Một hạt cát nhỏ bé nhưng có thể chứa đựng cả một vũ trụ
huy hoàng. Một vỏ ốc tự thu mình nhưng vẫn đầy sóng gió bao la. Cũng như người
Ấn Độ tự nhận thiên nhiên là người thầy lớn nhất của họ. Xứ sở đó đã phát tiết
những tư tưởng vĩ đại của nhân loại: Bà la môn, Phật...
Càn khôn tận thị mao đầu thượng
nhật nguyệt bao hàm giới tử trung
(Càn khôn rút lại đầu lông xíu
Nhật nguyệt nằm trong hạt cải mòng)
(Khánh Hỷ, Ngô Tất Tố dịch)
Đó là tư tưởng “một trong tất cả, tất cả trong một”.
Nhưng không riêng gì Khánh Hỷ, những nhà thơ vĩ đại thường
là người thể hiện một trực giác lóe sáng về bản chất thực tại, những khuynh
hướng tiên tri và đầy ắp viễn tượng vũ trụ. Họ là nhà thơ đồng thời cũng là
tư tưởng gia: Omar Khayyam, Bashô, Tagore, William Blake, Whitman, các nhà
thơ thiền sư thời Lý - Trần, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương...
Điểm lại, ngay từ buổi đầu, thơ ca từ trong Veda, của
Homere, Khuất Nguyên… đã có mặt trăng, sao, cát, đá… hàm chứa một cảm thức vũ
trụ. Nói như G.S Trịnh Xuân Thuận, “sự giải thích những sự kiện dù đơn giản
nhất cũng phải viện đến lịch sử vũ trụ và những ngôi sao chứa trong đó”.
Và, nếu Khánh Hỷ nhìn thấy vũ trụ trên đầu sợi lông, nhật
nguyệt trong lòng hạt cải, thì với thiên tài thơ ca của nước Anh William
Blake:
… Nhìn thấy vũ trụ trong hạt cát
Và thiên đường trong bông hoa dại
Cái vô hạn trong lòng bàn tay
Dường như đó là một thiền ngôn đậm chất phương Đông hơn là
lời thơ của một nghệ sĩ nơi trời Tây. Đó cũng là một cách khái quát thực tại
hiện hữu, trân quý trước cái đẹp vĩnh cửu và hiện thân vô thường. Cái đẹp
mong manh dễ vỡ. Và, cũng chỉ những kẻ “đạt nhân” trong cuộc đời mới có trực
giác lóe sáng ấy. Có phải thế không? Khoa học hiện đại chứng minh điều không
thể thành có thể, từ một tế bào không thể nhìn thấy bằng mắt thường có thể
nhân bản ra một cá thể, đến nỗi có thể giống nhau đến từng centimet. Chú cừu
Doly là ví dụ...
Một lần, Bashô nhìn đóa Nazuna, bông hoa bé dại đã hiện hữu
trong thơ ông:
Nhìn kỹ
Tôi thấy đóa Nazuna
Bên hàng giậu
(Nguyễn Hữu Hiệu dịch)
Vô cùng đơn giản. Nhưng dĩ nhiên, nước đã đun sôi để nguội
và một cốc nước lạnh, trong bản chất là khác nhau. Ánh mắt của Bashô đã không
còn trần tục khi nhìn bông hoa nhỏ dại ấy. Và điều kỳ diệu đã xảy ra:
đóa Nazuna tầm thường bỗng chốc biến thành một vũ trụ hồng diệu. Bởi, dù nhỏ
nhoi, nhưng đó cũng là một sinh mệnh, mang cả dấu ấn sáng tạo, kết tinh của
trời đất. Như con ếch lừng danh của Bashô:
Ao cũ
Con ếch nhảy vào
Vang tiếng nước xao
(Nhật Chiêu dịch)
Con ếch đã đánh thức ngàn năm vũ trụ (ao cũ). Qua đó, con ếch
mới tự tại và đầy đủ vũ trụ tính.
Cũng là cảm thức về vũ trụ, nhưng bây giờ ta có những vần
thơ cực kỳ khác lạ của Walt Whitman trong tập “Lá cỏ” (Leave grass) lừng
danh. Những vần thơ sau đây nói lên cảm thức ấy:
“Một lá cỏ không thua gì đường bay của những vì sao
Một con kiến cũng ngang phần toàn bích, hay một hạt cát, hoặc
trứng chim hồng tước
Và con nhái bén là kiệt tác nhà trời
Lá cỏ nhỏ nhoi nhưng vẫn đầy đủ vũ trụ tính như thường. Đó
là tập thơ mang một cảm thức vũ trụ vô song. Nói tới tập thơ ấy cũng như tác
giả của nó, là một trong trong những biểu tượng của thơ ca Mỹ, như Kahlil
Gibran của Lebanon, nhu Bashô của Nhật Bản...
Kìa xem bóng nguyệt lòng sông
Ai hay không có có không là gì
Hình ảnh trăng soi đáy nước, hay thủy nguyệt, là hình ảnh
quen thuộc trong thơ ca phương Đông nói chung, ảo diệu và u huyền. Con người
và trời đất là hình bóng của nhau. Nếu ta là hình thì vũ trụ là bóng và ngược
lại. Trời đất có bốn mùa, con người có tứ chi; một năm có 365 ngày, con người
có 365 đốt xương. Hay nói cách khác, con người là tiểu vũ trụ và thế giới là
đại vũ trụ, cả hai tương dung, tương chiếu lẫn nhau.
Tác hữu trần sa hữu
Vi không nhất thiết không
Hữu không như thủy nguyệt
Vật trước thị không không
(Có thì có tự mảy may
không thì cả thế gian này cũng không
Vầng trăng vằng vặc in sông
Chắc chi có có không không mơ màng)
(Từ Đạo Hạnh - Bản dịch tương truyền của Thiền sư Huyền
Quang)
Thủy nguyệt là hình ảnh quen thuộc trong tư tưởng thẩm mỹ
phương Đông. Đó là trò chơi linh ảo của hình và bóng, có và không, hay thực
chất là trò chơi của vũ trụ. Cũng theo tinh thần mỹ cảm ấy, tâm ta không những
soi chiếu thế giới mà thế giới cũng soi chiếu tâm ta. Thủy nguyệt, theo Dogen
thiền sư: “Trăng không bao giờ ướt và nước không bao giờ tan vỡ. Chiều sâu của
giọt sương là đỉnh cao của vầng trăng. Mỗi phản ánh dù dài hay ngắn đều biểu
hiện cái bao la của giọt sương và chứng tỏ cái vô hạn của ánh trăng trong bầu
trời” (Nhật Chiêu, dịch).
Cũng như với Nguyễn Du, đó là cái “tâm kính” để ông thấu đạt
sáu cõi, hay nói một cách khác, đó là cái “tâm kính” để Tố Như soi chiếu thế
giới, soi chiếu sự vật trong “cõi người ta” này:
Diệp lạc hoa khai nhãn tiền sự
Tứ thời tâm kính tự như như
(Hoa nở lá rơi đầy nước mắt
Bốn mùa tâm kính vẫn như như)
Vậy bằng cách chú tâm miêu tả hạt cát, hạt cải, hoa nở lá
rơi, hay trăng soi đáy nước…, các nhà thơ đều gợi ra cái vô hạn của thiên
nhiên và vũ trụ. Mỗi sinh linh, mỗi vật dù bé nhỏ vô dụng vẫn đầy đủ vũ trụ
tính như thường. Trước đại thế giới này, con người vẫn tự tại, là một tấm
gương soi không ngừng đi tìm soi chiếu cái đẹp, chuyển hóa nó thành những
phút giây thăng hoa vĩnh cửu.
|
Lê
Văn Như Ý
|
Thứ Sáu, 2 tháng 10, 2015
Một thoáng vũ trụ
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Cái còn lại hóa cái không
Cái còn lại hóa cái không Nhà thơ Tạ Bá Hương vừa được kết nạp hội viên Hội Nhà văn Việt Nam năm 2022. Anh tốt nghiệp Khóa 7 Trường Viết v...
-
Vài nét về văn học Đông Nam Á Đặc điểm của văn học Đông Nam Á (ĐNA) Nói đến văn học Đông Nam Á là phải nói đến sức m...
-
Cảm nhận về bài thơ một chút Kon Tum của nhà thơ Tạ Văn Sỹ “Mai tạm biệt – em về phố lớn Mang theo về một chút Kon Tụm”… Vâng...
-
Mùa thu nguồn cảm hứng lớn của thơ ca Việt Nam 1. Mùa thu Việt Nam nguồn cảm hứng trong nghệ thuật Mùa thu mùa của thi ca là m...
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét