vang
vọng xa vời.
Tuổi ấu thơ ấy, những ngày đầu
tiên mới mở mắt chào đời ấy, không ai còn nhớ. Lớn lên một chút, tôi biết lắng
nghe cô bé hàng xóm ru em, để mường tượng lời Mẹ ru khi mình còn tấm bé. Bé
cũng bằng tuổi tôi thôi; còn bé lắm, chưa ẵm nổi em mười mấy tháng. Cô bé đưa
võng em, những lời ru liên miên bất tận, không biết từ đâu, mà cô hát lên theo
cảm hứng ngẫu nhiên, theo vần điệu tự nhiên. Cô bé không được đi học, không
biết chữ. Thơ là hơi thở của Mẹ ru, đã thấm vào da thịt, thấm sâu vào tim. Vần
điệu theo lời ru, như con gió qua đồng lúa chín rì rào, không vì sao, không vì
ai. Sự sống được nuôi dưỡng, được lớn lên trong những chuyển động hồn nhiên như
vậy.
Lời Mẹ ru, khi ta còn quá bé
bỏng để nghe và nhớ. Cơ hồ như hoài niệm mông lung về một quá khứ huyền thoại
hoang sơ, vừa thoáng qua trong khoảnh khắc mà thôi. Một cái gì đó vô tình, hồn
nhiên và tinh khiết, vẽ lên những ảnh tượng mơ hồ, không hình thù, không tên
gọi, chập chờn theo nhịp sáu-tám, như à ơi theo tiếng võng đưa. Nó chập chờn
trong tôi suốt cả một đời, thăng trầm theo sông nước.
Lớn lên theo năm tháng, như
dòng suối trôi qua bến bờ hoang vu, tĩnh lặng, rồi bất chợt đổ xuống ghềnh
thác, gào thét và bắn tung bụi nước, qua làng mạc, qua phố thị, ngập tràn khói
lửa. Từ đó, trong giấc mơ, nghe lời Mẹ ru rơi trong tiếng khóc nghẹn ngào của
chinh phụ. Một thế kỷ đảo điên, điệu lục bát bỗng nghe trong cung bậc lạc loài.
Lời thơ thay đổi; điệu thơ thay đổi; một thế kỷ thi ca thay đổi. Nhưng những ai
từng lớn lên trong tiếng Mẹ ru, làm sao quên được những câu thơ lục bát? Tôi
biết mình không thể làm được một bài thơ lục bát; mà hồn thơ đã bị đẽo gọt qua
những khúc quanh phố thị. Phố thị với những khủng hoảng cơ giới. Rồi những đêm,
theo dõi bóng trăng mờ, tìm về “cây đa bến cũ, con đò năm xưa”, âm hưởng lục
bát của Nguyễn Du chợt đẩy tâm tư vào những bước đường phiêu lưu của lịch sử.
Tình cờ, những câu thơ lục bát của Hoài Khanh chợt khuấy động. Nó ngân vang từ
phương trời đồng vọng của Nguyễn Du, ngay giữa dòng lịch sử cuồn cuộn sóng, hay
bên lề cuộc Lữ tồn sinh. Ấy là âm vang đồng vọng trên những bước chân:
Ngược xuôi bao kẻ đi về
Tấm thân bé mọn bên lề tồn vong
Chuyện đời có có không không
Phù vân một áng bụi hồng xa xa
Cớ sao thiên hạ người ta
Vẫn chưa tròn một
Quê nhà bao dung?
Vẫn chưa tỉnh giấc hãi hùng?
Trong
cơn trường mộng vô cùng thời gian
(Nhớ Nguyễn Du)
Nó hồn nhiên như lời ru của Mẹ,
mà lại cay đắng như thân phận Thúy Kiều. Đó là ngữ điệu của nông dân chất phác,
không văn hoa hay tráng lệ như các thể điệu cũ, mới, lại mang nặng trong nó
trường thiên bi kịch lịch sử.
Lịch sử bồng bột như tấn kịch
trên sân khấu ồn ào. Trong những lúc tỉnh cơn tàn mộng, ta cảm thấy mình như
nghệ sĩ giữa đám khán giả cuồng nhiệt nhưng bạc tình. Để cho Thúy Kiều “Khi
tỉnh rượu, lúc tàn canh, giật mình mình lại thương mình xót xa.” Một ánh sao cô
độc, mà vẫn chung thủy, chân tình muôn thuở. Song,
Chắc chi thiên hạ người ta,
Cũng thương cho một cành hoa
héo tàn
(Theo Nguyễn Trãi)
Ta yêu người, sao người chối
bỏ? Ta yêu đời, sao đời ruồng rẫy? Không đâu. Bóng thời gian đi qua, mấy ai
không đầu bạc. Bởi vì con nước trôi xuôi cho nên bến bờ cô độc. Bởi vì thời
gian hóa thân thành lịch sử, để cho mặt đất dậy lửa, và khung trời khói ám,
người chơi vơi trong cuộc chiến tình thù. Hãy chờ khi dứt cuộc chiến trong ta,
khi mặt trời đổ màu xám xanh lên tử thi trên chiến địa, ta đi nhặt những ngôi
sao đã tắt trong con mắt lịm của một thời, yêu và hận, sống và chết:
Một phương đã rực suối nguồn
Vai mang xiềng xích vẫn thương
bạo tàn
(Cát và sông)
Ta hận người, vì bóng chiều tàn
hoang dại. Ta vẫn yêu người trong hơi thở còn ấm giọng Mẹ ru. Vẫn lầm lì trên
phố thị, cho hết buổi thanh xuân. Bỗng chốc, phố thị, điện đường, lâu đài, tất
cả biến mất. Trong bóng tối mịt mù của ngày tận diệt, ta ngửa bàn tay, chờ đợi.
Bất giác, long lanh một ánh sao rừng, như giọt sương ngưng tụ trong tinh thể
tồn sinh. Ngày xưa, ta ngủ say trong lòng Mẹ, chợt thấy trên tóc Mẹ một đóa sao
cài. Ngày sau, trong cuộc Lữ đi tìm tính thể tồn sinh trong tính thể hủy diệt,
đâu đó mơ hồ một đóa sao cài:
Tóc em nửa đóa sao cài
Đã long lanh nỗi lạc loài sương
vây…
Và tôi hột cát xa mờ
Một đêm nào bỗng tình cờ sương
tan
(Trong giọt sương tan)
Hai câu thơ đẹp kinh hồn. Làm
sao ta có thể tĩnh lặng, âm thầm, lắng đọng, để nhìn thấy giọt sương lấp lánh
trên tóc Ai? Giọt sương soi bóng ngôi sao nào đó lẻ loi, heo hút; giữa một trời
sương lạnh buốt kinh người. Đấy thôi, tàn cuộc nhân sinh. Một trời sương bảng
lãng. Một vì sao cô độc, lấp lánh, và long lanh như khóe mắt vương nỗi sầu
thiên cổ, nỗi sầu trường mộng nhân sinh.
Rồi anh bước đi, và tôi cũng
bước đi, từ giã nơi này, vô định, như hột cát xa mờ, để mà
Ngùi nghe trái đất thì thầm
Nhỏ dòng máu lệ kiếp trầm luân
sâu.
Trong mỗi bài thơ, trong cả tập
thơ, tôi nhặt từng hạt sương, mà chợt nghe lạnh buốt âm thầm, bởi đâu đó trong
hoài niệm xa xôi, đôi mắt u huyền của một thời, một đoạn đời đã thành thiên cổ.
Những hạt sương trong lòng tay chợt thoáng tan; dòng thời gian ngưng động, để
đông cứng thành hạt bụi, ray rứt.
Còn gì nữa chăng?
Trong ta là núi là rừng
Là trăm tiếng hát đã dừng trên
môi.
