Thứ Năm, 25 tháng 3, 2021
Phần IIb - Một số bài viết của thầy Tuệ Sỹ
NHỮNG GIÁ TRỊ PHỔ QUÁT CỦA BỒ TÁT HÀNH
[31] Vajracchedikā: ye māṃ rūpeṇa cādrākṣurye māṃ ghoṣeṇa cānvayuḥ |mithyāprahāṇaprasṛtā na māṃ drakṣyanti te janāḥ ||1|| dharmato buddhā draṣṭavyā dharmakāyā hi nāyakāḥ |dharmatā ca na vijñeyā na sā śakyā vijānitum ||2|| Bài kệ thứ hai trong Phạn bản, không có trong bản dịch của La-thập. Hán dịch của Huyền Trang: 應 觀 佛 法 性 即 導 師 法 身 法 性非所識 故彼不能.
3. Ảnh hưởng Tâm kinh và Mật giáo
PHƯƠNG NÀO CÕI TỊNH
Chén trà lão Triệu mà chưng hoa ngàn.
TUỆ SỸ
Thứ hai, kinh Bát nhã (Praijnapamita-sutra): “Bất hoại giả danh nhi thuyết thật nghĩa”. Do đó, muốn đạt đến chân lý tuyệt đối này, phải vượt qua mọi khả năng của ngôn ngữ và biểu tượng, như người ta cần lìa bỏ tầm mắt khỏi ngón tay để nhìn thẳng vào mặt trăng. Tuy nhiên, trích dẫn của chúng ta nói: ngay nơi biểu tượng và ngôn ngữ mà thể nhận chính bản thân của sự thật. Và đây chính là lý tưởng của văn học Đại thừa. Bởi vì, theo lý tưởng này, vắn tắt, không phải do người nói đã nói ra như vậy, rồi người nghe theo đó mà nghe như vậy và sự thực được phô diễn như vậy nên có ý nghĩa như vậy; nhưng, chính sự thật là như vậy.
Quan điểm của chúng ta sẽ được tóm tắt như sau:
Tiểu yên động dung, thị thông vạn lý v.v...
Trong cuộc đời ấy, cô đơn là người bạn. Nhưng đồng thời nó lại là một kẻ thù sinh tử. Làm thế nào để chịu đựng đời sống cô liêu giữa núi rừng hoang dại? Câu hỏi này được đặt ra bởi một người Bà-la-môn tên Janussoni. Đức Phật trả lời rằng: “Tất cả những ẩn sĩ, với những hành vi của thân, miệng và ý mà không trong sạch, khi họ sống trong sự cô liêu của núi rừng, vì những hành vi bất tịnh của họ, khiến họ nổi lên sợ hãi, run rẩy khôn cùng. Còn Tôi, mà các hành vi thảy đều trong sạch,
Jataka hay Bản sinh truyện là những mẫu chuyện tiền thân của đức Thích tôn, trải qua nhiều kiếp với những hành vi như một anh hùng hiệp sĩ vĩ đại xuất hiện giữa thế gian, luôn luôn đem cả thân mạng làm lợi ích cho mọi người. Những mẫu chuyện này, ngoài ước vọng giải thoát để làm lợi ích toàn diện cho thế gian của đức Thích tôn, không chứa đựng cốt yếu nào hết. Vì ở đây, Bồ tát (Bodhisattva) - một danh hiệu trước khi Thích tôn thành đạo, sống giữa thế gian, làm tất cả những gì mà thế gian cần có không phải vì giải thoát tối thượng, mà vì sự an lành trong cuộc sống bình nhật. Ngài là một mẫu hiệp sĩ cứu khổ phò nguy, giữa quần chúng bình dân, yếu đuối, bất lực dưới mọi bất công.
“Đúng thế, tôi nói đức Phật”.
Theo gương đó, ước vọng của những người theo đạo Phật bấy giờ là:
- Từ nhân cách đời sống của đức Phật;
Ý nghĩa sáng tác (văn học) của Đại thừa cũng theo đó. Kinh Bát nhã nói: “Các đệ tử của Phật làm gì có giảng thuyết. Tất cả đều do năng lực của Phật. Bởi vì họ y theo những gì Phật đã dạy mà học tập, nhờ đó mà chứng được các pháp tướng. Sau khi đã chứng tất cả những gì được họ nói ra đều không trái với pháp tướng. Vì chính năng lực của pháp tướng vậy”. Đại ý đoạn kinh này nói là sự giảng thuyết của đệ tử Phật không phải do họ muốn bày tỏ một quan điểm nào đó của mình, nhưng đấy là sự bộc phát tự nhiên của những gì mà họ đã chứng đắc.
Nếu chúng ta không hay biết tí gì về tâm nguyện đại bi ấy mà mong bước vào thế giới văn học Đại thừa, đây mới thật là một không tưởng trên mọi không tưởng. Không tưởng này được bộc lộ quá lộ liễu và thô thiển khi người ta đánh giá một tác phẩm Đại thừa qua cái gọi là khám phá về những thế giới bên ngoài thế giới này, thế giới vô cùng, vô tận, mà các tác phẩm Đại thừa thường mô tả, có thực như vậy hay không chẳng có gì quan hệ phải bận tâm. Nếu tâm trí của chúng ta không mở rộng kịp với thế giới vô tận được mô tả ấy, thì dù đó có là sự thực, cũng chỉ là sự thực của bóng vẽ. Nghĩa là, nói tóm lại, hương vị của Chánh pháp vẫn là hương vị cô liêu của sự sống. Và đây mới đích thực là tính chất của toàn thể văn học Phật giáo, bao trùm tất cả mọi khuynh hướng, mọi tông phái của nó.
Sưu tập: HẠNH VIÊN Nxb Phương Đông, tháng 7/2015, tr. 8-32
Những giọt nước mắt từ khóe mắt Đại Bi của Bồ-tát Quán Thế Âm rơi xuống; giọt nước mắt hiện thân thành Thánh nữ Đa-la. Ngài hiện thân sức mạnh để dẫn người khốn khổ vượt qua những tai họa hiểm nghèo. Tai họa bởi nước cuốn, bởi thú dữ, cũng như bởi sự phản bội của người tình. Bởi vì Tara có nghĩa là cứu độ.
NXB Phương Đông, tháng 7-2015, tr. 104-107
Thay lời tựa tập thơ Trên tất cả đỉnh cao là lặng im, Phạm Công Thiện, Hương Tích ấn hành tháng 5/2009; tái bản 2013. Phát hành song song trên mạng toàn cầu amzon.com 2014. THI CA VÀ TƯ TƯỞNG
Sau cùng của cuộc Hội thoại lịch sử hy hữu này, Parménide đọc bài thơ của Nerval để tặng Tố Như:
Thử xem cách điệu lập ngôn có thay đổi như thế nào:
Hebenden Streit unter den Felsen...)
Môi là mềm từ mọng miệng cong côi
Cuối bài báo này, tôi xin được phép có thêm vài lời phụ chú sau đây. Có thể độc giả thấy rõ tôi viết về thơ Bùi Giáng trong cách điệu Riêng nào đó; hoặc tôi chỉ viết về Thi ca trong cách điệu Chung. Nhưng cả hai, đến đây không thành vấn đề nữa. Thi ca và Tư tưởng, luôn luôn là những tương ứng của Chung và Riêng.
Tuệ Sỹ Văn Tuyển, tập III. VĂN HỌC.
Nhạn quá trường giang
Muốn đo chiều cao của ngọn sóng cao được bao nhiêu, thì nên biết, đã từng vượt qua đỉnh núi nhưng lại y nhiên chìm đắm trong những con sóng dạt dào.
Nhã Luân đánh máy lại từ Trần Đăng Thành's fb - sau_lưng_ngôn_ngữ_của_thi_ca_tuệ_sỹ.
Thơ Đinh Hùng tràn đầy những hình ảnh kinh dị. Không hẳn chỉ vì bản tính của kẻ làm thơ phải làm những việc dị thường, nên càng lạ thì càng thơ. Người làm thơ thường bị tác động bởi một thế lực vô hình, sức thu hút của ngôn ngữ. Nhà thơ cũng như người thường, không ai có thể làm được cái gì kinh dị như hình bóng của ma quỷ trong đời sống thường nhật này; một chút mộng tưởng cũng không chắc làm nổi. Nhưng qua ngôn ngữ của thơ, người ta thấy mở ra một thế giới lẫn lộn cả sơ khai và mạt thế. Sự cuồng nộ hay dáng điệu miệt mài không tạo được lời thơ, mà chính lời thơ dệt nên một thế giới cuồng nộ, vẽ ra một dáng điệu miệt mài.
Trong giấc ngủ đẫm mùi hương phân lạ.
Gặp hồn em đó còn ngờ yêu ma.
Nhưng lần đầu tiên Nghi vượt ra ngoài giới nghiêm của tu viện không phải ngang qua cái cổng bao dung ngầm đó. Chú đi bằng ngõ sau. Đó chỉ là một hàng rào bằng kẽm gai, không có trồng dâm bụt hay một thứ hoa lá nào, chỉ cần cúi rạp mình xuống, cẩn thận vén các tà áo, có thể ra vào như không. Phía sau tu viện này là một vườn rau chạy dọc sát rào của nó. Băng qua vườn rau khoảng hai chục thước là một con đường đất, rộng vừa đủ cho hai chiếc xe đạp tránh nhau. Bấy giờ là tháng cuối của mùa nghỉ hè. Sau giờ tĩnh niệm thường lệ mỗi tối, Nghi ra phía sau tu viện để tiểu, vì chỗ này có nhiều bụi chuối kín đáo. Nhìn dòng nước lấp lánh dội lên đám cỏ, chú nghe trong người khoan khoái, tâm hồn như mở rộng. Những luống cải xanh mát của khu vườn trước mắt đẹp hẳn lên. Chú nghe luồng trăng bạc như sương khuya lấp lánh đang nhảy múa chập chờn trên các luống cải. Âm hưởng ngọt ngào và quyến rũ. Cây cối im lìm trong một cảnh tượng thanh bình và trang nhã. Lắng tai nghe kỹ hơn, chú nhận ra âm hưởng đó từ phía bên kia con đường đất lan truyền đến. Ăn cắp chuối trên bàn Phật, hay lẻn qua vườn rau nhổ bậy vài bụi cải cho những cuộc kiết tập kín đáo, với bánh tráng mỏng và nước tương dầm ớt thiệt cay, đó không phải là chuyện hiếm có giữa các chú tiểu. Mặc dù Nghi chưa lần nào được giao phó công tác hái trộm rau, nhưng lẻn chui qua bên ấy là một việc hết sức tự nhiên. Lúc này thì cái âm hưởng quyến rũ kia cũng tự nhiên một cách vô tình khiến chú rạp người xuống, chui qua hàng rào kẽm gai, băng qua vườn, sang tuốt con đường đất. Nơi đây chú có thể phân định phương hướng phát ra âm thanh chuẩn xác hơn. Vào giờ này, không chỉ là con đường vắng vẻ, mà cả một khu vực cũng hoàn toàn vắng vẻ. Suốt con đường về phía tay trái phỏng chừng đó, duy nhất chỉ có một ngôi nhà ẩn sau nhiều bóng cây rậm rạp. Chú rẽ phía trái, rõ ràng đang có người chơi đàn trong đó. Xuyên qua khung cửa sổ, chú thấy một mái tóc chảy dài, nghiêng nghiêng theo âm điệu to nhỏ và tiết điệu buông lơi của tiếng đàn. Trên cao một chút, bóng đèn sữa đục được ủ trong một ánh sáng ấm áp của chính nó. Tiếng đàn đột ngột dừng lại. Chú ngơ ngác. Nhưng bóng người đã hiện rõ trên khung cửa. Chú muốn bỏ chạy, lại e là vô lễ, hoặc có thể là bị nghi ngờ. Lỡ người ta sang mách bên chùa, nhất định chú bị phạt nặng. Hàng xóm cũng hay lên chùa than phiền các chú phá phách, và các chú có khi bị phạt tập thể. Đợi một lúc, không thấy người đó động tĩnh gì cả, Nghi dợm chân muốn chạy. Nhưng tiếng nói từ bên trong vọng ra: - Ai đó? Nghi không biết phải trả lời mình là ai. Lại có tiếng hỏi: - Điệu bên chùa phải không? Cô này nhất định là người Huế. Giọng nói nghe kiểu cách, nhưng dịu dàng. Nghi có cảm tình ngay. - Dạ. - Chừng ni điệu còn đi mô khuya rứa? Nghi không trả lời ngay, và không chút ngần ngại, đẩy cánh cổng đi vào. Cổng chỉ khép hờ. - Dạ, nghe đàn. Chạy đi coi thử. Gương mặt chú hiện rõ qua ánh đèn đang hắt ra ngoài. Chỏm tóc lệch qua một bên, phủ mép trán. Đôi mắt sáng ngây thơ dưới hàng mi dài và cong. Chú đưa tay lên vuốt chỏm tóc. - Dạ, thưa cô. - Điệu chun qua rào hả? Chú cười. Chớp hai hàng mi tinh nghịch. Nụ cười của trẻ thơ, trong trắng và hồn nhiên, nhưng quá nhỏ nhoi và khiêm tốn giữa một thế giới đòi hỏi quá nhiều sự trang nghiêm và kính cẩn. Tuổi thơ hiếm hoi cho một tâm hồn tập sự săn đuổi những ước mơ ngoài tầm với bắt của con người. Cô cũng mỉm cười theo chú, đưa tay hất ngược mái tóc về phía sau: - Điệu vô trong ni đi. Cô bước sang trái mở cánh cửa. Chú lách mình bước vào. Căn phòng, ngoài cái bàn nhỏ và một cái kệ sách, chỉ có một vật lạ đối với Nghi là cây đàn kê sát vách tường nhìn nghiêng ra khung cửa sổ. Chú đi thẳng lại đó, níu hai tay lên thùng đàn, cúi nhìn chăm chú những phím đen trắng chen nhau sắp thành một hàng thẳng. Sự thích thú hiện rõ trên đôi mắt. Cô ngồi xuống, trên cái băng ngắn đặt trước cây đàn và tựa một nửa người lên dãy phím. - Điệu đi tu chi rứa? - Dạ. Nghi ở với Thầy. Chú thừa dịp, đặt cả bàn tay lên phím đàn và ấn xuống. Âm thanh so le nhau cùng tấu lên. Khi cất tay, chú nghe chúng ngân dài, lẫn vào thùng đàn như đang chìm sâu vào trong bóng tối hun hút phía sau. - Điệu thích đàn không? - Thầy cấm. Mấy Thầy lớn bên chùa lén học, bị Thầy bắt được phạt hoài. - Mấy Thầy lớn? - Dạ lớn lắm. Lớn bằng cô. - Chú tên chi? - Dạ Nghi. Chú nhích người ra, đứng nhìn thẳng xuống phím đàn, nắm chặt bàn tay phải, chĩa ngón trỏ thọc lên một phím đen. Ngón tay bị trợt sang, thọc luôn xuống phím trắng. Hai âm thanh nối nhau, to nhỏ không tề chỉnh. - Điệu muốn học đàn hả? Tiếng đàn chạy lui vào vách tường, có lẽ vậy. Chú nhón gót chân nhìn. Nhưng lưng đàn dựa sát vách. - Thầy la chết. - Thì cứ chun qua rào như tối ni. Thầy biết mô. - Đâu được. Bỗng nhiên chú xoay người lại. - Thưa cô, Nghi về. Và chú tự động đến mở cửa, cắm đầu chạy thẳng. Bóng người lại xuất hiện qua khung cửa sổ. Nhưng chú không quay đầu nhìn lại. Băng qua vườn cải, rồi lách mình chun qua hàng rào, chú chạy thẳng về phòng. Trong bóng tối của căn phòng, chợt có tiếng nói: - Mi chết? Tiếp theo, có tiếng người lăn trên giường, tiếng vỗ chát và tiếng hô: - Ê, làm gì kỳ vậy. Nghi biết đó là giọng của chú Đảm. Còn kia chắc là chú tiểu Mùi. Chỉ có chú này mới hay ngủ mớ kiểu đó. Những ngày kế tiếp Nghi hình như quên bẵng vụ chui rào của mình. Chú vẫn đùa giỡn, vẫn chăm chỉ làm công việc một chú tiểu trong chùa. Bổn phận hành điệu của chú là châm trà, lau bàn ghế và quét dọn trong phòng của sư trưởng. Không ai biết tuổi thơ trôi qua như vậy đang ấp ủ sự gì. Sự thành kính khi bưng ấm trà để vào khay. Sự ngăn nắp khi treo sâu tràng hạt vào tủ kính. Khi sửa lại ngay ngắn một bình hoa, một cây viết trên bàn, một quyển sách mà sư trưởng đang học dở. Tất cả những thứ đó không phải là kiểu cách mà người ta có thể nhìn thấy trong đôi mắt đen láy kia. Hằng ngày, chú lại phải học về ý nghĩa của sự vô thường, khổ đau và giả tạo đang đè nặng kiếp người. Mắt chú vẫn trong sáng. Nụ cười vẫn hồn nhiên. Thân tứ đại giả hợp, như cây bên bờ sông, như cỏ bên bờ giếng. Tất cả đều là mộng tưởng, thì chắc gì cái vô thường và khổ não kia của kiếp người không là mộng tưởng. Nhưng chú thích học những thứ đó. Thích nhìn sự giả tạo đó qua những hàng chữ nhỏ ngay ngắn và chú lại càng thích nắn nót sao cho chúng được ngay ngắn trang nghiêm như chữ viết của sư trưởng. Đêm trăng cũng thường quyến rũ chú. Những đêm như thế, chú hay ra phía sau tu viện, ngồi bó gối thu hình trong bóng cây. Nội cả tu viện này, chỉ có sư trưởng mới để ý. Vì sư biết rằng, đó là lúc chú đang ngồi khóc một mình. Thỉnh thoảng bắt gặp, sư dẫn chú về phòng. Căn phòng cho các chú tiểu ngủ chung. Chỉ có bốn chú, hơn kém nhau vài tuổi. Sát góc phòng là bàn thờ nhỏ. Đó là bàn thờ đặc biệt sư trưởng lập riêng cho chú. Bây giờ thì các chú nhỏ kia đã ngủ hết. Sư đốt lên một ngọn nến. Giữa bàn thờ hiện rõ ảnh bán thân của một thiếu phụ, tuổi khoảng trên ba mươi, gương mặt hao hao giống chú. Sư đốt nhang cắm vào bát và nói rất nhỏ:
Lại ác mộng bởi rừng khuya tàn bạo đấy, Thịt xương người vung vãi lối anh đi. Nhưng đáy mắt không căm thù đỏ cháy, Vì yêu em trên cây lá đọng sương mai. Anh chiến đấu nhọc nhằn như cỏ dại, Thoảng trông em tà áo mỏng vai gầy. Ôi hạnh phúc, anh thấy mình nhỏ bé, Chép tình yêu trên trang giấy trắng thơ ngây. Ðời khách lữ biết bao giờ yên nghỉ, Giữa rừng khuya nằm đợi bóng sao Mai. Ðể một thoáng giấc mơ còn kinh dị, Dáng em buồn bên suối nhỏ mây bay.
Quỳ xuống đó nghe hương trời cát bụi Đôi chân trần xuôi ảo ảnh về đâu? Tay níu lại những lần khân chìm nổi Hận thu cao mây trắng bỗng thay màu. Ta sẽ rũ gió lùa trên tóc rối Giọng ân tình năn nỉ bước đi mau Còn rộn rã bởi hoang đường đã đổi Bởi phiêu lưu ngày tháng vẫn con tàu. Vẫn lăn lóc với đá mòn dứt nối Đá mòn ơi, cười một thuở chiêm bao Quỳ xuống nữa ngủ vùi trong cát bụi Nửa chừng say quán trọ khóc lao xao. Tay níu nửa gốc thông già trơ trọi Đứng bên đường nghe mối hận lên cao.
Phố trưa nắng đỏ cờ hồng Người yêu cát bụi đời không tự tình Sầu trên thế kỷ điêu linh Giấc mơ hoang đảo thu hình tịch liêu Hận thù sôi giữa ráng chiều Sông tràn núi lở nước triều mênh mông Khói mù lấp kính trời đông Trời ơi! Tóc trắng rủ lòng quê cha Con đi xào xạc tiếng gà Đêm đêm trông bóng Thiên hà buồn tênh Đời không cát bụi chung tình Người yêu cát bụi quê mình là đâu? Thích Tuệ Sỹ Nha trang , 4-1975
Nằm ôm một bóng trăng gầy Vai nghiêng tủi nhục hờn lay mộng tàn. Rừng sâu mấy nhịp Trường Sơn Biển đông mấy độ triều dâng ráng hồng. Khóc tràn cuộc lữ long đong Người đi còn một tấm lòng đơn sơ? Máu người pha đỏ sắc cờ Phương trời xẻ nửa giấc mơ dị thường. Quân hành đạp nát tà dương Khúc ca du tử bẽ bàng trên môi. Tình chung không trả thù người Khuất thân cho trọn một đời luân lưu. Thích Tuệ Sỹ Nha trang 4-1975
Tang thương một giải tóc huyền Bãi dâu ngàn suối mấy miền hoang vu Gởi thân gió cuốn sa mù Áo xanh cát trắng trời thu muộn màng Chênh vênh hoa đỏ nắng vàng Gót xiêu dốc núi vai mang mây chiều Tóc huyền loạn cả nguyên tiêu Lãng du ai ngỡ cô liêu bạc đầu Một kiếp sống, một đoạn đường lay lắt Một đêm dài nghe thác đổ trên cao Ta bước vội qua dòng sông biền biệt Ðợi mưa dầm trong cánh bướm xôn xao Một buổi sáng mắt bỗng đầy quá khứ Ðường âm u nối lại mấy tiền thân Ta đứng mãi trên suối ngàn vĩnh viễn Mộng vô thường máu đỏ giữa hoàng hôn Tuệ Sỹ
Bờ bến lạ chút tư tình với bóng Mây lạc loài ôi tóc cũ ngàn năm Nào đâu nữa tóc em như gió cuốn Người ra đi tâm sự với hoàng hôn Tượng đồng tạc bóng cô liêu Trời xanh tóc trắng bao nhiêu chuyện rồi Này đêm rộng như khe rừng cửa biển Hai bàn tay vén lại tóc xa xưa Miền đất đỏ trăng đã gầy vĩnh viễn Từ vu vơ trong giấc ngủ mơ hồ Một lần định như sao ngàn đã định Lại một lần nông nổi vết sa cơ Trời vẫn vậy vẫn mây chiều gió tỉnh
Tam thập niên tiền học khổ không Kinh hàm đôi lũy ám tây song Xuân hoa bất cố xuân quang lão Túy trúc tà phi túy mộng hồn Nhâm nhiễm trường mi thùy hoại án Ta đà tố phát bạn tân phong Nhất triều cước lạc huyền nhai hạ Thủy ba chân không đối tịch hồng Nhất Uyên Dịch: Ba mươi năm trước học khổ không Kinh điển đôi chồng che cửa song Xuân xanh không đoái xuân già cỗi Trúc biếc tà bay, ngát mộng lòng Thấm thoắt mi dài buông án cũ La đà tóc bạc lửa tàn phong Một sớm hụt chân rơi vách núi Mới thấy chơn không đối tịch hồng
Ðôi mắt ướt
tuổi vàng cung trời hội cũ Áo màu xanh không xanh mãi trên đồi hoang Phút vội
vã bỗng thấy mình du thủ Thắp đèn khuya ngồi kể chuyện trăng tàn Từ núi lạnh đến
biển im muôn thuở Ðỉnh đá này và hạt muối đó chưa tan Cười với nắng một ngày
sao chóng thế Nay mùa đông mai mùa hạ buồn chăng! Ðếm tóc bạc tuổi đời chưa đủ
Bụi đường dài gót mỏi đi quanh Giờ ngó lại bốn vách tường ủ rũ Suối nguồn xa
ngược nước xuôi ngàn Tuệ Sỹ.
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Giải mã tục cúng Thần Tài vào mùng 10 tháng giêng âm lịch
Giải mã tục cúng Thần Tài vào mùng 10 tháng giêng âm lịch Khoảng hơn 10 năm trở lại đây, trên báo chí và mạng xã hội thường phản ánh chuyệ...
-
Vài nét về văn học Đông Nam Á Đặc điểm của văn học Đông Nam Á (ĐNA) Nói đến văn học Đông Nam Á là phải nói đến sức m...
-
Cảm nhận về bài thơ một chút Kon Tum của nhà thơ Tạ Văn Sỹ “Mai tạm biệt – em về phố lớn Mang theo về một chút Kon Tụm”… Vâng...
-
Mùa thu nguồn cảm hứng lớn của thơ ca Việt Nam 1. Mùa thu Việt Nam nguồn cảm hứng trong nghệ thuật Mùa thu mùa của thi ca là m...
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét