Tiểu thuyết Vĩnh Phúc - Phần 3a
XUÂN MAI
Người về chốn cũ
Tiểu thuyết đoạt Giải B,
Giải thưởng VHNT tỉnh Vĩnh Phúc 5 năm lần thứ IV (2011 - 2015)
Sử làng Sơn Đông viết về Tả tướng quốc Trần Nguyên
Hãn “Thập đại kinh luân mao ức lý, nhân trạch từ miếu” (Sau mười năm đi chinh chiến, về ở lại ngôi nhà cũ)
Lời đầu sách
Tả tướng quốc Trần Nguyên Hãn là một người “hữu học thức,
tinh binh pháp” và đã trở thành anh hùng dân tộc trong cuộc khởi
nghĩa chống quân Minh của nghĩa quân Lam Sơn (1418 -1427) do Lê Lợi lãnh đạo…
nhưng ông lại không thể là một công thần trọn vẹn của triều Lê! Trần Nguyên Hãn
không chết vì kẻ thù bạo ngược trong chiến tranh mà nhiều người cho rằng, ông
phải chết vì sự nghi kỵ của nhà vua trong lúc thái bình. Điều này khiến tôi
không thể không tìm hiểu để viết về ông.Đồng tình với ý kiến của nhà thơ Nguyễn Quang Thiều - Phó Chủ
tịch Hội Nhà văn Việt Nam: … “Các nhà văn không phải là các nhà
sử học. Bởi vậy sáng tạo văn học về đề tài lịch sử không phải là công việc ghi
chép các chi tiết hay tổng hợp những tư liệu về một sự kiện lịch sử, một giai
đoạn lịch sử hay một nhân vật lịch sử. Sáng tạo văn học về đề tài lịch sử là
làm hiện lên chân lý và nhân cách của sự kiện lịch sử ấy và của nhân vật làm ra
lịch sử ấy… Vì vậy, trực tiếp hay gián tiếp thì cái cốt yếu trong tác phẩm
văn học viết về lịch sử là dựng lên nhân cách và tinh thần sống của những con
người làm nên lịch sử bằng cái nhìn vừa mang tính khoa học, vừa đầy trí tưởng
tượng phong phú của mình” “Chân lý và nhân cách của lịch sử” - Đề dẫn Hội
thảo Sáng tạo văn học về đề tài lịch sử - Báo Văn Nghệ, số 37, ngày 15/ 9/
2012)… Cho nên khi viết “Người về chốn cũ” tôi chỉ tập trung xây dựng nhân cách
Trần Nguyễn Hãn, cùng những cống hiến to lớn của ông trong cuộc khởi nghĩa Lam
Sơn, đồng thời góp một tiếng nói làm rõ thêm về cái chết của ông. Và, đã viết khác
đi so với hai sự kiện được chép trong chính sử. Đó là:1- Ngày 12 / 2 / 1416, Lê Lợi cùng 18 người thân
tín nhất đã tổ chức Hội thề ở làng Lũng Nhai, trong đó có Nguyễn Trãi (Sách
Lam Sơn khởi nghĩa - NXB khoa học xã hội, 1977).2- Nhờ có Lê Lai “liều mình cứu chúa” nên Lê Lợi
và các tướng khác mới trốn thoát qua vòng vây hiểm yếu của giặc Minh. Lê Lai
cũng không chết vì giặc Minh. Nhưng về sau này, vì tính đa nghi mà Lê Lợi đã giết
Lê Lai và nhiều công thần khác (Đại Việt sử ký toàn thư)Nhân dịp tập sách được phát hành, tôi có lời trân trọng cám
ơn bà Trần Thị Phú (Hà Nội), một số bạn bè, đặc biệt là nhà nghiên cứu lịch sử
Lê Kim Thuyên đã cung cấp những tư liệu chính sử về Trần Nguyên Hãn để tôi có
cơ sở hoàn thành tiểu thuyết dã sử này.TÁC GIẢPHẦN THỨ NHẤTNhững ngày ở Đa Cai 1 Vào những ngày đất nước đang có quá nhiều biến động: Nhà Trần
suy yếu, Hồ Quý Ly chiếm đoạt ngôi vua và thẳng tay giết hại tôn tộc nhà Trần
thì một hôm người dân thôn Đa Cai bỗng dưng thấy xuất hiện một cặp vợ chồng trẻ
không biết từ đâu về trú ngụ. Hai người tìm đến một vạt rừng cuối cùng của
thôn. Đấy là một khu đất tương đối bằng phẳng, hoang sơ, rậm rạp mọc toàn cây
lau, gianh, tế, sim, mua và trăm thứ cây cỏ dại khác. Họ bảo nhau dựng một túp
lều, mái lợp bằng cỏ gianh, tường che bằng phên nứa, nép mình dưới bóng mấy cây
lim cổ thụ.Ngày lại ngày, dân làng thường thấy hai vợ chồng nhà nọ phát
cỏ, đánh gốc, bốc trà lấy đất tra lúa nương, trồng ngô, khoai, sắn. Họ lại biết
vào trong rừng sâu, đi sang mấy vùng đất lân cận nhặt hàng thúng quả dọc đem về
phơi khô, lấy hạt, giã mịn như bột ngô, đun sôi nóng, trộn với rơm, đóng thành
từng bánh, rồi ép lấy dầu, hai vợ chồng lại đem đi bán ở các chợ Gốm, Bạch Hạc
trong vùng... Dầu dọc vừa nhẹ, vừa thơm mùi hương rừng, chỉ cần đổ vào cái đĩa
hoặc bát nhỏ, thả bấc vào, châm lửa là có một ngọn đèn dầu sáng lấp lóa nên ai
ai cũng thích mua. Nhờ có nghề ép dầu dọc này tuy công phu, vất vả, mất rất nhiều
sức lực nhưng bù lại, vợ chồng họ có thêm thu nhập để có cái sinh nhai.Một thời gian sau vì nhu cầu giao tiếp, vì tò mò
mà dân thôn Đa Cai mới biết, hai vợ chồng trẻ ấy là Trần Nguyên Án và Lê Thị
Hoàn. Nghe phong thanh hình như họ là dòng dõi tôn thất nhà Trần, quê ở mãi dưới
Hải Dương hay Thái Bình, không rõ nguyên do gì khiến phải lên vùng khỉ
ho, cò gáy này sinh sống?Năm ấy, Trần Nguyên Án ba mươi tuổi. Lê Thị Hoàn
kém chàng hai tuổi. Vậy nhưng hai người vẫn chưa có lấy một mụn con. “Có chồng
mà chả có con - Khác gì hoa nở trên non một mình”. Theo câu ca dao ấy, nếu như
Lê Thị Hoàn buồn héo hắt một, chồng nàng còn nặng nỗi niềm mười. Có một đứa
con, nhất là con trai, bấy lâu nay vẫn là nỗi khát khao cháy bỏng trong lòng
Án. Nỗi khao khát ấy càng trở nên bỏng rát mỗi khi chàng nghĩ về dòng tộc nhà
mình, hay nhìn thấy một người nào đó bế một đứa trẻ.Giữa lúc hai vợ chồng Trần Nguyên Án hầu như thất vọng hoàn
toàn về đường con cái, may sao họ lại gặp bà Mến, người trong thôn Đa Cai. Bà Mến
mới ngoài năm mươi, người gầy khô như con cá mắm. Vì biết đỡ đẻ nên dân làng vẫn
quen gọi bà là bà Bẫm. Hôm ấy, trên đường đi hái củi trong rừng về, bà Mến ghé
vào nhà Trần Nguyên Án xin hớp nước. Qua vài câu chuyện bà biết vợ chồng nhà
này chưa đứng số nên Trời chưa cho có con. Bà khuyên họ nếu muốn có con thì phải
đi cầu tự. “ Cầu ở đâu hả bà?” Nghe Lê Thị Hoàn sốt sắng hỏi, bà Mến bảo:- Lên chùa Tây Thiên trên núi Tam Đảo mà cầu. Tôi thấy vô số
người đi cầu về đều có mang cả đấy.Theo sự chỉ dẫn của bà Mến, hai vợ chồng Trần Nguyên Án chuẩn
bị đầy đủ lễ vật gồm mười ba tờ tiền, mười ba loại hoa quả khác nhau và mười ba
thứ đồ chơi dành cho trẻ con, sau đó chọn giờ tốt, ngày tốt, hai vợ chồng cuốc
bộ lên Tam Đảo.Tam Đảo là một khu danh thắng có từ thời Hùng Triệu Vương. Ở
giữa núi Tam Đảo có ngọn Kim Thiên cao chót vót với rất nhiều ghềnh đá. Phía dưới
là vực sâu, nước màu xanh chàm, không nhìn thấy đáy. Ngang sườn núi là chùa Tây
Thiên. Xung quanh chùa là tre, là thông xanh tốt bao bọc. Cảnh sắc phải công nhận
là hết sức thanh bình. Chùa Tây Thiên còn gọi là Quốc mẫu Tây Thiên. Nơi đây thờ
bà Lăng Thị Tiêu. Bà là Hoàng phi của vua Hùng thứ bảy. Khi mất bà hiển thánh rất
thiêng, nhờ có bà phù hộ mà vua Hùng thứ tám đã đánh thắng Thục Phán. Trong đền
thờ bà có bức hoành phi: Mộc bản thủy nguyên”, nghĩa là cây có gốc,
nước có nguồn để tri ân quốc mẫu, Lăng Thị Tiêu được coi là Thần chủ núi Tam Đảo.Vợ chồng Trần Nguyên Án cắm cúi đi mất gần hai ngày trời mới
leo lên tới chùa Thượng Tây Thiên. Một thầy sư đầu trọc lốc, mặc quần áo thụng,
màu vàng tiếp và dẫn vợ chồng chàng vào đền. Án nhìn thấy trong đền có hai bức
nghi môn bằng gỗ, chạm nổi cảnh “Nhạc công - Thiên thần”. Hai bức nghi môn này
được làm bằng nhiều mảnh ván nhỏ ghép lại thành chữ U đặt ngược, chắn ngay trước
điện thờ. Trên mặt nghi môn chạm nổi hình mười một người, đều là nữ, đang cử nhạc
và múa hát trong mây. Những phụ nữ này đầu đội mũ miện, mình mặc áo thụng, cổ
khoác những dải lụa mềm. Khuôn mặt ai cũng đẹp, thanh tú. Họ được chia ra bố
trí đều đặn trên ba phần của nghi môn., Phần trên, ở giữa có ba người ngồi xếp
bằng tròn theo hàng ngang. Tám người còn lại được chia đều sang hai bên, mỗi
bên bốn người, bố trí theo chiều thẳng đứng. Người dưới cùng ở tư thế ngồi, hai
tay giang rộng ra với những hoa dây rậm rạp. Người thứ hai ngồi bên trên thổi
sáo. Người thứ ba một tay cầm quạt, một tay xòe ra như múa. Người đứng trên
cùng đánh đàn nguyệt. Phủ kín toàn bộ hai bức nghi môn là các hình cây, lá dày
đặc, có điểm xuyết hình chim phượng bay, rùa bò và hoa sen.Bày biện lễ vật xong, thầy sư bảo vợ chồng Trần Nguyên Án quỳ
xuống trước ban thờ. Đến lúc này chính mắt chàng mới nhìn thấy Phật ngồi trên
cao, vàng son, đèn nến lung linh, hương trầm quyến rũ, cõi thiêng quấn quít. Và
tai chàng được nghe âm nhạc nhà chùa. Chao ôi, mỗi tiếng chuông ngân vang thỉnh
lên như khẳng định một nhịp đời siêu thoát, mỗi nhịp mõ đều đều như ru dắt hồn
người về nơi vô định.Trong cái không khí linh thiêng, huyền bí ấy, vợ
chồng Trần Nguyên án vẫn nghe được rất rõ từng chữ, từng lời thầy sư đang thay
mình bày tỏ nỗi lòng với thần, với Phật.Nam mô a di đà Phật!Con lạy chín phương trời, lạy mười phương chư Phật, chư Phật
mười phương.Con lạy Thiên quan - Linh thần nơi bản địa ở khu vực này.Đệ tử con là Trần Nguyên Án, cùng vợ con là Lê Thị Hoàn, ngụ
tại thôn Đa Cai, trang Sơn Đông.Hôm nay nhân ngày lành, tháng tốt, khí tiết năm Quý Tỵ… Bầu trời
cao vút tỏa sáng phúc lành. Vợ chồng con thành tâm thiết lễ, cùng dâng sớ trạng
kính lạy Trung thiên mệnh chủ, Bắc cực tử vi, Ngọc đế Thiên quân bệ hạ, giáng
trần soi xét cho gia đình con được có con trai, con gái. Hạnh phúc xum vầy truyền
vào hậu thế. Con lạy cung thái dương, Nguyệt cung Thái âm, Đông
phương thánh đế, Bắc phương hắc đế, Tây phương bạch đế, kính cáo tôn thần chư vị,
các thần linh giáng trần soi xét chữ cương thường đạo lý vợ chồng cho con được
cửa rộng, nhà cao, tiền của dồi dào, có con trai, con gái thông minh, học hành
chăm chỉ, một niềm kính thiện.Con kính lạy quan Nam Tào, Bắc Đẩu, Thái Bạch, Thái Tuế, Văn
Xương, Văn Khúc, Nhị thập bát tú, ngũ hành tinh quân. Trước án liệt vị tinh quân
tôn thần Tản viên đại thánh, Trần triều Hưng đạo Quốc tảng đại vương, cùng tiên
Phật thánh thần Quan âm bồ tát, chí đức tôn linh hiển thành thần thông tiết độ
cho con được có con trai, con gái để trọn vẹn hiếu sinh hạnh phúc gia đình
trong ấm ngoài êm để ông bà, chồng vợ chân tình thương yêu chăm sóc. Làm điều
thiện được âm dương báo đáp, cây trái thêm hoa sinh sôi nảy nở. Trước án liệt vị
các tinh quân tôn thần xa thôi lại theo gần, xin giải trừ vận hạn, tiêu trừ yêu
ma, tai ách làm muộn đường con trai/ con gái.Chúng con người trần, nhục nhãn nan chi, việc trần thế chưa
tường, việc âm chưa tỏ. Thánh sinh nơi trần tục, mệnh bởi cung trời cầu xin Thần
Phật đức độ cao dày, hạ trần giáng thế cho con điều thiện, cho con hạnh phúc,
có con trai, con gái, có của, vượng đinh như vượng tài để trên gánh việc thánh,
dưới gánh việc trần, phúc địa đãi phúc nhân, gia đình hai dòng họ vui chữ nghi
gia truyền vào hậu thế.Gia đình chúng con bút son thêm số, số ngọc thêm năm, vượng
đinh vượng tài, thêm người thêm của. Hạnh phúc của gia đình dòng họ cùng cuộc đời
chúng con lại như nước tràn đầy chảy đến. Một nhà vui vẻ, oanh yến đậm đà, đào
hồng thắm biếc. Vậy xin yết cáo tôn thần cùng dâng sớ trạng Cầu tự, xin tỏ tấc
lòng thành giáng ban trăm phúc.Trăm lạy các tôn linh. Cúi nhờ ơn đức.Sở nguyện thành tâm.Vạn vọng bách bái Thần, Phật mười phương. Ban ơn phúc dày cho
chúng con được toại nguyện đường con cái.Khấn ba lần xong, thầy sư lại xin âm dương. Xin đến lần thứ
ba thầy mới nói, giọng vui như reo: “Được rồi. Một đồng sấp, một đồng ngửa đây
nhé”. Thầy vừa nói dứt lời bỗng bát hương trên bàn thờ cũng bùng cháy.Thầy sư nhìn vợ chồng Trần Nguyên Án đang cúi rạp sau lưng
mình bảo:- Thần, Phật đồng ý phù hộ rồi. Từ nay hai người chịu khó tu
nhân, tích đức thì sẽ được toại nguyện. Hai người lễ tạ ba lễ, lạy năm lạy đi.Với tâm trạng khấp khởi mừng thầm và thắc thỏm lo âu, vợ chồng
Trần Nguyên Án xuống núi trở về Đa Cai. Lại phải mất hai ngày cuốc bộ họ mới về
đến nhà. Đợi ráo mồ hôi, Lê Thị Hoàn đem váy áo ra bến Đông Hồ tắm giặt.Bến Đông Hồ ở phía trên ghềnh Đông Hồ, nằm bên bờ sông Lô,
cách nhà Trần Nguyên Án vài trăm mét. Đây là bên bồi của dòng sông. Không biết
từ bao giờ người dân Đa Cai đã lấy bến sông này làm nơi thay cho cái giếng
làng. Bến được kè bằng đá xanh, phía dưới chạy thoai thoải, chìm dần xuống lòng
sông, phía trên là mấy chục bậc lên xuống. Nơi đây có hai bến. Bến dưới dành để
trẻ con đùa nghịch và tắm cho trâu mỗi buổi chiều về; bến trên dành để người lớn
tắm giặt và lấy nước về ăn.Chiều hôm ấy, mới lưng lửng chiều, người dân Đa Cai còn đang
cặm cụi với công việc đồng áng, ruộng nương; còn bọn con trẻ thì đang chăn trâu
bò trên các đồi gò và mải mê với đánh khăng, đánh chắt. Thành thử bến Đông Hồ vốn
hầu như chiều nào cũng đông vui, tấp nập, rộn rã tiếng nói, tiếng cười là thế
mà lúc này lại vắng hoe. Không có ai ngoài con đò cắm bến với chú chim bói cá
ngủ gà ngủ gật trên con sào vút cao. Cuối tháng ba, cây gạo bên bến sông vẫn nở
hoa đỏ ối. Nắng ong ong trải dài trên triền ngô đang trổ cờ. Phấn hoa ngô bay
mù một khoảng trời, đậu xuống vàng ươm trên những vạt cỏ mươn mướt xanh.Lê Thị Hoàn một mình ra đến bến sông. Vắt váy yếm khô lên một
bụi cây, nàng xăm xăm lội xuống. Nước sông trong xanh, mát lẹm, quấn quít quanh
hai bắp chân nàng, hai đùi nàng. Nước ngập lên tới đâu, Lê Thị Hoàn vén váy cao
lên đến đấy. Cuối cùng, nàng chìm trong nước, nước nâng nàng lên vỗ về. Cứ để
nguyên váy áo, nàng bơi qua bơi lại, ngụp lặn thỏa thuê. Lúc lâu sau, Lê Thị
Hoàn cởi yếm, cởi váy vắt lên vai. Nàng khỏa thân trong nước. Đúng vào cái lúc
nàng cảm thấy toàn thân mình như đang tan ra thành thể khí thì bầu trời trên đầu
nàng bỗng lóa sáng. Đồng thời, một đám mây hình rồng từ dưới đáy sông bay vút
lên. Rồi cũng vẫn đám mây hình rồng ấy từ mãi trên không trung sà xuống nhằm
đúng chỗ nàng đang đứng mà trùm phủ lấy người nàng. Trong tích tắc Lê Thị Hoàn
thấy như mình bay lên với một cảm giác đê mê, mãn nguyện. Nàng chợt bừng tỉnh.
Không hiểu cái gì vừa xảy ra đối với mình, nàng hốt hoảng vội bơi vào bờ. Quên
cả mình không một miếng vải che thân, nàng tồng ngồng như đứa trẻ chạy đến bụi
cây. Mặc váy, đeo yếm xong, chân đi như không bén đất Lê Thị Hoàn về nhà.Hai vợ chồng Lê Thị Hoàn ăn cơm buổi tối xong, nàng bảo chồng
đi ngủ sớm. Nhìn hai má vợ chín lựng như bôi phấn hồng, nhất là hai con mắt biết
nói của nàng sáng lên long lanh, Án hiểu vợ đang muốn gì. Vốn hiểu biết ít nhiều
những chuyện không hay có thể xảy ra trong lúc vợ chồng chăn gối cần phải
tránh, đặc biệt là sau khi đi xa về, chàng ngần ngừ bảo vợ: “Đợi nửa đêm về
sáng hãy… Nếu không, dễ mắc phạm phòng lắm” - “Nhưng thiếp thấy trong người lạ
lắm. Thế chàng không muốn có con sao?”. Miệng hỏi, tay kéo, Lê Thị Hoàn gần như
lôi chồng lên giường, bắt chồng làm “chuyện ấy”.Khác với mọi lần, lần này Lê Thị Hoàn chủ động hoàn toàn.
Nàng kéo quần chồng tụt qua cái dải rút. Tay nàng sờ soạng, mâm mê “cậu
bé” của chàng. Quên tất những điều cần kiêng kỵ, Trần Nguyên Án ngồi dậy. Chàng
kéo váy vợ lên đến ngực. Tấm thân mình cá trắm tròn lẳn, chắc nịch của Lê Thị
Hoàn hiện ra lồ lộ trong quầng sáng nhạt nhòa của ngọn đèn dầu dọc chưa kịp tắt.
Án chậm rãi, nhẹ nhàng, thận trọng trong từng động tác ái ân với vợ. Vào thời
điểm cao trào nhất, Lê Thị Hoàn dướn cong người lên đón nhận từng đợt, từng đợt
sinh khí ấm nóng từ chồng truyền sang. Nàng sung sướng rên lên. Nàng mãn nguyện
nằm thẳng đượt, cổ ngoẹo sang một bên, tóc xõa ra. Chưa thấy vợ như thế này bao
giờ, Án lo lắng hỏi: “Nàng làm sao thế? Nàng mệt quá ư?” - “Không sao. Thiếp
không sao. Cho khéo lần này chúng mình sẽ có con. Trong người em lạ lắm kia” -
“Lạ là sao?” - “Chỉ biết thế. Thiếp không nói ra được”. Nàng bảo chồng vậy và
vít đầu chồng xuống, ghì sát mặt mình, hôn một cái hôn rõ dài.Ba tháng sau, kể từ tối hôm ấy, Lê Thị Hoàn tắt kinh. Vợ
chồng nàng cho là chuyến đi cầu tự đã có kết quả. Hóa ra qua Giao Long phủ nàng
ở bến Đông Hồ, ông Trời đã cho Tiên đồng giáng thế xuống làm con. Không dám kể
với ai nhưng hai vợ chồng Trần Nguyên Án cứ nghĩ thế, tin thế nên họ mừng lắm.
Bao nhiêu việc nặng nhọc hằng ngày Án tranh phần vợ, chàng làm hết. Cả hai khắc
khoải mong mỏi từng ngày, từng giờ cái ngày nàng mãn nguyệt, khai hoa.Mấy tháng đầu mang thai, Lê Thị Hoàn tự nhiên thèm “kẹo đất”
quá. “Kẹo đất” đây là bánh ngói, nguyên được làm từ đất sét non. Dân Đa Cai nhiều
người nghiện món ăn này. Phần lớn những người nghiện, ngoài các cụ 60, 70 tuổi,
còn là đàn ông thuộc lứa tuổi 40, 50, đàn bà 30, 40 tuổi, đặc biệt là phụ nữ có
chửa. Theo bà con trong thôn chỉ dẫn, Trần Nguyên Án đi mãi lên tận làng Long
Cương nằm ở phía Bắc Đa Cai tìm đào một cái hố sâu như một cái giếng chàng mới
khoét được một loại đất sét non có màu xám tro, có vệt màu đỏ, mềm, mịn nhưng
không hề có một chút cát, sạn.Được đất đem về, Trần Nguyên Án thái từng lát mỏng, dài bằng
2, 3 đầu ngón tay. Tiếp đó, chàng phơi khô cho hết mùi bùn, đất. Chừng nào những
miếng đất ấy chuyển sang màu xám trắng thì đem hun.Nơi hun bánh ngói là một cái giàn hình vuông được đan bằng
các cành cây tươi và dây rừng đặt lên trên một cái hố tròn, sâu hơn lòng chiếc
chảo một chút. Án đặt những miếng đất sét non đã được phơi khô lên trên cái
giàn đó. Bên trên cái giàn đất này, chàng úp một chiếc mẹt để giữ được nhiều
khói. Dưới lòng hố, Án chất đầy cành cây sim tươi, cỏ tế. Đấy là nguyên liệu
dùng lấy khói để hun đất. Trần Nguyên Án hun khoảng một buổi, những miếng đất ám
khói, khô giòn, vàng sẫm lại. Vậy là được một mẻ bánh ngói cho vợ.Lê Thị Hoàn ăn bánh ngói nàng khen “Ngon lắm, thơm bùi như
gan lợn”. Nhìn vợ ăn một cách ngon lành, Trần Nguyên Án cảm động. Thương vợ
quá. Nhà nghèo, không có gì bồi dưỡng cho nàng. Nghĩ thế, nước mắt Án rơm rớm
hai bờ mi.Trong thôn Đa Cai có thầy Nguyễn Thái An, vừa dạy học, vừa chữa
bệnh. Án đưa vợ đến nhờ thầy thăm khám sức khỏe và cố nhặt nhạnh mấy đồng cắt
thuốc dưỡng thai cho nàng, nhân đấy nhờ thầy bắt mạch cho Hoàn. Thầy đặt ngón
tay chỏ và ngón tay giữa của mình lên cổ tay nàng, nghiêng tai, lặng yên, lắng
nghe. Xong việc, thầy Thái An bảo: “Thai khỏe. Sẽ đẻ con trai. Không là con
trai cứ đặt kiềng lên lưng tôi mà nấu”. Hẳn chỉ cần nghe tim thai mà thầy cũng
đoán biết được là trai hay gái nên mới nói chắc như đinh đóng cột vậy. Vợ chồng
Trần Nguyên Án không giấu nổi niềm vui, reo hú lên. Điều này khiến họ mong mỏi
lại càng thêm nóng lòng chờ đợi. Và, như trăng đến rằm, trăng phải tròn; hoa đến
kỳ hoa phải nở; chín tháng mười ngày mang thai của Lê Thị Hoàn đã hết. Đêm nay
nàng trở dạ.Nửa đêm về sáng, Trần Nguyên Án đang ngon giấc thì bị vợ đánh
thức dậy. Nàng bảo: “Thiếp đau bụng quá. Có lẽ sắp sinh con. Chàng đi đón bà Bẫm
đi”. Từ khi vợ mang thai Trần Nguyên Án đã chờ đợi, đã hình dung ra cái giờ
phút thiêng liêng này sẽ đến mà bây giờ nghe Lê Thị Hoàn nói thế, chàng vẫn
không tránh khỏi tâm trạng vừa lo sợ, hồi hộp, vừa khấp khởi, vui mừng. Không kịp
mặc quần áo dài, chàng vội vã chạy như bay về thôn Đa Cai. Trong đêm tối mịt
mùng, chàng tìm đến nhà bà Mến nằm ở giữa thôn. Nghe bà khuyên, vợ chồng Trần
Nguyên Án mới biết đường đi cầu tự, vợ Án mới mang thai, ơn đức ấy của bà đối với
vợ chồng chàng thật như trời cao biển rộng. Lê Thị Hoàn mỗi khi gặp bà Mến vẫn
dặn bà: “Bà phải giúp con khi sinh nở” nên Án mới dám cậy nhờ bà giữa lúc đêm
hôm khuya khoắt thế này.Trần Nguyên Án cứ cẩn thận, ý tứ giữ gìn thế, chứ với
bà Mến, mỗi lần được ai nhờ đến đỡ đẻ là bà sẵn lòng đi ngay. Bà bảo, đỡ đẻ là
một việc làm phúc. “Gái chửa, cửa mả”, các cụ dạy vậy, không coi
thường được đâu. Với lại, “đàn ông vượt biển có chúng có bạn, đàn bà vượt cạn
chỉ có một mình”. Khổ lắm. Thấy người ta khổ thế, mình phải giúp chứ. Luôn thường
trực trong tâm mình cái ý nghĩ đó nên chẳng cần Án năn nỉ, nói khó
gì, bà Mến giục Án châm một bó đuốc bằng cây nứa ngâm khô, rồi hai bà
con bước thấp, bước cao, lúc đi, lúc chạy về nhà Án.Bà Mến lao vào trong buồng nơi Lê Thị Hoàn đang nằm trên chiếc
giường khung tre. Mặt nàng nhăn nhó. Miệng nàng kêu rên. Chân tay nàng lúc co
vào, lúc duỗi ra. Nàng đau đớn giãy giụa y như con giun bị người ta xéo lên. Bà
Mến bảo Hoàn không được kêu. Phải giữ sức để còn rặn. Vừa nói thế bà vừa kéo
váy nàng lên, đưa tay vào vùng kín của nàng sờ sờ, nắn nắn, đoạn quay ra bảo
Án:- Bá ấy vỡ nước ối rồi. Đầu nó quay ra đây rồi. Bác lấy cái
niêu đất đun ngay một nồi nước. Chuẩn bị cho tôi một sợi chỉ, một con dao bằng
tinh nứa…Trần Nguyên Án thắc mắc:- Thưa bà, để làm gì ạ?- Để tắm, rồi cắt rốn, buộc rốn cho nó chứ làm gì. Nhanh
nhanh tay lên kẻo không kịp.Bà Mến giục như cháy nhà, tưởng như Hoàn đẻ đến nơi. Vậy
mà Án đun nước đã xong, dao cắt rốn, chỉ buộc rốn cũng đã sẵn sàng
nhưng Hoàn vẫn chưa đẻ được. Bà Mến giải thích:- Bá ấy lớn tuổi, lại đẻ con so nên mới khó thế. Bác nghe
tôi, bây giờ bác phải trèo lên nóc nhà mà cầu Trời, khấn Phật phù hộ cho bá ấy
sinh nở mẹ tròn con vuông.Thương và lo cho vợ quá, Trần Nguyên Án lấy thang trèo lên
mái nhà. Đêm đã về sáng. Án ngửa mặt nhìn lên bầu trời xanh đen có ngàn vạn
ngôi sao đang nhấp nháy mà lầm rầm cầu khẩn. Khấn ba lần xong chàng mới xuống
ngồi đợi ở nhà ngoài. Mỗi lần nghe thấy bà Mến hô “cố lên, cố lên, con cố lên”
và vợ chàng ậm è rặn thì trái tim chàng lại như có ai bóp chặt, làm chàng đau đớn
đến nghẹt thở.Đứa bé vẫn chưa chịu ra. Bà Mến lại bảo Án:- Bác chịu khó nghe tôi lần này nữa xem có được không.- Bà bảo con lên rừng, xuống biển, hay nhảy vào lửa con cũng
chẳng nề hà. Phải làm gì nữa hả bà?- Bác không phải lên rừng, xuống biển, cũng không phải nhảy
vào lửa mà là lội xuống ao. Bây giờ bác vào trong thôn, lội qua ba cái ao để
van lạy Thủy thần phù hộ cho bá ấy.Lội qua ba cái ao vào lúc tiết trời đang còn lạnh, Án không sợ.
Cái mà chàng sợ là sợ lội xuống ao nhà người ta, nhỡ người ta tóm được, cho rằng
mình đánh trộm cá thì biết ăn nói thế nào? Ngại ngần thế nhưng Án vẫn phải làm
theo lời bà Mến. May mà thôn Đa Cai hầu như nhà nào cũng có ao. Ao để chủ nhà lấy
nước nuôi cá, lấy nước tưới vườn, lấy nước thả bèo cho lợn, giờ Án lại biết
thêm, ao còn là nơi dành cho các đức ông chồng lội xuống cầu khẩn, van lạy thủy
thần phù hộ cho các bà vợ dễ sinh nở. Trần Nguyên Án lội qua, lội lại qua ba
cái ao của ba nhà, tổng cộng cả thảy chín lần. Vừa lội bì bõm, miệng chàng vừa
lẩm nhẩm: “Con lạy thánh mớ bái. Con lạy thần linh, thủy thần nơi đây, rủ lòng
thương xót, phù hộ độ trì cho vợ con là Lê Thị Hoàn sinh nở được mẹ tròn con
vuông”.Làm xong việc bà Mến bảo, Trần Nguyên án chạy vội về nhà. Mệt
mỏi quá, chàng ngồi bệt xuống cái chõng tre kê ở ngoài hiên, thở như kéo bễ.
Không kịp thay bộ quần áo ướt như chuột lột, lòng đầy lo lắng chàng hỏi với
vào:- Nhà con chưa sinh cháu hả bà?- Chửa. Thôi được rồi. Tôi còn cách này. Bác vào đây giúp tôi
một tay.Lại làm theo lời bà Mến chỉ dẫn, Trần Nguyên Án lấy một cái kẹo
bột bọc trong miếng giấy bóng màu hồng. Chàng lại tìm một sợi dây cước, buộc
chiếc kẹo ấy vào một đầu, đầu kia buộc vào một cái que tre, tạo thành một cái cần
như cần câu cá rô. đoạn đưa cho bà Mến.Sau hai ba canh đau đớn, kêu khóc, vật vã, quằn quại, dường
như Lê Thị Hoàn đã kiệt sức. Nàng nằm im như chết. Nhận chiếc “cần câu” từ hai
tay Án đưa, bà Mến ngồi xuống phía cuối giường, nơi Lê Thị Hoàn đang nằm. Bà dứ
dứ chiếc “cần câu” cho cái kẹo giống như mồi câu nhấp nhô, lên xuống ngay trước
cửa mình nàng và nhắc đi nhắc lại mãi một câu: “Cu ơi. Ra mà ăn kẹo. Ra mà ăn kẹo,
cu ơi”.Lê Thị Hoàn đang nhăn nhó, thấy thế tức cười quá, cửa mình
nàng mở rộng thêm. Nàng càng cố nhịn cười, cửa mình nàng càng mở rộng. Nhịn chả
được, nàng bật cười lớn, theo đó, nàng mím miệng rặn một hơi thật mạnh. Lập tức
đứa bé trong bụng nàng thoài loài ra nhưng không khóc. Bà Mến nhanh chóng bế nó
lên, phát vào mông nó ba cái. Bấy giờ nó mới “oa, oa, oa” khóc. Tiếng khóc to,
khỏe xé toạc màn đêm yên tĩnh, xuyên vào không gian như muốn báo cho trên thế
gian có một sinh linh vừa mới chào đời. Cùng với tiếng khóc, bà Mến cũng reo
lên: “Thằng cu. Bác Án đâu? Vào mà lon tay con này”. Đón thằng cu từ tay bà Mến,
Trần Nguyên Án mừng đến phát khóc. Còn Lê Thị Hoàn thì thiếp đi nhưng trên khóe
miệng nàng vẫn phảng phất một nụ cười mãn nguyện.Bà Mến tắm cho đứa bé bằng nước đun sôi để nguội chứa trong
cái nồi đất. Cắt rốn cho nó bằng con dao được làm từ cật nứa. Buộc rốn cho nó bằng
sợi chỉ gai. Sau đó, bà lấy tấm váy vá chằng vá đụp của bà quấn kín cho nó để lấy
khước. Xong việc, bà đặt đứa bé nằm bên mẹ. Không thể tưởng tượng được, một bà
già trông còm cõi, mắt mũi kèm nhèm lại thao tác những công việc ấy một cách
thuần thục, chính xác đến vậy. Quệt mồ hôi rịn ra trên trán, bà Mến dặn Trần
Nguyên Án:- Bác đem nồi nước với cái rau bà đẻ này chôn dưới giọt
gianh. Phải chôn đúng vào chỗ nước từ trên mái nhà chảy xuống đấy nhé.Án “vâng, dạ” làm theo lời bà Mến nói. Đợi chàng làm xong bà
lại bảo:- Trời sắp sáng rồi đấy. Bác nhóm bếp, nấu cơm nếp, thịt gà
làm cỗ ăn mừng bắt được thằng cu đi. Các thứ có sẵn cả chửa. Nếu không, sang
nhà tôi mà lấy.Lê Thị Hoàn cố ngóc đầu lên, thều thào bảo chồng gạo nếp để ở
đâu, bắt thịt con gà trống nào… Bà Mến xua tay:- Bá cứ nằm yên mà nghỉ. Gái mới đẻ đừng có nói nhiều. Nói
nhiều nay mai bị nói nhịu không ai nhịn được cười đâu.Uống hết một bát nước vối nóng ấm mà Án mới rót đưa cho, bà Mến
nói riêng với Án:- Thằng bé sinh đầu giờ Dần. Số nó sau này khá. Các cụ dạy:
Tuổi Thân thì mặc tuổi Thân, nếu sinh giờ Dần thì vẫn làm quan đấy bác ạ. Hôm
nay là ngay bao nhiêu bác nhỉ?- Thưa bà, ngày mùng một tháng hai, năm một ngàn ba trăm chín
mươi (1/2/1390)- Năm nay là năm Canh Ngọ, phải không bác?- Thưa bà, đúng ạ.- Thế thì nhất định số thằng bé sẽ khá. Mà tôi bảo nhé. Ngay
sáng hôm nay bác phải đi lấy mấy lá cây lau, hoặc hoa chuối rừng, hay một cành
lá xanh cũng được, bác buộc lại rồi đem treo trước cổng. Làm thế, ở đây chúng
tôi gọi là làm dấu cấm cữ. Phải cấm cữ một tháng để đứa bé không bị vía độc. Chả
may cháu có bị vía độc, không chịu ăn bú và khóc thì bác bá phải bế cháu đưa
qua, đưa lại trên bếp lửa. Vừa khấn đốt bóng, đốt vía của người có vía độc đó.