Vẫn còn ngân vang mãi đó, lời
ru của Mẹ, trong vần thơ sáu tám.
Tuệ Sỹ
BẰNG HỮU CUỐI TRỜI: NHÀ THƠ
HOÀI KHANH
Viên Linh
Kỳ này người bạn
thơ ở nửa vòng trái đất phía Ðông xa vời vợi kia hiện ra trong tâm trí người
viết là nhà thơ Hoài Khanh, người bạn từ thuở cho tôi xem bản thảo “Dâng Rừng,”
sau này năm 1957 trở thành thi phẩm đầu tay của anh.
Còn nhớ Dâng Rừng
có cái tranh cắt giấy mầu tím của Phạm Hoán in trên bìa giấy trắng, và những
bài thơ của thuở vào đời, mặc dù anh hơn tôi tới bốn năm tuổi. Không chỉ là nhà
thơ, bảy tám năm sau Hoài Khanh là thư ký tòa soạn tạp chí Giữ Thơm Quê Mẹ của Sư
Ông Nhất Hạnh. Lúc ấy, 1965, Văn Học Phật Giáo lên như diều, báo văn học mà in
khổ lớn, ngang dọc 7 inch x 9 inch 1/2 (18cm x 25 cm), cỡ lớn nhất, bìa in nền
màu trên giấy trắng (thay vì dùng giấy màu), dầy hơn một trăm trang (nói cách
khác, dầy gấp đôi các tạp chí văn nghệ bình thường, vì cũng hơn một trăm trang
nhưng khổ nhỏ - nhỏ bằng nửa - cỡ phổ thông của nhà thơ Nguyễn Vỹ hay tạp chí
Văn xuất bản năm trước, của Nguyễn Ðình Vượng). Ðã thế, tờ Giữ Thơm Quê Mẹ lại
qui tụ những tác giả lớn viết thường xuyên, hầu như số nào cũng có bài, là Nhất
Hạnh, Hồ Hữu Tường, Tam Ích, Phạm Duy, Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam, Bùi Giáng, và
tiếp theo là Dương Nghiễm Mậu, Trụ Vũ, Nguyễn Ðức Sơn, Thành Tôn, Phạm Công
Thiện. Tới số 5 mới có bài của Viên Linh, Trần Tuấn Kiệt, Hữu Phương. Mặc dầu
chủ nhiệm Nhất Hạnh có ảnh hưởng rõ rệt, song Hoài Khanh quen rộng, nên tờ báo
gây tiếng vang đáng kể.
Xuất hiện rất sớm,
trong vòng 10 năm Hoài Khanh Võ Văn Quế in bốn năm tập thơ, dịch sách thiền,
chủ trương nhà xuất bản Ca Dao, song con người thơ của Cà Ty Phan Thiết không
được đón nhận đúng mức. Ðiều ghi nhận đầu tiên là khuôn mặt anh buồn bã quá,
không phải nét buồn của lãng mạn hoài tình, mà nét âm u khắc khổ của nhịn nhục.
Nó hiện ra với vẻ chủ bại rõ rệt, chẳng thế mà khi 29 tuổi anh cho xuất bản thi
phẩm thứ hai mang nhan đề Thân Phận.
Bài đầu tiên anh
xác nhận chỗ đứng bị bỏ lại phía sau của mình, ngay ở nhan đề:
(Hoài Khanh, Thân
Phận, trang 11)
Cũng có lúc chàng
lộ vẻ quả quyết, nhưng không quả quyết sống hay quả quyết làm một cái gì, mà
chỉ quả quyết sẽ buồn:
Lạnh rồi tự buổi xanh non
Búp măng tơ ấy đã tròn gió sương
Con sông nào đã xa nguồn
Thì con sông đó sẽ buồn với tôi
(Hoài Khanh, Dòng
sông của tôi)
Người bạn thân
nhất của Hoài Khanh là Phạm Công Thiện cũng tỏ ra bất mãn vì cái vẻ buồn bã cố
hữu của bạn. Xa nhau rất lâu, một ngày tác giả Thân Phận từ Biên Hòa lên Ðà Lạt
thăm bạn, gặp nhau bất ngờ, Phạm Công Thiết kể lại: “Vừa bước về nhà, chợt thấy
Khanh, tôi rưng rưng ôm anh mà hôn… Chúng tôi dẫn nhau lang thang trên những
đường phố tối tăm nhất, lắng nghe tiếng chó sủa và lắng nghe tiếng lòng mình
rạo rực đau khổ vì quá bơ vơ, vì quá lạc lõng giữa sa mạc loài người […]. Mấy
ngày anh ăn Tết với tôi ở Ðà Lạt, anh chỉ im lặng và ít nói. Chúng tôi thương
nhau lắm. Thế mà chỉ nhìn nét mặt của anh và chỉ nghe sự im lặng của anh, tôi
kinh hoàng đi. Tôi muốn đuổi anh đi ngay, tôi muốn đuổi một hình ảnh hãi hùng…
Nhìn nét mặt Khanh, tôi thấy sự chết, tôi thấy bệnh hoạn, đau khổ, quằn quại,
khắc khoải,…” (Phạm Công Thiện, Nỗi Cô Ðơn của Hoài Khanh và thay lời Tựa).
Không gặp nhau bốn
chục năm, song từ xa xưa còn nhớ Hoài Khanh không phải là con người của thành
phố. Anh quá thận trọng, hay quá rụt rè. Anh xa lạ với tất cả xung quanh, ít ra
là người ta cảm thấy thế. Ðoạn văn sau đây của Phạm Công Thiện đã cho người đọc
thấy một khía cạnh mông lung mờ nhạt của người bạn thi sĩ:
“Thế rồi cách đây
một tuần, lúc về Sài Gòn, tôi có ghé lại Biên Hòa để gặp Khanh. Khanh chỉ ở một
mình, trong một căn nhà tồi tàn, tôi nhìn lên vách và gặp những bức tranh của
Michel Ange, của Van Gogh và Picasso, những bức ảnh của Pasternak, Evtushenko,
Salinger, Hemingway và Camus, rồi tôi nhìn Khanh. Bỗng nhiên tôi thấy tất cả sự
vật ngừng lại, cả thế giới đứng lặng lờ và Hoài Khanh cũng đứng lặng lờ như một
bức ảnh treo tường.” (bài trên)
Nhưng Trần Tuấn
Kiệt mô tả Hoài Khanh xác thực hơn, cụ thể hơn: “Viết đến Hoài Khanh, tôi lại
nghĩ đến một người muốn an phận, không chịu đựng nổi cái đời sống văn… nghệ quá
hỗn tạp. Anh sống trong một nông trại, nuôi gia súc, ở Biên Hòa. Thỉnh thoảng
về Sài Gòn thăm bè bạn. Gặp Hoài Khanh, nhìn gương mặt khắc khổ của anh, nghe
anh khuyên nên về vườn lập nông trại. Tôi rất ước ao một cuộc đời bình dị như
vậy.” (Trần Tuấn Kiệt, Thi Ca Việt Nam Hiện Ðại, 1880-1965, Khai Trí, Sài Gòn,
1967)
Nhà thơ thiền giả
Tuệ Sỹ phát hiện Hoài Khanh vừa đẹp, vừa vang vọng bi kịch của lịch sử:
“Tình cờ, những
câu thơ lục bát của Hoài Khanh chợt khuấy động. Nó ngân vang từ phương trời
đồng vọng của Nguyễn Du, ngay giữa dòng lịch sử cuồn cuộn sóng, hay bên lề cuộc
lữ tồn sinh. Ấy là âm vang đồng vọng trên những bước chân:
(Hoài Khanh, Lục
Bát và Tựa của Tuệ Sỹ, Phương Ðông xuất bản, Sài Gòn 2010).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét