Thứ Tư, 28 tháng 4, 2021

Nhạc tính dân ca cổ: Nhạc điệu - Nhịp điệu

Nhạc tính dân ca cổ: 
Nhạc điệu - Nhịp điệu

Ca Dao, trước khi trở thành Dân Ca, được coi là thơ thuần túy, nằm trong lãnh vực thi văn, và được phổ biến trong dân chúng với lối đọc thông thường, chưa phải là "bình thơ" hay "ngâm thơ" gì cả. Tuy nhiên, vì tính chất đặc biệt của tiếng Việt và của một thể thơ được dùng nhiều trong ca dao là thể "lục bát", lối "đọc" ca dao, tuy chưa qua hẳn địa hạt âm nhạc như lối "hát", cũng đã có nhiều "nhạc tính" rồi. Ta hãy nói về phần nhạc điệu của tiếng Việt.
Nhạc điệu tiếng Việt: Âm và thanh
Tiếng Việt là tiếng đơn âm, nghĩa là mỗi tiếng chỉ có một "âm", nhưng mỗi âm lại có nhiều "thanh", tức là cách phát âm hoặc cao hoặc thấp, hoặc bổng hoặc trầm. Chữ quốc ngữ có 5 dấu (sắc, huyền, hỏi, ngã, nặng) và những chữ không có dấu (bằng) cho nên tiếng Việt, trên căn bản, có tới 6 thanh khác nhau. Các nhà ngôn ngữ học đã ghi ra bằng đồ bản (graphic) và đặt tên các thanh đó.
Ðồ Bản

ma

mạ

mả

Tên các thanh

Các thanh

(Pháp ngữ)

(Anh ngữ)

ma (bằng)

haut-plain

 no tone

mà (huyền)

bas-plain

falling-tone

mạ (nặng)

bas-glottal

low-constricted tone

mả (hỏi)

bas mélodique

falling-rising tone

má (sắc)

haut-mélodique

high-rising tone

mã (ngã)

haut-glottal

high-constricted-broken tone

Chúng ta đã biết tiếng Việt có sáu thanh. Ðó là những tiếng có 1 hay 2 hoặc 3 nguyên âm (vowels) ở đằng sau:
ma mà mả mã má mạ
đôi đồi đổi đỗi đối đội
muôi muồi muổi muỗi muối muội
Nhưng những tiếng có 1 hay 2 phụ âm (consonns) ở đằng sau thì lại có tới 8 thanh:
thiên thiền thiển thiễn thiến thiện thiết thiệt
tinh tình tỉnh tĩnh tính tịnh tính tịnh
Vì tiếng nói Việt Nam có 6 hay 8 thanh khác nhau cho nên đọc một câu ca dao lên - chỉ đọc thôi - là cũng thấy một nét nhạc thô sơ rồi.
Nhịp Ðiệu Thơ Lục-Bát
Vận tiết trong thơ lục bát rất là phong phú, tùy theo từng câu thơ cho nên nếu đọc thơ cho khéo thì về phần tiết tấu, ta cũng đã đi gần tới âm nhạc rồi. Sau đây là 4 câu ca dao lục bát, ý nghĩa khác nhau. Nếu đọc cho đúng vận tiết của từng câu thơ, ta sẽ có nhiều nhạc điệu khác nhau:
1) Vận tiết 1, giản dị, chỉ dùng nốt móc đơn (eighth note) và nốt trắng (half note):
Ai đem con sáo sang sông
Ðể cho con sáo xổ lồng bay xa
(đánh nhịp vào chữ có đậm nét)
2) Vận tiết 2 cũng như vận tiết 3 phải dùng nốt-liên-ba (triolets) thì mới nhấn mạnh được ý nghĩa của câu ca dao:
Ði đâu có anh có tôi
Người ta mới biết là đôi vợ chồng
3) Vận tiết 3
Mẹ chồng dữ
Mẹ chồng chết
Nàng dâu có nết
Nàng dâu sống lâu
4) Vận tiết 4 phải dùng nhiều nốt-đen (quarter note) để thấy được sự chậm chạp trèo núi:
Yêu
Nhau
Tam tứ núi cũng trèo
Thập bát sông cũng lội
Cửu thập đèo cũng qua
Nhấn Giọng = Ngâm và Bình
Tiếng Việt là tiếng đơn âm cho nên mỗi chữ được đọc lên là chỉ nằm trong một thanh như đã ghi lại ở đoạn trên đây. Ca dao Việt Nam khi mới chỉ được đọc lên mà thôi thì chưa có sự làm đẹp cho từng chữ, dù rằng trong tiếng Việt có tiếng ngang bằng, cao thấp, trầm bổng khiến cho người ngoại quốc, khi nghe ta nói tiếng nước ta, thì thường cho là hát. Làm đẹp cho ca dao hay thơ lục bát, tức là đưa thi ca tới âm nhạc, ta có hai hình thức "ngâm" và "bình", ở đây tuy chưa áp dụng đầy đủ các qui luật của âm nhạc, ta cũng đã dùng đến một nhạc tính là sự "nhấn giọng" hay "bẻ giọng" (inflexion).
Nhấn giọng là mỗi một chữ của câu ca dao phải dùng tới 2 hoặc 3 thanh để diễn tả. Ví dụ: Khi ngâm thơ (hay ca dao) theo điệu Sa Mạc, một số chữ đã được nhấn giọng.
NGÂM chưa phải là HÁT cho nên chưa có nhịp điệu.
Hát Ca Dao
Phổ Nhạc Ca Dao
Ngâm Thơ hay Bình Thơ mới chỉ là công tác di chuyển ca dao từ lãnh vực thi văn qua âm nhạc, đưa câu thơ vào một vài hệ thống ngũ cung. Nhưng câu thơ không bắt buộc phải nằm chết trong một nét nhạc nào cả. Cùng một câu thơ, mỗi lần ngâm hay bình lên, không lần nào phải giống nhau. Lại càng không có chuyện thay đổi vận tiết (prosody) của câu thơ.
Một số những áng thi ca bất hủ như Kim Vân Kiều của Nguyễn Du, Lục Vân Tiên của Nguyễn Ðình Chiểu đã cho chúng ta một vài lối ngâm như kể Kiều và nói thơ Vân Tiên (nói ở đây không phải là nói thường, mà là "nói một cách véo von", nghĩa là ngâm lên vậy).
Cũng vì thơ không phải chỉ được in ra để đọc mà được ngâm lên để nghe cho nên thơ dễ vào quần chúng và khi làm như vậy, người ta đã tiến tới công việc chuyển thơ thành nhạc, nói một cách khác là người ta đã phổ nhạc ca dao. Mới đầu việc phổ thơ còn thô sơ (như "kể Kiều" chẳng hạn) về sau sẽ phức tạp hơn (ví dụ: "hát ả đào")
Ca dao, khi được hát lên, đương nhiên trở thành "câu ca dân gian" hay "bài ca dân gian", nói tắt là dân ca. Làm cho ca dao trở thành dân ca là áp dụng các quy luật "hành âm, hành điệu" (melodic, harmonic movement) vào những câu thơ. Trong thực tế, ta thấy trong dân ca cổ Việt Nam đã có những câu "láy", tức là những câu "tái hiện" (repetition) hay "mô phỏng" (imitation). Ta cũng thấy có hiện tượng đổi lớp, chẳng hạn "lớp trống" (male) hay "lớp mái" (female), lớp trên hay lớp dưới, nghĩa là có sự "phát triển nhạc đề" (developpement of the musical theme). Cả hai hiện tượng vừa kể là những âm luật căn bản của bất cứ một bài hát hay một bản nhạc nào, của bất cứ một dân tộc nào trên thế giới.
Ví dụ câu ca dao:
Ai đem con sáo sang sông
Nên chi con sáo sổ lồng bay xa...
... khi được hát lên thành bài (hay điệu) Lý Con Sáo thì có thêm những câu "láy", câu "lót" hay những câu "đệm"... và có lớp trên, lớp dưới:
Lớp trên: Ai đem con sáo sang sông
Câu láy, lót, đệm: Nên ế ê chi, nên chi con sáo ơi người ơi!
Lớp dưới: Xổ ô ô ô lồng ơi người ơi bay y xa...
* tiếng lót, tiếng đệm = làm cho nét nhạc phong phú hơn.
** bài hát chia ra 2 lớp, mỗi lớp là một đoạn đơn (periphrase), 2 đoạn đơn làm thành một đoạn kép (phrase).
Nói tóm lại, dân ca cổ truyền của chúng ta (ancient folk song, vocal music) đã bắt rễ từ ca dao (oral poetry) nhưng ngoài bộ áo thi văn căn bản đó, nó đã vào nằm hẳn trong lĩnh vực âm nhạc rồi.
Nói Thoáng Qua Về
Thang Âm Trong Dân Ca Cổ
Âm nhạc cổ truyền Việt Nam, nhất là Dân Ca Cổ dùng thang âm 5 cung bực mà ta thường gọi là "âm giai ngũ cung". Ðó là thang âm: Do Re Fa Sol La.
Nhưng có những câu hát (hay bài hát) Việt Nam chỉ nằm trong những thang âm ít cung bực hơn, là:
a) thang âm nhị cung Fa Do
b) thang âm tam cung Fa Do Sol
c) thang âm tứ cung Fa Do Sol Re
* Nhị Cung Fa Do, qua câu:
Hát Nói trong Hát Ả Ðào
Hồng hồng tuyết tuyết Fa Fa Do Do
Mới ngày nào chẳng biết cái chi chi Do Fa Fa Fa Do Do Do Do...
Nói Sử trong Hát Chèo
Ngày hôm qua tôi ra đường gặp gái Fa Do Do Do Do Fa Fa Do
Tôi trở lại về không Do Do Do Fa Do...
Thể đảo của Fa Do là Do Fa:
Hò trong Hò Hò Ta
Hò dô ta Do Fa Fa
Là hò dô ta Do Do Fa Fa...
À ạ ơi trong RU CON
À ạ ơi Do Do Fa...
* Tam Cung Fa Do Sol có 3 Dạng. Dạng đầu là Fa Sol Do:
Hò Huế
À à ơi Fa Sol Do...
Dạng Do Fa Sol được dùng trong hầu hết các trò chơi của nhi đồng:
Tập Tầm Vông
Tập Tầm Vông Do Do Fa
Tay nào không Fa Do Fa
Tay nào có Fa Do Sol
Tập tầm vó Do Do Sol
Tay nào có Fa Do Sol
Tay nào không Fa Do Fa...
Oẳn Tù Tì (One Two Three)
Oẳn tù tì Do Do Do
Ra cái gì Fa Sol Do
Ra cái nầy Fa Sol Do...
Chơi Ði Trốn
Cùm nụm cùm niên Do Do Do Fa
Tay tí tay tiên Fa Sol Fa Fa
Ðồng tiền chiếc đũa Do Do Sol Sol
Hốt lúa bà bóng Sol Sol Do Sol
Ăn trộm trứng gà Fa Do Sol Do
Bà xa bà xít Do Fa Do Sol
Con rắn con rít Fa Sol Fa Sol
Thì ra tay này Do Fa Fa Do
Trẻ con Pháp nắm tay hát chơi cũng dùng Tam Cung, Dạng Do Fa Sol:
Entrez dans la ronde Fa Fa Fa Sol Fa Do
Entrez dans la ronde Fa Fa Fa Sol Fa Do...
* Tứ Cung Fa Do Sol Re là thang âm được dùng khá nhiều trong Dân Ca Cổ Việt Nam:
Hò Ru Con (Huế)
Chiều chiều ra đứng Sol Do Re Fa
Bờ sông Sol Do
Muốn về quê mẹ Sol Do Re Sol
Mà à không Sol Do Fa
Có y đò Do Re Do...
* Ngũ Cung Do Re Fa Sol La, đối với dân ca thế giới, được coi như là đã có đầy đủ cung bực và quãng âm để xây dựng một nền nhạc lẫy lừng của Thời Trung Cổ (trong đó có nhạc cổ truyền Việt Nam). Nhưng âm nhạc của nhân loại, tùy theo nhu cầu của những quốc gia không ở chung một khu vực địa dư, không có chung một nền văn hóa, đã đi theo những tiến trình riêng biệt. Nhạc Âu Tây không ngưng lại ở Nhạc Ngũ Cung. Nó bước khỏi nhạc điệu thức (modal) để tiến tới nhạc chủ thể (tonal) với âm giai 7 cung (diatonic), rồi còn đi vào con đường nhạc vô thể (atonal) với thang âm 12 cung (dodecaphonic).
Dân Ca Cổ Việt Nam, khi tới giai đoạn ngũ cung, đã có 5 Dạng do các thể đảo mà ra:
1) Trước hết là Dạng hay Thể I được dùng trong điệu ru con miền Bắc. Nét nhạc chỉ nằm gọn trong chuỗi 5 cung Do Re Fa Sol La, không ra khỏi Thể hay Dạng này, cũng như không thiếu một cung nào trong 5 cung đó:
Ro Con (miền Bắc):
Cái ngủ mày ngủ cho a à lâu La Sol Fa Fa Fa La Sol Fa Re Do Do Re Fa
Mẹ mà đi cấy y y a Fa Fa Sol La La Sol Fa
Ruộng sâu chưa a về Re Do Fa Fa Re Do...
2) Tới Dạng (Thể) II, khởi sự từ cung Re, Ngũ Cung Việt Nam có nét nhạc giống như "Re minor" của Âu Tây: Re Fa Sol La Do (Re). Ta thấy nó trong điệu Ngâm Sa Mạc.
3) Tới Dạng hay Thể thứ III của ngũ cung là: Fa Sol La Do Re. Nét nhạc đó là nét nhạc của câu mở đầu cho bài Lý Con Cò.
4) Tiếp tục nghiên cứu các Dạng của ngũ cung, ta thấy nét nhạc của bài Lý Ngựa Tây nằm trong Dạng hay Thể IV của Ngũ Cung: Sol La Do Re Fa.
5) Dạng cuối cùng của ngũ cung là La Do Re Fa Sol. Ta thấy Dạng IV đó trong một bài hát miền Bắc là Con Cú Rũ.
Chuyển Hệ Trong Dân Ca Cổ
Nghiên cứu kỹ càng nhạc cổ truyền Việt Nam, ta sẽ thấy trong một số bài dân ca có sự di chuyển từ hệ thống ngũ cung Do Re Fa Sol La qua hệ thống Re Mi Sol La Si khiến cho người chỉ học nhạc chủ thể (tonal music) tưởng rằng đó là nhạc 7 cung (diatonic) vì thấy tất cả cung bực Do, Re, Mi, Fa, Sol, La, SI hiện ra...
Ví dụ bài Cây Trúc Xinh có hai câu nhạc. Câu đầu nằm trong hệ thống ngũ cung Do Re Fa Sol La với dạng Re Fa Sol La Do:
Cây trúc xinh Re Sol Fa Re
Tang tình là cây trúc mọc Re Do La, La Do Re, Re Do Sol La
Qua lới nọ như bờ ao Re Fa Re La Do La Do Re
Chị Hai xinh La Do Re...
Qua tới câu sau thì ta thấy lòi ra cung Si:
Tang tình là chị Hai đứng Re Do La La Si La Re
Ðứng đứng nơi nào Re Si La Re
Qua lới xinh cùng xinh Sol La Re Si La Sol La...
Ta phải hiểu rằng nét nhạc đã chuyển từ hệ thống ngũ cung Re Fa Sol La Do qua một hệ thống khác khởi sự từ cung Re, là hệ thống Re Mi Sol La Si.
Một bài hát được dùng trong Hát Ả Ðào, bài Chuốc Rượu, có tới ba lần chuyển hệ, dù nó chỉ là một câu lục-bát ngắn ngủi:
Câu lục: Tay tiên chuốc chén rượu đào
Câu bát: Ðổ đi thời tiếc, uống vào thời say...
Câu lục được chia đôi ra. Nét nhạc của bốn chữ "Tay tiên chuốc chén" nằm trong ngũ cung Sol La Do Re Mi. Hai chữ "rượu đào" tiếp theo được đổi qua ngũ cung Re Mi Sol La Si. Thêm vào câu hát là 2 chữ của câu bát, được hát với 2 chữ lót: "Nói rằng đổ đi". Nhạc chuyển qua ngũ cung Do Re Fa Sol La. Tiếp tục là nửa trên của câu bát "đổ đi thời tiếc", nét nhạc trở lại ngũ cung Sol La Do Re Mi. Rồi với 2 chữ "uống vào", nét nhạc lại chuyển qua Re Mi Sol La Si. Bài hát kết thúc với những chữ còn lại của câu bát, có thêm câu lót "Á ru tình ru" với nét nhạc chuyển qua Do Re Fa Sol La.
Sự Biến Hình của Ngũ Cung Việt Nam
Chúng ta đã biết qua sự hình thành của một thang âm. Nhạc ngũ cung của Việt Nam cũng như của nhiều dân tộc trên thế giới, nói chung là loại nhạc ra đời vào thời Trung Cổ và vẫn còn tồn tại cho tới ngày nay, là sự ngưng lại Nhạc Ngũ Cung. Nghệ thuật âm nhạc ở Âu Tây phát triển tới Nhạc 7 Cung (rồi sau này, tới Nhạc12 cung) và với nhạc thuật "chuyển cung, hòa âm, đối âm..." trở thành loại Nhạc Không Lời với hình thức "nhạc giao hưởng" (symphonic).
Nhạc ngũ cung Việt Nam thì được phát triển với hiện tượng "chuyển hệ" (chuyển từ một hệ thống ngũ cung này qua một hệ thống ngũ cung khác). Nhưng dân ca, dân nhạc Việt Nam không ngưng lại ở đó. Sau khi thang âm ngũ cung được thành hình, đã có một sự biến hình của thang âm đó.
Hơi, Ðiệu
Sự biến hình đó là: một số cung bực trong thang âm không còn đứng y nguyên một chỗ nữa, khiến cho ta phải gọi là "thang âm lơ lớ" (non precise), đối với lỗ tai của người quen nghe nhạc được xây dựng trên âm giai đã được "điều hòa" (tempered). Vì trong nhạc Việt Nam có thêm "thang âm lơ lớ" ngoài "thang âm ngũ cung đúng" cho nên trong quá trình phát triển của nền âm nhạc dân tộc, chúng ta đã có những cái tên "Ðiệu Bắc, Ðiệu Nam, hơi ai, hơi oán" vân vân...
Trong nhạc cổ truyền Việt Nam ta thấy có những bài bản nằm riêng trong từng điệu tùy theo công dụng của nó:
* Ðiệu Bắc: diễn tả niềm vui vẻ.
* Ðiệu Nam: diễn tả sự buồn rầu.
* Ðiệu Nhạc: diễn tả sự uy nghi, vẻ trang nghiêm.
Mỗi Ðiệu lại có thêm một hơi để nhấn mạnh tình cảm.
* Ðiệu Bắc, hơi Khách = pha trộn điệu Tầu vào.
* Ðiệu Nam, hơi Xuân = diễn tả sự bâng khuâng.
* Ðiệu Nam, hơi Ai hay Oán = diễn tả sự buồn thảm.
* Ðiệu Nam, hơi Ðảo = từ Ðiệu Nam đảo qua Bắc.
Sở dĩ Nhạc Ngũ Cung Việt Nam đã có được những hơi, điệu khác nhau như vậy, đó chính là nhờ ở sự biến hình của thang âm ngũ cung. Sự biến hình của thang âm được thể hiện như sau:
* Nếu là Ðiệu Bắc thì vị trí các cung bực trong thang âm đứng y nguyên, không thay đổi.
* Nếu là Ðiệu Nam, hơi ai hay hơi oán thì 2 cung bực trong thang âm bị "non đi" hay "già hơn", nghĩa là bị giảm đi hoặc tăng lên, tuy nhiên không trở thành một "nốt giảm" (bémol) hay một "nốt thăng (sharp)" như trong nhạc lý Âu Tây.
Cung bực yếu
Cung bực mạnh
Những nhạc học gia chuyên khảo về nhạc ngũ cung đã cho rằng trong một hệ thống 5 cung bực như Do Re Fa Sol La chẳng hạn, có những và những "cung yếu".
Cung Do (âm gốc) = mạnh.
Quãng 5 của nó, cung Sol = mạnh.
Cung Re và cung La = yếu.
Cung Fa (âm bán-gốc) = lúc mạnh, lúc yếu.
Cung bực mạnh thì vững vàng, không thay đổi vị trí. Cung bực yếu thì bị cung mạnh khống chế, thu hút, do đó đã bị cung mạnh ở dưới kéo xuống trở thành non đi... hoặc bị cung mạnh ở trên hút lên thành ra già đi, cao độ không những không còn ở vị trí cũ nữa mà còn lửng lơ không nằm nhất định ở một bán-cung hay 1/4 cung trên hay dưới...
Sau đây là sự so sánh giữa một thang âm đúng và hai thang âm lơ lớ cùng với sự áp dụng vào ba bài hát lý của ba Miền nước Việt.
* Ngũ cung mà Ðiệu Bắc thường dùng là một ngũ cung đúng, các cung bực có cao độ nhất định không thay đổi: Do (mạnh) Re (yếu) Fa (mạnh) Sol (mạnh) La (yếu)...
* Ngũ cung Ðiệu Nam hơi Ai là một ngũ cung lơ lớ, các cung yếu bị cung mạnh thu hút, hoặc lên, hoặc xuống. Cung Re non đi. Cung Fa già đi. Cung La bị hút xuống : Do - Re non - Fa già - Sol - La non...
* Ngũ cung Ðiệu Nam hơi Oán là ngũ cung lơ lớ, các cung yếu bị hút lên, cung Re trở thành Mi. Cung Fa bao giờ cũng vuốt lên Sol. Cung La, trong hơi ai đi xuống thì bây giờ đi lên, có khi còn vươn gần tới Sib nữa: Do - Re già gần thành Mi - Fa già - Sol - La có khi thành Si non...
Ba Ðiệu Lý Con Sáo
Một câu ca dao về "con sáo sang sông" đã trở thành ba bài hát lý ở ba miền. Và ở mỗi miền, nhạc điệu đi theo với qui luật về "hơi, điệu" của địa phương.
Lý Con Sáo Bắc thì có một "ngũ cung đúng", nghĩa là các cung bực trong ngũ cung không thay đổi vị trí. Các quãng âm giữ y nguyên cao độ của mình.
Lý Con Sáo Huế thì được hát với Ngũ cung Ðiệu Nam hơi Ai, trong đó những cung yếu bị cung mạnh hút lên hay hút xuống. Cung La và cung Fa như bị cung Sol thu hút thành ra lơ lớ. Cung Re cũng không đứng nguyên chỗ. Các cao độ trong ngũ cung ngoại trừ những cung Do và Sol, không còn đứng trong vị trí cố định nữa.
Lý Con Sáo Miền Nam hát theo điệu Lý Lu Là thì nằm trong ngũ cung điệu Nam hơi Oán. Những cung bực bị hút xuống bây giờ lại bị hút lên. Cung Re vươn lên Mib hay Mi thường. Cung La ở trong hơi Ai bị kéo xuống thì bây giờ vươn lên vị trí cũ.

Phạm Duy
Theo https://phamduy.com/


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Giải mã tục cúng Thần Tài vào mùng 10 tháng giêng âm lịch

Giải mã tục cúng Thần Tài vào mùng 10 tháng giêng âm lịch Khoảng hơn 10 năm trở lại đây, trên báo chí và mạng xã hội thường phản ánh chuyệ...