Tôi dặn thế, bác nhớ chửa?- Dạ, con nhớ.Trời mới hửng sáng. Trần Nguyên Án bước ra sân. Mưa xuân như
có ai tung phấn trắng lên trời. Cây đào, cây mận ngoài vườn hoa đang nở rộ. Hoa
xoan tim tím rải đầy nơi đầu ngõ. Dòng sông Lô phía trước cổng như tan trong lớp
sương mù trắng xóa. Lòng Án lâng lâng như chắp cánh muốn bay. Chàng sung sướng,
hãnh diện muốn hét to lên mà kính cáo với tổ tiên rằng: Từ nay tôn tộc nhà Trần
đã có người nối dõi. Chợt nghĩ mình đang ở đâu, mình đang phải giữ gìn
hình tích nên chàng kịp ngậm miệng lại. Thế nhưng trong lòng chàng thì lại
nôn nao nhớ về một vùng rừng xa xôi mãi dưới Chí Linh, cách đây không biết bao
nhiêu núi đồi, sông suối mà kể.Mấy ngày sau, với tấm lòng thành kính, biết ơn, Trần Nguyên
Án đích thân đem một ống dầu dọc, mấy ấm trà ngon đến tận nhà thầy Nguyễn Thái
An để biếu và cám ơn, nhân thể nhờ thầy đặt tên và xem tử vi cho con trai.Thầy Nguyễn Thái An chậm rãi đi xúc ấm pha trà đoạn rót
ra hai cái chén hạt mít mời Án một chén, thầy một chén. Uống xong một ngụm trà,
thầy nói:- Ở đời không ai là không mong cho con mình dù gái hay trai đều
có được một cái tên gọi hay, hoàn chỉnh, hàm ý phong phú, ngụ ý sâu sắc. Đặt
tên cho con là một học vấn có quan hệ đến văn tự học, âm vần học, dân tộc học,
thậm chí cả sử học, chứ không phải muốn đặt thế nào thì đặt. Bởi thế, con người
ta sinh ra phải được đặt tên một cách trang trọng. Từ khi có tên, người đó mới
được coi như chính thức bước vào xã hội loài người với sổ bộ ghi chép, giấy
khai sinh và hơn thế nữa, với bao hoài bão, ước mơ chứa đựng trong cái tên đó nữa.
Vì cái tên ấy sẽ theo suốt cuộc đời của người mang nó, như luôn soi rọi mọi
hành vi mà người đó mang theo, đúng hay không đúng với cái tên mình đã
mang. Cho nên tôi nghĩ là, tên bác là Án thì nên đặt tên con là Hãn. Trần
Nguyên Hãn. Bác thấy được không?Trần Nguyên Án chắp hai tay trước ngực lễ phép:- Thầy đã dạy vậy, vợ chồng con xin đội ơn ạ.Thầy Nguyễn Thái An lại mở tráp lấy ra một tập sách chữ nho
dày cộp. Gáy sách đã sờn nát. Bìa sách được thầy quét một lớp nhựa sung dày cứng
như da bò, bóng lên màu cánh gián. Thầy thận trọng lật giở vài trang, miệng lẩm
nhẩm đọc Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Hợi… Vừa đọc thầy vừa bấm đốt ngón tay.
Lúc sau, thầy Nguyễn Thái An quay lại nói với Án:- Cháu bé nhà ta sinh vào giờ, ngày, tháng, năm như bác nói
thì là người có cung đoài, trực mãn, mạng lộ bàng thổ, tức là đất đường đi.
Cháu là con nhà Huỳnh đế, xương con ngựa, tướng tinh con vượn. Tướng này, Phật
độ rằng: “Số này thân tự lập thân - Được người giúp đỡ có phần làm
nên - Lộc cao như núi Thái Sơn - Cơ mưu khéo léo chẳng hề ai hay”. Cuộc đời
lúc nhỏ có nhiều đảo lộn và sôi động. Được êm ấm và hưởng nhiều tình thương của
gia đình. Hạnh phúc bắt đầu ở vào tuổi ba mươi mốt. Nói chung cuộc đời có nhiều
phúc đức. Có thể thành công trên bước đường sự nghiệp, công danh nhưng cũng lắm
vất vả, nhiều đau buồn trong kiếp sống.Dứt lời, thầy nhìn thấy mặt Án nghệt ra vẻ hoang mang, lo lắng
liền an ủi:- Ấy là sách viết thế tôi nói cho bác biết thế. Bác cứ chiêm
nghiệm xem sao. Còn sống ở đời tôi nghiệm ra nhân định thắng thiên cũng nhiều.
Đức năng thắng số bác ạ.Ở nhà thầy Nguyễn Thái An ra về, loanh quanh với việc nọ việc
kia, chùm lá cấm cữ treo ở đầu cổng chưa héo hết đã đến ngày chẵn tháng sinh Trần
Nguyên Hãn.Không biết lễ cúng mụ cho con cần những thứ gì, văn khấn ra
sao, vợ chồng Trần Nguyên Án lại đến nhờ bà Mến. Bà Mến bảo, lễ cúng Mụ phải được
làm cẩn thận chu đáo. Bác về chuẩn bị các lễ vật bao gồm những thứ này: mười
hai đôi hài màu xanh, giống hệt nhau. Mười hai nén vàng xanh, giống hệt nhau.
Mười hai bộ váy áo màu xanh, giống hệt nhau. Mười hai miếng trầu cánh phượng,
giống hệt nhau. Mười hai bộ đồ chơi: Bát, đũa, thìa, chén, cốc, con giống, xe cộ,
mũ, nón làm bằng sành sứ, giống hệt nhau. Mười hai con cua, mười hai con ốc, mười
hai con tôm để sống, to nhỏ bằng nhau. Phẩm oản, bánh kẹo, hoa quả chia đều
thành mười hai phần giống nhau. Một mâm lễ mâm có rượu, xôi, gà, cơm canh, các
món. Một bát hương, lọ hoa tươi nhiều màu, tiền vàng, bát nước thanh thủy.Buổi sáng, đúng hôm cách ngày Trần Nguyên Hãn chào đời tròn
ba mươi ngày, đúng hẹn, bà Mến từ thôn Đa Cai đi vào nhà Án. Hôm nay bà ăn mặc
gọn gàng, áo nâu, yếm sồi, bao lưng gụ thắt quanh chiếc váy màu đen nhuộm bùn mới
cứng. Bà kiểm tra xem các thứ lễ vật đủ cả chưa. Bà tỏ ra hài lòng, vui vẻ bởi
vợ chồng Trần Nguyên Án đã làm theo đúng lời bà dặn. Tất cả lễ vật dâng bà Mụ
chúa, bà Mến đem đặt ở chính giữa phía trên hương án. Gọi là hương án cho đúng
ý nghĩa chứ thực ra đấy là tấm phên nứa được Trần Nguyên Án đặt trên hai cái
chân mễ cao lênh khênh để làm bàn thờ cúng gia thần, gia tiên. Lễ vật
dâng mười hai bà Mụ, bà Mến chia đều, đặt sang hai bên. Mâm lễ mặn cùng
hương hoa, trà tửu, nước thanh thủy bà đặt trên cùng. Bên dưới bà Mến đặt mâm
tôm, cua, ốc… Bày lễ vật xong, bà Mến bảo:- Bác Án ơi, bác thắp ba nén hương. Còn bá Hoàn bế thằng cu
Hãn ra đây. Hai mẹ con ngồi ở chỗ này, mặt hướng lên phía hương án nhé. Hương
cháy rồi. Tôi bắt đầu làm lễ nhé.Bà Mến ngồi bệt trên chiếc chiếu, hai tay chắp trước trán,
cúi lạy ba lạy dài rồi bà khấn:Nam mô a di đà PhậtNam mô a di đà PhậtNam mô a di đà PhậtCon kính lạy Đệ nhất Thiên tỷ đại tiên chúaCon kính lạy Đệ nhị Thiên đế đại tiên chúaCon kính lạy Đệ tam Tiên mụ đại tiên chúaCon kính lạy Thập nhị bộ Tiên nươngCon kính lạy Thập lục cung chư vị Tiên nươngHôm nay là ngày mùng một tháng ba năm Canh NgọVợ chồng con là Trần Nguyên Án và Lê Thị Hoàn, sinh
được con trai đặt tên là Trần Nguyên Hãn. Chúng con ngụ tại thôn Đa Cai, trang
Sơn Đông… Nay nhân ngày đầy cữ, chúng con thành tâm sửa biện hương hoa, lễ vật
và các thức cúng dâng bày lên trước án, trước bàn tọa chư vị Tôn thần kính cẩn
tâu trình:Nhờ ơn thập phương chư vị Phật, chư vị Thánh hiền, chư vị
Tiên bà, các đấng thần linh, Thổ công địa mạch, Thổ địa chính thần, Tiên tổ nội
ngoại cho con sinh ra cháu tên là Trần Nguyên Hãn, sinh ngày mùng một tháng
hai, được mẹ tròn con vuông.Cúi xin chư vị tiên Bà, chư vị Tôn thần giáng lâm trước án,
chứng giám lòng thành thụ hưởng lễ vật, phù hộ độ trì, vuốt ve che chở cho cháu
được ăn ngoan, ngủ yên, hay ăn chóng lớn, vô bệnh, vô tật. vô tai, vô ương, vô
hạn, vô ách, phù hộ cho cháu bé được tươi đẹp, thông minh, sáng láng, thân mệnh
bình yên, cường tráng, kiếp kiếp được hưởng vinh hoa phú quý. Gia đình chúng
con được phúc thọ an khang, nhân lành nảy nở, nghiệp dữ tiêu tan, bốn mùa không
hạn ách nghĩ lo.Xin thành tâm đỉnh lễ, cúi xin được chứng giám lòng thành.Nam mô a di đà PhậtNam mô a di đà PhậtNam mô a di đà Phật.Khấn xong, bà Mến bảo Lê Thị Hoàn chắp tay Trần Nguyên Hãn
vái trước hương án ba vái. Đợi cháy hết ba tuần hương, bà lại bảo Trần Nguyên
Án quỳ xuống, lễ tạ. Xong xuôi, bà Mến bảo chàng:- Bây giờ bác đem số vàng mã, váy áo này ra sân hóa đi. Lúc
đang hóa nhớ vẩy chén rượu cúng này bác nhé. Số tôm, cua, ốc thì bác đem đi
phóng sinh tại các ao, hồ hay ngoài bến sông Lô cũng được, để cầu phúc. Còn những
đồ chơi này bá Hoàn giữ lại nay mai cho cháu nó chơi để lấy khước.Sau buổi cúng mụ cho Trần Nguyên Hãn, các bà, các chị trong
thôn Đa Cai mới dám đến chơi với vợ chồng Trần Nguyên Án. Dù vợ chồng chàng thuộc
loại dân ngụ cư, thân cô thế cô giữa trang Sơn Đông này nhưng những năm tháng
sinh sống nơi đây hai người ăn ở với dân làng như bát nước đầy. Không có đám hỷ
nào Trần Nguyên Án không có mặt để chúc mừng. Những cụ già, khi đau yếu, bệnh tật
Án quà cáp thăm hỏi; khi qua đời án thăm viếng. Việc thôn, việc trang Án đều
tham gia đầy đủ, chu đáo. Sống ở làng quê mà ăn ở, ứng xử được như án là quý lắm.
Quý vợ chồng chàng nên người ta mới rủ nhau đến chơi. Người biếu Lê Thị Hoàn nải
chuối, người cho chục trứng gà, người đưa cân gạo nếp… Có chị đem cho Hãn mấy bộ
quần áo sơ sinh cũ. Chị ấy mắn đẻ, con đông mà đứa nào cũng khỏe, ngoan. Chị
cho Hãn mặc để lấy khước. Ai đến chơi cũng có quà, chả mấy người đến tay không,
không thứ này thì thứ khác. Vợ chồng Án từ chối thì họ bảo: “Tôi cho “thằng chó
con” này chứ có cho hai người đâu mà không nhận kia chứ”. Thằng chó con là Trần
Nguyên Hãn mới được hơn tháng tuổi mà dài rộng như con nhà người ta ba bốn
tháng. Tóc bé xanh ngần. Miệng bé rộng. Tai bé to. Mắt bé sáng và sếch. Có người
tỏ ra biết xem tướng khen, thằng bé có quý tướng. Sau này ắt phải làm quan. Lê
Thị Hoàn ôm con vào lòng, nựng nịu:- Được ăn cơm Đa Cai, uống nước sông Lô, nay mai lớn lên cháu
chỉ đi cày như các ông, các bà thôi, thằng chó con của mẹ nhể.Trước mặt mọi người nàng nói vậy chứ thực tâm nàng đang gửi gắm
rất nhiều hy vọng với bao nhiêu nỗi niềm, tâm trạng vào đứa con trai. Chẳng thế
mà những lúc đặt Trần Nguyên Hãn nằm trong chiếc chóng tre (*), vừa đưa đi
đẩy lại, nàng vừa ru cho con ngủ với những câu ca da diết: “Làm trai vác
cuốc, vác mai - Theo ông sư Lãng đua tài một phen - Làm trai chớ giữ phận
hèn - Xách điếu bưng tráp ho hen cho người”. Rồi: “Làm trai cho
đáng nên trai - Phú Xuân cũng trải, Đồng Nai cũng từng”…
Chú thích:
(*) Chõng tre: Nôi đan bằng tre
2. Đa Cai là một thôn của trang Sơn Đông. Trang Sơn Đông ngày ấy
là một vùng quê nằm trong vùng chiêm trũng. Cả miền đất của trang dường như đổ
dốc về phía Đông và bờ con sông Lô, còn sau lưng trang lại toàn đồi gò với rừng
rậm khiến cho Sơn Đông có cái thế “ỷ dốc”, tựa lưng vào núi đồi mà hiên ngang
chống chọi với lũ lụt, hiên ngang tồn tại trước thử thách của thiên nhiên từ
hàng ngàn năm trời rồi.
Để sống chung được với lũ lụt, những ngôi nhà ở Sơn Đông đã
được dựng lên với một cách làm thật đặc biệt: Tất cả các cột nhà đều làm bằng
cây tre tươi, chân cột chôn sâu gần một mét vào lòng đất mà vẫn nảy cành, đâm
lá. Mỗi tầng người ta đặt ngang bốn cây tre, bốn mặt, giằng các cột lại với
nhau như đóng cũi, cả trên lẫn dưới hai ba tầng, rồi đan đố, không trát vách.
Vào mùa mưa nước lũ tự do chảy tràn vào nhà. Không gặp tường chắn, lại tự
do chảy đi. Nhờ thế mà nhà mới không bị đổ. Đòn tay gác lên vì kèo. Mái nhà
không đóng rui mè. Lá cọ mua về nẹp từng cặp, xếp lên nhau mà lợp thành mái. Nước
dâng tới đâu, ván gác lên tới đấy, làm thành sàn để chứa lương thực, cất chăn,
màn, quần áo và chỗ người nằm. Gặp khi nước lũ dâng cao sát mái kèo, người ta gỡ
bỏ nẹp lá cọ, vạch thủng mái, chui lên nóc nhà và kéo tất cả đồ đạc, thức ăn
lên trên mái nhà. Không may nước dâng lên ngập cả mái thì, thuyền buộc quanh
nhà cũng đã nổi lên theo, bỏ các thứ vào thuyền, người ta chở cả súc vật và của
cải sơ tán sang các làng lân cận…
Để thích nghi được với cuộc sống nơi thường xuyên xảy ra lũ lụt,
nhất là vào mùa mưa, chỗ bếp nấu của người dân trang Sơn Đông cũng rất độc đáo:
Người ta đóng khung những tấm tre đan chắc chắn có chiều rộng khoảng trên một
mét, treo bên hiên đầu chòi. Phủ tro lên trên tấm phên để chống cháy, thay vì
không lấy được bùn để trát do nước quá sâu. Trên tấm đan, người ta bắc kiềng
lên nấu như thường. Củi rong rêu vớt được dưới dòng lũ đem vứt cả lên nóc nhà.
Nắng gió, củi sẽ khô dần. Khi chuẩn bị bữa cơm, chỉ cần thò tay lên mái nhà bẻ
củi, rút xuống mà đun nấu.
Một vùng quê sống giữa một vùng đất với thiên nhiên khắc nghiệt
tưởng như không thể khắc nghiệt hơn nhưng nhờ người dân biết cách sống hòa nhập
với thiên nhiên nên người ta không chỉ sống được mà trang Sơn Đông còn có vô khối
người làm rạng danh cho quê hương. Sơn Đông mang hình dáng chiếc “hia”. Các thầy
địa lý bảo rằng: Đấy là kiểu đất phát quan. Trong số người thi cử đỗ đạt nhưng
lại không ra làm quan có thầy Nguyễn Thái An.
Nhà thầy Nguyễn Thái An ở đầu thôn Đa Cai. Thế đất nhà thầy
cao hơn hơn vùng chiêm trũng một chút nên thầy không phải lo nhiều về chuyện ngập
lụt. Bởi thế, thầy mới làm một ngôi nhà gỗ ba gian, hai chái. Tường nhà xây bằng
đá ong, mái lợp bằng lá cọ. Gian giữa nhà thầy An kê bàn thờ và một chiếc phản
được ghép từ những tấm ván gỗ xoan. Bên trên bàn thờ thầy treo một bức hoành
phi với dòng chữ nho “Kính như tại”. Nghĩa là con cháu kính trọng tổ
tiên như lúc nào tổ tiên cũng tại vị trên bàn thờ. Hai bên bức hoành phi, thầy
treo hai câu đối: “Tổ tông công đức thiên nhiên thịnh/ Tử hiếu, tôn
hiền vạn đại vinh”. Thầy lược dịch mỗi khi có người hỏi nghĩa hai câu đối
là gì, là: Công đức tổ tông nghìn năm thịnh - Hiếu hiền con cháu vạn đời vinh.
Nhà thầy Nguyễn Thái An nhằm hướng Đông Nam, nhìn ra con
sông Lô. Để tránh nắng gió và lấy chỗ cho học trò ngồi học, phía ngoài hiên thầy
cho che ba tấm cánh dại, đan bằng tre. Phía cuối cái sân đất thầy trồng ba cây
cau với mấy cây hoa ngâu, hoa sói. Dưới mỗi gốc cau, thầy đặt một cái chum để hứng
nước mưa. Đây là loại nước thầy chỉ dùng vào việc đun sôi, pha trà mỗi sáng.
Như phần trên đã nói, thầy An sống bằng nghề dạy học và bốc
thuốc. Là thầy thuốc ai đến đón thầy về thăm bệnh tại gia thầy cũng đi. Tiền
nong thế nào cũng xong. Gặp phải người nghèo, gia cảnh khó khăn, không những thầy
không nhận tiền mà còn cho thêm. Là thầy dạy học nhưng thầy vẫn nói, dạy cho lũ
trẻ trong thôn thành người chứ thầy không dạy vì tiền. Đến vụ ai đem tới biếu
thầy vài đấu thóc, mấy củ khoai, mươi bắp ngô… còn phải nói khó thầy mới nhận.
Thầy An vốn là học trò của thầy Đỗ Khắc Chung. Đỗ Khắc Chung
là người làng Cam Lộ mãi dưới Hưng Yên. Thân phụ thầy là ông Đỗ Nhuận, thân mẫu
thầy là Vũ Thị Hương, người cùng làng, cả hai đều làm nghề thầy thuốc. Khi thi
cử chưa được đỗ đạt, Đỗ Khắc Chung đã có những năm tháng phiêu bạt lên tận nơi
sơn cùng, thủy tận này để mở trường dạy chữ và lễ nghĩa cho người dân trang Sơn
Đông.
Sau thời gian dạy học ở trang Sơn Đông, Đỗ Khắc Chung về triều
thi đỗ và tham gia hàng ngũ sĩ phu, làm quan triều Trần đến năm mươi năm. Bà
con trang Sơn Đông tôn vinh thầy Đỗ Khắc Chung làm Thành hoàng làng. Đền thờ thầy
được dân làng dựng ngay trên nền chính của ngôi trường xưa thầy dạy học. Nơi ấy
có thế đất giống cỗ bút nghiên như là chỉ ra làng này là nơi “đất học”. Trong đền
có hai câu đối: “Ô tưởng hùng phong tam thoái xá/ Long vương hồng
huống vạn tự niên”. Nghĩa là: Tướng Ô trước gió mạnh, lui về xá/
Long vương gặp sóng cả, sợ đến vạn năm.
Mỗi khi rảnh rỗi, thầy Nguyễn Thái An lại kể chuyện về thầy Đỗ
Khắc Chung cho các trò nghe. Sáng nay, thầy An kể về chuyện thầy Chung đối đáp
với tướng giặc Ô Mã Nhi.
Chuyện rằng, tháng Giêng năm 1285, giặc Nguyên tiến vào Vũ
Ninh, Đông Ngàn, chúng bắt được rất nhiều nghĩa quân nhà Trần. Chúng vô cùng tức
giận và giết hại mất khá nhiều người, bởi thấy ai cũng thích vào cánh tay mình
hai chữ “Sát Thát”. Trước tình thế chiến sự diễn ra rất phức tạp
và bất lợi cho ta, vua Trần Nhân Tông muốn nắm được một cách chính xác thực lực
của quân Nguyên, nhưng nhà Vua bối rối vì chưa biết ai có thể thực hiện được
nhiệm vụ quá khó khăn này. giữa lúc ấy thì Đỗ Khắc Chung xin tình nguyện
đảm nhận.
Đỗ Khắc Chung đem thư của vua Trần Nhân Tông đến gặp Ô Mã Nhi
ở Đông Bộ Đầu để vờ xin giảng hòa. Ô Mã Nhi chỉ mặt Đỗ Khắc Chung nói:
- Vua của nhà ngươi quá vô lễ. Tại sao dám sai mọi người
thích chữ Sát Thát vào cánh tay, chống lại quân ta? Cả gan dám chống lại thiên
binh, ta nói cho ngươi biết, lỗi ấy nặng lắm đấy.
Đỗ Khắc Chung bình thản đáp:
- Thưa ngài. Nếu chó nhà có cắn người lạ thì lỗi ấy đâu
phải chủ của nó. Vì lòng trung phẫn mà nghĩa quân và người dân nước tôi tự
thích hai chữ đó vào cánh tay. Việc làm này, nhà Vua tôi không biết. Còn tôi,
là một trung thần, tôi cũng thích hai chữ đó. Đây ngài xem đi.
Đỗ Khắc Chung vạch tay áo mình lên, giơ ra trước mắt Ô Mã
Nhi. Ô Mã Nhi liếc mắt nhìn qua rồi hỏi:
- Đại quân ta đã từ rất xa tới đây, tại sao vua tôi nước
ngươi không chịu quay giáo đến nhận lệnh mà lại cố tình chống trả? Các ngươi định
lấy càng con châu chấu để đá voi sao? Làm vậy sự thể liệu sẽ ra sao, hả?
- Thưa ngài. Là bởi vì ngài không noi theo kế sách của Hàn
Tin bên nước ngài, đi dẹp giặc nước Yên, đóng quân nơi biên ải gửi thư báo tin
trước. Nếu như vua nước tôi không chịu thông hiểu mới là có lỗi. Nay ngài gây
nên sự bức bách lẫn nhau, thế thì như cổ nhân nói, thú cùng đường tất phải cắn
lại, chim cùng lối thì sẽ mổ lại, huống chi là con người.
Nghe Đỗ Khắc Chung nhắc đến danh tướng Hàn Tín, người đời
Hán, đã nghe Lý Tả Xa bày mưu, trước khi tiến đánh đã gửi thư cho vua nước Yên.
Quả nhiên, vừa nhận được thư của Hàn Tin, vua nước Yên đã xin hàng… Ô Mã Nhi
nói, giọng có hạ xuống, tuy dọa dẫm nhưng vẻ hung hăng không còn:
- Nhà ngươi hiểu không, đại quân của ta chỉ mượn nước Đại Việt
làm đường để đi đánh Chiêm Thành. Giá mà vua của ngươi biết điều xin đến hội kiến
với ta thì bờ cõi nước Đại Việt đâu có bị xâm phạm, mà dân tình nước ngươi cũng
sẽ được yên ổn. Nay nếu cứ cố chấp, cứ cố tình chống lại thì chỉ trong khoảnh
khắc, núi non nước Đại Việt sẽ hóa thành đất bằng, Vua tôi nước ngươi sẽ hóa
thành cỏ nát.
Không còn gì để nói, Đỗ Khắc Chung bỏ về. Với vẻ thán phục, Ô
Mã Nhi quay lại nói với các tướng đang đứng hai bên:
- Người này ở vào lúc bị uy hiếp mà lời lẽ ứng đối vẫn tự
nhiên. Không chịu hạ thấp danh giá chủ, cũng không thèm nịnh ta. Dám ví việc
đánh ta như chó cắn người lạ. giỏi lắm thay. Đi sứ mà như thế thì có thể nói là
không làm làm nhục mệnh vua. Nước họ còn có người như vậy thì ta chưa dễ gì mưu
tính được.
Nói rồi, Ô Mã Nhi liền cho người đuổi theo Đỗ Khắc Chung để
đàm tiếp, nhưng đã muộn.
Kể hết chuyện, thầy Nguyễn Thái An, bùi ngùi nói thêm:
- Thầy Chung qua đời từ năm một ngàn ba trăm ba mươi (1330),
hưởng thọ tám mươi tư tuổi. Thầy thuộc hàng quan văn nhưng cái bất diệt mà thầy
để lại, được người đời ghi nhận lại chính là dũng khí của thầy trước một kẻ thù
hung bạo. Thầy đã thực hiện xuất sắc chiến lược vừa đánh, vừa đàm của triều
đình nhà Trần thời bấy giờ.
Trong số ít trò ngồi nghe như muốn nuốt lấy từng lời thầy An kể
có Trần Nguyên Hãn. Thầy An hỏi:
- Các trò, sau này lớn lên các con đều noi gương thầy Đỗ Khắc
Chung cả chứ?
Chỉ có Trần Nguyên Hãn đứng lên, khoanh tay đáp:
- Thưa thầy, lớn lên con thích làm quan võ hơn quan văn ạ.
Thầy bước tới, xoa đầu Hãn:
- Con có chí như vậy là tốt lắm. Thầy tin con. Đất nước mình
đang bị quân Minh xâm chiếm nên người có chí như Hãn thầy quý lắm.
Từ khi lên tám tuổi, Trần Nguyên Hãn được cha mẹ gửi đến học
tại nhà thầy Nguyễn Thái An. Biết tử vi của Hãn, lại thấy Hãn sáng dạ, học hành
thông minh, có ý chí hơn bạn bè cùng trang lứa, thật tình thầy rất quý Hãn.
Nhưng tình riêng ấy thầy vẫn giấu kín trong lòng. Không hiểu sao lần này, trước
câu trả lời của Hãn thầy lại nói buột ra?
Mấy thầy trò còn đang sống trong tâm trạng vừa cảm phục, vừa
bâng khuâng thương nhớ một con người đáng kính đã khuất núi mấy chục năm thì thầy
An có khách. Thầy An cho các trò ra chơi.
Như chim được sổ lồng, ngót chục đứa trẻ ùa ùa
kéo nhau chạy ra ngoài cổng làng. Ngoài này là những thửa ruộng bậc thang mới
được cày bừa vỡ, đất bạc màu lổn nhổn. Đây là nơi bày trận giả, lấy đất ném
nhau thật lý tưởng. Giống những trận “chiến đấu” không phân thắng bại mấy ngày
trước, hôm nay Trần Nguyên Hãn lại cầm đầu một bên, thằng Phạm Toán cầm đầu một
bên. Thoạt tiên, mỗi bên còn đứng cách xa nhau một mặt ruộng, nhặt những cục đất
to bằng củ đậu, ném vù vù sang phía đối phương. Một lúc sau, những đứa bị “ăn”
đạn, đau quá, liền liều chết xông lên trả thù. Có lẽ phần thương bạn thì ít mà
phần căm thù Hãn thì nhiều, thằng Toán đang lom khom nấp sau bụi cây, bỗng nó
nhảy xồ ra, hô to: “Xung phong”. Miệng hô, tay nó tới tấp ném đất như mưa về
phía Hãn. Hãn bình tĩnh né tránh. Biết Toán vẫn thù mình từ chiều hôm qua, vì
bênh cái Tuyển bị Toán bắt nạt, Hãn đã dìm Toán uống nước đến mấy bận ngoài bến
Đông Hồ nên Toán mới liều chết xông ra… nhưng Hãn vẫn chưa phản công lại. Tưởng
Hãn sợ, Toán càng xáp tới ném đất, ném cát vào đầu, vào người Hãn. Lùi không được,
tránh cũng không xong, bất ngờ, Trần Nguyên Hãn lao vào, ôm chầm lấy Toán. Quân
hai bên thấy hai tướng sắp đánh nhau to, vội vàng đứng xúm lại, vỗ tay cổ vũ,
reo hò ầm ĩ.
Hãn và Toán ghì chặt cánh tay vào nhau, ra sức đùn đẩy, tiến
lùi. Hai đứa tiến lùi đến đâu, mấy đứa đứng xem giãn ra đến đó. Cứ vậy, chúng
nó lúc co vào, lúc giãn ra theo nhịp trống mồm “tung, tung, tung” thúc giục dồn
dập của thằng Nguyễn Văn Bờ, bạn Hãn. Toán to cao, béo mập hơn Hãn nên mấy lần
nó nhấc Hãn lên khỏi mặt đất nhưng không thể nào quật cho Hãn lấm lưng, trắng bụng
được. Tức quá, Toán ngoạm vào cổ Hãn một miếng. Hãn đau điếng người nhưng cố chịu.
Lợi dụng lúc Toán đắc chí, nhanh như chớp, Hãn khoèo mạnh một phát vào chân
Toán. Bị bất ngờ, Toán ngã bật ngửa, đầu đập vào hòn đá, máu túa ra đỏ lòm ở cổ,
ở mặt… Hãn buông Toán, đứng dậy. Toán khóc toáng lên, vừa khóc nó vừa chửi Hãn
và chạy về mách thầy. Hãn cùng mấy đứa bạn lếch thếch chạy theo sau. Sợ sẽ bị
thầy cho ăn đòn nên mặt mũi đứa nào cũng xanh như đít nhái.
Thầy Nguyễn Thái An lấy thuốc cầm máu đắp vào vết thương cho
Toán xong thầy mới nghe Toán thưa bẩm. Nghe xong thầy lại hỏi Hãn. Biết rõ
nguyên cớ, thầy bảo Hãn phải đi múc nước rửa sạch vết máu ở cổ, ở mặt cho Toán.
Sau đó, thầy bắt hai đứa nằm sấp xuống phía trước dưới chân thầy. Những trò
khác, thầy bắt khoanh tay trước ngực, đứng xung quanh. Tay thầy cầm một
chiếc roi tết bằng sợi mây. Thầy giập giập, chứ không vụt, xuống mông Hãn mấy
cái, rồi lại chuyển sang giập giập xuống mông Toán mấy cái. Tuy thầy chưa đánh
mà hai đứa đã cảm thấy đau. Chúng oằn người, cong lưng. Tay chúng đưa
lên mông xoa xoa, che đỡ.
Sau một hồi giảng giải, phân tích đúng sai, thầy An bảo:
- Người quân tử có bốn điều hận. Các con có biết là những điều
gì không? Đó là hận người độc ác. Bởi loại người này thiếu mất lòng nhân hậu.
Đó là hận người dưới dám phạm thượng. Bởi loại người này không biết tôn kính.
Đó là hận kẻ có dũng mà không biết giữ lễ tiết. Bởi loại người này dễ phản trắc.
Đó là hận những người quả cảm, quyết đoán nhưng kém hiểu biết. Bởi loại người
này không tự biết mình đang gây tai họa. Thực tình ta rất hận các con. Vì các
con đã phạm vào bốn điều hận của người quân tử nhưng các con còn nhỏ nên hôm
nay ta cho hai đứa mỗi đứa nợ mười roi. Ta rất mong các con sau này lớn lên, đứa
nào cũng phải làm được như lời Khổng Tử dạy: “Thủy sự ư thân. Trung sự
ư quân. Chung lập ư thân”. Một người lúc còn trẻ ở nhà, phải phụng sự tốt
song thân. Lớn lên làm quan, phải hết mình phò vua, giúp nước. Khi già cáo lão,
hồi hương, phải giữ gìn khí tiết tuổi già. Các trò đã nghe rõ lời ta chưa? - Tất
cả cùng thưa: “Rõ rồi ạ”. Thầy An bảo - “Thôi, ta tha cho các con.
Từ ngày mai trở đi không được làm thầy phiền lòng như thế này nữa” - Nói rồi thầy
đứng dậy, giắt chiếc roi mây lên chỗ cũ, ngay trên cánh dại, dưới mái hiên.
Tan học, thầy An cho các trò về, riêng Trần Nguyên Hãn thầy bảo
ở lại. Không biết thầy bảo Hãn ở lại để làm gì hay là bị thầy phạt vì tội đánh
Toán? Nghĩ vậy, Bờ cứ lo thay cho Hãn. Cắp sách về trước mà lòng dạ Bờ quay cả
về phía Hãn.
Thầy Nguyễn Thái An không phạt Hãn. Trò Hãn đâu có lỗi trong
chuyện vật nhau với Toán, làm Toán ngã chảy máu đầu. Vốn cậy mình là con hào
trưởng, Toán hay vênh mặt lên, coi thiên hạ chẳng ra gì. Ngữ ấy phải có người
như Hãn kìm giữ may ra mới hết thói ỷ thế cha mẹ bắt nạt bạn bè. Thầy bảo
Hãn ngồi xuống tấm phản kê ở gian giữa nhà, nơi mà mỗi lần có khách đến chơi vẫn
được thầy mời ngồi. Hãn lẳng lặng làm theo. Thầy chậm rãi châm đóm, rít một hơi
thuốc lào, thở khói trắng mù trước mặt, đoạn thầy lại chiêu miệng một ngụm nước
chè xong mới hỏi:
- Người ta vẫn bảo, trên thế gian này có ba thế lực, trò Hãn
có biết là những thế lực nào không?
Nghĩ rằng mình hỏi để mà hỏi chứ mới lên mười tuổi làm sao
Hãn biết mà trả lời. Nhưng thầy đã nhầm. Hãn khoanh tay trước ngực, lễ phép
thưa:
- Bẩm thầy, có phải là Thiên, Địa, Nhân không ạ?
- Giỏi lắm. Mà sao đã biết con còn phải hỏi lại thầy?
Hãy tự tin con ạ. Đúng là Trời, Đất, Người là ba thế lực lớn nhất ở trên thế
gian này. Người nào muốn nắm được, muốn chỉ huy được ba thế lực ấy thì phải
thông tỏ từ cái yếu đến cái mạnh của từng thế lực một. Người đó thường là ai hả
con?
- Bẩm thầy, con nghĩ là nhà vua ạ.
- Đúng vậy. Đã làm vua ắt phải thông tỏ ba thế lực ấy. Chính
vì thế chữ “vương” mới viết như thế này.
Thầy Nguyễn Thái An lấy bút lông, quệt qua đĩa mực, vạch ba vạch
ngang, một vạch dọc nối liền qua ba vạch ngang lên tờ giấy bản, thầy giảng tiếp:
- Đây là Thiên, đây là Địa, đây là Nhân, còn đây là trí tuệ của
nhà Vua. Con người nhỏ bé mà đứng giữa vũ trụ đấy con ạ. Thầy biết con là người
có chí, ngay từ bây giờ con phải nuôi cái chí ấy lớn lên, chớ nên mất thời gian
sa đà vào những trò chơi vô ích. Tuy vậy, lại không được nôn nóng, sốt ruột.
Thầy rót nước, uống một ngụm nữa rồi mới viết thêm một chữ
“nho” bên cạnh chữ “ vương” và nhẩn nha nói:
- Chữ “nho” gồm có chữ “nhân” và chữ “nhu”. “Nhân” là
người. “Nhu” là dùng. Tức là hạng người bao giờ cũng cần dùng đến để giúp cho
nhân quần xã tắc biết đường mà ăn ở và hành động cho hợp với lẽ đời. “Nhu” còn
có nghĩa là chờ đợi. Tức là người học giỏi, đợi người ta cần đến, sẽ đem tài
trí của mình ra mà giúp việc đời.
Nghe thầy nói, Trần Nguyên Hãn bỗng thấy đầu óc mình sáng
láng hẳn ra. Hãn cúi đầu tạ ơn thầy:
- Bẩm thầy. Con hiểu ngụ ý của thầy. Hãn con nguyện sẽ làm
theo lời thầy dạy ạ.
- Tốt lắm. Thôi con về đi kẻo ở nhà cha mẹ con mong.
3.
Vì mải chơi thêm mấy ván khăng cho cánh thằng Phạm Toán gỡ
thua nên mặt trời đã khuất hẳn sau dãy núi Hy Cương, Trần Nguyên Hãn mới dắt
trâu về đến nhà. Cho trâu vào chuồng, đóng văng xong thì trời tối nhọ mặt người.
Hãn đẩy cửa bước vào nhà. Trong nhà tối om. Muỗi bay vo vo như ong vỡ tổ. Thắp
đĩa đèn dầu dọc lên, bóng tối loãng ra nhạt nhòa. Hãn vội vàng vào bếp nhóm lửa,
vo gạo thổi cơm. Đợi cơm cạn. vẫn chưa thấy cha mẹ về, Trần Nguyên Hãn lấy đôi
quang gánh với hai chiếc rổ mò mẫm ra bến Đông Hồ.
Mùa này dọc đang chín, vợ chồng Trần Nguyên Án phải bơi thuyền
theo dọc bờ con sông Lô lên mãi trên Phú Thọ, Tuyên Quang, rồi vào rừng thu hái
dọc. Dọc là thứ cây mọc thẳng, cao vút lên với rất nhiều cành nhánh đâm ra ba bề,
bốn bên. Quả dọc lấp ló sau những chùm lá to, cứng. Muốn hái được dọc người ta
phải trèo lên cây, nhiều khi phải trườn mình trên những cành la, rất nguy hiểm.
Chỉ cần sơ sẩy một chút, hoặc bất ngờ cành gãy là có thể quăng mình xuống đất,
nếu không chết cũng sứt đầu mẻ trán. Với Trần Nguyên Án, lấy dọc đã thành nghề.
Như con sóc, chàng thường đu người từ cành này sang kia, một tay bấu vào cây, một
tay bứt từng chùm quả vứt xuống rào rào. Lê Thị Hoàn đứng dưới gốc cây, lúc ngửa
cổ nhìn lên nhắc chồng cẩn thận, lúc cúi xuống nhặt những quả dọc chín vàng mọng
xếp vào sọt. Lần nào cũng vậy cứ xếp đầy bốn sọt là hai vợ chồng xuống núi. Đưa
bốn sọt dọc lên đò, hai vợ chồng chèo thuyền về đến nhà là vừa hết một ngày.
Hôm nay bởi cuối mùa, dọc chín đã vãn, bòn mót mãi mới đầy sọt nên họ về hơi bị
muộn so với mọi khi.
Thuyền vừa cặp bến, Trần Nguyên Hãn nhảy xuống thuyền cùng
cha mẹ đưa dọc lên bờ xong lại nhặt dọc xếp sang hai chiếc rổ. Sợ con gánh nặng
quá, Lê Thị Hoàn bảo:
- Con mới tập gánh, gánh in ít thôi kẻo gãy lưng đấy.
Trần Nguyên Hãn hăng hái:
- Không nặng đâu. Đây cha mẹ xem này.
Miệng nói, chân bước, Trần Nguyên Hãn gánh hai rổ quả dọc chạy
phăm phăm lên phía trước.
Đổ hết những quả dọc mới hái về ra một góc sân, đợi ngày mai
sẽ đập lấy hạt, phơi khô để làm dầu, Trần Nguyên Án giục vợ con:
- Hãn ra chuồng bắt cho cha con gà. Nàng đi đun cho ta ấm nước.
- Bắt gà làm gì hả cha? Thịt gà hả cha?
- Ừ. Thịt gà, làm cỗ cúng ông nội. Cả ngày hôm nay bận quá, đến
bây giờ mới bày biện được.
Gọi là làm cỗ nhưng những năm giỗ trước vì nhà nghèo nên vợ
chồng Trần Nguyên Án chỉ có bát cơm, quả trứng thắp hương cụ cho khỏi phải tội.
Lần này nhờ “nhật nhật sinh nhai, tiệm thành phú túc”. Ngày ngày
siêng năng, dần dần trở nên giàu có. Dù chưa giàu, vợ chồng Án cũng dễ chịu hơn
trước nên chàng quyết định thịt gà, làm cỗ cúng giỗ bố.
Hai vợ chồng lúi húi đun nấu một lúc lâu thì Lê Thị Hoàn bưng
mâm cơm canh đặt lên bàn thờ. Trần Nguyên Án sai con hái một lá trầu, lấy chén
nước lã đặt bên cạnh bát hương, còn chàng ra chum nước rửa mặt mũi chân tay,
thay quần áo sạch. Xong việc, chàng châm ba nén nhang, cắm vào bát hương, đoạn
lại rót ra ba chén rượu. Tiếp đó, với thái độ thành kính, chàng vái ba vái dài,
rồi lầm rầm khấn:
Nam mô a di đà Phật
Nam mô a di đà Phật
Nam mô a di đà Phật
Con lạy chín phương trời, mười phưng chư Phật, chư Phật mười
phương.
Con kính lạy Đức Hoàng Thiên Hậu Thổ chư vị tôn thần
Con kính lạy ngài Đông Trù Tư mệnh Táo phủ Thần quân
Con kính lạy ngài Thần linh, Thổ địa cai quản xứ này
Con kính lạy Tổ tiên nội, ngoại họ Trần.
Tin chủ con là Trần Nguyên Án, ngụ tại thôn Đa Cai,
trang Sơn Đông… Hôm nay là ngày 14 tháng 10 năm 1400, chính ngày giỗ của cha Trần
Nguyên Đán.
Thiết nghĩ cha vắng xa trần thế, không thấy âm dung. Năm qua
tháng lại ngày húy lâm. Ơn võng cực xem bằng trời biển, nghĩa sinh thành không
lúc nào quên. Càng nhớ công ơn gây cơ, tạo nghiệp bao nhiêu, càng cảm thâm
tình, không bề dãi tỏ… Nhân ngày cát kỵ, chúng con và toàn gia con cháu, nhất
tâm sắm sửa lễ vật kính dâng, đốt nén tâm hương, dãi tỏ tấc thành. Tâm thành
kính mời cha Trần Nguyên Đán, mất ngày 14 tháng 10. Mộ phần táng tại Côn Sơn,
Chí Linh, Hải Dương… Cúi xin linh thiêng giáng về linh sàng, chứng giám lòng
thành, thụ hưởng lễ vật, độ cho con cháu an ninh, khang thái, vạn sự tốt lành,
gia cảnh hưng long, thịnh vượng.
Con lại xin kính mời các vị tổ tiên nội, ngoại, tổ khảo, tổ tỷ,
bá thúc, huynh đệ, cô dì, tỷ muội và toàn thể các hương linh gia tiên đồng lai
hâm hưởng.
Tín chủ con lại kính mời các ngài thần linh, thổ địa, thổ
công, táo quân và chư vị linh thần đồng lai giám cách thượng hưởng.
Tín chủ con lại lại mời vong linh các vị Tiên chủ, Hậu chủ
nhà này, đất này cùng tới hâm hưởng.
Chúng con lễ bạc tâm thành, cúi xin được phù hộ độ trì.
Nam mô a di đà Phật
Nam mô a di đà Phật
Nam mô a di đà Phật
Lầm rầm khấn vái xong, Trần Nguyên Án cúi rạp người xuống, chắp
tay lễ ba lễ dài, rồi lại ra thêm ba tuần rượu nữa, đoạn chàng đưa mắt nhìn Hãn
đứng bên cạnh xem cha cúng, nói: “Nay mai con lớn cha sẽ dạy con các bài cúng.
Con trai mà không biết cúng cha mẹ, ông bà, tổ tiên, có họa là con hến”.
Đợi tới lúc hương tàn hết Trần Nguyên Án mới bảo Lê Thị Hoàn
trải chiếu ra ngoài mái hiên để cả nhà ngồi ăn cơm cho rộng rãi, mát mẻ. Trước
khi ăn, Lê Thị Hoàn nhắc chồng xem chân gà để biết chuyện về quá khứ, hiện tại,
tương lai của gia đình. Trần Nguyên Án không xem. Chàng bảo “Muốn xem chân gà
thì con gà trống ấy phải chưa biết áp mái, lại phải nuôi nó ít nhất là một
tháng… Và, khi cắt tiết phải cắt ở ngoài sân, miệng phải cầu khấn về điều gì đó
mà mình muốn biết. Có như thế xem mới được chính xác. Đằng này, con gà này là
con mái, thế thì xem thế nào được”.
Trần Nguyên Hãn không quan tâm lắm đến chuyện xem chân gà của
cha mẹ, Hãn chỉ thực sự lắng nghe khi cha nói chuyện ngày xưa. Mà bao giờ cũng
vậy, hễ rượu ngà ngà say là cha Hãn lại nói chuyện ngày xưa. Tối nay, Trần
Nguyên Án nói với con trai:
- Hãn ơi. Con hãy nhớ lấy nhé. Thủy tổ họ Trần nhà ta vốn gốc
ở An Sinh, Đông Triều, Quảng Ninh. Ông nội của con là Trần Nguyên Đán. Dưới thời
Trần Nghệ Tông, ông con làm tới chức quan Tư đồ. Ông là người hiền từ phúc hậu,
nho nhã, vẻ người quân tử. Cha nghĩ, ở tuổi con, chưa thể hiểu được đâu nhưng
cha vẫn muốn nói cho con biết. Giữa lúc xã tắc rối ren, ông nội con biết rằng,
sau này Hồ Quý Ly tất cướp ngôi nhà Trần, giết hại dòng họ Trần. Nhằm tránh họa
tuyệt diệt, ông con đã thực hiện câu nói của người xưa: “Quân tử kiến cơ
nhi tác, bất sĩ chung nhật”. (Người quân tử thấy thời thì đứng dậy, không
đợi đến ngày cuối cùng). Thế là, một mặt ông dùng lối kết thân với Hồ Quý Ly, một
mặt ông “phân cư” gia đình. Nhờ vậy, năm một ngàn ba trăm chín mươi chín (1399)
Hồ Quý Ly giết Trần Thuận Tông và các tướng Trần Khát Chân, Trần Nguyên Hãng,
Trần Nhật Tôn, tổng số trên ba trăm bảy mươi người, tịch thu toàn bộ gia sản của
họ. Con gái bị bắt làm nô tỳ. Con trai bị dìm chết, hoặc bị chôn sống… Nhưng
cha thì vẫn còn đây. Đó là lý do tại sao cha mẹ lại lưu vong lên tận nơi này.
Đây là nơi đất lành chim đậu. Cha mẹ sống được qua những tháng năm quá nhiều vất
vả, chính là nhờ vào sự yêu thương, đùm bọc của bà con Đa Cai. Chuyện cha vừa
nói, thiết nghĩ, cha không cần dặn con cũng phải giữ kín. Hãn nhớ chưa con?
- Thưa cha. Con hiểu ạ.
- Con nên biết rằng, họ Trần nhà ta đã sản sinh được nhiều
nhân vật xuất sắc, có công với triều đại nhà Trần và cả đất nước như Trần Thủ Độ,
Trần Quốc Tuấn, Trần Quang Khải…Sinh thời, ông nội con được người ta đánh giá
là bậc quan giỏi cùng họ. Tuy có khí phách trung phẫn nhưng ông cụ vẫn phải bỏ
việc nước vì không thể làm thế nào khác được. Ông chỉ lãnh quyền tướng quốc
để hòng bảo toàn gia thuộc của mình. Với cái tâm thế ấy, ông xin về ẩn cư ở núi
Chí Linh. Dù làm quan tới chức Tể tướng, nhưng ngoài cái dinh của “quan Tư đồ” ở
Thăng Long, người ta chẳng thấy ông có điền sản nào khác. Ông nhà mình sống với
lương bổng nhiều hơn là tước lộc. Đây là điều khác hẳn với các quan chức tôn thất
có điền trang và thái ấp riêng. Cho đến khi đau ốm, mặc con cháu hầu hạ, thuốc
thang, ông không chịu uống. Ông mất đúng ngày hôm nay, hưởng thọ có 65 tuổi…
Giọng Trần Nguyên Án nghẹn lại. Nước mắt chàng rơm rớm hai bờ
mi. Lê Thị Hoàn nhắc chồng:
- Con còn nhỏ. Chàng kể những chuyện ấy với con làm gì.
- Nàng biết không, bằng tuổi Hãn, Trần Quốc Toản đã bóp nát
quả cam khi phải đứng bên ngoài nghe các bậc cha chú bàn việc đánh quân Nguyên
Mông rồi đấy.
Nghĩ rằng cha mẹ chưa thật tin mình, vả lại, mình cũng chưa
làm gì được điều gì cho cha mẹ vui lòng, Trần Nguyên Hãn bỗng thấy mình có lỗi.
Hãn thú nhận:
- Thưa cha mẹ. Sáng nay đi học, con đã bị thầy giáo phạt…
- Bị thầy giáo phạt ư? Vì tội gì vậy con?
Không giấu giếm, Hãn kể lại đầu đuôi cho cha mẹ nghe, từ chuyện
dìm Toán dưới nước, chuyện vật Toán, làm Toán ngã chảy máu đầu, đến chuyện thầy
Nguyễn Thái An giảng cho Hãn hiểu về chữ “vương”, chữ “nho” Trần Nguyên Án xoa
xoa đầu con, khen:
- Con biết bảo vệ người yếu đuối, biết cách đánh lại kẻ mạnh
hơn mình, lại biết thành thật với bố mẹ, thế là tốt. Cha tin con. Dù hoàn cảnh
nào con cũng phải cố làm theo lời thầy dạy con ạ. Dòng tộc họ Trần nhà ta có
khôi phục được hay không, cha nghĩ, phần lớn đều trông đợi vào con. Thôi, ăn đi
con. Kìa nàng, nàng cũng ăn đi cho con nó ăn với chứ.
Sáng sớm hôm sau, Trần Nguyên Án thức giấc bởi một
con chim chìa vôi không biết từ đâu bay đến đậu vắt vẻo trên ngọn tre ngoài cửa
sổ. Chim xòe cánh, cụp đuôi, vươn cổ hót. Tiếng chim rót vào không gian từng
chuỗi âm thanh véo von, trong suốt.
Trời rạng sáng. Phía núi Tam Đảo chân mây đang chuyển từ màu
trắng sữa sang màu hồng nhạt. Bóng đêm trong các lùm cây xung quanh nhà loãng dần.
Mọi vật trên mặt đất hiện ra trong ánh sáng màu trắng thiếc.
Súc miệng, rửa mặt xong, Trần Nguyên Án dặn vợ ở nhà phơi và
giã hạt dọc để chiều về đun sôi, đóng bánh. Còn chàng, gánh dầu dọc đi bán ở chợ
Bạch Hạc.
Chợ Bạch Hạc ở ngã ba Hạc. Nơi đây được hợp lưu bởi sông
Thao, sông Lô, sông Đà, tạo nên dòng trong, dòng đục, sông nước mênh mang như biển
cả. Xa xa phía bên trái là dãy núi Tam Đảo hùng vĩ; phía bên phải là ngọn núi
Ba Vì mù sương. Hai bên sông là làng mạc, ruộng vườn tươi tốt. Dưới bến Hạc là
thuyền bè tấp nập vào ra… Tất cả những phong cảnh này đã tạo cho ngã ba Hạc có
cảnh trí vừa thơ mộng, vừa hữu tình. Tương truyền rằng, ngày xưa Ngã ba Hạc là
nơi Lạc Long Quân lập đàn tế trời và đã được Tiên ông giáng thế. Ngồi trên tảng
đá cạnh chùa Hoa Long Thiên Tự, Tiên ông đặt tên, phân định anh em cho một trăm
người con do Âu Cơ sinh ra. Về sau, nơi này trở thành một địa điểm buôn bán,
kinh doanh sầm uất, trên bến dưới thuyền đông vui, tấp nập. Nhưng đấy là chuyện
của ngày xưa, chợ bây giờ nằm giữa làng Bạch Hạc, cách Đa Cai sáu, bảy cây số.
Ngoài dăm ba cái quán xiêu vẹo, tiêu điều dành cho tư thương, còn dân chủ yếu họp
chợ ngoài trời. Những hôm nắng ráo không sao, gặp ngày trời mưa gió, thật trăm
bề khổ cực. Chợ bây giờ chỉ mang ý nghĩa chợ đổi. Nghĩa là nơi tụ tập để bà con
trao đổi hàng hóa, nông sản là chủ yếu, với nhau mà thôi.
Trần Nguyên Án gánh dầu, cuốc bộ đến chợ, trời vừa
sáng rõ mặt người. Chàng chọn cho mình một chỗ ngồi, nép dưới gốc cây đa, ngay
đầu cổng chợ. Theo Án, ngồi chỗ này là an toàn nhất. Bởi người mua dầu của
chàng, không phải đem vào chợ và nếu có biến động gì, chàng rút lui cũng dễ
dàng hơn, nhanh hơn. Trần Nguyên Án tính toán trong đầu thế vì chàng
biết: Cách đây mấy năm, từ tháng 10 năm 1406, với chiêu bài “phù Trần, diệt Hồ”
nhà Minh đã sai Trương Phụ, Mộc Thạnh đưa 80 vạn quân sang xâm chiếm nước Đại
Việt. Tháng 5 năm 1047, chúng bắt được toàn bộ vua quan triều đình nhà Hồ đưa về
Trung Quốc. Sau đó, bọn chúng lại đem quân đến xây thành ở Bạch Hạc, gọi là
thành Tam Giang nhằm khống chế toàn bộ vùng chiến lược Tam Giang - Nơi có ba
con sông lớn gặp nhau. Từ đó, trang Sơn Đông đã thuộc sự đô hộ của tướng Trương
Phụ.
Trương Phụ vốn là một tướng giỏi của triều đình nhà Minh.
Không chỉ giỏi về chiến thuật, Trương Phụ còn biết mua chuộc, thâu tóm các quan
tướng của đối phương về với mình, làm suy yếu đối phương, để dễ bề mà tiêu diệt
họ. Khi chinh phạt đến đâu, Trương Phụ trừng phạt nghiệt ngã, giết chóc không
nương tay đến đó để làm đối phương hoảng sợ, mất hết tinh thần chiến đấu. Lợi dụng
cái uy của Trương Phụ, bọn thổ quân xung quanh vùng Tam Giang vẫn thường xuyên
đi quấy nhiễu, cướp bóc của nhân dân lành. Trước tình cảnh nhiễu nhương, bát
nháo này, mình đang phải giữ hình tích. Thôi thì, “tránh voi không xấu mặt
nào”. Nghĩ thế, Trần Nguyên Án luôn yên phận làm một thổ dân hiền lành, cam chịu.
Mặt trời lên đến con sào. Chợ bắt đầu đông. Dường như sợ bọn
thổ quân ập đến xách nhiễu bất cứ lúc nào, người nào người ấy mặt mày nhớn
nhác. Ai ai cũng bán vội, mua vội, miễn sao được việc để về cho nhanh. Nỗi lo lắng
phấp phỏng chưa hết thì từ phía có mấy túp lều, cái lợp mái lá, cái phủ mái bằng
rạ, bằng cỏ gianh, bùng cháy. Khói, lửa đùng đùng bốc lên nghi ngút. Trong tiếng
nứa, tiếng tre nổ đì đùng, lốp đốp là tiếng la hét, kêu gào ầm ĩ. Người từ phía
trong chợ chạy túa ra. Người nọ chen lấn người kia, đổ xô lại. Người ngã, người
chạy giẫm đạp lên nhau. Phía sau đám người tháo chạy hỗn loạn ấy là một tốp thổ
quân, khoảng trên chục tên, tay gươm, tay giáo, lăn vào cướp lợn, gà, lúa, gạo,
thịt, cá của người đi chợ. Một thằng mặt đỏ như gà chọi, vác gậy đuổi đánh một
người phụ nữ trung niên, để giật lấy chiếc bu gà. Bị người đàn bà chống lại, hắn
ta liền giơ gậy đập một cái thật mạnh vào đầu. Người đàn bà nọ ngã gục xuống.
Nhiều người xúm lại, lay gọi, kêu khóc om sòm. Được tận mắt chứng kiến cảnh cướp
bóc, đánh đập dân đen của bọn thổ quân, Trần Nguyên Án tức sôi lên. Chàng nắm
chặt hai bàn tay vào nhau, cằm bạnh ra, hai mắt long lên, giận giữ. Quên mất mọi
người xô đẩy, chạy bán sống bán chết, đã làm đổ hai thùng dầu dọc, cũng quên
luôn mình đang là người ở ẩn, Trần Nguyên Án vác chiếc đòn ống bằng một đoạn
tre đực cùng mấy thanh niên nữa lao vào đám đông đang ẩu đả, quyết sống mái một
phen với bọn đầu trâu, mặt ngựa. Nhưng chàng vừa giơ ống đòn lên liền bị một thổ
quân cao to vung kiếm chém vào cánh tay. Máu chảy túa ra ướt đầm tay áo, vạt áo
Án. Hăng máu lên, Trần Nguyên Án liều chết lao vào ôm lấy cổ hắn. Bằng một động
tác nhanh mạnh, chàng quật tên thổ quân ngã chổng kềnh xuống vũng nước. Án vừa
ngẩng mặt lên, chàng liền bị một thổ quân khác lao tới. Hắn đi một đường gươm,
đâm trúng vào bên ngực trái của án. Chàng chỉ kịp kêu “ối” lên một tiếng rồi gục
ngã! Án mạng đã xảy ra. Mọi người hốt hoảng ba chân bốn cẳng bỏ chạy. Bọn thổ
quân cũng hò nhau khuân vác những nông sản và gia súc, gia cầm vừa cướp được
đem vào thành. Chợ chỉ còn lại mấy người ngồi loay hoay với vết thương quá nặng
của Trần Nguyên Án. Không biết chữa chạy cho Án bằng cách nào, cuối cùng họ
đành hỏi thăm quê quán và cõng tấm thân đẫm máu, mềm oặt của chàng về Đa Cai!
4.
Càng lớn lên, Trần Nguyên Hãn càng biết nhớ mãi cái buổi trưa
có mấy người lạ mặt cõng cha về nhà. Họ bảo, cha Hãn bị bọn thổ quân trong
thành Tam Giang giết hại!
Biết tin, bà con trong thôn Đa Cai kéo đến chật nhà để chia sẻ
nỗi buồn với mẹ con Hãn và chuẩn bị lễ tang cho Trần Nguyên Án. Lê Thị Hoàn
chít vội cái khăn sô trắng lên đầu Hãn, đoạn nằm rũ rượi ở trong phòng. Nàng vật
vã than khóc đến khản cả tiếng. Bà Mến cũng vậy. Bà không khóc to được như Lê
Thị Hoàn nhưng bà lảm nhảm kể rất nhiều chuyện về Án. Trước cái chết của Trần
Nguyên Án, bà đau đớn, xót thương như người rứt ruột đẻ ra. Nhiều người vây
quanh bà, vây quanh Lê Thị Hoàn, dỗ dành như dỗ trẻ con mà hai người vẫn không
thể nguôi nín. Còn thầy Nguyễn Thái An của Hãn thì ngồi trầm mặc trên tấm phản
kê ở gian giữa nhà. Hai hố mắt thầy trũng xuống, đỏ hoe. Hai gò má thầy nhô
cao, nhọn hoắt. Thầy xỉ mũi luôn luôn và thở dài thườn thượt. Nhìn thầy như già
thêm đến mấy tuổi.
“Người chết thì đã chết rồi, khóc mãi cũng có sống lại
được đâu. Bà con nếu có thương bác ấy thì mỗi người mỗi chân mỗi tay, chúng ta
giúp mẹ con bá ấy chôn cất bác Án được mồ yên mả đẹp. Đó mới là nghĩa
tử là nghĩa tận”. Nghe theo lời cụ giáo, dân làng bảo nhau mỗi người mỗi việc:
Người lo đóng áo quan; người đi đào huyệt; người lo nghi tiết thiết linh tọa;
người chuẩn bị bát cơm quả trứng với đôi đũa bông; người thịt gà, người nấu cơm
bày mâm cơm canh để cúng phục hồn… Ông Nguyễn Văn Bụi, bố của Bờ, làm thầy
cúng, lấy một chiếc khăn bông thấm vào nước ngũ vị lau mặt, lau người cho cha,
lấy dao cắt móng tay, móng chân cho cha rồi mới mặc quần áo cho cha. Kế đó ông
lại bỏ một ít gạo nếp và mấy đồng tiền vào miệng cha. Khâm liệm cho cha xong,
chính ông Bụi lại là người cầm chiếc áo cũ của cha, trèo lên mái nhà hua áo hú
gọi hồn cha về nhập vào xác. Lễ phục hồn xong, dân làng lần lượt vào thăm viếng
hương hồn cha. Đám tang của cha đông lắm. Thôn Đa Cai nhà nào cũng có mặt. Chao
ôi, nếu không có tình làng, nghĩa xóm thì mẹ con Trần Nguyên Hãn biết quay quả
làm sao?
Cái chết quá bất ngờ, cái chết như bị cướp mất người của Trần
Nguyên Án, dù không thể tin được nhưng vẫn là sự thật. Mặt trời vẫn còn đây;
nhà cửa, cây cối, vườn tược vẫn còn đây; cái cối, cái chày hằng ngày giã hạt dọc
vẫn còn đây… Chỉ có cha Hãn là không còn!
Trần Nguyên Án mất đã sáu năm. Chàng mất bao nhiêu
năm là bấy nhiêu thời gian vợ con chàng phải sống trong đau thương và cực khổ.
Lê Thị Hoàn thay chồng nuôi dạy con trong bao nỗi đắng cay, vò xé. Vì bọn thổ
quân mà gia đình nàng tan nát, đã thiếu thốn, bần hàn càng thêm bần hàn, thiếu
thốn. Dù vậy nàng vẫn cố gắng rau cháo nuôi Hãn ăn học, không bao giờ để con phải
lêu lổng trong hoàn cảnh thiếu đói. Nhờ vậy, Trần Nguyên Hãn mới có cơ hội “học
hết chữ” của thầy Nguyễn Thái An.
Có lẽ suốt đời Trần Nguyên Hãn không bao giờ quên cái buổi học
cuối cùng ấy. Hôm ấy, thầy An bảo Hãn nán lại cho thầy gặp riêng một chút. Đợi
các trò ra về hết, thầy Nguyễn Thái An mới lấy từ trong tráp ra một tờ giấy,
đưa cho Hãn xem và nói:
- Thầy trò chia tay nhau, không có tiền bạc gì cho con, thầy
tặng con một chữ này. Đây là chữ gì con nhớ chứ?
- Thưa thầy chữ “nhẫn” ạ.
- Đúng! Đây là chữ “nhẫn”. Con hiểu không, “nhẫn” là sự bền bỉ,
không bao giờ nản lòng trước khó khăn, nguy hiểm. “Nhẫn” còn là sự kìm nén tâm
trạng trước một áp lực nào đó. Con cũng có thể hiểu, “nhẫn” là một khả năng chịu
đựng của con người để nhằm thực hiện một mục đích - Qua lời giảng giải của thầy,
Trần Nguyên Hãn mới hiểu: Thì ra, “Nhẫn” có tâm nhẫn, chí nhẫn và lực nhẫn. Thầy
giảng tiếp - Con nhìn đây này, tâm nhẫn được ghép từ hai chữ: Chữ “đao” nằm ở
trên chữ “tâm”. Chữ “ tâm” được tạo nên từ mấy nét thế này: Bên trái, ta chấm đậm,
hất nhẹ lên thành hình một giọt máu đang rơi. Gọi là tà tâm, ứng với kẻ gian
hùng. Phía bên phải này, ta cũng chấm một chấm đậm, rồi xoay nửa vòng, vuốt nhẹ
lên tạo thành hình đầu một con chim đang thản nhiên rỉa lông. Gọi là muội tâm, ứng
với những người an phận thủ thường, chỉ biết lo cho bản thân mình. Còn ở giữa
nhô cao lên, ta chấm đậm, xoay tròn tạo nét giống vầng trăng sáng giữa trời. Gọi
là chính tâm, ứng với người quân tử… Bản chất người quân tử, kẻ gian hùng hay người
ích kỷ đều gói trong một chữ “tâm” con ạ. Các bậc túc nho cho rằng, bản chất của
chữ “nhẫn” được quyết định bởi chữ “tâm”. Người quân tử “nhẫn” để thực hiện điều
thiện; Kẻ gian hùng “nhẫn” để làm điều ác; người an phận “nhẫn” để lo cho bản
thân, anh ta tránh ác nhưng cũng không lo làm, thậm chí không dám bảo vệ thiện.
Với chí nhẫn là ý chí quyết tâm thực hiện “nhẫn”. Mạnh hay yếu, cao hay thấp,
kiên trì bền bỉ hay hăng hái nhất thời, vững vàng hay chao đảo, chấp nhận mọi
thử thách hay né tránh, lựa chọn đều phụ thuộc vào chí nhẫn này con ạ. Còn lực
nhẫn lại là sức chịu đựng trước mọi áp lực, từ mọi phía, ở mọi lúc, mọi nơi. Biểu
hiện ở lực nhẫn rất đa dạng. Ví như có người bị chà đạp về thể xác thì “nhẫn”
được nhưng một khi bị tổn thương về danh dự thì lại phản ứng quyết liệt. Bị xúc
phạm nơi vắng vẻ có khi “nhẫn” được nhưng ở chỗ đông người lại không kìm nén nổi.
Bị tra tấn dã man “nhẫn” được nhưng nếu kẻ thù đem sinh mạng người thân của
mình ra làm áp lực đối với mình thì lại nhũn chí, đầu hàng. Vậy nên mới có
câu: “Có khi nhẫn để yêu thương - Có khi nhẫn để liệu đường lo toan
- Có khi nhẫn để vẹn toàn - Có khi nhẫn để tránh tàn sát nhau”.
Sau một hồi giảng giải cho Trần Nguyên Hãn hiểu về ý nghĩa
thâm thúy, cao sâu của chữ “nhẫn” thật đầy đủ, thầy Nguyễn Thái An nói thêm:
- Thầy tặng riêng cho con chữ “nhẫn”. Vì thầy thấy ở vào hoàn
cảnh của con, không “nhẫn” sẽ không thành. Có điều thầy tin, chắc chắn con sẽ
chọn và làm theo lối chính tâm của trang quân tử. Hãn có hứa với thầy như thế
không?
Khoanh hai tay trước ngực, Trần Nguyên Hãn lễ phép:
- Bẩm thầy! Con đa tạ thầy đã dạy dỗ. Cả cuộc đời con sẽ làm
theo lời thầy chỉ giáo.
- Đã là trang quân tử thì không chỉ biết “nhẫn” mà còn phải
biết “nhu” nữa. Nghĩa của chữ “ nhu” có lần thầy nói với con rồi đấy. Mà “nhẫn”
và “nhu” cũng chưa đủ. Nếu là người có chí lớn, muốn làm việc lớn, con còn phải
tìm đọc và nghiền ngẫm “Binh gia diệu lý yếu lược”.
- Bẩm thầy! “Binh gia diệu lý yếu lược” là sao ạ?
- Sách này còn gọi là “Binh thư yếu lược”. Sách do Hưng Đạo vương
Trần Quốc Tuấn viết về nghệ thuật quân sự. Sách gồm có bốn quyển với ba mươi ba
chương. Ngoài ra con cũng cần phải đọc “Tứ thư” và “Ngũ kinh”.
- Bẩm thầy! Thầy giảng thêm cho con hiểu về “Tứ thư” và “Ngũ
kinh” ạ.
- Đây là sách hợp lại làm chín bộ sách chủ yếu của Nho giáo.
Sự học của Nho giáo vốn có nhiều lý tưởng cao siêu, nhưng có thể nói vắn tắt
là: Sự học chú trọng ở luân thường đạo lý, chủ trương biến hóa tùy thời, sự vụ
thực tế nên không bàn đến những cái viển vông ngoài sinh hoạt của con người nơi
trần thế. Con cố tìm đọc và dành thời gian nghiền ngẫm nhé. Sách trung dung sẽ
chỉ cho con cách giữ cho ý nghĩ và việc làm của mình luôn luôn ở mức trung
dung, không thái quá, không bất cập và ở đời luôn phải cố gắng theo, nhân,
nghĩa, lễ, trí, tín, cho thành quân tử, để cuối cùng thành thánh nhân.
Cha ơi! Thầy coi con là người lớn thật rồi, Không thế, thầy
nói với con những điều như rút từ gan ruột ra làm gì? Hãn sung sướng, tự hào nữa,
muốn reo lên báo cho hương hồn cha biết. Là muốn thế chứ trước mặt thầy Hãn chỉ
nhỏ nhẹ thưa:
- Bẩm thầy! Con đâu dám nghĩ mình thành thánh nhân nhưng con
biết mình sẽ phải làm gì để cha con ở dưới suối vàng không phải tủi hổ vì con.
- Thầy tin con, hy vọng ở con. Sau này nếu có gì khó khăn cứ
đến gặp thầy.
- Con đa tạ thầy.
Câu chuyện giữa hai thầy trò Trần Nguyên Hãn ở buổi học cuối
cùng ấy diễn ra khi Hãn vừa bước qua tuổi mười sáu.
Mười bảy tuổi, ở cái tuổi bẻ gãy sừng trâu, Trần Nguyên Hãn
đã ra dáng một trang thanh niên. Mái tóc Hãn xanh dày, lông mày Hãn rậm, mắt
Hãn sáng, bắp chân, bắp tay Hãn nổi lên cuồn cuộn. Thay cha mẹ, Hãn là lao động
chính trong nhà. Mẹ chàng mới ngót năm mươi mà tóc bà đã ngả màu muối tiêu.
Lưng bà đã hơi còng. Từ ngày Trần Nguyên Án bị bọn thổ quân vô cớ giết hại, sức
khỏe của bà bị suy sụp nhanh chóng. Bà đau yếu luôn. Công việc ruộng nương, ép
dầu dọc đều một tay Hãn làm. Bà Lê Thị Hoàn chỉ còn giúp con được một số việc lặt
vặt và tìm mua sách cho Hãn đọc. Biết con ngày ngày phải làm lụng vất vả, đêm
đêm lại chong đèn đọc sách…Thương con quá, muốn có người đỡ đần con, mấy lần bà
giục Hãn nên lấy vợ, nhưng chàng chỉ cười trừ, trong lòng bâng khuâng nhớ về một
người con gái.
Người con gái mà Trần Nguyên Hãn thầm yêu trộm nhớ là Lê Thị
Tuyển - Cái cô bé cách nay mấy năm, sau lần bị Toán bắt nạt, được Hãn che chở,
bênh vực, mỗi khi gặp Hãn lại dành cho chàng cái nhìn với ánh mắt đầy thiện cảm,
nếu không dám nói là yêu thương. Tết vừa rồi không biết số trời run rủi thế nào
Hãn và Tuyển lại ở cùng một giáp trong hội thi nấu cơm.
Chưa rõ là từ bao giờ cứ vào ngày mùng tám, tháng Giêng hằng
năm, ăn Tết xong, trang Sơn Đông lại tổ chức hội thi nấu cơm. Những nồi cơm đoạt
giải: Thứ nhất, nồi nấu cơm phải là nồi đồng điếu, thân và cổ nồi phải sạch
bóng, đỏ au màu đồng. Cơm chín phải đầy đến cổ nồi. Thứ hai, cơm phải thật trắng,
thật thơm và thật dẻo. Khi đơm cơm ra bát, lấy đũa cả đè lên, các hạt cơm phải
dính chặt lại với nhau, khi úp bát xuống, cơm phải tuột ra khỏi bát thật róc,
khi cắt ra thành miếng, miếng cơm phải vừa mịn, vừa dẻo, vừa thơm như xôi. Thứ
cơm này gọi là “cơm in”. Thứ ba, trong nồi không có cháy, lượt cơm dưới đáy nồi
không khô cứng, xung quanh nồi không ướt.
Sau khi chấm, các nồi cơm trúng giải đều được “in” ra để cắt
thành từng miếng, chia đều cho từng nhà, gọi là phần của làng. Còn các nồi cơm
không trúng giải, được đơm ra sau lễ đình mọi người cùng ăn, gọi là tiệc làng.
Muốn có được nồi cơm trúng giải, người ta phải chuẩn bị từng
khâu rất chu đáo: Từ việc chọn lúa, xay, giã, giần, sàng làm sao để có được màu
gạo trắng xanh, hương thơm mát dịu đến nước nấu cơm phải là nước mưa hứng ở
ngoài trời, lưu trữ trong chum, vại đạy kín. Rồi nấu cơm phải bằng củi xoan
khô, đượm lửa, bền than lại ít khói, ít bụi. Rồi lại phải lấy mỡ lau nồi trước
khi nấu. Vung nồi đậy lọt khít trong miệng nồi, không được đệm lá chuối tươi để
tránh bị oi khói và vàng cơm…
Ôi chao, cứ nghe các cụ nói, Trần Nguyên Hãn đã hình dung ra,
hội thi nấu cơm vui lắm nhưng để đoạt được giải từ Ban chấm thi, gồm toàn các vị
chức sắc và bô lão trong làng, cũng không dễ dàng gì! Vậy mà hội thi năm nay,
giáp của Trần Nguyên Hãn đã giật giải. Điều này thật vui cho cả giáp. Với Hãn,
chàng còn có niềm vui riêng. Đó là mỗi khi nhớ đến những lần đứng bên Lê Thị
Tuyển cùng giã gạo, lòng Hãn lại nôn nao, bồi hồi. Một thứ tình cảm mới lạ, rất
mơ hồ đang nảy nở trong tâm hồn Hãn. Chàng vẩn vơ, thầm hỏi: Gió sao gió mát
sau lưng - Bụng sao bụng nhớ người dưng thế này! Nhớ Tuyển quá, đừng không được,
buổi chiều vừa mới rồi gặp Lê Thị Tuyển gánh nước ngoài bến Đông Hồ, Trần Nguyên
Hãn đánh liều hẹn gặp nàng.
Tối ấy, Trần Nguyên Hãn ra khỏi thôn Đa Cai là tới con đê. Bầu
trời xanh đen bổng tít, lốm đốm sao. Con sông Lô đã qua mùa lũ, thu mình lại
sáng trắng lên trong đêm, khúc ẩn, khúc hiện sau bãi ngô vụ đông đang xanh rì.
Phía bên kia đền Hùng, một vành trăng đầu tháng úa vàng, chới với như sắp rơi
xuống dãy núi ConVoi nhấp nhô, trùng điệp.
Lần theo một lối mòn, Hãn đi xuống bãi. Cát lún dưới chân.
Không để ý cát còn nóng hôi hổi, Trần Nguyên Hãn nhắm hướng cây si già đứng chơ
vơ trên ghềnh đá đi tới. Nơi đây vào mùa lũ, Hãn và Bờ cùng lũ bạn thường leo
lên những cành cây la đà trên mặt nước, rồi thi nhau nhảy ùm xuống sông. Bơi lội,
tắm táp chán lại bảo nhau lặn, mò bắt cá trong các hang đá ẩn sâu dưới các xoáy
nước sục sôi, cuộn chảy. Hôm nào bắt được ít cá, chia nhau không bõ bèn gì, bọn
Hãn kéo về nhà Bờ nấu, nướng ăn với nhau một bữa thật là vui vẻ. Những lần ấy,
lần nào Trần Nguyên Hãn cũng bắt được nhiều cá nhất.
Lê Thị Tuyển vẫn chưa ra. Liệu nàng có dám ra hay bị
cha mẹ giữ chân. Cái câu: “Nam nữ thụ thụ bất thân” liệu có trói buộc
nàng? Hay là nàng chỉ gật đầu nhận lời cho ta tưởng bở, chứ lòng nàng lại hướng
về người khác? Ôi, nóng quá! Mình hãy tắm một cái đã.
Hãn cởi quần áo, vo tròn lại vứt trên bãi cát, đoạn nhảy xuống
sông. Như con rái cá, chàng lặn một hơi dài hàng chục mét, rồi ngoi lên bơi sải
rõ nhanh.
Một bóng đen đang đi trên bãi cát. Tuyển đang ra kia! Hãn sẽ
sàng ngụp xuống. Lát sau, bất thần chàng vụt dậy đánh òa, khiến Tuyển ở bên mép
nước hốt hoảng kêu rú lên. Từ dưới sông, Hãn nói trong tiếng cười: “Nhắm mắt lại!
Xin nàng nhắm mắt lại, chỉ một lát thôi!”. Hãn cúi lom khom đi lên. Chàng mặc
xong quần áo thì Tuyển đã ù té chạy. Mặc cho Hãn đuổi và gọi với theo nhưng Tuyễn
vẫn cắm đầu, cắm cổ chạy như bị ma đuổi. Thế là cuộc hẹn không thành. Đây có thể
gọi là tình yêu được chưa?
5.
Có thể bị muỗi đốt hoặc vì tiếng con gà trống choai trong chuồng
vỗ cánh, te te gáy đã làm Trần Nguyên Hãn bừng tỉnh. Chàng ngồi bật dậy mới hay
là mình nằm trên chiếc chõng tre, phơi mặt giữa trời “đánh” một giấc say như chết.
Trời rạng sáng rồi! Phương Đông đang chuyển từ màu đen sang
màu trắng sữa. Trên nền trời bổng tít chỉ còn sót lại vài ngôi sao lặn muộn.
Trần Nguyên Hãn sục vào nhà bếp, vét nồi được một bát cơm nguội
đem trộn với muối vừng rồi ăn như tọng vào dạ dày cho được việc. Uống thêm một
bát nước vối nấu từ chiều hôm qua, chàng vác chiếc cày chìa vôi, dắt trâu đi
cày.
Suốt đêm nóng bức không tài nào ngủ được, về sáng mát mẻ mới
chợp mắt một tý nên bà Lê Thị Hoàn không biết Hãn dậy từ lúc nào, giờ thấy con
dắt trâu đi làm, bà nói với theo:
- Ăn lấy một miếng rồi đi đâu hãy đi chứ con!
- Con no căng bụng rồi. Sáng nay con cày ở gò Rạch mẹ ạ.
Gò Rạch là mảnh đất địa đầu của trang Sơn Đông, đây vốn là miền
đồi gò, cách nhà Hãn một cái khe suối cạn. Ngày vợ chồng Trần Nguyên án phiêu bạt
lên đây, gò Rạch còn là một vùng hoang dã với núi rừng rậm rạp hoang vu. Nghe
nói, hồi ấy gò Rạch còn có rất nhiều hổ, báo, hươu, nai. Đêm đêm mọi nhà trong
thôn Đa Cai đều phải gõ nồi, gõ mõ, đập mẹt, đâm cối xua đuổi không cho “chúa
sơn lâm” về bắt lợn, gà, trâu bò. Đã có người sơ ý nằm ngủ thò đầu ra ngoài cửa
sổ hóng mát, bị hổ vồ suýt chết. Đường lên gò Rạch nhỏ chỉ đủ đặt lọt bàn chân,
có đoạn đường như cái ống với những lau lách, cây gai và cỏ dại um tùm... Sau
nhiều năm kiên trì khai phá, đánh gốc bốc chà, mỗi năm mở rộng thêm một tý, vợ
chồng Trần Nguyên Án mới biến gò Rạch thành cái nương, cái rẫy để mảnh
trồng sắn, mảnh tra mộ, mảnh tra ngô.
Nhớ ngày tóc còn để chỏm, Trần Nguyên Hãn vẫn theo cha mẹ lên
gò Rạch. Cha mẹ thì cày cuốc, gieo trồng, còn Hãn thì nghịch đất và bẫy
chim. Gò Rạch rất nhiều chim, đủ các loại chim từ chim cu, chim sáo, đến chim
khướu, chim họa mi… Nhưng nhiều hơn cả, bạo dạn hơn cả là chim chìa vôi. Chìa
vôi hay hót mà lại hót véo von, nghe như có từng chuỗi âm thanh trong suốt rót vào
tai. Hãn thích chim chìa vôi nên tìm cách bẫy cho bằng được.
Được cha bày cách, Trần Nguyên Hãn vác thuổng đi đào dế. Dế
là loại côn trùng rất hay cắn mầm sắn. Đào dế để vừa cứu sắn, vừa nếu được nhiều
thì đem rang làm thức ăn và để lấy mồi bẫy chim. Hãn khoét một cái hố to bằng
cái ấm ủ ở cuối nương, lấy sợi chỉ buộc vào cổ con dế, rồi đem thả nó xuống đáy
hố. Phía bên trên đặt một cái bẫy, chim chìa vôi đậu vắt vẻo ở trên ngọn cây
lau nhìn thấy dế chạy đi chạy lại liền lao vụt xuống bắt mồi. Mỏ chim vừa chạm
vào con dế thì cái bẫy úp lại. Dù chim có quẫy đạp, giãy giụa tuột cả lông
cánh, lông đuôi cũng không thể thoát ra được nữa! Đúng lúc này Trần Nguyên Hãn
nấp sau bụi cây mới lao ra, vồ lấy chim.
Được chim đem về, Hãn hí hửng nhốt nó vào trong
một cái lồng tre, đan rất đẹp. Mặc Hãn chăm sóc chu đáo, nào cho ăn cơm, nào
cho uống nước, chìa vôi vẫn không chịu hót. Suốt ngày nó đứng ủ rũ, cổ rụt lại,
cánh xõa ra. Hai hôm sau thì nó chết. Nó chết như người ta tự tử ở tư thế: Hai
chân nó bóp chặt lấy cái mỏ! Tiếc chim thì ít, thương con chim bé nhỏ thì nhiều,
Trần Nguyên Hãn hỏi cha, tại sao chìa vôi lại chết như vậy? Cha bảo: “Chìa vôi
cũng giống như nhiều loài chim khác là rất thích tự do. Được sống với thiên
nhiên hoang dã, chim bay nhảy, chim ca hót. Bị bắt nhốt trong lồng, có con
thích nghi, có con không thích nghi với môi trường sống mới. Chim chìa vôi,
không những không thích nghi mà nó còn sẵn sàng chết. Cái chết của chìa vôi,
con có biết không, đó là tiếng nói phản kháng quyết liệt một khi bị con người
cướp mất quyền tự do của nó”. Lúc bấy giờ nghe cha giảng giải vậy, Hãn biết vậy.
Lâu nay nhớ lại Hãn đã ngộ ra cái ngụ ý sâu xa mà cha định nói và chàng cũng cảm
nhận hết cái nỗi khổ đau, tủi cực khi con người ta bị mất tự do đến như thế
nào. Là hiểu ra và cảm thấy vậy thôi chứ Trần Nguyên Hãn cũng chưa biết mình phải
làm gì để trả thù cho cha, để có được cuộc sống tự do.
Con trâu đủng đỉnh đi trước, Trần Nguyên Hãn vác cày theo
sau. Đến gò Rạch nắng sớm đã tưng bừng trên những ngọn cây và trải vàng trên vạt
nương mới được thu dọn hết cành cây, cỏ khô. Gió đuổi nhau chạy rào rào trong mấy
bụi lau còn sót lại ở cuối gò.
Tháo thiếu cày, đóng vạy cày vào cổ trâu… Hãn làm những động
tác này nhanh chóng, thuần thục y như một nông phu. Lại nhớ hôm Trần Nguyên Hãn
mới tập cày bừa, mẹ bảo: “Con cứ mạnh dạn tập cày đi. Tập rồi khắc quen. Làm
người con trai ở nhà quê, ai cũng vậy, trước khi biết cầm gươm thì phải biết cầm
cày đã. Với lại, con trâu này của nhà ta khôn lắm. Con không biết, nó sẽ “dạy”.
Quả thật, cái con của được coi là đầu cơ nghiệp của nhà Hãn khôn thật. Nó kéo
cày bước từng bước thong thả, nhẫn nại rất đúng đường, dù Hãn có “vắt, diệt”
sai nó cũng chẳng nghe theo. Hôm nay thì Hãn và nó đã là đôi bạn luôn luôn ăn
ý. Mỗi lần Hãn giục “đi con”, “đi nhanh lên con” là nó lại dướn cổ, bốn chân sải
dài ra. Đất đồi lật lên từng đường thẳng, đường sau úp nghiêng nghiêng lên đường
trước nhìn như những con sóng lăn tăn, gợn lên trong nắng.
Trần Nguyên Hãn cày được nửa nương, chàng đang định cho trâu
nghỉ một lúc thì không may lưỡi cày lại cày bật lên một thanh sắt, dài bằng một
thanh gươm. Hãn “họ” trâu đứng lại, chàng bước lên nhặt lấy thanh sắt có hình
dáng hao hao một như thanh gươm.
Nghĩ rằng, thanh sắt này sẽ dùng được vào việc gì đấy, chàng
kỳ cọ, lau chùi hết đất, rồi đem đặt ở đầu nương. Hết buổi cày, Trần Nguyên Hãn
đem “thanh gươm” về.
Trong bữa cơm trưa có dưa cà với tép kho, Trần Nguyên
Hãn không quên phô với mẹ chuyện mình cày bật lên một “thanh gươm”. Thoạt nghe
ánh mắt bà Lê Thị Hoàn sáng lên. Hình như bà có chuyện gì đó liên quan đến gươm
mà bà định nói với Hãn nhưng không hiểu sao lại chưa nói. Bà nhẹ nhàng khuyên
Hãn:
- Con cứ cất thanh sắt ấy đi. Biết đâu sau này có lúc con cần
đến nó - Bà cười, nói vui - Nếu đúng vậy, thì quả là Trời có mắt. Trời trao cho
con đó, Hãn ạ.
Không dám tin là Trời trao gươm cho mình, nhưng câu nói vui của
mẹ gieo vào lòng Hãn một mơ ước: Giá như Hãn có được một thanh gươm! Phải rồi!
Hãn sẽ mài thanh sắt này thành thanh gươm cho mà xem! Cơm nước xong, Trần
Nguyên Hãn cẩn thận đem cất “thanh gươm” mới bắt được xuống dưới gầm giường,
nơi đêm đêm chàng vẫn ngủ.
Sau một ngày lao động cật lực và tối đến lại chong đèn đọc
sách mãi đến lúc gà xao xác gáy canh hai Trần Nguyên Hãn mới tắt đèn đi ngủ. Vừa
đặt lưng xuống giường chàng đã ngáy như kéo bễ. “Đánh” một giấc dài và sâu bỗng
Trần Nguyên Hãn giật mình, bừng tỉnh. Chàng mở mắt thấy ở dưới gầm giường, từ
thanh sắt đang phát ra một thứ ánh sáng, sáng lấp lánh. Không tin vào mắt mình,
Trần Nguyên Hãn dụi dụi mắt mấy cái liền. Định thần lại, không còn nghi ngờ gì
nữa, “thanh gươm” đang phát sáng thật. Nghĩ đây là báu vật trời cho như mẹ nói,
Trần Nguyên Hãn sung sướng lấy “thanh gươm” ra, ngắm nghía, nâng niu tựa như
người ta bắt được vàng. Không ngủ lại được nữa, chàng sẽ sàng mở cửa đi ra sân.
Trăng hạ tuần vằng vặc sáng đầy trời. Không gian tịch mịch.
Ngoài tiếng giun dế rỉ rả kêu, không có tiếng động nào khác. Trần Nguyên Hãn
xách “thanh gươm” đi đến bên hòn đá lớn, nằm cạnh bờ ao Son, ngay phía ngoài cổng,
trên đường vào nhà. Chàng ngồi xuống lấy tảng đá làm đá mài gươm. “Quẹt! Quẹt!
Quẹt!” Tiếng mài gươm của Trần Nguyên Hãn miết vào đêm thanh vắng từng tiếng, từng
tiếng nghe rõ mồn một. Một lúc lâu sau, Trần Nguyên Hãn giơ gươm xem: Lưỡi gươm
ánh lên, sáng lấp lóa dưới ánh trăng. Chàng lấy móng tay thử xem gươm có sắc.
Gươm sắc lẻm. Chỉ mới đưa một đường lướt qua thôi mà đầu móng tay đã rời khỏi
ngón rồi! Tuyệt vời quá! Trần Nguyên Hãn reo thầm và bâng khuâng hỏi: “Lưỡi
gươm đây, chuôi gươm ở đâu? Hay là lên gò Rạch tìm lại?”
Nhưng Trần Nguyên Hãn chưa lên gò Rạch ngay được, bởi sáng
nay chàng phải đi chợ sớm. Chàng rời nơi có hòn đá mài gươm vào nhà thì trời đã
tang tảng sáng. Bà Lê Thị Hoàn chuẩn bị sẵn cho con trai một gánh dầu dọc, một
gói cơm nắm và dặn Hãn sớm nay đi chợ Gốm. Chưa muốn cho mẹ biết chuyện kỳ lạ về
“thanh gươm”, Trần Nguyên Hãn chỉ “vâng, dạ”, rồi đút “thanh gươm” vào ống đòn
gánh, chàng gánh hai thùng dầu đi chợ.
Chợ Gốm thường họp vào ngày 3 và ngày 5 hằng tháng. Muốn đến
chợ Gốm, Trần Nguyên Hãn phải qua sông Phó Đáy, nơi có bến đò Phú Hậu. ở bến đò
này vì qua lại nhiều lần nên chàng quen ông Sóng hàng bè. Ngày ngày ông
Sóng vẫn cất vó bè trên bến sông này. Trưa nay cũng như những lần trước đi chợ
về, Trần Nguyên Hãn dừng chân nghỉ nhờ nhà ông Sóng để ăn cơm. Nhưng trưa nay
khác với những lần trước, không hiểu vì lý do gì ông lại vồn vã bảo Hãn xuống
nhà bè, ân cần làm cơm mời chàng. Ông Sóng xởi lởi nói: “Hôm nay lão sẽ thết
đãi cậu một món canh trai trai. Cậu có thể coi món này là đặc sản vùng sông Đáy
quê mình”. Ông nói thêm: “Trai rẻ mà lại ngon, lại bổ nên trai cũng dễ bán. Người
mua trai về ngâm trong nước ấm cho nó nhả hết bùn, sau đó rửa thật sạch, đem luộc.
Phi hành mỡ với cà chua thật thơm rồi đổ trai đã thái nhỏ vào. Đun đảo đều tay,
nêm mắm muối vừa phải, tiếp đó mới cho nước luộc trai vào. Nước sôi, rắc thêm
hành răm, thì là là ta được một nồi canh trai ngon tuyệt trần”…
Trong bữa ăn, ông Sóng mời Trần Nguyên Hãn một chén rượu. Ông
ép mãi chàng mới chịu uống. Tợp vài ngụm rượu nhắm với thịt trai trai, Trần
Nguyên Hãn bỗng thấy hứng, chàng nói:
- Cháu sẽ đọc ông nghe một bài thơ. Ông thích nghe thơ không?
- Thế thì còn gì bằng. Cậu đọc đi.
Trần Nguyên Hãn đằng hắng rồi cất giọng, ngâm nga:
- Hữu nhất giới lân phù thủy thượng
Phi loa, phi lịch, kỳ danh bạng
Hàm châu, đái giáp vũ văn tài
Phún lăng thôn ba hà hải lượng
Kỷ đảo cuồng lan xuất lực phù
Phương thăng hồng nhật khuynh tâm hướng
Giang hồ xứ xứ tổng chi danh
Bỉ duật thế cô an cảm kháng
Ông hàng bè nghe hết liền thật thà bảo:
- Lão chỉ giỏi bẻ lái, chèo thuyền chứ chữ nho thì mù tịt. Nếu
có thể được xin cậu dịch sang nôm may ra lão mới hiểu.
Trần Nguyên Hãn lại đọc tiếp:
- Trên sông nổi một vật gì
Không ốc, không hến, ắt thì đúng trai
Hạt châu ngậm, áo giáp ngoài
Tài kiêm văn võ, ít ai sánh bì
Quản gì mưa nắng thị phi
Hướng Đông lòng vẫn kiên trì hôm mai
Bốn phương nổi tiếng anh tài
Cò kia cô thế ngày dài đứng trông… (*)
Đọc xong Trần Nguyên Hãn tợp một ngụm rượu, hỏi:
- Thế nào? Ông nghe có lọt tai không ạ?
Ông Sóng gật gù:
- Hay! Hay lắm! Nghe thơ của cậu, lão lại nhớ đến câu: Con
cò mà mổ con trai - Con trai quặp lại nuốt hai con cò. Thế mới biết sống ở đời
phải có lòng kiên nhẫn và đừng có vội coi thường kẻ tưởng như là yếu hơn mình.
Lão nghĩ vậy có đúng không hả?
- Thưa ông, đúng như vậy ạ.
Trần Nguyên Hãn công nhận. Trong hơi men chếnh choáng chàng
đưa mắt nhìn ra bên ngoài. Mắt chàng như sáng trưng lên khi phát hiện ra lẫn
trong đống rác bề bộn ngổn ngang ở cuối sàn bè có một thanh gỗ hao hao như
chuôi gươm. Chàng vội chui ra ngoài mái bè, nhặt thanh gỗ lên, quay lại hỏi:
- Ông ơi! Làm sao ông có thứ này?
- Thứ gì? À, cái thanh gỗ ấy hả. Lão vớt củi nhặt được nó từ
dưới lòng sông đấy. Nếu cậu cần, lão xin biếu.
Trần Nguyên Hãn lấy “thanh kiếm” từ trong đòn ống ra, cắm vào
thanh gỗ thì, trời ơi, vừa khít chặt. Chặt đến nỗi không thể rút ra được nữa!
Quá bất ngờ, ông Sóng há hốc mồm kinh ngạc. Sao lại có chuyện ngẫu nhiên như cổ
tích, như huyền thoại thế này? Đây có phải báu vật Trời trao cho anh chàng bán
dầu dọc không? Ông Sóng kéo Hãn vào trong nhà bè thầm thì, vẻ bí mật:
- Lão nghĩ là Trời trao cho cậu thanh gươm này đấy.
Cậu hãy cẩn trọng giữ gìn, biết đâu sẽ có lúc cậu cần đến.
6.
Sinh ra ở vùng quê nghèo: Phía Bắc là nơi chó ăn đá, gà ăn sỏi,
trâu gõ mõ, chó leo thang; phía Nam là nơi chiêm khê mùa thối, chưa
mưa đã úng, chưa nắng đã hạn. Bởi vậy, ngay từ thời thơ ấu, Trần Nguyên Hãn đã
được cha cho đi theo ra đồng xem mình đánh bắt tôm, cá, ếch, lươn… Và, dạy cho
Hãn biết mò cua, bắt ốc.
Trước cổng thôn Đa Cai là những xứ đồng Chằm Xoan, Đồng Đè,
Ao May… Bàn chân Hãn đã từng được đi theo cha trên mỗi cánh đồng vào các thời vụ
khác nhau: Tháng Sáu, tháng bảy là lúc lúa chiêm đã gặt xong, gốc rạ thối mủn,
có nhiều nguồn thức ăn; tháng Mười đã qua mùa mưa lụt, từ đồng cao đến đồng thấp
nước đều cạn, lại có nhiều tôm cá, cò, vạc bay về nhiều… Đấy là thời điểm hai
cha con Hãn đi đánh vạc, bẫy cò. Tháng Chín âm lịch là thời gian lúa mùa trổ
bông, phơi màu, rồi chín. Đó là tháng mà cá rô hoạt động mạnh, Hãn theo cha đi
đánh cá rô đồng. Cuối mùa xuân, giữa mùa thu là lúc lúa đã làm đòng, côn trùng
phát triển mạnh, lại thường có nước to, sau cơn mưa trời hửng nắng… Hai bố con
Hãn đi câu cá thì không có lần nào phải xách giỏ về không!
Có lẽ được thừa hưởng cái gien di truyền từ cha, lớn lên Trần
Nguyên Hãn thành người có tiếng là “sát cá”. Hễ Hãn vác cái cần câu hay cái bẫy,
cái nơm ra khỏi nhà là y như rằng hôm ấy cả nhà không phải ăn cơm với muối. Hãn
có cái biệt tài là chỉ cần nghe tiếng đớp mồi dưới ruộng cũng biết đó là loại
cá gì. Hãn bảo, cá chuối đớp “bộp”, cá rô đớp “bọp”, các giống cá khác không đớp
mà chỉ sủi tăm. Tăm nhỏ cá nhỏ, tăm lớn cá lớn. Nhìn một vũng nước, một đám ruộng
đầy bọt tăm nổi lên là Hãn đoán biết được ở dưới đó thế nào cũng có nhiều trạch
Hãn bắt chạch thật kỳ tài. Chả rõ Hãn dựa vào đặc điểm gì của loài chạch mà khi
nhìn thấy hai đám bọt tăm nổi lên liên tiếp, Hãn lại nhằm vào đám bọt thứ hai,
cúi khom lưng, dùng cả hai bàn tay xòe ra như hai lưỡi xẻng từ từ đào sâu xuống
bùn, trong chốc lát Hãn đưa vốc bùn có chạch lên, ghé vào miệng giỏ…
Trong rất nhiều cái tài về đánh bắt của Hãn phải kể đến cái
tài bắt ếch. Chỉ cần nhìn thoáng qua cửa hang chi chít ở các bờ ruộng thôi là
Hãn biết ngay rằng trong hang có ếch trú ẩn hay không? Hãn biết bắt ếch bằng
nhiều cách: Đào ếch nằm trong hang là việc làm quá đơn giản với Hãn. Câu ếch
đang kiếm ăn trong đám cỏ râm mát bên bờ ao mới phải dùng đến mẹo. Mẹo ấy là,
hai người túm hai bên vó ghé sát vào bờ, một người cầm gậy khua khua vào đám cỏ,
thấy động ếch sợ hãi nhảy xuống ao mà sa vào vó. Tuy vậy, Hãn thấy thích
thú nhất vẫn là đi bắt ếch trên đồng, sau cơn mưa. Nhưng nếu trời mưa lai rai,
nước ngập rãnh cày, ếch sẽ ra thưa thớt, thì đừng có tính đến chuyện đi bắt ếch,
vì hễ thấy bóng người là nó nhảy mất tăm. Hay là cơn mưa rào đầu tiên, trời lại
tiếp tục mưa nữa, đêm đến tuy ếch vẫn ra đồng, đâu đó vẫn kêu “ộp, ộp” dưới làn
mưa lắc thắc thì có đi bắt ếch may ra “trăm bó đuốc mới bắt được một con ếch”.
Bởi vì, lúc này ếch đực thì đã bớt si tình, đã trở nên tỉnh táo. Còn ếch cái
thì lại cảnh giác với ánh sáng, với bước chân người… Vậy nên, Hãn chỉ đi bắt ếch
sau cơn mưa rào đầu mùa, cữ vào tháng Tư âm lịch hằng năm. Dịp ấy, sau một
thời gian nắng hạn giờ mới có cơ hội để ếch từ trong các hang nhảy ra, con đực,
con cái tìm nhau giao hoan. Những chàng ếch đực si tình, mê mải ngồi nghe lời mời
gọi âu yếm của những nàng ếch cái. Khi gặp bạn tình, chúng chụm đầu vào nhau,
hoặc ôm “thắt lưng” nhau mà mải mê tâm sự. Những đôi ếch thấy tâm đầu ý hợp thì
vào cuộc giao hoan. Vào thời điểm ấy, dường như họ hàng nhà ếch quên hết sự đời,
chúng chả quan tâm gì đến xung quanh…Thế là, người đi bắt ếch chỉ việc tay trái
giơ cao bó đuốc, tay phải vươn ra chộp lấy từng con, từng đôi cho vào giỏ đeo
bên hông.
Ấy là chuyện của những năm trước đây chứ bây giờ đã là trang
thanh niên Trần Nguyên Hãn bận bịu với rất nhiều công việc: Nào đi lấy hạt dọc,
ép dầu dọc, nào cày ruộng, làm nương, nào đi chợ, nào đêm đêm lại vùi đầu vào đọc
sách với mài gươm… Thành ra chàng không còn mấy thời gian để đi đánh bắt nữa.
Mãi đến chiều nay Trần Nguyên Hãn mới có chút rảnh rỗi, nhân sau cơn mưa, chàng
tranh thủ vác cần câu ra bến Đông Hồ ngồi câu cá.
Con sông Lô vốn hiền hòa như một cô gái, sau cơn mưa thượng
nguồn bỗng trở nên lồng lộn, hung dữ. Nước từ trên mạn Tuyên Quang cuồn cuộn đổ
về cuốn theo rất nhiều cành cây gãy và lá khô, củi mục. Mặt sông duềnh lên, sục
sôi, ngầu đỏ. Ngồi trên bờ, sát mép nước, ôm cần câu mà ánh mắt Trần Nguyên Hãn
không lúc nào rời khỏi mặt sông. Nhờ vậy, chàng mới phát hiện ra ở chỗ vùng nước
xoáy ngay trước mặt có một xác người đang nhấp nhô, lúc dâng lên lập lờ trên mặt
nước, lúc chìm nghỉm dưới đáy sông. Hiện tượng ấy lặp đi, lặp lại đến mấy lần.
Không còn nghi ngờ gì nữa. Đúng là có người chết đuối không rõ là từ đâu trôi về
đây. Phải cứu người ta! Chàng tự ra lệnh cho mình. Không kịp cởi quần áo, Trần
Nguyên Hãn quẳng cần câu lên bờ, rồi lao xuống vùng nước xoáy. Chàng lặn sâu xuống
một hơi dài, túm lấy tóc nạn nhân lôi lên. Thì ra người đuối nước là một cô
gái. Nàng đã chết, mọi động tác cứu chữa đều không còn tác dụng. Không biết làm
gì hơn, Trần Nguyên Hãn vác thi thể nàng đặt nằm trên một gò đất cao cao bên bờ
sông. Rồi chạy về thôn mượn cuốc xẻng ra, một mình hì hục đào huyệt, chôn cất
cho nàng được mồ yên, mả đẹp. Không hiểu tại sao nàng chết? Trên đường lên
nương rẫy bị nước lũ cuốn trôi? Hay bị bọn thổ quân vùng nào sát hại, ném xác
xuống sông? Cũng chả biết tên nàng là gì, Trần Nguyên Hãn liền đặt tên cho nàng
là Thị Duy. Thắp cho Thị Duy ba nén hương, đứng chắp tay trước mộ nàng, Trần
Nguyên Hãn thành tâm cầu khẩn:
- Thị Duy ơi! Ta đã chôn cất nàng tử tế. Chỉ mong sau này, chả
may ta có gặp nạn, nếu nàng là người sống khôn thác thiêng, nàng hãy cứu ta!
Không gian câm lặng. Chỉ có tiếng gió thổi vi vút trong những
bụi lau bên sông và tiếng nước vỗ ì oạp vào bờ đá. Khói hương vật vờ bay lên,
tan biến trong không gian như linh hồn người chết hóa thành linh khí. Trời lại
lắc thắc mưa. Với tâm trạng trĩu buồn, Trần Nguyên Hãn vác cần câu về không.
Đây là lần đầu tiên chàng đi câu về mà không có cá.
Không có cá thì Trần Nguyên Hãn tính đến chuyện đi đơm tôm,
tép.
Hãn chạy về vác nắn ra đồng Chằm Xoan. Nước từ ngoài sông Lô
đang tràn vào đồng. Năm nào cũng vậy cứ đến mùa này là nước lại tràn vào các dộc
đồng thấp, rồi từ đấy nước dâng lên, tràn ngập cả các thửa ruộng ở đồng cao.
Dân làng gọi hiện tượng này là nước lên. Những cánh đồng trước cổng làng vào những
ngày “nước lên” đã trở thành biển nước mênh mông. Vào thời gian úng ngập, lụt lội
ấy, ngoài việc bọn trẻ con trong làng tha hồ ngụp lặn, bơi lội, chúng còn được
đi câu cá, đánh bắt cá. Tuổi thơ của Trần Nguyên Hãn đã đi qua với những cuộc
vui tưng bừng như thế. Giờ là trang thanh niên rồi, chàng không còn ham nô giỡn
nữa. Hãn tìm đến một thửa ruộng, nước đang ngấp nghé tràn bờ, đoạn đặt nắn vào
chỗ trũng. Bằng cách đơm bắt này, Hãn sẽ đánh được những chàng cá rô, những
nàng cá diếc hăng hái băng theo dòng nước, lao lên phía trước.
Trần Nguyên Hãn vừa đặt nắn xong thì trời lại đổ mưa. Yên tâm
là mình đã cẩn thận làm đầy đủ những động tác cần phải làm để bảo đảm sự an
toàn cho việc kiếm cá, chàng mới trở về.
“Nắng chóng trưa, mưa chóng tối”. Các cụ nói đúng quá! Vừa mới
chiều đấy mà tối đã ập xuống. Không thể đợi mưa tạnh mới đi lấy nắn, Trần
Nguyên Hãn mặc áo tơi, úp cái nón rách lên đầu và không quên xách gươm theo, đội
mưa ra đồng Chằm Xoan.
Trong làn mưa rơi tầm tã, Trần Nguyên Hãn cố giương mắt to
lên mới nhận thấy một người cao lớn lênh khênh đang lúi húi dốc cá, tép từ
trong nắn ra, đưa vào mồm để ăn. Ai mà dám lấy trộm và lại ăn cá, tép sống thế
kia? Lạ lùng, quái đản quá, Trần Nguyên Hãn bèn giơ gươm lên quát: “Ai?” Và,
chàng tiến sát lại. Tưởng người, hóa ra đây là một con ma! “Con ma” có hình
dáng thật kỳ dị: Tóc dài, miệng rộng, mắt lồi, chân tay lòng khòng, nghều ngào.
Nghe Hãn giận dữ quát, “con ma” run rẩy, sợ hãi van nài:
- Thưa ngài. Tôi biết, nhờ có gươm thần ngài mới bắt được
tôi. Ăn trộm của ngài, tôi là người có tội. Xin ngài hãy tha cho tôi.
Tràn Nguyên Hãn tiếp tục dọa:
- Không được! Ta sẽ giết mi.
Nói rồi, chàng vung gươm. Thanh gươm sáng lóe lên hay là bắt
ánh chớp mà lóe sáng? “ Con ma” co rúm lại, van vỉ:
- Xin ngài đừng giết tôi. Nếu ngài tha tội chết cho tôi, tôi
xin biếu ngài một chiếc áo…
- Áo gì?
- Chiếc áo này có một trăm cái cúc. Một khi người mặc cài đủ
trăm cái cúc thì sẽ có sức tàng hình, nghĩa là không ai nhìn thấy được mình nữa.
Áo này gọi là áo Ma y, thưa ngài!
Chưa rõ thực hư nhưng vì thương con người kỳ dị, hay là “con
ma” đói khát này mà Trần Nguyên Hãn gật đầu đồng ý. Chỉ đợi có vậy, “con ma”
trao Ma y cho Hãn và biến mất. Sững sờ mất một lúc, Trần Nguyên Hãn vác chiếc nắn
không cá, không tép về nhà. Thế là lại thêm một lần nữa, Hãn đi không, về
không! Không biết ngày hôm nay là ngày gì mà chàng gặp bao nhiêu chuyện lạ
nhưng có thật, là sao?
Buổi tối, hai mẹ con ngồi ăn cơm xong, Trần Nguyễn Hãn lấy
tăm, rót nước mời mẹ, đoạn chàng mới kể cho mẹ nghe về những điều kỳ lạ mà mình
vừa mới gặp: Từ chuyện ông Sóng cho chuôi gươm mấy hôm trước đến chuyện chôn
nàng Thị Duy bên bờ sông và chuyện “con ma” cho Ma y chiều nay. Bà Lê Thị Hoàn
chăm chú lắng nghe không sót lời nào. Chính bà cũng không thể cắt nghĩa, lý giải
nổi tại sao con mình lại gặp những chuyện lạ lùng ấy. Bà bảo Hãn:
- Con là đứa con hiếm muộn của cha mẹ. Cha mẹ phải đi cầu
cúng ở chùa Tây Thiên, rồi mẹ mơ giữa ban ngày thấy Giao Long phủ… Sau đó mới
có con đấy Hãn ạ. Cho nên mẹ tin là sau này Trời, Phật sẽ phù hộ cho con. Con
hãy cố gắng lên. Trong lúc chờ thời, như thầy con dạy, con phải kiên trì văn ôn
vũ luyện, nghiền ngẫm binh thư để nữa mai có cơ hội mà đền nợ nước, trả thù
nhà. Con biết rồi đấy: giặc Minh đã chiếm được nước ta. Chúng nó đang cướp bóc,
tàn sát nhân dân ta. Chính cha con cũng bị bọn thổ quan, thổ binh thành Tam
Giang giết hại. Mẹ nhắc lại để con nhớ lấy mối thù nhà, không quên đền nợ nước.
Tuy thế con không được nôn nóng. Cha con vẫn thường nói: Dục tốc bất thành. Việc
gì nôn nóng cũng không thành. Người anh hùng phải có chí của người mười năm trồng
tre lấy gậy đánh giặc cũng chưa phải là muộn. Mẹ nói vậy con hiểu chứ?
- Thưa mẹ! Con hiểu lòng mẹ ạ.
Có lẽ đây là lần đầu tiên mẹ nói chuyện với Hãn một cách
nghiêm túc đến thế. Qua những lời giáo huấn, mẹ đã gửi gắm vào Hãn với biết bao
chờ đợi và hy vọng. Hãn nghĩ thế. Trong lòng chàng bỗng dậy lên rất nhiều dự định
mơ hồ.
Đợi trời tạnh mưa, Trần Nguyên Hãn đem thanh gươm ra bờ ao
Son. Ngồi bên tảng đá, chàng lại tiếp tục mài. Tiếng mài gươm “xoèn xoẹt” xiết
vào màn đêm nghe vừa hối hả, vừa kiên nhẫn.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét