Ca khúc nghệ thuật Việt Nam
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ở Việt Nam, từ giữa thế kỷ XX, khái niệm ca khúc nghệ thuật(CKNT) xuất hiện cùng sự hình thành nền âm nhạc chuyên nghiệp. Trong luận án,
NCS lựa chọn nghiên cứu những ca khúc nghệ thuật Việt Nam (CKNTVN) có phần đệm
piano do chính tác giả sáng tác. Thể loại này có những đặc điểm gì về ca từ, cấu
trúc, giai điệu và phần đệm? Là một thể loại du nhập, CKNTVN có thể là sự
kết hợp giữa kỹ thuật sáng tác trong âm nhạc phương Tây với âm nhạc truyền thống
Việt Nam. Thể loại này cũng có thể trở thành cầu nối giữa công chúng nghe nhạc với
âm nhạc hàn lâm, nhưng lại chưa thực sự được nghiên cứu một cách tổng thể và có
hệ thống. Nghiên cứu về (CKNTVN)không chỉ đóng góp cơ sở lý thuyết cho việc
sáng tác CKNT có phần đệm mà còn là một tài liệu tham khảo cho công chúng nghe
nhạc. 2. Đối tượng, phạm vi nghiên cứuĐối tượng nghiên cứu của luận án là đặc điểm ca từ, cấu trúc,
giai điệu và phần đệm trong thể loại CKNTVN. Phạm vi nghiên cứu của luận án là các CKNTVN ở dạng có phần đệm
piano do chính tác giả sáng tác, bao gồm136 CKNTVN của 16 nhạc sĩ.3. Mục đích, mục tiêu nghiên cứuMục đích nghiên cứu của luận án là sử dụng hệ thống lý
luận Âm nhạc học nhằm làm rõ đặc điểm thể loại CKNTVN, bao gồm các yếu tố ca từ,
cấu trúc, giai điệu và phần đệm.4. Nhiệm vụ nghiên cứu: Nghiên cứu tổng quan và các khái niệm; sự
hình thành của thể loại; làm rõ đặc điểm ca từ, nghiên cứu cách thức triển khai
cấu trúc; phân tích và hệ thống đặc điểm giai điệu và phần đệm trong CKNTVN.5. Phương pháp nghiên cứuTrên nền lý thuyết, lý luận Âm nhạc học, NCS sử dụng các
phương pháp nghiên cứu lý thuyết (phân tích, so sánh, quy nạp, tổng hợp, hệ thống)
và phương pháp chuyên gia.6. Ý nghĩa khoa học của đề tài- Bổ sung vào phần dữ liệu lý luận, phê bình.- Đóng góp tư liệu tham khảo cho những người hoạt động biểu
diễn, sáng tác… - Là một tài liệu tham khảo dưới góc độ âm nhạc học đáng tin
cậy cho công chúng khi muốn tìm hiểu âm nhạc hàn lâm. - Tạo cơ sở cho việc mở rộng nghiên cứu trong tương lai theo
hướng so sánh với các thể loại khác.7. Bố cục luận ánChương 1: Cơ sở lý luận và sự hình thành thể loại ca khúc nghệ
thuật Việt NamChương 2: Ca từ và cấu trúcChương 3: Giai điệu và cấu trúcCHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ SỰ HÌNH THÀNH THỂ LOẠI CA
KHÚC NGHỆ THUẬT VIỆT NAM1.1. Thuật ngữ Ca khúc nghệ thuật Việt NamTrong khuôn khổ luận án “Thể loại ca khúc nghệ thuật Việt
Nam”, thuật ngữ CKNT được sử dụng tương đương với thuật ngữ chỉ các thể loại ca
khúc có phần đệm trong âm nhạc phương Tây như Romance thanh nhạc (TN), Lied,
Mélodie.Việc tìm hiểu các khái niệm liên quan giúp việc đưa ra giới
thuyết cho thuật ngữ CKNT dùng trong luận án được cụ thể hơn. Tổng hợp các công trình nghiên cứu có thể thấy, các thể loại
Romance TN, Lied, Mélodie có nhiều điểm tương đồng, thường là “một thể loại âm
nhạc dành cho giọng ca và bè đệm đàn”. Công trình Tổng tập Âm nhạc Việt
Nam - Tác giả và tác phẩm sử dụng thuật ngữ CKNT và Romance khi đề cập và
phân tích một số tác phẩm thanh nhạc có kèm theo phần đệm khí nhạc do chính tác
giả sáng tác. Trong công trình Phương pháp sư phạm thanh nhạc, GS. Nguyễn
Trung Kiên định nghĩa trong Romance: “âm nhạc được phát triển biểu hiện nội
dung của lời thơ và phần đệm viết cho đàn piano”. Trong cuốn Từ điển âm nhạc của
Vũ Tự Lân, Romance được định nghĩa là “tác phẩm cho giọng hát và phần đệm (thường
là piano)”. Cuốn Thuật ngữ âm nhạc của Nguyễn Bách định nghĩa Romance
là một “bản tình ca”… Qua tổng hợp có thể thấy phổ biến nhất là dạng khái niệm
coi Romance là một thể loại âm nhạc thính phòng viết cho giọng hát và phần đệm
(thường là piano). Đặc điểm thể loại Romance TN, Lied, Mélodiecũng được đề cập ở
nhiều công trình trên các khía cạnh cấu trúc, vai trò và ý nghĩa của yếu tố lời
ca, phần đệm trong mối quan hệ với giai điệu. Khái niệm CKNTVN được đề cập đến trong một số công trình
nghiên cứu. Công trình Âm nhạc mới Việt Nam - Tiến trình và thành tựu đề
cập đến "CKNT" Việt Nam là “Một số ca khúc - chủ yếu là loại ca khúc đơn ca trữ
tình, được xây dựng với bút pháp mới, bộc lộ một số kỹ năng mới, đòi hỏi một
trình độ diễn xuất tinh tế hơn, có tính chuyên nghiệp hơn…”. Sự ra đời của thể
loại này được cho là đã có tiền đề từ những ca khúc phổ thơ, và là một nhánh của
ca khúc trữ tình, có yêu cầu cao về bút pháp sáng tác, nhưng không bắt buộc việc
kèm theo phần đệm khí nhạc. Ở giai đoạn Tân nhạc, một số ca khúc có giá trị về giai điệu
và ca từ, nhưng lúc này, việc viết phần đệm khí nhạc cho các ca khúc chưa phổ
biến. Từ khoảng 1960, những ca khúc có phần đệm được hình thành, và nhiều tác
phẩm trong số đó có thể được gọi là các Romance TN của Việt Nam. Trong luận án,
NCS chỉ nghiên cứu các tác phẩm có phần đệm do chính tác giả sáng tác, để có cơ
sở chi tiết, đầy đủ hơn về hình tượng, ngôn ngữ sáng tác do bao gồm cả khía cạnh
âm hình phần đệm và hòa âm. NCS đưa ra khái niệm cho thuật ngữ
CKNTVN được sử dụng trong luận án là các tác phẩm viết cho giọng hát và phần
đệm piano do chính tác giả sáng tác, giai điệu thiên về tính chất trữ tình, ca
từ trau chuốt, thường phổ thơ hoặc có tính thơ, yêu cầu kỹ thuật thanh nhạc
cao, phần đệm không chỉ có chức năng phụ họa mà còn tham gia vào việc khắc họa
hình tượng tác phẩm.Khái niệm các yếu tố trong thể loại CKNTVNGiai điệu là tổ hợp các cao độ, tiết tấu cùng các phương
tiện diễn tả hỗ trợ kèm theo được trình bày bằng giọng người. Phần đệm là tổ hợp các cao độ, tiết tấu cùng các phương
tiện diễn tả hỗ trợ kèm theo được trình bày bằng nhạc cụ. Ca từ là phần lời ca được trình bày bằng giọng người.Trong luận án, giá trị nghệ thuật trong thể loại ca khúc nghệ
thuật được đánh giá bởi giá trị của từng yếu tố ca từ, giai điệu, phần đệm và ở
sự kết hợp hài hòa giữa các giá trị này với nhau, biểu hiện ở tính mỹ học âm nhạc,
tính thẩm mỹ, khả năng biểu hiện hình tượng và tính học thuật, kĩ thuật sáng
tác, giá trị truyền thống dân tộc và giá trị thời đại.1.2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu1.2.1. Hệ thống các công trình nghiên
cứu1.2.1.1. Các công trình nghiên cứu liên quan đến thể loại ca
khúc có phần đệm trong âm nhạc phương Tây Công trình A history of Western Music của Donald
Jay Grout, chương thứ XVI Thời kỳ Lãng mạn - Thanh nhạc (The Romantic Period:
Vocal Music) nghiên cứu sự hình thành và phát triển của Thời kỳ âm nhạc
Lãng Mạn trong đó có đề cập đến thể loại Lied cùng một số nhà soạn nhạc tiêu biểu. Từ điển âm nhạc The New Grove (số 10,12,14) nhận định
thơ ca trong CKNT có thể chi phối, ảnh hưởng đến nội dung cũng như kết cấu của
tác phẩm. Trong giáo trình Lịch sử âm nhạc thế giới - tập 2, các tác
giả đã nhận định về nơi khởi nguồn của thể loại Romance TN tại châu Âu, về đặc
điểm cấu trúc, hình tượng, chủ đề, mối quan hệ giữa âm nhạc và văn học, cách thức
sử dụng ngôn ngữ hòa âm, phối khí, cấu trúc giai điệu, hình thức đơn chủ đề,
tính dân gian dựa trên việc phân tích phong cách của giai điệu trong tác phẩm của
một số tác giả như F.Schubert, M.I. Glinka, R.Schumann,…Những công trình nghiên cứu chuyên biệt về lịch sử hình thành
và phát triển của các thể loại thanh nhạc nói chung và thể loại CKNT nói riêng
gồm có Lịch sử nghệ thuật thanh nhạc phương Tây của tác giả Hồ Mộ La
, bài viết Tìm hiểu về Romance - nguồn gốc lịch sử và quá trình phát triển của
Cù Lệ Duyên.1.2.1.2. Các công trình nghiên cứu
liên quan đến CKNTVNTrong công trình Lược sử âm nhạc Việt Nam, tác giả Nguyễn
Thụy Loan đã nghiên cứu bối cảnh ra đời thể loại ca khúc, vai trò của ca khúc
phổ thơ trong sự ra đời CKNTVN. Cuốn Lịch sử âm nhạc Việt Nam - Tiến trình và thành tựu đề
cập hoàn cảnh ra đời thuật ngữ CKNT, tính đa dạng của hình tượng, nội dung,
chủ đề, mối quan hệ giữa thơ ca và âm nhạc trong thể loại này và việc sử dụng
chất liệu dân tộc trong ca khúc Việt Nam.Công trình Tổng tập Âm nhạc Việt
Nam - Tác giả và tác phẩm đã phân tích ngôn ngữ âm nhạc, thủ pháp sáng tác
một số ca khúc Việt Nam có giá trị nghệ thuật cao, tính dân tộc trong đề tài.Về vấn đề kỹ thuật thanh nhạc, NCS đã tham khảo các tài liệu
nghiên cứu chuyên sâu như hai công trình của GS. Nguyễn Trung Kiên Phương
pháp sư phạm thanh nhạc, Những vấn đề Sư phạm Thanh nhạc; Phương pháp hát
tốt tiếng Việt trong nghệ thuật ca hát của Trần Ngọc Lan, Thanh điệu
tiếng Việt và âm nhạc cổ truyền của Hoàng Kiều, Phương pháp dạy học
thanh nhạc của Hồ Mộ La…1.2.2. Đánh giá tình hình nghiên cứu1.2.2.1. Những đóng gópNhóm các tài liệu nghiên cứu về lịch sử âm nhạc đã cung cấp
những dữ liệu, thông tin quan trọng liên quan đến sự hình thành và phát triển,
đặc điểm nội dung, chủ đề, mối quan hệ giữa ca từ và âm nhạc, giữa phần thanh
nhạc và khí nhạc của thể loại CKNT trong âm nhạc phương Tây và sự du nhập của
thể loại này vào Việt Nam. Đặc điểm ca khúc thời kỳ âm nhạc Lãng mạn phương Tây cũng được
đề cập qua các khía cạnh mối quan hệ giữa thơ ca với âm nhạc, cấu trúc, hòa
âm,… Trong luận án, các khía cạnh này sẽ được làm rõ thông qua việc phân tích từng
tác phẩm cụ thể, sau đó hệ thống, tổng hợp, nhận định việc kết hợp giữa âm nhạc
phương Tây và âm nhạc dân gian Việt Nam.. 1.2.2.2. Những vấn đề còn bỏ ngỏCác vấn đề về sự hình thành thể loại, đặc điểm ca từ, cấu
trúc, giai điệu, phần đệm trong CKNTVN chủ yếu mới được nhận định trong một số
trường hợp đơn lẻ, chưa có sự nghiên cứu mang tính hệ thống, khái quát.1.3. Sự hình
thành thể loại ca khúc nghệ thuật Việt Nam1.3.1. Các
yếu tố ảnh hưởng đến quá trình hình thành ca khúc nghệ thuật Việt NamĐầu thế kỷ XX, những ca khúc thuộc khuynh hướng lãng mạn với
giai điệu đẹp và có giá trị nghệ thuật đã ảnh hưởng tới các CKNTVN ra đời sau
đó. Những ca khúc phổ thơ thời kỳ đầu Tân nhạc cũng là một trong những yếu tố ảnh
hưởng đến phương thức sáng tác trong CKNTVN sau này.Khi nền âm nhạc chuyên nghiệp Việt Nam hình thành, kỹ thuật
diễn tấu của các nghệ sĩ và trình độ thưởng thức của công chúng được nâng cao,
tạo điều kiện cho các phần đệm trong ca khúc với kĩ thuật phức tạp ngày càng phổ
biến.1.3.2. Sự biến đổi của thể loại ca khúcQua các giai đoạn, mối quan hệ giữa ca từ và giai điệu có sự
biến đổi từ đơn giản đến phức tạp. Trước năm 1945, với phong trào đặt lời Việt
cho các bài hát Tây, giai điệu chưa có nhiều thành tựu đáng kể nhưng yếu tố ca
từ đã đạt được những giá trị nhất định. Giai đoạn 1945-1954, nền Tân nhạc hình
thành, giai điệu có bước phát triển đáng kể, nhưng phần lớn ca khúc chưa có phần
đệm do chính tác giả sáng tác. Sự biến đổi của thể loại ca khúc được thể hiện ở
yếu tố cấu trúc, ca từ, giai điệu… Giai đoạn 1954-1975 nền âm nhạc chuyên nghiệp
Việt Nam hình thành, ra đời các ca khúc có giá trị nghệ thuật cao thể hiện sự
trưởng thành vượt bậc của đội ngũ sáng tác. Phần đệm trong các ca khúc có thể
sánh ngang với giai điệu, tạo nên những CKNT hoàn chỉnh với đầy đủ ba thành phần:
ca từ, giai điệu và phần đệm. Sau 1975, cấu trúc tác phẩm và mối quan hệ giữa giai điệu và
ca từ trở nên phong phú và phức tạp hơn, ngày một phổ biến sáng tác của các nhạc
sĩ trẻ với lối tư duy sáng tác mới mẻ.1.3.2.2. Sự biến đổi phần đệm trong ca khúc Việt
NamỞ giai đoạn khởi đầu của thời kỳ Tân nhạc, những ca khúc đầu
tiên của các nhạc sĩ Việt Nam ra đời phần lớn chỉ có phần giai điệu, tuy nhiên,
trong giai đoạn này, đã xuất hiện một số ít những ca khúc có phần đệm piano do
chính tác giả sáng tác thường có tính chất đơn giản. Phần đệm trong ca khúc ở
giai đoạn sau từng bước phát triển, ngôn ngữ âm nhạc có tính chất phức tạp hơn,
kỹ thuật sáng tác thành thục hơn. Bằng việc hệ thống cơ sở lý thuyết về thuật ngữ CKNT và một số
khái niệm liên quan, NCS đã tổng kết những đặc điểm chung nhất, kết hợp với mục
đích nghiên cứu của đề tài để đưa ra khái niệm CKNTVN được sử dụng trong luận
án. Bên cạnh đó, việc hệ thống các tài liệu liên quan đến đề tài của luận án
cũng giúp cho NCS có được nền tảng cơ sở lý thuyết quan trọng để tiến hành
nghiên cứu của mình.Yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành thể loại cũng như sự biến
đổi ngôn ngữ sáng tác trong CKNTVN cũng được phân tích làm rõ, góp phần giải
thích mối quan hệ giữa các yếu tố ca từ, giai điệu và phần đệm trong thể loại
CKNTVN. 2.1. Đặc điểm ca từ2.1.1. Tính hình tượng nghệ thuật2.1.1.1. Các thủ pháp ngôn từNghệ thuật sử dụng ngôn từ là một đặc trưng của thể loại CKNT
nói chung và của CKNTVN nói riêng. Với CKNTVN, ca từ phải đạt được những chuẩn
mực cơ bản của thẩm mỹ, phù hợp với văn hóa Việt Nam. Các CKNTVN dù là ở dạng
phổ thơ hay do nhạc sĩ tự sáng tác phần lời thì ca từ vẫn đạt được giá trị nhất
định. Nhiều CKNTVN có ca từ được trau chuốt, lời văn bóng bẩy với nhiều từ ngữ
giàu hình ảnh, sử dụng các thủ pháp tu từ như phép ẩn dụ, so sánh, nhân hóa.
Bên cạnh đó, ca từ cũng góp phần thể hiện rõ tính dân tộc, tính vùng miền.2.1.1.2. Hỗ trợ giai điệu trong việc xây dựng hình tượng nghệ
thuậtCùng với yếu tố giai điệu, nhờ có phần ca từ mà hình tượng
nghệ thuật càng trở nên cụ thể và rõ ràng hơn. Sự tương tác giữa hai yếu tố này
được thể hiện trong giai đoạn hình thành hình tượng nghệ thuật và trong cả quá
trình phát triển hình tượng đó. Với những hình tượng âm nhạc có tính chất khác
nhau như tính trữ tình, tính cao trào ấn tượng, tính dân gian, sự tương tác giữa
giai điệu và ca từ cũng có những đặc điểm khác biệt.2.1.2. Mối quan hệ giữa cấu trúc ca từ và hình thức âm nhạc2.1.2.1. Tính đồng nhấtQua phân tích 136 CKNTVN, kết quả cho thấy có 29 tác phẩm có
phần ca từ được phân chia thành các khổ thơ rõ rệt, chiếm 20.6%, trong đó có 17
tác phẩm chứa đựng sự phân chia các đoạn nhạc hoàn toàn phù hợp với sự phân
chia của các khổ thơ trong ca từ, chiếm 12%. Trong phần lớn các tác phẩm, các tác giả thường chia giai điệu
tương ứng với sự phân ngắt tự nhiên sẵn có trong ca từ, có thể có sự khác biệt
về tiết luật giữa các lần lặp lại, hoặc thêm bớt về số lượng từ, hoặc có thể co
giãn về tiết nhịp. Tuy nhiên trong một số trường hợp, cơ cấu của giai điệu được
bố trí không hoàn toàn đồng nhất với sự phân ngắt của cơ cấu ca từ.2.1.2.2. Tính cân đốiCấu trúc thể cân đốiĐiều này thể hiện ở nhiều CKNTVN khi cấu trúc với những cơ cấu
ngang hàng với nhau sẽ có quy mô và cách phân chia tương đương tạo cho tác phẩm
một hiệu quả hài hòa, cân bằng.Cấu trúc thể không cân đốiKhi các cơ cấu phân chia thành những cơ cấu nhỏ hơn thiếu sự
cân bằng, đối xứng, chênh lệch về quy mô tạo nên cấu trúc thể không cân đối được
sử dụng khá phổ biến trong thể loại CKNTVN.2.1.3. Sự ảnh hưởng thanh âm tiếng Việt đến giai điệu2.1.3.1. Sự đồng nhất của thanh âm trong ca từ với cao độ trong giai điệuMối tương quan về thanh điệu giữa các cụm từ trong một câu hoặc
giữa các câu với nhau được gọi là sự đối thanh. Sự đối thanh có thể được nhìn
nhận ở phạm vi tương quan cao thấp giữa hai thanh âm liên tiếp, hoặc ở mối quan
hệ tuyệt đối của từng thanh âm trong ca từ. Trong giai điệu, sự tương quan cao độ giữa các nốt nhạc trong
một nét nhạc hoặc giữa các nét nhạc gọi là sự đối âm, có thể nhìn nhận đối âm ở
phạm vi tương quan cao thấp giữa các cao độ liền kề nhau hoặc ở mức độ chênh lệch
về độ lớn của quãng hình thành giữa hai cao độ nối tiếp. Để đảm bảo sự phù hợp
giữa cao độ với thanh điệu, trong các CKNTVN, mối quan hệ giữa giai điệu và ca
từ được biểu hiện qua ba dạng: mỗi thanh điệu tương ứng với một cao độ cụ thể,
hoặc đảm bảo mối tương quan cao thấp giữa cao độ giữa hai từ kế tiếp nhau, hoặc
sử dụng thủ pháp biến đổi cao độ, bằng các kỹ thuật thêu, lướt, luyến láy để tạo
sự phù hợp giữa thanh điệu và ca từ…Sự không tương thích giữa thanh điệu và cao độ trong các
CKNTVN được chia thành hai mức độ: một cao độ được dùng cho nhiều thanh điệu
hay một thanh điệu tương ứng với nhiều cao độ, hoặc mối quan hệ giữa hai cao độ
nối tiếp bị ngược lại so với quy luật về thanh điệu của hai từ tương ứng.2.2.1. Xây dựng cơ cấu trong tác phẩmThông thường một cơ cấu sẽ được bắt đầu từ một motiv, tiết nhạc,
câu nhạc, rồi phát triển và mở rộng thành cấu trúc đoạn nhạc. Ở mỗi lần mở rộng
sẽ có hai phương thức chính, nhắc lại/mô phỏng hoặc tạo ra chất liệu mới tạo sự
phát triển. Qua phân tích các CKNTVN cho thấy việc tạo nên các motive, tiết nhạc
mới khá phổ biến trong khi các câu nhạc lại thường được nhắc lại hoặc mô phỏng
để tạo nên đoạn nhạc. Thống kê hình thức âm nhạcSTT
Hình thức
Số lượng tác phẩm
Tỷ lệ
1
1 đoạn đơn
15
11.03%
2
2 đoạn phát triển
34
25.00%
3
2 đoạn tương phản
23
16.91%
4
3 đoạn nhạc không tái hiện
11
8.09%
5
3 đoạn phát triển
20
14.71%
6
3 đoạn tương phản
14
10.29%
7
3 đoạn phức
1
0.74%
8
Liên đoạn
17
12.50%
9
Rondo
1
0.74%
2.2.2. Xây dựng các dạng cấu trúcQua phân tích các CKNTVN, có thể thấy những tác giả hay sử dụng
lối quan hệ phát triển giữa các đoạn nhạc như Trần Thanh Hà, Vĩnh Lai, Hoàng
Dương,… trong khi đó quan hệ tương phản giữa các đoạn nhạc lại xuất hiện nhiều
trong các sáng tác của Trần Mạnh Hùng, Vĩnh Cát,… Tính chất phát triển hay tương
phản được quyết định bởi sự biến đổi các phương tiện diễn tả, số lượng cũng như
mức độ biến đổi của các yếu tố, từ đó quyết định mức độ tương phản, phát triển
giữa các cơ cấu. Dạng phát triểnViệc khai thác chất liệu từ những đoạn nhạc trước để tạo nên
đoạn nhạc sau thường sử dụng các thủ pháp khai thác chất liệu tiết tấu, khai
thác âm điệu trong giai điệu, sử dụng lại những facture piano đặc trưng, vòng
hòa âm…Dạng tương phảnCác thủ pháp tạo nên tính tương phản giữa các đoạn nhạc trong
CKNTVN có thể chia thành nhóm thủ pháp sử dụng cho giai điệu và cho phần đệm, với
các thủ pháp phổ biến như tạo sự tương phản về âm điệu, tương phản là tiết tấu,
sử dụng sự tương phản giữa các vòng hòa âm, sử dụng các sắc thái khác nhau…Tiểu kết chương 2Ca từ được nghiên cứu với ba nội dung: chức năng xây dựng
hình tượng bao gồm nghệ thuật sử dụng ngôn từ, sự bổ trợ của ca từ cho giai điệu;
mối quan hệ giữa hình thức ca từ và cấu trúc âm nhạc được nghiên cứu qua tính
cân đối và tính đồng nhất; sự ảnh hưởng của thanh điệu trong ca từ đến cao độ
trong giai điệu. Đặc điểm cấu trúc trong các CKNTVN được làm rõ qua cách thức
khai triển các quy mô cấu trúc từ nhỏ đến lớn, các dạng cấu trúc phát triển và
tương phản. 3.1. Giai điệuGiai điệu quyết định sự hình thành, đặc điểm, tính chất của
hình tượng nghệ thuật. Hình tượng trong các CKNTVN phong phú về đặc điểm và
cách thức biểu hiện, trong đó phổ biến nhất là những hình tượng về tình yêu,
bao gồm tình yêu quê hương đất nước, tình yêu gia đình và tình yêu lứa đôi có
tính chất vừa phải trữ tình hoặc da diết cao trào. Ngoài ra còn có những hình
tượng âm nhạc mang tính triết lý hoặc giãi bày, tự sự, hình tượng mang tính anh
hùng… Giai điệu đóng vai trò quan trọng trong việc thể hiện các hình tượng bằng
các thủ pháp phù hợp.3.1.2. Âm điệuCách thức tiến hành quãng trong các CKNTVN rất phong phú như
đi liền bậc bình ổn, nhảy quãng xa, lên xuống theo hình lượn sóng hoặc gấp khúc
liên tục… Những phương thức này thường được kết hợp để mang lại nhiều hiệu quả
phong phú, phù hợp với từng hình tượng cụ thể. Trong thể loại này còn phổ biến
những giai điệu có tính chất khí nhạc và những phần đệm có tính ca xướng. Bên cạnh
đó có những âm điệu giàu tính dân tộc, hoặc sử dụng biến âm để tạo các quãng đặc
biệt trong giai điệu. Qua thống kê các CKNTVN cho thấy, các tác phẩm có âm vực rộng
chiếm tỷ lệ lớn, yêu cầu ở người biểu diễn trình độ thanh nhạc thành thục, yêu
cầu sự linh hoạt trong việc xử lý từng cao độ và kết nối các cao độ khác nhau.
Nhiều tác phẩm có nốt nhạc cao nhất ở âm khu cao, phải có trình độ xử lý kỹ thuật
thanh nhạc nhất định mới có thể đạt được hiệu quả tốt.VD: Khúc giao mùa, Trần Mạnh Hùng,3.1.3. Điệu thứcTrong CKNTVN, phổ biến nhất vẫn là
các điệu thức trưởng thứ, nhưng mỗi tác giả đều có cách thức vận dụng riêng vào
tác phẩm của mình. Bên cạnh đó, điệu thức ngũ cung cũng xuất hiện phổ biến
trong các CKNTVN.
STT
Điệu thức
Số lượng tác phẩm
Tỷ lệ
1
Trưởng
40
29.41%
2
Thứ
60
44.12%
3
Ngũ cung
6
4.41%
4
Luân chuyển trưởng thứ
7
5.15%
5
Kết hợp điệu thức trưởng thứ và ngũ
cung
19
13.97%
6
Kết hợp điệu thức trưởng thứ và Trung
Cổ
1
0.74%
7
Trung tính
2
1.47%
8
Vô điệu tính
1
0.74%
STT | Hình thức | Số lượng tác phẩm | Tỷ lệ |
1 | 1 đoạn đơn | 15 | 11.03% |
2 | 2 đoạn phát triển | 34 | 25.00% |
3 | 2 đoạn tương phản | 23 | 16.91% |
4 | 3 đoạn nhạc không tái hiện | 11 | 8.09% |
5 | 3 đoạn phát triển | 20 | 14.71% |
6 | 3 đoạn tương phản | 14 | 10.29% |
7 | 3 đoạn phức | 1 | 0.74% |
8 | Liên đoạn | 17 | 12.50% |
9 | Rondo | 1 | 0.74% |
STT |
Điệu thức |
Số lượng tác phẩm |
Tỷ lệ |
1 |
Trưởng |
40 |
29.41% |
2 |
Thứ |
60 |
44.12% |
3 |
Ngũ cung |
6 |
4.41% |
4 |
Luân chuyển trưởng thứ |
7 |
5.15% |
5 |
Kết hợp điệu thức trưởng thứ và ngũ
cung |
19 |
13.97% |
6 |
Kết hợp điệu thức trưởng thứ và Trung
Cổ |
1 |
0.74% |
7 |
Trung tính |
2 |
1.47% |
8 |
Vô điệu tính |
1 |
0.74% |
Các điệu thức ngũ cung trong thể loại này có thể được sử dụng
độc lập hoặc kết hợp với các điệu thức trưởng dưới dạng kết hợp cùng một lúc hoặc
dạng luân chuyển lần lượt tạo nên những tác phẩm mang âm hưởng dân gian.
Trong các CKNTVN còn phổ biến các biến âm với hai dạng: biến
âm cố định trong một giai đoạn của tác phẩm ở cả giai điệu và phần đệm, hoặc biến
âm bất thường ở dạng các âm hút dẫn, chromatic hoặc sinh ra do các thủ pháp hòa
âm…
3.1.4. Tiết tấu
Tiết tấu trong các CKNTVN thường có tính chất mềm mại, đồng
nhất, không phổ biến dạng tiết tấu nhiều đảo phách, góc cạnh và cá tính. Mỗi
tác giả lại có cách thức sử dụng tiết tấu khác nhau, tạo nên những hiệu quả
riêng biệt như các âm hình tiết tấu đồng độ, những âm hình tiết tấu không giống
nhau về chu kỳ tiết luật, những làn sóng giai điệu dài ngắn khác nhau xen kẽ,
hoặc chia nhỏ thành các âm hình ngắn, có thể sử dụng các tiết tấu thuận chiều,
hoặc các âm hình tiết tấu đảo phách, đồng nhất hoặc không đồng nhất với phần đệm,
sử dụng các tiết tấu tự do… Ngoài ra, tiết tấu cũng góp phần thể hiện âm hưởng
dân gian trong CKNTVN.
3.1.5. Các kỹ thuật thanh nhạc
Kỹ thuật thanh nhạc trong các CKNTVN rất phong phú, từ những
kỹ thuật phổ biến như kỹ thuật hát liền tiếng (cantilena), hát phóng to thu nhỏ
cường độ (crescendo, decrescendo), hát nhấn, hát láy (Trill),… cho đến những kỹ
thuật ít gặp hơn trong các thể loại ca khúc phổ thông như hát nảy (staccato),
kỹ thuật luyến ngắt (portamento). Phần lớn CKNTVN sử dụng lối hát Bel canto kết
hợp với kỹ thuật hát tròn vành rõ chữ.
Trong thể loại này còn thể hiện tính học thuật khi người biểu
diễn thanh nhạc phải thực hiện những giai điệu phức tạp như các quãng tiến hành
khó, âm khu cao, hơi nhạc dài… đỏi hỏi tính chính xác về cao độ, âm khu, âm vực
nhưng vẫn phải đảm bảo chất lượng âm thanh và nhạc cảm phù hợp với tác phẩm.
3.2. Đặc điểm phần đệm
3.2.1. Chức năng
phần đệm
3.2.1.1. Chức năng làm nền cho giai
điệu
Trong các CKNTVN, đây là chức năng cơ bản nhất của phần đệm,
được đảm bảo với các nhiệm vụ như giữ nhịp, tạo phần nền phụ họa cho giai điệu
của tác phẩm.
3.2.1.2. Chức năng đối thoại với giai
điệu
Đây là chức năng thể hiện vai trò của phần đệm trong việc
song hành cùng giai điệu để thể hiện hình tượng âm nhạc. Trong các CKNTVN, sự đối
thoại có thể là sự nhắc lại nguyên dạng, mô phỏng, hoặc có thể là những sự biểu
đạt những khía cạnh khác nhau của một chủ đề hoặc hình tượng âm nhạc.
Trong các trường hợp, phần đệm đều đóng vai trò nhất định
trong việc thể hiện hình tượng nghệ thuật cho tác phẩm.
3.2.1.3. Chức năng xây dựng hình tượng âm nhạc
Phần đệm là yếu tố hoàn thiện hình tượng nghệ thuật với vai
trò làm rõ, củng cố, bổ sung và song hành cùng với giai điệu, đồng thời cũng có
một giá trị độc lập trong việc khắc họa hình tượng nghệ thuật song hành với
giai điệu.
Phần đệm nhờ kết cấu bao gồm nhiều tầng cao độ, nhiều tuyến
bè có thể tạo thành các quãng thuận, nghịch, mối tương quan về tiết tấu, âm khu
cao hay thấp, âm vực rộng hay hẹp… từ đó làm rõ tính chất, đặc điểm về nhịp điệu,
sắc thái của hình tượng nghệ thuật.
3.2.2. Phần đệm
trong việc xây dựng phần phụ
3.2.2.1. Quy mô các phần dạo, nối và
kết
Quy mô của các phần phụ trong CKNTVN đa dạng, từ quy mô phần
nhạc, đoạn nhạc, cho tới quy mô bé hơn là các câu nhạc, tiết nhạc, motiv, thậm
chí có khi những phần phụ bị giảm thiểu, vắng mặt trong cơ cấu tác phẩm.
3.2.2.2. Mối tương quan về chất liệu
của phần phụ với phần chính
Phần lớn các tác phẩm CKNTVN đều có những phần mở đầu, dạo giữa,
kết thống nhất chặt chẽ với nhau về chất liệu và tính chất, hình thành hai dạng
tương quan với phần chính: chất liệu của phần phụ thống nhất với phần chính và
phần phụ có chất liệu khác so với các phần chính.
Đa phần các đoạn nối thường được sử dụng dưới dạng dẫn dắt, gợi
mở để âm nhạc tiến vào đoạn chính kế tiếp hoặc tạo những hiệu quả âm nhạc mới.
Bên cạnh đó trong CKNTVN còn có những dạng thức khác như mở đầu, dạo giữa và kết
có chất liệu và tính chất khác nhau, một trong số đó có thể có chất liệu ảnh hưởng
từ chủ đề của các phần chính, còn những phần phụ khác lại chỉ mang tính chất dẫn
nối…Ngoài ra, một số phần mở dầu có âm hưởng của âm nhạc dân gian Việt Nam.
3.2.3. Facture phần đệm
3.2.3.1. Các dạng facture phần đệm phổ
biến
Trong các CKNTVN, những dạng facture phổ biến gồm có những âm
hình rải kết hợp với chồng hợp âm… thể hiện cụ thể hình tượng nghệ thuật. Bên cạnh
đó còn có các âm hình đệm mô phỏng chất liệu âm nhạc dân tộc.
Trong nhiều trường hợp, phần đệm đã thể hiện tính hàn lâm
trong ngôn ngữ sáng tác ở thể loại CKNTVN. Nhiều phần đệm thể hiện tính học thuật
với những facture phức tạp, nhiều tầng bè, tiết tấu ở dạng trường độ không cơ bản,
biết đổi phức tạp hoặc không đồng nhất giữa các bè, những nét chạy lướt ở tốc độ
nhanh hoặc có quãng di chuyển phức tạp, tiết luật biến đổi linh hoạt.
VD: Đặng Hữu Phúc, Ru con mùa đông, nhịp 39-42
3.2.3.2. Tính chu kỳ của facture phần đệm
Những âm hình đệm có vai trò quan trọng trong việc tạo nên
tính nhịp điệu cho tác phẩm. Ở hầu hết các CKNTVN, phần đệm thường có tính chu
kỳ. Tuy nhiên có những CKNTVN, phần đệm có chu kỳ không rõ ràng hoặc không có
chu kỳ, tạo ra tính chất ngẫu hứng, phóng khoáng và mạch cảm xúc có tính tự
do.
3.2.2.3. Sự phát triển hệ thống
facture phần đệm trong tác phẩm
Trong các CKNTVN, việc hình thành các
loại facture và sự vận động của những facture đó đóng vai trò quan trọng trong
việc tạo nên những giai đoạn phát triển cho âm nhạc, tạo nên tính chất đồng nhất
hoặc tương phản cho chất liệu âm nhạc, góp phần xây dựng và biến đổi hình tượng
nghệ thuật.
3.2.4. Hòa âm
3.2.4.1. Cấu
trúc hợp âm,
chồng âm
Trong CKNTVN, bên cạnh các hợp âm ba trưởng, ba thứ, còn phổ
biến các chồng âm quãng 4, 5; hợp âm 7, 9 và hợp âm không rõ âm chủ hoặc không
rõ tính trưởng thứ.
Ngoài ra trong thể loại này còn phổ biến các hợp âm chứa biến
âm, bao gồm những hợp âm được xây dựng trên các bậc diatonic nhưng khác về cấu
trúc so với các hợp âm thuộc hệ thống diatonic, hoặc các hợp âm xây dựng trên
các bậc chromatic trong điệu thức. Trong các tác phẩm ở điệu thứ, những hợp âm
xây dựng trên biến âm phổ biến là bậc #VI, bII, #IV; trong điệu
thức trưởng là các hợp âm xây dựng trên các bậc bVI, bVII, #IV.
3.2.4.2. Tiến
trình hòa âm
Trong một số tác phẩm, tác giả sử dụng những hợp âm và vòng
hòa âm được lặp đi lặp lại. Trong nhiều tác phẩm, thủ pháp ly điệu được diễn ra
một cách độc lập ở phần đệm trong khi giai điệu chỉ tiến hành trong các bậc thuộc
điệu thức diatonic. Phần lớn các CKNTVN ly điệu hướng tới công năng hạ át, các
công năng phụ hoặc giọng song song, có sử dụng thủ pháp ly điệu “tránh”.
Về các vòng kết, các tác giả đã sử dụng nhiều vòng kết khác
nhau một cách linh hoạt, trong đó phổ biến cả những vòng kết sử dụng các chồng
âm kết hợp quãng 4, 5.
Tiểu kết chương 3
Đặc điểm âm nhạc trong các CKNTVN được NCS nghiên cứu thông
qua việc phân tích cụ thể từng tác phẩm, sau đó tổng kết và hệ thống số liệu,
trên cơ sở đó chỉ ra đặc điểm trong từng khía cạnh. Yếu tố giai điệu được làm
rõ qua tính hình tượng, âm điệu, tiết tấu và các kỹ thuật thanh nhạc. Đặc điểm
phần đệm được làm rõ với các khía cạnh chức năng phần đệm và facture phần đệm
và hòa âm.
Thông qua việc làm rõ đặc điểm âm nhạc trong CKNTVN, các kết
quả nghiên cứu đồng thời chỉ ra biểu hiện của những yếu tố mang tính hàn lâm
cũng như yếu tố dân tộc, qua đó thấy được sự kết hợp kỹ thuật sáng tác của âm
nhạc phương Tây và kế thừa âm nhạc dân gian Việt Nam trong thể loại này.
KẾT LUẬN
Phạm vi nghiên cứu là các CKNTVN có phần đệm do chính tác giả
sáng tác giúp đề tài được giới hạn, tập trung làm rõ các đặc điểm, đặc trưng của
một nhánh quan trọng trong thể loại ca khúc ở Việt Nam. Kết quả nghiên cứu còn
cho thấy phong cách, ngôn ngữ riêng của một số tác giả trong thể loại
này.
Ca từ được phân tích cụ thể trên các khía cạnh chức năng thể
hiện hình tượng nghệ thuật, mối quan hệ giữa cấu trúc ca từ và hình tượng âm nhạc,
sự ảnh hưởng thang âm tiếng Việt đến giai điệu. Từ đó làm rõ giá trị thẩm mỹ,
giá trị dân tộc của ca từ cũng như mối quan hệ chặt chẽ với giai điệu trong thể
loại này. Vấn đề cấu trúc trong thể loại này được nghiên cứu bằng việc thống kê
các hình thức, cách thức khai triển ở các quy mô khác nhau, phân tích phương thức
xây dựng các dạng cấu trúc. Qua đó cho thấy hình thức hai đoạn đơn và dạng cấu
trúc phát triển được sử dụng phổ biến nhất, phù hợp với tính chất của thể loại
CKNTVN.
Về giai điệu, NCS đã làm rõ tính hình tượng, đặc điểm âm điệu,
điệu thức, tiết tấu, các kỹ thuật thanh nhạc. Về phần đệm, các khía cạnh được
phân tích là chức năng của phần đệm, facture phần đệm và hòa âm. Từ đó làm rõ
ngôn ngữ và thủ pháp sáng tác trong các CKNTVN.
Sau khi được hệ thống, phân loại, thống kê, kết quả nghiên cứu
đã chỉ ra sự kế thừa từ ngôn ngữ âm nhạc phương Tây, tính hàn lâm, tính dân tộc
và sự tương tác với ngôn ngữ tiếng Việt được biểu hiện
trong thể loại CKNTVN.
5/2/2020
Tạ Hoàng Mai Anh
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét