Đời sống, lễ hội, phong tục
tập quán của người Chăm - Phần 1
Người Chăm
Lịch sử: Dân tộc Chăm vốn sinh tụ ở duyên hải miền Trung Việt
Nam từ rất lâu đời, đã từng kiến tạo nên một nền văn hóa rực rỡ với ảnh hưởng
sâu sắc của văn hóa Ấn Ðộ. Ngay từ những thế kỷ thứ XVII, người Chăm đã từng
xây dựng nên vương quốc Chămpa. Hiện tại cư dân gồm có hai bộ phận chính: Bộ phận
cư trú ở Ninh Thuận và Bình Thuận chủ yếu theo đạo Bàlamôn (một bộ phận nhỏ người
Chăm ở đây theo đạo Islam truyền thống gọi là người Chăm Bà ni). Bộ phận cư trú
ở một số địa phương thuộc các tỉnh Châu Ðốc, Tây Ninh, An Giang, Ðồng Nai và
thành phố Hồ Chí Minh theo đạo Islam (Hồi giáo) mới.
Hoạt động sản xuất: Người
Chăm có truyền thống nông nghiệp ruộng nước, giỏi làm thủy lợi và làm vườn trồng
cây ăn trái. Bên cạnh việc làm ruộng nước vẫn tồn tại loại hình ruộng khô một vụ
trên sườn núi. Bộ phận người Chăm ở Nam Bộ lại sinh sống chủ yếu bằng nghề chài
lưới, dệt thủ công và buôn bán nhỏ, nghề nông chỉ là thứ yếu.
Nghề thủ công phát
triển ở vùng Chăm nổi tiếng là dệt lụa tơ tằm và nghề gốm nặn tay, nung trên
các lò lộ thiên. Việc buôn bán với các dân tộc láng giềng đã xuất hiện từ xưa.
Vùng duyên hải miền Trung đã từng là nơi hoạt động của những đội hải thuyền nổi
tiếng trong lịch sử.
Ăn: Người Chăm ăn cơm, gạo được nấu trong những nồi đất
nung lớn, nhỏ. Thức ăn gồm cá, thịt, rau củ, do săn bắt, hái lượm và chăn nuôi,
trồng trọt đem lại. Thức uống có rượu cần và rượu gạo. Tục ăn trầu cau rất phổ
biến trong sinh hoạt và trong các lễ nghi phong tục cổ truyền.
Mặc: Nam nữ đều
quấn váy tấm. Ðàn ông mặc áo cánh ngắn xẻ ngực cài khuy. Nghề dệt thổ cẩm của người Chăm đang phát triển và thích ứng
với kinh tế hàng hóa, phục vụ đáng kể cho nhu cầu du khách khắp cả nước.Ðàn bà mặc áo dài chui
đầu. Màu chủ đạo trên y phục là màu trắng của vải sợi bông. Ngày nay, trong
sinh hoạt hằng ngày, người Chăm ăn mặc như người Việt ở miền Trung, chỉ có chiếc
áo dài chui đầu là còn thấy xuất hiện trong giới nữ cao niên.
Ở: Người Chăm cư
trú tại Ninh Thuận, Bình Thuận, ở nhà đất (nhà trệt). Mỗi gia đình có những
ngôi nhà được xây cất gần nhau theo một trật tự gồm: nhà khách, nhà của cha mẹ
và các con nhỏ tuổi, nhà của các cô gái đã lập gia đình, nhà bếp và nhà tục
trong đó có kho thóc, buồng tân hôn và là chỗ ở của vợ chồng cô gái út.
Phương tiện vận chuyển: Chủ yếu và thường xuyên vẫn là cái
gùi cõng trên lưng. Cư dân Chăm cũng là những người thợ đóng thuyền có kỹ thuật
cao để hoạt động trên sông và biển. Họ làm ra những chiếc xe bò kéo, trâu kéo
có trọng tải khá lớn để vận chuyển trên bộ.
Quan hệ xã hội: Gia đình người Chăm
mang truyền thống mẫu hệ, mặc dù xã hội Chăm trước đây là xã hội đẳng cấp,
phong kiến. Ở những vùng theo Hồi giáo Islam, tuy gia đình đã chuyển sang phụ hệ,
vai trò nam giới được đề cao, nhưng những tập quán mẫu hệ vẫn tồn tại khá đậm
nét trong quan hệ gia đình, dòng họ với việc thờ cúng tổ tiên. Cư dân Chăm vốn
được phân thành hai thị tộc: Cau và Dừa như hai hệ dòng Niee và Mlô ở dân tộc Ê
đê. Về sau thị tộc Cau biến thành tầng lớp của những người bình dân, trong khi
thị tộc Dừa trở thành tầng lớp của quý tộc và tăng lữ. Dưới thị tộc là các dòng
họ theo huyết hệ mẹ, đứng đầu là một người đàn bà thuộc dòng con út. Mỗi dòng họ
lại có nhiều chi họ. Xã hội cổ truyền Chăm được phân thành các đẳng cấp như xã
hội Ấn Ðộ cổ đại. Họ có những vùng cư trú riêng và có những ngăn cách rõ rệt:
không được thiết lập quan hệ hôn nhân, không sống cùng một xóm, không ăn cùng một
mâm...
Cưới xin: Phụ nữ chủ động trong quan hệ luyến ái. Hôn nhân cư trú phía
nhà vợ, con sinh ra đều theo họ mẹ. Sính lễ do nhà gái lo liệu. Gia đình một vợ
một chồng là nguyên tắc trong hôn nhân.
Ma chay: Người Chăm có hai hình thức đưa
người chết về thế giới bên kia là thổ táng và hỏa táng. Nhóm cư dân theo đạo
Bàlamôn thường hỏa táng theo giáo luật, còn các nhóm cư dân khác thì thổ táng.
Những người trong cùng một dòng họ thì được chôn cất cùng một nơi theo huyết hệ
mẹ.
Nhà mới: Người Chăm ở Ninh Thuận, Bình Thuận khi dựng nhà mới phải thực hiện
một số nghi lễ cúng thần như: cúng Thổ thần để đốn gỗ tại rừng. Khi gỗ vận chuyển
về làng phải làm lễ đón cây. Lễ phạt mộc được tổ chức để khởi công cho việc xây
cất ngôi nhà.
Lễ tết: Người ta thực hiện nhiều nghi lễ nông nghiệp trong một chu
kỳ năm như: lễ khai mương đắp đập, lễ hạ điền, lễ mừng lúa con, lễ mừng lúa ra
đòng. Nhưng lễ lớn nhất vẫn là lễ Bon katê được tổ chức linh đình tại các đền
tháp vào giữa tháng mười âm lịch.
Lịch: Người Chăm có nông lịch cổ truyền tính
theo lịch âm.
Học: Dân tộc Chăm có chữ từ rất sớm. Hiện tồn tại nhiều bia ký,
kinh bằng chữ Chăm. Chữ Chăm được sáng tạo dựa vào hệ thống văn tự Sascrit,
nhưng việc sử dụng chữ này còn rất hạn hẹp trong tầng lớp tăng lữ và quý tộc
xưa. Việc học hành, truyền nghề, vẫn chủ yếu là truyền khẩu và bắt chước, làm
theo.
Văn nghệ: Nhạc cụ Chăm nổi bật có trống mặt da Paranưng, trống vỗ, kèn
Saranai. Nền dân ca - nhạc cổ Chăm đã để lại nhiều ảnh hưởng đến dân ca - nhạc
cổ của người Việt ở miền Trung như trống cơm, nhạc nam ai, ca hò Huế... Dân vũ
Chăm được thấy trong các ngày hội Katê diễn ra tại các đền tháp.
Chơi: Trẻ em
thích đánh cù và thả diều, đánh trận giả, thi cướp cờ, chơi trò bịt mắt bắt dê.
Lễ hội Katê của người Chăm Bà La Môn
Nguyễn Đức
Toàn
Katê là mùa lễ hội
lớn trong năm của người Chăm Bà La Môn tại Ninh Thuận và Bình Thuận. Lễ hội
Katê có ý nghĩa kính nhớ ông bà tổ tiên, những người đã khuất, tưởng nhớ đến
các vị anh hùng dân tộc (được người Chăm suy tôn thành thần) như Pô Rô mê và Pô
Klong Garai: các vị vua đã có nhiều công lao đối với người Chăm thuở xa xưa như
kiến thiết đất nước, hướng dẫn làm thủy lợi và sản xuất nông nghiệp. Lễ hội
Katê còn có ý nghĩa tưởng nhớ đến ông bà tổ tiên bên ngoại (tức bên cha, vì người
Chăm theo mẫu hệ). Tương tự ý nghĩa kính nhớ ông bà tổ tiên trong Katê, người
Chăm có lễ Chabur (vào 15/9 lịch Chăm) để tưởng nhớ ông bà tổ tiên bên nội (bên
mẹ). Chabur đồng thời là dịp sùng kính thần mẹ xứ sở Pô Nagar - vị thần lớn nhất
của người Chăm. Lễ hội Chabur thường được tổ chức với quy mô nhỏ hơn so với lễ
hội Katê.
Những nghi lễ chính của Katê được diễn ra nơi các đền tháp. Ở Ninh
Thuận, có ba địa điểm hành lễ là đền thờ Pô Nagar (ở làng Chăm Hữu Đức thuộc xã
Phước Hữu, huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận), tháp Pô Romê (ở gần làng Chăm Hậu
Sanh, thuộc địa bàn huyện Ninh Phước, cách trung tâm thị xã Phan Rang gần 20 Km
về phía tây nam theo đường bộ) và tháp Pô Klong Garai (ở thị trấn Tháp Chàm,
cách Phan Rang 5 Km theo đường quốc lộ 27 từ Phan Rang đi Đà Lạt). Theo truyền
thống, ngày 1 tháng 7 lịch Chăm là ngày chính lễ của lễ hội Katê, được tổ chức
tại các đền tháp của người Chăm. Vì thế, ngày này còn được gọi là ngày lên
tháp. Tính theo dương lịch, ngày lên tháp tương ứng với khoảng thời gian từ giữa
tháng 9 đến giữa tháng 10 dương lịch. Năm nay (2004), ngày lên tháp nhằm vào
ngày 13/10 dương lịch. Đến ngày lên tháp, ngay từ khi trời chưa kịp sáng, khắp
các palay Chăm (làng Chăm) của người Chăm Bà La Môn tại Ninh Thuận đã nhộn nhịp
tiếng mọi người gọi nhau để chuẩn bị “lên tháp” (các tháp Chăm thường được xây
dựng trên các ngọn đồi).
Đến khoảng 7 - 8 giờ sáng hôm lên tháp, y phục của các
“thần vua” được rước từ danok lên trên tháp để hành lễ. Theo truyền thống, y phục
vua Chăm do người Raglai gìn giữ và được đem đến danok vào ngày kế trước hôm
lên tháp. Ở Ninh Thuận có ba danok: danok vua Pô Rô mê ở làng Chăm Hậu Sanh,
danok nữ thần Pô Nagar ở làng Chăm Hữu Đức và danok vua Pô Klong Garai tại làng
Phước K Thư mục chuyên đề Văn hóa Chăm 7 Đồng, cả ba danok đều nằm trên địa bàn
huyện Ninh Phước. Đoàn rước “y-trang” (trang phục của vua) lên tháp gồm dàn cờ
ngũ sắc, các cô gái Chăm múa lễ duyên dáng và rực rỡ trong chiếc áo dài Chăm
nhiều màu, các vị chức sắc Bà La Môn Giáo và những thầy lễ dân gian trang trọng
trong bộ lễ phục bước cạnh kiệu rước y trang, nối tiếp kiệu rước là các đông đảo
đồng bào Chăm và du khách từ các nơi quy tụ về. Ngay khi đoàn rước đến vừa đến
trước cửa tháp, các cô gái Chăm phụ trách múa lễ liền biểu diễn các vũ điệu
Chăm truyền thống để chào đón các vị thần linh về dự lễ hội Katê. Tiếp đến là
nghi thức rảy nước trong Lễ Mở Cửa Tháp do thầy Cả Sư (Pô Dhia) và các thầy Bà
Xế (Pasêh) thực hiện và nghi thức tắm tượng (Pamưnay Yăng) được tiến hành nơi
tượng thờ (bên trong lòng tháp hoặc tại chính điện của các đền thờ). Những nghi
thức này xuất phát từ các tập tục bản địa vốn có nguồn gốc sâu xa là nền văn
minh nông nghiệp lúa nước liên quan đến thuật cầu đảo (cầu mưa). Y phục vua
Chăm được Pô Dhia làm lễ ban phước và trao cho Muk Pajâu (Bà múa lễ cộng đồng)
mặc vào tượng vua trong tháp thờ. Sau khi tiến hành nghi thức tắm tượng, cuộc tế
lễ bắt đầu. Trong khung cảnh trang nghiêm tại lòng tháp, tiếng thầy Kadhar kể
tiểu sử và ca tụng công đức các vị thần hòa quyện với tiếng kèn saranai, đàn
kanhi réo rắt và tiếng trống ginăng rộn rã. Trong khi đó, ở trước thềm cửa
tháp, các phụ nữ Chăm bày biện la liệt các lễ vật cúng thần linh để cầu xin ơn
lành, cầu cho gia đình một năm mới an khang thịnh vượng. Lễ vật có cả món ngọt
lẫn món mặn như: ngạnh (dê), cơm, canh, món mặn, xôi, chuối, bánh ngọt, trái
cây… Thời gian cúng lễ trên tháp được kéo dài cho đến xế chiều và kết thúc
vào khoảng 15 - 16 giờ cùng ngày bằng nghi lễ đóng cửa tháp. Trong khoảng thời
gian từ lúc mở cửa tháp cho đến khi đóng cửa tháp, từng dòng người đông đảo tiếp
tục tuôn về các đền tháp. Người lớn mang lễ vật đến cầu khấn được buôn may bán
đắt, gia đình bình an, hòa thuận hoặc dâng lễ để tạ ơn thần đã đáp ứng lời cầu
xin; thanh niên nam nữ cầu thần ban cho văn hay, chữ tốt, nghề nghiệp tinh
thông, tình duyên mặn nồng... các phụ nữ hiếm muộn cũng tranh thủ dịp này để đến
tháp cầu tự. Thông thường, những ai có nhu cầu được buôn may bán đắt, học hành
tấn tới thì đến cầu với Pô Klong Garai, muốn có sức mạnh, uy dũng thì tìm đến
Pô Romê, còn muốn cầu tự thì tìm đến với Pô Nagar. Sau khi cầu khấn cùng thần
linh, mọi người lưu lại chút ít thời gian để cùng nhau chuyện trò, ghi hình kỷ
niệm hoặc sum họp ăn uống… Không chỉ có người Chăm lên tháp, mà còn có một số
người Việt ở khu vực lân cận các tháp Chăm cũng đến cầu xin, cúng bái. Các du
khách thường đến viếng tháp Pô Klong Garai mà ít đến tháp Pô Romê, do tháp Pô
Klong Garai có vị trí gần quốc lộ và trung tâm thị trấn Tháp Chàm, thuận tiện
cho các loại xe vào sát chân đồi tháp. Sẽ là một thiếu sót lớn nếu chỉ đến dự
Katê vào ngày lên tháp, bởi vì theo truyền thống hàng năm, trong ngày tiếp đón
y phục vua Chăm do đồng bào Raglai mang từ trên núi xuống (kế trước ngày lên
tháp), tại làng Chăm Hữu Đức (Ninh Phước - Ninh Thuận) bao giờ cũng có tổ chức
múa Chăm (múa quạt) với quy mô lớn. Các du khách sẽ bị choáng ngợp bởi khung cảnh
hoành tráng và sự uyển chuyển của hàng trăm thiếu nữ Chăm với những vũ điệu
duyên dáng hòa nhịp cùng tiếng trống ginăng rộn rã. Cuộc múa diễn ra dưới ánh nắng
cháy bỏng giữa trưa hè (khoảng 12 - 13 giờ trưa) của vùng đất Phan Rang khô hạn
trong sự tham gia cổ động của cả ngàn người. Tiếp theo tiết mục múa Chăm là các
hoạt động thi đấu thể thao. Buổi tối ngày hôm đó, cũng tại Hữu Đức, mọi người sẽ
cùng dự đêm văn Thư mục chuyên đề Văn hóa Chăm 8 nghệ truyền thống Chăm để thưởng
thức các điệu múa Chăm từ múa dân gian cho đến múa cung đình, những làn điệu
dân ca từ cổ truyền cho đến hiện đại… Katê có ba cấp độ là Katê đền tháp,
Katê làng và Katê gia đình. Những ngày tiếp theo “ngày lên tháp” (Katê đền
tháp), người Chăm tiến hành Katê làng. Tuần tự từng làng Chăm theo từng nhóm đền
tháp tổ chức cúng Katê làng ở kajang (nhà lễ) của mỗi làng. Sau Katê làng, bà
con người Chăm tiếp tục Êw Lithay (cúng ông bà) tại gia đình, gọi là Katê gia
đình. Trong những ngày mừng tết Katê, ai đó có việc phải đi đâu xa cũng đều
tranh thủ tìm về mái ấm gia đình. Người ta đến thăm hỏi nhau, tiệc tùng, vui
chơi giải trí… Trong những ngày diễn ra lễ hội Katê, tại các làng Chăm thường
có các hoạt động thể thao, giao lưu văn nghệ… Ở làng dệt cổ truyền Mỹ Nghiệp
(thuộc thị trấn Phú Quý - Ninh Phước - Ninh Thuận), đôi khi còn có hội thi tay
nghề dệt và triển lãm các mặt hàng thổ cẩm do người Chăm sản xuất. Xưa kia, người
Chăm ăn tết Katê trong một tháng, nay được gói gọn lại trong vài ngày. Đến dự lễ
hội Katê là đến với nền văn hóa truyền thống của dân tộc Chăm. Katê là dịp để mọi
người gần gũi, gắn bó, đoàn kết, thương yêu nhau hơn. Đồng thời, Katê cũng là dịp
vui chơi, giải trí sau một năm lao động miệt mài. Lễ hội Katê còn là môi trường
sống động trong việc bảo lưu và phát triển văn hóa truyền thống Chăm, là một biểu
hiện gìn giữ bản sắc dân tộc của cộng đồng người Chăm, góp phần làm phong phú
kho tàng văn hóa Việt Nam đa dạng và giàu bản sắc.
Lễ hội cúng thần linh
Chăm có từ lâu đời. Đây là lễ hội của tộc họ được tổ chức
theo định kỳ 1 năm, 3 năm hoặc 7 năm một lần. Lễ Puis, Payak là hai loại lễ
khác nhau, tùy theo phong tục thờ cúng, hệ thống thờ thần mà mỗi tộc họ tổ chức
lễ Puis hoặc Payak để tế thần linh.
Độc đáo những nét văn hóa Chăm
Dân tộc thiểu số Chăm có khoảng trên 100.000 dân, xếp
thứ 17 trong 54 thành phần tộc người nước ta; sống tập trung đông nhất ở 3 tỉnh
Bình Thuận, Ninh Thuận và An Giang. Ngoài ra họ còn cư trú một phần ở các tỉnh
từ Nam Trung Bộ đến Ðông và Tây Nam Bộ. Hiện nay người Chăm còn sống rải rác ở
nhiều nước khác như Campuchia, Thái Lan, Malaysia…
Những nét đặc sắc của văn
hóa Chăm thể hiện từ tiếng nói, chữ viết, từ nghệ thuật và kỹ thuật tạo dáng của
các ngôi tháp bằng đất, các pho tượng bằng đá, đến các sản phẩm vải thêu, dệt
hoa văn, dệt thổ cẩm hoặc đồ gốm và các vật dụng phục vụ cho cuộc sống hàng
ngày. Người Chăm có tiếng nói và chữ viết riêng của mình. Chăm Tây cùng với sự
duy trì phát triển Hồi giáo trong việc học tập giới luật và tìm hiểu kinh thánh
Koran nên đã dùng chữ Ả Rập và chữ Mã Lai. Cho đến bây giờ Chăm Tây sử dụng loại
chữ Mã Lai khá thành thạo trong việc ghi chép và thư từ… Chăm Ðông thì sử dụng
chữ Thrah và xem đó là loại chữ truyền thống.
Người Chăm luôn tự hào về những
ngôi tháp Chăm-pa cổ kính xây dựng bằng đất nung độc đáo. Hình ảnh vũ nữ Chăm-pa
cổ xưa đã được chạm khắc vào các đền tháp, trong đó bức phù điêu Vũ nữ Trà Kiệu
là một trong những tuyệt tác. Là một bộ phận của nền văn hóa dân tộc, kiến trúc
dân gian của người Chăm cũng có một lịch sử và truyền thống lâu đời. Bàn tay và
khối óc sáng tạo của dân tộc Chăm làm sáng tỏ tính phong phú, đa dạng, giúp
chúng ta thấy được sự giao lưu văn hóa, quá
trình phát triển của tộc người.
Người ta còn thấy nhiều nét trạm trổ và các bức
tượng bằng đá thể hiện nếp sinh hoạt ca múa và chơi nhạc dân gian rất sinh động.
Người Chăm luôn mang trong máu của mình một tâm hồn văn nghệ dân tộc đặc biệt.
Nghệ thuật truyền thống luôn được người Chăm nuôi dưỡng, trân trọng và liên tục
truyền cho nhau từ bao đời nay.
Múa Chăm phong phú và độc đáo. Hầu như mỗi làng
Chăm có một đội múa riêng. Những điệu múa cổ xưa nhất thường được trình diễn
trong các lễ hội. Các nghệ nhân Chăm đã sáng tác thêm những điệu múa đặc sắc
như múa chàm rông, múa đoa pụ (đội bình nước trên đầu). Múa quạt là điệu múa phổ
thông của người Chăm. Khi múa, các vũ nữ dùng quạt làm đạo cụ để biểu diễn những
loại múa khác nhau. Múa bóng mang tính tôn giáo và cũng rất phổ biến của người
Chăm. Trong những nét đặc trưng của múa Chăm là múa ổn định theo nhạc. Dàn nhạc
đệm cho múa thương gồm hai trống Pa-ra-nưng và một kèn sa-ra-nai. Nhìn chung,
vũ điệu Chăm-pa nhằm phô diễn vẻ đẹp của con người.
Người Chăm có nhiều lễ hội
trong năm, như hội Rija, Roya, Ramadan, lễ Pơk Băng Yang, lễ Katê… Trong đó, lễ
hội Katê là một trong những lễ hội lớn nhất của người Chăm được tổ chức thường
xuyên vào đầu tháng 7 (lịch âm) tức là vào trung tuần tháng 9 (âm lịch) và
tháng 10 (dương lịch) để tưởng nhớ các vị anh hùng dân tộc và ông bà tổ tiên.
Thổ cẩm là nghề truyền thống của người Chăm. Thiếu nữ đến tuổi lấy chồng, ai
cũng biết dệt vải. Những tấm khăn, cái áo làm ra được coi là thước đo của sự đảm
đang tháo vát của các cô gái Chăm. Nghề dệt thổ cẩm đòi hỏi sự tỉ mỉ và khéo
léo. Ðể có một tấm chăn, các cô gái phải cần mẫn ngồi bên khung cửi từ sáng đến
chiều tối với sự nhịp nhàng, chuẩn xác trong từng thao tác. Chỉ cần một mối chỉ
bị rối, mặt vải sẽ không còn mịn nữa. Các sản phẩm dệt của người Chăm khá phong
phú, đáp ứng rộng rãi cho nhu cầu trang phục, trang sức của người Chăm.
Vào dịp
hội hè, lễ lạc, trai gái Chăm còn trang sức bằng các thắt lưng do người Chăm tự
dệt. Hầu như phần lớn các sản phẩm vải của người Chăm không thể thiếu các loại
hoa văn trang trí, nhất là trên các y phục cổ truyền của các thiếu nữ.
Nghề
truyền thống khác của người Chăm là nghề làm đồ gốm. Làng Chăm Bầu Trúc duy nhất
có nghề làm đồ gốm từ lâu đời. Hầu như gia đình nào cũng làm, phần lớn do phụ nữ
đảm đang. Từ chiếc lu đựng nước, chiếc nồi đất, bộ khuôn đổ bánh xèo đến siêu sắc
thuốc, chiếc cà om đều rất dụng công với những hoa văn độc đáo của dân tộc. Sản
phẩm gốm Chăm còn được trao đổi rộng rãi với nhiều vùng và nhiều tộc người khác
nữa. Trong quá trình nghiên cứu, chúng ta thấy rằng người Chăm đã có một nền
văn hóa thật phong phú về nội dung, đa dạng về diện mạo. Nền văn hóa ấy đã được
thể hiện trong nhiều lĩnh vực, nhất là lĩnh vực kiến trúc; đó là kết quả của
quá trình hoạt động có định hướng trong một thời gian lịch sử lâu dài.
Chữ viết của người Chăm
Nhà thơ, nhà
nghiên cứu văn hóa Inrasara nhận định: “Sự ra đời sớm của chữ viết đã tạo điều
kiện cho văn học viết của người Chăm phát triển. Chính chữ viết đã cho người
Chăm có một nền văn minh rực rỡ và độc đáo một thời”.
Xưa nay, chúng ta biết đến
sự đặc sắc của văn hóa Chăm qua các điệu múa của vũ nữ Apsara, sự độc đáo của lễ
hội Rija Nưgar, Katê hay sự bí ẩn của các ngôi tháp cổ. Tuy nhiên, nền văn minh
Chămpa xưa còn là ngôn ngữ Chăm và nền văn học viết có từ rất sớm. Tất cả đang
được giới thiệu tới công chúng Thủ đô trong triển lãm Không gian văn hóa Chăm,
tại 36 Điện Biên Phủ, Hà Nội.
Chămpa là dân tộc có chữ viết sớm nhất Đông Nam
Á. Theo các nghiên cứu về văn bia cổ, ngay từ thế kỷ thứ IV người Chăm đã có chữ
viết của mình. Tiếng Chăm có 65 ký hiệu và 24 chân ngữ bắt nguồn từ hệ thống chữ
thảo của Ấn Độ. Chữ viết Chăm cũng không ngừng hoàn thiện và phát triển. Theo
ông Thập Liên Trưởng, chuyên gia ngôn ngữ của Trung tâm Nghiên cứu văn hóa Chăm
tại Ninh Thuận: “Khoảng đầu thế kỷ XVII, chữ Akhan thrah - chữ Chăm hiện đại,
đã thoát khỏi vỏ bọc của chữ Phạn và được sử dụng phổ biến trong các thư tịch cổ
và bia ký còn lưu lại ngày nay”. Người Chăm cổ có một kỹ thuật làm giấy điêu
luyện và độc đáo, tiếc là nay đã thất truyền. Nguyên liệu chính để làm giấy là
lá buông (loại lá phổ biến tại địa bàn cư trú của người Chăm), ngoài ra người
Chăm còn làm giấy từ vỏ cây bồ đề có màu trắng đục, dày và dai, trơn mặt, ít thấm
nước. Mực viết được chế từ vỏ cây akuh rất tốt vì chóng khô, đen đậm, không bay
màu. Đầu bút là đầu các que tre vót nhọn và về sau sử dụng đầu kim loại.
Các
thư tịch cổ nhất bằng chữ Chăm còn lại cách ngày nay khoảng 300 năm. Các cuốn
sách cổ từ vài trang đến vài trăm trang giấy chứa đựng toàn bộ văn hóa Chăm với
các chủ đề chính là kinh luật tôn giáo, ngoài ra còn có các nội dung về văn học,
triết học, hướng dẫn nghi lễ, những bài tụng ca, lịch pháp, thiên văn, phong thủy,
âm nhạc, y - dược học, pháp thuật, tử vi - bói toán, gia huấn ca… Văn học cũng
xuất hiện nhiều trong các thư tịch cổ của người Chăm, trong đó có chép lại các
sử thi của Ấn Độ như Ramayana, Mahabharata, Bhagavata… Bên cạnh sách cổ, các
văn bia cổ chính là mảng quan trọng của văn học Chăm. Các bia ký Chămpa bằng chữ
Phạn được viết chủ yếu theo những thể thơ của Ấn Độ, nội dung nhuốm màu sắc tâm
linh huyền hoặc, lời thơ mỹ miều, văn hoa.
Trong các sáng tác văn thơ, các tác giả Chăm thường sử dụng nhiều điển tích và ẩn
dụ của văn học Ấn Độ để thể hiện sự hiểu biết và thông thái của mình. Song song
với nó là một dòng văn học dân gian, với ca dao, dân ca truyền miệng bình dân gần
gũi.
Người Chăm không thích nói về những điều thực tế, kỹ thuật hay vật chất.
Tính đa chủ đề, khái quát được thể hiện rõ trong từng cuốn sách. Qua những cuốn
sách mỏng nói về các nghi lễ tâm linh, chúng ta còn bắt gặp trong đó một bài
thơ, một lời chúc phúc, vài ý tưởng, quan điểm tôn giáo, triết học...
Chữ viết
của người Chăm có một thời gian bị bỏ rơi. Từ năm 1978 đến nay, Ban biên soạn
sách tiếng Chăm đã xuất bản các cuốn sách bằng ngôn ngữ Chăm cho các lớp tiểu học
của con em người Chăm. Tạp chí Sáng tác - sưu tầm - nghiên cứu Chăm mang tên
Tagalau xuất bản từ năm 2000, góp phần gìn giữ văn hóa viết Chăm. Bên cạnh đó,
dòng văn học bằng tiếng Chăm đã bắt đầu hồi sinh và phát triển với các nhà thơ
đương đại như: Inrasara, Đồng Chuông Tử, Trà Vigia, Nguyễn Phú Hải, Tuệ Nguyên…
Nhà thơ, nhà nghiên cứu văn hóa Chăm Inrasara đã tham gia biên soạn gần 40 đầu
sách về văn hóa Chăm như Văn học Chăm khái luận, Từ điển song ngữ Việt - Chăm,
tạp chí Tagalau; đồng thời là một trong những người có công tạo dựng lại văn
hóa Chăm và giới thiệu tới nhiều vùng. Ông nhận định: “Sự ra đời sớm của chữ viết
đã tạo điều kiện cho văn học viết của người Chăm phát triển. Chính chữ viết đã
cho người Chăm có một nền văn minh rực rỡ và độc đáo một thời. Qua các thư tịch
cổ, chúng ta có thể nhận thấy văn hóa Chăm là văn hóa đùa vui, chịu chơi cả
trong đau khổ”.
Hiện các thư tịch cổ cùng bia ký chưa được sự quan tâm tập hợp
và gìn giữ đúng mức. Sách cổ vẫn được lưu truyền trong cộng đồng Chăm, nhưng do
sự bảo quản thủ công đã khiến nhiều cuốn bị hư hỏng. Kỹ thuật làm giấy độc đáo
của người Chăm hiện chưa được phục dựng để bảo tồn… Đó là những điều mà các nhà
nghiên cứu văn hóa Chămpa còn trăn trở.
Sắc Chăm
Hiện nay người Chăm ở Ninh Thuận có số dân
đông nhất (57.137), chiếm gần 50% người Chăm ở Việt Nam. Họ sống tập trung
thành từng làng palei riêng biệt và bảo lưu đậm nét nhiều tập tục truyền thống
như nghi lễ, hội hè, tục cúng tế đền tháp, tục cưới gả, tang ma, tín ngưỡng,
tôn giáo, luật tục, văn chương, làng nghề… mang bản sắc văn hóa riêng.
1. Làng
Palei Chăm:
Hiện nay người Chăm ở Ninh Thuận có tất cả 22 làng palei thuộc 13
xã và 4 huyện thị (Ninh Phước, Ninh Hải, Ninh Sơn, thị xã Phan Rang - Tháp
Chàm). Trong đó được phân chia ra thành hai cộng đồng: Chăm Ahiêr (Chăm ảnh hưởng
Bàlamôn giáo) và Chăm Awal (Chăm ảnh hưởng Hồi giáo). Mỗi cộng đồng tôn giáo lại
sinh sống thành từng palei riêng biệt. Trong tổng số 22 làng palei thì có 15
làng Chăm Ahiêr và 7 làng Chăm Awal. Mặc dù là một dân tộc Chăm Ahiêr và 7 làng
Chăm Awal. Mặc dù là một dân tộc Chăm nhưng phân chia ra làm hai nhóm Chăm, ảnh
hưởng đạo giáo khác nhau (Ahiêr và Awal), sống tách biệt nhau. Tuy vậy hai nhóm
này vẫn cùng mang một đặc trưng văn hoá chung.
Palei Chăm thường định cư trên
những vùng gò đất cao, xung quanh là ruộng lúa và nương rẫy. Mỗi palei có khoảng
từ 300 - 400 hộ gia đình, tập hợp bởi nhiều tộc họ sinh sống với nhau. Các
khuôn viên nhà ở được bố trí theo hướng Bắc - Nam.
Trong mỗi palei Chăm đều có
một đền thờ thần (sang Pô yeang) và ở đầu làng có nhà làng (sang palei). Cách
palei không xa thường có một nghĩa địa (kút, ghôr). Mỗi palei Chăm đều có đơn vị
quản lí hành chính thôn, đoàn Thanh niên, Hội Nông dân… Bên cạnh đó còn có Hội
đồng phong tục (Hội đồng già làng) chăm lo cúng tế và cùng với chính quyền tham
gia giải quyết những vụ bất đồng của các thành viên trong làng liên quan đến
phong tục, tập quán. Palei Chăm có luật tục riêng gọi là adat. Nếu như Palei
Chăm là đơn vị cư trú cổ truyền mang tàn dư của công xã nông thôn thì gia đình
lại là bộ phận hình thành nên đặc trưng ấy. Gia đình trong palei Chăm được tổ
chức theo hình thái gia đình mẫu hệ, bao gồm gia đình lớn (mưngawôm pruang) và
gia đình nhỏ (mư ngawôm sít). Thành viên cơ bản trong gia đình được tính theo
huyết thống bên mẹ. Trong mỗi gia đình có đàn bà lớn tuổi đứng đầu gọi là “Po
sang” (chủ nhà). Các gia đình có cùng chung một mẹ sinh ra thường bố trí chung
nhà cửa trong một khuôn viên. Tương tự như vậy, các gia đình chung một dòng họ
phía mẹ thường bố trí nhà cửa cùng dãy với nhau. Mỗi dòng họ có một tộc trưởng
đứng đầu gọi là “akauk gơp”. Ngày xưa trưởng tộc là đàn bà, ngày nay được thay
thế bởi người đàn ông. Nhiệm vụ của trưởng tộc là quản lý các thành viên, giải
quyết những vấn đề thắc mắc giữa các thành viên và chăm lo, tổ chức cúng tế những
lễ nghi tín ngưỡng liên quan đến tộc họ. Mỗi dòng họ trong làng được phân biệt
với nhau bằng nghĩa địa của dòng họ mẹ (kút, ghôr). Mỗi dòng họ có một vật thờ
tổ gọi là “Chiết atâu” (Chiếc Atâu là một loại giỏ đan bằng tre hình hộp vuông
có nắp đậy, dùng để bỏ y trang, đồ cúng lễ của tổ tiên tộc họ. Chiếc Atâu chỉ
được đem ra ngoài khi tộc họ có dịp cúng lễ). Đơn vị cơ cấu căn bản của hệ thống
thân tộc của người Chăm là mẫu hệ gia tộc. Những mối quan hệ bên mẹ là quan hệ
thân thuộc và quan trọng nhất. Tổ tiên được thờ phụng là tổ tiên bên mẹ. Quyền
thừa kế tài sản thuộc về con gái út. Phụ nữ Chăm nắm quyền quyết định trong gia
đình. Vai trò Cậu (cey) được đề cao và vẫn
còn chi phối mạnh mẽ trong gia đình người Chăm hiện nay. Nói chung sinh hoạt
làng (palei), gia đình (mưngawôm), tộc họ (gơp tian) của người Chăm phản ánh đậm
nét chế độ mẫu hệ thể hiện trên các mặt: sự phân hóa xã hội, quan hệ về gia
đình và hình thức hôn nhân; hình thái tín ngưỡng; phương thức sản xuất và quyền
sở hữu tài sản… Vì vậy cơ chế xã hội truyền thống người Chăm gắn bó chặt chẽ với
nhau và được vận hành bằng luật tục (adat). Họ sống trên cơ sở bình đẳng, đoàn
kết thương yêu lẫn nhau. Cùng nhau bảo vệ, lưu giữ thuần phong mỹ tục, những
giá trị văn hóa của tổ tiên. Có thể nói làng palei, gia đình người Chăm là mắc
xích quan trọng, gắn liền chặt chẽ với nhau, tạo nên một cơ cấu xã hội cổ truyền
bền vững, trở thành cái nôi bảo tồn và lưu giữ văn hóa Chăm, lễ hội Chăm trong
suốt những tháng năm thăng trầm của lịch sử dân tộc.
2. Đời sống kinh tế:
Người
Chăm định cư trên dải đất miền Trung với đặc điểm địa hình là miền đất hẹp, kéo
dài và được cấu tạo bởi ba vùng: Núi - Đồng bằng - Biển cả. Khí hậu nơi đây khắc
nghiệt, khô ẩm, nhiều nắng, ít mưa. Điều kiện tự nhiên, địa lí môi sinh đó đã
hình thành nên nền kinh tế của người Chăm.
Trong nền kinh tế truyền thống của
mình, người Chăm có một nền nông nghiệp phát triển khá sớm. Từ lâu đời họ đã biết
đắp đập khai mương để trồng lúa nước mà đến nay vẫn còn các dấu vết các công
trình thủy lợi trên dải đất miền trung như: đập Do Linh (Quảng Trị), đập Nha
Trinh và đập Marên (Ninh Thuận). Họ còn có kĩ thuật canh tác ruộng nước khá
cao. Tùy theo loại ruộng như ruộng gò (hamu tamu), ruộng cát (hamu cwah), ruộng
sâu (hamu dhong) mà họ có kỹ thuật canh tác và sử dụng các loại giống lúa ngắn
ngày, cho năng suất cao như loại giống lúa chiêm, lúa mùa (padai bidiên, padai
halim, paday ia ok, padai kuprok…). Do đó không phải ngẫu nhiên mà người Trung
Quốc và người Kinh đều du nhập giống lúa của người Chăm mà họ thường gọi là
“lúa Chiêm”. Bên cạnh làm ruộng người Chăm còn là những người làm vườn giỏi. Họ
trồng nhiều hoa màu và cây ăn trái như ngô, khoai lang, đậu xanh, đậu nành, chuối,
dừa, hồ tiêu… Nhờ đó mà dân cư có hoa quả và ăn rau xanh 4 mùa. Bên cạnh nghề
nông, người Chăm còn biết khai thác những khu rừng lớn có các loại gồ mun, trầm
hương, vỏ cây làm thuốc nhuộm… rất được ưa thích trên thị trường. Họ cũng biết
khai thác tài nguyên khoáng sản ở xứ họ để đem bán ở xa. Người Chăm còn làm nghề
biển, họ là những thủy thủ can trường, là những người buôn bán giỏi. Những chiếc
thuyền buôn của họ thường vượt biển khơi đi đến hải cảng Trung Quốc và có mối
quan hệ với các nước Java trong thời cổ trung đại. Nói chung kinh tế truyền thống
của người Chăm bao gồm cả nghề nông, nghề đi biển và khai thác rừng. Ba hình
thái kinh tế đó đã góp phần làm cho đời sống kinh tế Chăm phát triển phồn thịnh
và hiện nay còn in dấu ấn đậm nét trong lễ hội Chăm. Tuy nhiên ngày nay, một số
ngành kinh tế truyền thống đã bị mất đi. Hiện nay người Chăm không còn làm nghề
biển. Tuy một số làng Chăm ở Ninh Thuận như Bỉnh Nghĩa, Tuấn Tú vẫn còn sống gần
biển nhưng họ không làm nghề biển mà lại quay lưng với biển. Đa số (khoảng 95%)
người Chăm Ninh Thuận ngày này sống bằng nghề nông, và một số ít làm nghề chăn
nuôi và khai thác rừng. Đến nay họ vẫn còn phát huy truyền thống làm lúa nước
và chăn nuôi gia súc, gia cầm. Hoạt động nông nghiệp vẫn là nền kinh tế chủ đạo
trong đời sống kinh tế chủ đạo trong đời sống kinh tế của người Chăm hiện nay.
Lễ hội liên quan đến nông nghiệp
Lễ dựng chòi
cày (Padang paday tuan):
Lễ dựng chòi cày là lễ mở đầu công việc đồng áng hàng
năm của người Chăm. Trước khi khởi đầu công việc cày gieo người Chăm thường dựng
lên một cái chòi nhỏ ở gần ruộng của mình để trú ngụ tránh mưa nắng và để dụng
cụ lao động trong thời gian cày cấy. Lễ này được thực hiện trên thửa ruộng từng
gia đình. Lễ hội cầu đảoThầy cúng lễ là ông “Cai mương” (Hamu ia) hoặc “Ong Từ” (Camưney).
Ngày cúng lễ là ngày thứ tư hay thứ bảy trong tuần. Lễ vật gồm có 1 cặp gà, 5
mâm cơm, rượu, trứng, trầu cau…
Các vị thần linh được cầu cúng trong lễ này là
các vị thần như thần trời, thần cha (Po yang amư), thần mẹ, thần sông (Po patau
ia), thần thủy lợi như Pô KLong Garai, Pô Rômê và các vị khẩn hoang tiền hiền…
Mục đích lễ này, họ cầu mong cho mưa thuận gió hòa, công việc cày cấy được
suông sẻ, mùa màng tốt tươi…
Lễ cúng ruộng lúc lúa đẻ nhánh (Iew po Bhùm):
Sau
khi ruộng lúa cày gieo xong khoảng tháng sau thì họ tiếp tục làm lễ cúng cho
cây lúa đẻ nhánh. Lễ vật cúng cho lễ này tương tự như lễ cúng dựng chòi cày. Những
thần linh cầu cúng của lễ này chủ yếu là thần mẹ xứ sở Po Inư Nưgar.
Lễ cúng lúa
làm đòng (Padai dôk tian):
Lễ này người Chăm cúng lúc lúa đang dậy thì con gái.
Họ quan niệm hồn lúa cũng như hồn người. Đây là giai đoạn quan trọng quyết định
và ảnh hưởng đến năng suất cây lúa. Lễ này khác với lễ trước là lễ vật cúng 1
con dê, 5 mâm cơm, rượu, trứng, trầu cau… Chủ tế lễ là thầy Kadhar kéo đàn
Rabap (đàn tương tự như đàn nhị người Kinh), ông Cai mương (Hamu ia) hoặc ông
Camưney. Các vị thần linh được mời về dự lễ cũng tương tự như lễ vừa nêu trên
nhưng nội dung hành lễ này phong phú hơn, thầy Kadhar vừa kéo đàn Rabap vừa mời
các vị thần và hát về những bài thánh ca, ca ngợi công đức của các vị thần mẹ
(Po Inư Nưgar) đã dạy người trồng lúa, cày cấy đem lại lúa gạo cho người Chăm
và hát ngợi ca các vị thần thủy lợi như Po Kluang Garai, Po Rame đã đem nước về
cho dân làng tưới tiêu, trồng lúa.
Lễ thu hoạch lúa (Iew Yang Trun Yuak):
Lễ này thường diễn ra vào
tháng 11 lịch Chăm (tháng 10 âm lịch). Khi cúng lễ, người Chăm phải chọn ngày tốt
(ngày thứ tư hoặc thứ bảy) để xuống gặt lúa. Lễ này do ông Cai mương hoặc ông
Cai đập cúng (ôn Binưk). Lễ vật gồm có 1 cặp gà, rượu, trứng, trầu cau, xôi
chè… Nội dung cúng tương tự như lễ lúa làm đòng. Khi lễ cúng này kết thúc thì
ông thầy cúng bước xuống ruộng, dùng lưỡi liềm cắt một bó lúa để khai lễ ngày gặt
lúa. Cách 3 ngày sau ruộng lúa mới được thu hoạch. Bó lúa lễ được chủ ruộng đem
về nhà để trên trần nhà đến mùa sau thì đem ra cúng.
Lễ lúa mới lên sân (Da a
patai tagok lan):
Lễ này nội dung tương tự như lễ cúng lúa làm đòng. Mục đích
là lễ tạ ơn các vị thần thánh, tổ tiên đã phù hộ độ trì cho họ thóc lúa đầy bồ.
Nói chung qua 5 lễ nghi nông nghiệp của người Chăm như trên, đã phản ảnh nhu cầu
sinh trưởng của cây lúa (từ lúc cày gieo, lúa đẻ nhánh, lúa đơm đòng đến lúa
chín). Mặc dù đây là lễ nghi tổ chức từng gia đình nhưng lại liên quan đến mùa
vụ của cả cộng đồng nên nó trở thành lễ hội cộng đồng. Ngày nay, kể từ sau năm
1975 thì hệ thống lễ nghi nông nghiệp này không còn phụ hợp nữa mà đã biến mất.
Lễ cầu đảo (Palau Sah):
Lễ palau sah là lễ cầu đảo liên quan đến cầu mưa, cầu nước
của người Chăm. Lễ được tổ chức vào tháng 4 lịch Chăm. Lễ này ngoài tổ chức ở
các đền tháp Chăm còn được tổ chức tại các cửa biển. Đây là lễ chung cho cả cộng
đồng Chăm Ahiêr (Chăm ảnh hưởng Bàlamôn) và Chăm Awal (Chăm ảnh hưởng Hồi
giáo).
Ngày xưa, cứ đến tháng 4 Chăm lịch - mùa khô hạn nắng nóng thì người
Chăm đến các cửa biển Lâm Ngư (xã Phương Hải, Ninh Hải) và gần cửa biển Cà Ná
(Phước Diêm - Ninh Phước) và cửa biển Mỹ Tân (Mỹ Tường, Ninh Hải) để cúng lễ.
Lễ
Palau sah là một nghi lễ tổng hợp của các lễ thức người Chăm. Đây là lễ cúng
chung cho các vị thần Chăm như các vị thần Bàlamôn (Yang bimon - yang aklak),
các thần Hồi giáo - Bàni (yang birow - thánh alla); thần núi, thần sông, thần
biển… Các vị chức sắc cúng lễ như tu sĩ Paseh của nhóm Chăm Ahiêr, tu sĩ Acar của
nhóm Chăm Awal, thầy cúng tín ngưỡng dân gian như Kadhar (thầy kéo đàn Rabap),
thầy Mưduôn (thầy vỗ trống Basanưng), thầy Ka-in (thầy bóng), Muk Pajau (Bà
bóng), ông Cai đập (binưk), ông Cai mương (Hamu ia)…
Riêng lễ Palau Sah (cầu đảo)
ở Bỉnh Nghĩa (Ninh Hải) có nội dung khác lễ cầu đảo (Yuơr yang) ở các vùng Chăm
khác. Lễ Palau sah ở thôn Bỉnh Nghĩa có nội dung tương tự như lễ hội múa Rija
Nưgar (Lễ hội múa tống ôn đầu năm). Còn lễ Palau sah ở vùng Chăm có đặc điểm
chung như nhau và bao gồm các tiểu lễ như sau:
Lễ Rija harei (lễ múa ban ngày):
Lễ này được tiến hành trong một nhà lễ làm bằng tre, mái lợp bằng tranh hoặc bằng
tấm bạt, hướng mặt về phía mặt trời lặn.
Lễ vật gồm có 1 con gà, 5 mâm cơm (mỗi mâm có cơm, canh cá và cá khô), 3 mâm
chuối, hai mâm trầu, rượu, trứng… và 5 mâm xôi chè.
Lễ do Mưduôn (thầy vỗ trống
Paranưng) và ông Ka-in (thầy bóng thực hiện). Đặc điểm của lễ này là Mưduôn vỗ
trống Paranưng hát mời các vị thần như thần núi (Po cơk), thần sông biển (Po
Riyak), thần chèo thuyền (po tang ahuak), thần giữ rừng trầm (Po gilau), đặc biệt
là thần thủy lợi như Pô KLong Garai, Pô Rô mê… Khi ông Mưduôn hát các tiểu sử
ca ngợi các công lao đức độ của các vị thần thì thầy bóng (Ka-in) múa phụ họa
trong tiếng trống Ginăng, Paranưng, kèn Saranai Chăm. Bà con dân làng dự lễ cầu
cúng khấn vái và tham gia múa mừng.
Lễ cúng Rija Dayuap (lễ cúng ban đêm):
Lễ
này được tiến hành vào lúc chiều tối hoặc ban đêm do Kadhar (thầy kéo đàn
Rabap) và bà bóng (Muk Pajau) thực hiện. Lễ này có sự tham gia của tu sĩ Po
Acar nhóm Chăm Awal. Lễ vật gồm 1 con dê, 5 mâm cơm, xôi chè, trầu cau, rượu trứng,
bánh trái… Thầy Kadhar (thầy kéo đàn Rabap) hát mời các vị thần như Po Au loah,
Po Bal Gina, Po Cah ya, và thần mẹ xứ sở (Po Inư Nưgar), Pô KLong Garai, Pô Rô
mê (Vua Chăm được suy tôn thành thần thủy lợi), thần núi (Po Cơk), thần sông
(Po Patau Ia), thần biển (Yang tasik)… Ông Kadhar hát thì bà bóng múa phụ họa…
Lễ
tế thần lửa (cuh yang apui):
Lễ này do tu sĩ paseh thực hiện. Đây là lễ cúng
các vị thần Chăm ở đền tháp (yang Bimon) đặc biệt là cúng tế thần lửa (yang
apui) để cầu thần lửa đem lại lửa làm sấm chớp, mây, mưa… Nội dung lễ này tương
tự như lễ nghi đốt thần lửa ở đền tháp Chăm.
Lễ rước gậy thần của tu sĩ Acar
(Gay bhong):
Lễ này do nhóm tu sĩ Chăm Awal thực hiện. Nghi lễ này rất long trọng,
Po Acar và dân làng rước gậy thần (Gay bhong) - gậy lễ rao giảng kinh của thánh
Mohamach từ thánh đường hồi giáo đến cửa sông, cửa biển để cầu mưa. Nghi thức
cúng lễ này tương tự như lễ hội Ramưwan Chăm Awal. Lễ vật gồm 5 mâm xôi chè,
chuối. Tu sĩ Po Acar đọc kinh Coran, cầu thánh Alla (Pamrơ) về hưởng lễ, dâng
làng van vái, cầu khấn cho thánh Alla hiệu nghiệm, ban cho dân làng mưa thuận
gió hòa, mùa màng tốt tươi.
Ngoài lễ Palau Sah (Lễ cầu đảo) như trên, vào thời
điểm này (tháng 4 lịch Chăm), từng làng người Chăm còn tổ chức lễ hội cầu đảo
cho riêng mình, chủ yếu họ cầu cúng Po Nai (Nữ hoàng đi tu tại núi Chà Bang -
Ninh Thuận) và lễ cúng Po Riyak (thần sóng biển)… Lễ này diễn biến tương tự như
lễ múa ban ngày (Rija harei) do thầy Maduôn và Ka-in thực hiện. Lễ lôi cuốn cả
dân làng tham gia trở thành ngày hội của các palei Chăm.
Nói chung Lễ Palau Sah
là lễ nghi tổng hợp của người Chăm. Lễ này không những tập trung các chức sắc,
tu sĩ, các loại hình tôn giáo, tín ngưỡng mà nó còn lôi kéo được dân làng, từng
thôn và từng khu vực tham gia. Cùng với lễ Palau Sah (cầu đảo), thời điểm này còn có lễ cầu đảo Po Nai, Po Rijak đã góp
phần làm cho lễ hội Chăm sôi động hẳn lên. Đây là thời điểm lễ hội Chăm diễn ra
khắp nơi, từ bãi trống đầu làng đến mỏm núi, bờ sông, bờ biển là cho làng Chăm
thực sự là mùa trẩy hội. Tháng tư là mùa nắng nóng - mùa cầu mưa, cầu nước -
mùa cầu khấn cho dân làng khỏi bệnh tật bởi sức nóng khắc nghiệt của vùng nhiệt
đới. Do vậy thời điểm này là mùa diễn ra nhiều nghi lễ hội hè ở khắp mọi nẻo của
làng - Palei Chăm.
Lễ chặn nguồn nước (Kap kraung Halau):
Sau khi làm lễ cầu đảo,
trời bắt đầu ban xuống cơn mưa cho dân làng cày cấy. Để tránh mưa nhiều, gây ra
bão lụt thì người Chăm còn tổ chức làm lễ chặn nguồn nước. Lễ này được thực hiện
ở các cửa sông lớn. Lễ được diễn ra ở hai cộng đồng Chăm Ahiêr và Chăm Awal. Lễ
này có nghi thức diễn ra khá long trọng do các tu sĩ po Acar, Ong binưk (cai đập)…
thực hiện. Trong lễ này, ngoài việc lễ vật là 5 mâm cơm và xôi chè, người Chăm
còn rước gậy lễ rao giảng kinh của Mohamach (Gay bhong) ở trong thánh đường
(sang mưgik) đến cửa sông. Trong nghi lễ này có 9 tu sĩ Acar nhóm Chăm Awal -
Chăm ảnh hưởng Hồi giáo mặc áo màu đen (aw juk) để thực hiện lễ. Họ đọc kinh
Coran… cầu nguyện thánh Alla xin đừng mưa nhiều, gây lũ lụt phá hoại mùa màng,
nhà cửa, xóm làng. Khi lễ kết thúc tất cả tu sĩ Po Acar ở trần lội xuống sông
làm lễ “té nước” và kết thúc nghi lễ.
Nghi lễ này ngoài chức sắc, tu sĩ thực hiện
còn có sự tham gia của một số dân làng, tín đồ ở các thôn, các vùng cùng hưởng
chung đập nước tham gia cúng lễ. Tất cả bà con dân làng cúng lễ vật đều cầu
mong cho trời ban cho mưa thuận gió hòa, không gây lũ lụt phá hoại mùa màng.
Lễ
tế trâu (Ngak kabaw yang patau):
Lễ tế trâu là loại lễ nghi cúng tế lớn nhất
trong hệ thống lễ nghi nông nghiệp của người Chăm. Lễ được tổ chức 7 năm 1 lần.
Lễ vật cúng một con trâu trắng tại núi Đá Trắng thuộc thôn Như Ngọc, Ninh Phước,
Ninh Thuận. Nguồn gốc của lễ này theo truyền thuyết kể lại: Ngày xưa khi người
Chăm chưa có vua, ông “kay Klong, kay Biên” mới đào đất lấp biển, phá núi để
hình thành đất đai, sông biển cho người Chăm. Lúc đó ở xứ Chăm có một Chằn tinh
(Rak) từ đâu xuất hiện đòi làm vua xứ Chăm. Chằn tinh đòi vua Chăm phải nộp nhiều
thứ thuế và nộp cả người đẹp. Về sau Chằn tinh còn đòi vua Chăm nộp cả công
chúa. Thấy Chằn tinh ngày càng gieo tai họa cho dân làng, và để cứu công chúa
ra khỏi tay Chằn tinh. Vua cầu xin thần linh phù hộ cho dân làng và giúp vua
tiêu diệt cho được Chằn tinh. Vua tập trung dân làng, ra tay chiến đấu nhiều
ngày đêm với Chằn tinh. Cuối cùng Chằn tinh bị vua chém đầu, Chằn tinh bị giết
chết, xương chất đống thành núi màu trắng. Từ sự tích đó, tại làng này có một
ngọn núi Đá Trắng, trên núi có một cái hang sâu mà dân gian gọi hang đó là đầu
và miệng của Chằn tinh và lấy tên núi đó là “Cơk yang Patau” (Núi vua chúa). Từ
đó dân làng thoát khỏi tai họa. Về sau để trừ Chằn tinh phá hoại dân làng, mùa màng, dân làng thường cúng trâu trắng 7
năm một lần.
Lễ cúng trâu trắng do Cai lệ (Hamu ia), thầy Kadhar (thầy kéo đàn
Rabap), Muk pajau (bà bóng) thực hiện… Lễ được thực hiện một ngày từ sáng đến
chiều. Trong buổi sáng, Ông Cai lệ dắt trâu trắng đến chân núi Đá Trắng và làm
lễ tâu trình với thần Yang tại tấm bi “Yang tikuh” (thần Chuột) bằng lễ vật 3
trứng gà, rượu và trầu cau… Sau khi tâu trình thần Yang, ông Cai lệ trở lại
chân núi Đá Trắng, ông Cai lệ đọc lời khấn làm lễ tẩy uế con trâu và xin phép
thần Yang làm lễ cắt cổ trâu. Nghi thức lễ cắt cổ trâu diễn ra rất trọng thể.
Trước khi bị cắt cổ cúng thần, con trâu được làm lễ tẩy thể bằng “nước thần”
(nước có pha cát lồi). Sau đó trâu được buột lại bốn chân và vật ngã nằm xuống
đất. Ông Hamu ia (Cai lệ) cầm cây kiếm dài hướng về phía mặt trời mọc, tay cầm
3 tem trầu cau và một nắm gạo trắng vung lên trời để cầu siêu cho linh hồn con
trâu. Ông Hamu ia cầu thánh Alla, thần đất, thần núi Đá Trắng, thần Chằn tinh
(Cơk yang patau)… cho phép ông được cắt cổ trâu và các vị thần sớm cầu siêu cho
linh hồn con trâu và các vị thần nhanh mà đến hưởng lễ. Hết lời cầu khấn ông cắt
cổ trâu. Trong lúc cắt cổ trâu ông Cai lệ nín thở cho đến khi huyết trâu chảy hết
và trâu tắt thở trong tiếng chiêng và lời hát lễ của thầy Kadhar kéo đàn Rabap.
Lễ vật cúng thần Yang, thần Chằn tinh ở núi Đá Trắng, ngoài thịt trâu còn có
hai con gà luộc, bánh chà cung (bánh bột gạo), 2 chén rượu cần, trứng, trầu
cau, bánh trái…
Địa điểm cúng lễ ngoài tại chân núi Đá Trắng - nơi hành lễ
chính, họ còn cúng tại nơi dựng tấm bi “Yang Tikuh” một mâm cơm, 1 mâm thịt, 1
mâm cỗ bánh (bánh tét, trái cây hoa quả). Và cúng tại đỉnh núi đá trắng gồm: 1
mâm cơm, một mâm thịt trâu, 1 cỗ bánh, 1 thau huyết trâu.
Nghi thức hành lễ, thầy
Kadhar kéo đàn Rabap hát thánh ca mời các vị thần thì ông Cai lệ (Humua ia)
đánh chiêng và Bà bóng (Muk pajau) dâng lễ vật. Họ mời các vị thần như thần đất
(Po bhum), các vị thần núi ở núi đá trắng (Po cơk yang patau), thần sông (Po
patau ia), thần mẹ xứ sở (Po Inư Nưgar), thần thủy lợi (Pô KLong Garai, Pô Rô
mê), thần chuột phá hoại mùa màng (Yang tikuh)… Lễ này có sự tham gia của dân
làng ở khu vực núi Đá Trắng, họ cũng dâng bánh trái, cầu khấn, múa mừng tạo
thành một lễ hội mang tính khu vực. Lễ này từ lâu đã trở thành phong tục, tín
ngưỡng của người Chăm. Do đó cứ 7 năm 1 lần, người Chăm tổ chức lễ cúng trâu tại
núi Đá Trắng. Dân gian Chăm có câu tục ngữ để tưởng nhớ đến tục lễ trên như
sau:
Bilan năm yang tikuh
Bilan tajuh yang patau
(Tháng sáu cúng thần chuột phá
hoại mùa màng Tháng bảy cúng thần Chằn tinh ở núi Đá Trắng).
Lễ hội cúng thần linh
Trong hệ thống lễ hội Chăm lễ Puis, Payak là loại lễ nghi tín ngưỡng của người Chăm có từ lâu đời. Đây là lễ hội của tộc họ được tổ chức theo định kỳ 1 năm, 3 năm hoặc 7 năm một lần. Lễ Puis, Payak là hai loại lễ khác nhau, tùy theo phong tục thờ cúng, hệ thống thờ thần mà mỗi tộc họ tổ chức lễ Puis hoặc Payak để tế thần linh.
Lễ Puis:
Là loại lễ nghi của tộc họ cúng để
trả lễ và thết đãi thần linh (Jiư muk key) - cụ thể là lễ tế thần Po Rame. Lễ
này thường được tổ chức theo định kỳ 1 năm, 2 năm hoặc 7 năm một lần khi tộc họ
làm ăn được mùa, phát đạt con cháu sum họp.
Lễ Puis được tổ chức phổ biến trong
tộc họ thuộc các làng thờ tháp Pô Rô mê như Hậu sanh, Mỹ Nghiệp, Vĩnh Thuận, Vụ
Bổn, Hiếu Thiện (Ninh Thuận)… Còn các tộc họ khác thờ cúng thuộc khu vực tháp
Pô KLong Garai (Đô Vinh - Ninh Thuận) thì làm lễ cúng Payak. Tục lễ ấy đã có từ
xưa đến nay và đã trở thành phong tục, tín ngưỡng của tộc họ. Cứ như thế khi đến
chu kỳ cúng lễ hàng năm thì tộc họ phải thực hiện những lễ cúng trên.
Khi đến một
chu kỳ cúng lễ Puis của tộc họ thì trưởng tộc họ (akauk gơp) có nhiệm vụ đi
thông báo đến các thành viên tộc họ và góp tiền của để thực hiện lễ cúng. Khi
đã đủ điều kiện về vật chất và tài chính thì ông trưởng tộc đem lễ vật (trầu,
rượu) đến nhà thầy Kadhar Gru - thầy tế lễ Puis để xem ngày lành thàng tốt cúng
lễ. Thông thường thì lễ Puis thực hiện được bất cứ tháng nào trong năm và phải
là ngày chẳn trong tháng 3, 4, 5 trừ tháng 11 và 12 (bilan Puis, mak). Vì hai
tháng này người Chăm thường cử hành lễ đăng quan, tiến chức cho các vị vua chúa
cho nên phải kiêng cữ. Sau khi được thầy Kadhar ấn định ngày tháng tổ chức lễ
thì lễ Puis được diễn ra trong một nhà lễ (Kajang) trong lễ Puis có hai loại:
Loại nhà lễ không có lợp mái (Kajang mưtưh danah buah) và nhà lễ lợp mái
(kajang bah bauh). Tùy theo tộc họ có tục cúng nhà lễ nào thì dựng theo nhà lễ
kiểu ấy. Ở hai nhà lễ này mặc dù hình thức khác nhau nhưng nội dung hành lễ, lễ
vật hiến tế đều giống nhau. Ở đây chỉ khảo tả lại lễ Puis có hình thức nhà lễ một
mái. Lễ rước y trang Nữ thần Pô Inư Nưgar Trong ngày làm lễ, từ sáng sớm tộc họ tập trung đông đủ tại nhà được tổ chức
lễ. Phụ nữ được phân công nhau chuẩn bị lễ vật như gói bánh, trầu cau, bánh
trái… Còn đàn ông thì làm heo, gà… và dựng nhà lễ. Nhà lễ không rộng lắm (4m x 5m), chủ
yếu làm bằng tre, và mái thì lợp tranh hoặc tấm bạt và mở một lối ra vào ở hướng
đông - tây.
Lễ vật cúng lễ Puis bao gồm:
- 1 bộ y phục đàn ông (1 cái váy trắng,
1 dây thắt lưng, 1 cái áo sah, 1 cái khăn đội đầu) và 1 bộ trang phục đàn bà (1
cái váy trắng, 1 dây thắt lưng, 1 cái áo, 1 cái khăn đội đầu). Hai bộ trang phục
này được treo lên trước bàn tổ trong nhà lễ (Kajang).
- Ngoài trang phục lễ, lễ
vật dâng cúng còn có cơm canh, rượu trứng, cá khô, bánh chakun (bánh hấp bằng bột
gạo), cơm rượu (tapai thanh) và 3 chén rượu cần (ia tapay) và hoa quả…
Tất cả
những lễ vật được sắp xếp theo mâm lễ. Tùy theo lễ cúng vị thần nào mà mâm lễ vật
được xếp trên mâm 5 tầng, 7 tầng, 8 tầng hoặc 9 tầng. Mỗi tầng lễ vật được sắp
xếp xen kẽ nhau bao gồm: bánh tét (pay nung), bánh chakun (kur), bánh tráng
(pay Chăm), cá khô (rik), chuối (patey)… Tổng cộng tất cả 16 mâm lễ, trong đó
hai mâm xếp 9 tầng (kaya salipan), 2 mâm xếp 7 tầng (kaya tajuh), 4 mâm xếp 8 tầng
(kaya dalipan), 3 mâm xếp 5 tầng (kaya limư) và với 5 mâm cơm (cơm, canh, cá
khô, thịt gà luộc…) Tất cả mâm lễ vật được đặt hai bàn tổ (sanai) chính bên
trong nhà lễ. Ngoài những mâm lễ như trên thì ở chính giữa nhà lễ còn có bàn tổ
của Muk Pajau (bà bóng) - bàn tổ chính của nhà lễ. Ở bàn tổ này có đặt một
“thôn hala”, 1 khay trầu le, khay rượu, gạo lễ (brah kran) tô nước lã và chén lửa
đốt trầm. Ở bên trái bàn tổ bà bóng còn có bàn tổ thầy kéo đàn Rabap và bàn tổ
của chủ nhà (Po sang). Ở hai bàn tổ này, mỗi bàn có đặt một khay trầu, khay rượu,
bình trà, chén lửa đốt trầm.
Lễ Puis do thầy kéo đàn Rabap (Kadhar) và bà bóng
(Muk pajau) là chủ tế lễ chính. Sau khi vật đã chuẩn bị xong thì trong buổi
sáng hôm đó chủ nhà đem lễ vật trầu rượu đến làm lễ đón rước đàn Rabap và gạo lễ
- vật tổ của thầy Kadhar và Muk pajau. Sau đó lễ được tiến hành, bà bóng khấn
vái mời thần linh, tổ tiên trong nhà trình lễ. Sau đó là làm lễ cúng cá khô
(ngak yang tachauk rik) và cúng 5 mâm cơm (ieu tamư salao lithey).
Sau lễ cúng
các vị thần tổ tiên trong nhà (Po truak patra) thì thầy Kadhar và Muk pajau bắt
đầu cúng mời đãi các vị thần linh sau: Thần Siva (Po Ginôr mưtri), Thần trong
nhà (Yang di sang), Thần mẹ xứ sở (Po Inư Nưgar taha), Thần mẹ xứ sở Hamu Mưrâu
(Po Inư Nưgar hamu Mưrâu), Thần mẹ xứ sở Hamu Ram (po Inư Nưgar Hamu Ram), Quan
văn (Po Par), Vua Chăm thế kỷ XVII (Po Rame), Vua Chăm thế kỷ XIV (Po Thun
Garai), Quan phó vương miền núi (Po Garai phauk), Po Klaung Kasat, Cey Thuơr
(biệt hiệu thần Po Klaung Garai), Thần Yang in (Po Yang In), Thần rừng trầm, rừng
quế (po Tang, Po Galau), Thần sóng biển (Po Riyak), Chàng trai trẻ (Po Dam), Tổ
tiên (Po Trauk, Po Patra).
Mỗi vị thần trên khi được mời về dự thầy Kadhar kéo
đàn Rabap hát bài thánh ca, ca ngợi công lao tiểu sử của các vị thần. Trong lúc
thầy Kadhar hát bài thánh ca thì bà bóng (Muk pajau) rót rượu cầu khấn và dâng
lễ vật. Bà con dự lễ cũng cầu khấn cho các vị thần linh vui lòng hưởng lễ vật của
tộc họ dâng cúng mà phù hộ độ trì cho tộc họ. Nghi thức hành lễ cúng thần linh
và nội dung hát ở lễ Puis này tương tự như nghi lễ cầu cúng ở các lễ liên quan đến đền tháp Chăm như lễ mở cửa tháp (pơh băng
yang), lễ hội Katê…
Tiếp theo lễ đãi thần linh thì bà bóng (Muk pajau) còn múa
dâng lễ. Múa dâng lễ chỉ được thực hiện ở phần tế lễ đãi thần Siva (Po Ginôr
Mưtri), Po Inư Nưgar, Po Rame. Nghi thức múa cúng lễ 3 vị thần vừa nêu trên đều
như nhau. Thầy Kadhar kéo đàn Rabap hát mời, bà bóng múa và dâng lễ vật mỗi vị
thần một khay trầu và một ché rượu cần. Chỉ có múa dâng lễ ở vị thần mẹ xứ sở
thì bà bóng còn có tục múa dâng gạo, lúa bằng động tác múa đi xung quanh 3 mũng
gạo và múa đạp vào đống lúa đổ sẵn trên chiếu lễ ở bàn tổ. Nghi thức múa lễ này
người Chăm còn gọi là “múa đạp lúa”. Lễ múa này người Chăm nhằm tưởng nhớ vị thần
mẹ Po Inư Nưgar - Nữ thần hiện thân cho mẹ lúa, hồn lúa và họ cầu mong cho được
mùa màng, đời sống ấm no, sung túc.
Những điệu múa hát theo lễ như trên được
hòa vào tiếng đàn Rabap, trống Basanưng, Chiêng, nhạc gõ bằng gỗ (người Chăm gọi
là tăm gek). Tất cả những lời ca điệu múa ấy mang một âm hưởng trầm hùng cùng với
tiếng vỗ tay nhiệt thành của những người tham gia lễ tạo nên một nhạc lễ riêng
biệt đặc sắc của lễ Puis, Payak mà người Chăm gọi nhạc lễ này là điệu nhạc
“Chiêng jăp”
Sau lễ múa hát kết thúc thì họ tổ chức lễ tiễn đưa các vị thần hưởng
lễ về thiên giới. Lễ này ông thầy kéo đàn Rabap và bà bóng cúng tâu trình với
các thần linh là lễ tế đãi thần của tộc họ đến đây kết thúc. Bà bóng ngồi rót
rượu, tay cầm những hạt lúa nổ (kaman) rãi khắp bàn tổ trong nhà lễ rồi rót rượu
xuống đất miệng cầu khấn: Nghi lễ cúng thần đã kết thúc, cầu mong các vị thần
trong đền tháp (yang bimôn kalan), các vị thần trong nhà (yang di sang) và tổ
tiên… phù hộ độ trì cho tộc họ sức khỏe, được mùa, đoàn kết sum họp, thương yêu
lẫn nhau… Sau lời khấn thì nghi lễ chấm dứt. Nhà lễ lập tức được dỡ bỏ, nghi lễ
tế thần linh - Puis kết thúc trong ngày.
Lễ Payak:
Là lễ của tộc họ chủ yếu là
cúng vị thần tổ tiên (yang di sang) và thần Pô KLong Garai. Lễ payak do các tộc
thuộc các làng Chăm thờ tháp Pô KLong Garai thực hiện như: làng Phước Đồng, Chất
Thường, Hiếu Lễ, Hoài Trung (Ninh Phước - Ninh Thuận)…
Hành lễ Payak cũng tương
tự như lễ Puis là do thầy Kadhar và bà bóng thực hiện. Cả sư dâng lễ vật cúng thần Pôklong GaraiLễ này chỉ khác ở chỗ là
khi thầy Kadhar kéo đàn Rabap hát mời vị thần Siva thì bà bóng thực hiện nghi lễ
“thả ba hạt gạo trôi trong lọ nước”, rồi bà bóng đợi cho đến khi 3 hạt gạo trôi đến
gần nhau thì dùng lá trầu vớt 3 hạt gạo lên. Đó là điềm báo tộc họ này sum họp,
làm ăn thịnh vượng, may mắn. Sau đó họ làm lễ thết đãi cơm, rượu cần như lễ
Puis vừa nêu trên.
Trong lễ tế các vị thần linh trong lễ Payak, khi cúng đến thần
Pô KLong Garai - đối tượng cúng chính của lễ này thì thầy Kadhar có một nghi lễ
riêng. Khi cúng thần Pô KLong Garai thì thầy Kadhar kéo vạt áo lên trùm đầu và
hát những bài thánh ca, bà bóng dâng lễ vật cơm canh, ché rượu cần cho thần, rồi
bà bóng múa lễ mừng.
Múa trong lễ Payak phong phú hơn lễ Puis. Ngoài lễ múa mừng
(tamia ôn), dâng đạp lúa (tammia jaup paday) còn có múa ngậm lửa (tamia jauk
apaui), múa thoát y (tamia halang halaup), múa mừng hạt lúa (tamia ôn kaman),
múa cho con ăn (tamia crauk lithey ka anưk), múa ru con (tamia dai anưk)…
-
Nghi thức múa mừng và múa đạp lúa tương tự như lễ Puis.
- Múa ngậm lửa: là một
điệu múa của bà bóng, tay cầm 3 cây nến thắp sáng rồi ngậm lửa vào miệng. Khi
bà bóng ngậm lửa vào miệng mà nhún nhảy thì thầy Kadhar kéo đàn Rabap và nghệ
nhân khác vỗ trống Paranưng, đánh chiêng dồn dập… Khi bà bóng múa và ngậm tắt 3
nén lửa thắp sáng thì múa lễ này kết thúc.
- Múa thoát y: Để thực hiện điệu múa
lễ này ngoài bộ y phục màu trắng mà bà bóng mặc đang hành lễ, thì bà bóng còn mặc
chồng lên thêm một cái váy màu đen. Khi tiếng nhạc lễ cất lên thì điệu múa bắt
đầu. Bà bóng tay cầm hai đầu váy đen vừa mặc, vừa làm động tác mở váy ra. Bà
bóng cứ làm động tác cầm hai đầu váy múa nửa kín nửa hở; nhảy múa trước bàn tổ
để dâng cúng thần linh. Nghi thức múa mặc váy nửa kín, nửa hở như trên người
Chăm gọi là múa thoát y (tamin lang halaup).
- Nghi lễ múa mừng hạt lúa nổ: Bắt
đầu điệu múa “Mừng hạt lúa nổ”. Bà bóng nằm dài trên chiếc chiếu cổ (ciew ang)
đặt ở chính giữa nhà lễ, đầu hướng về hướng đông. Bên cạnh bà bóng nằm có đặt một
chén nước lễ, trong đó có 3 hạt lúa nổ và một chén rượu cần. Khi vào lễ múa thì
bà bóng ngậm nước phun vào bàn tổ 3 lần rồi múa mừng theo tiếng đàn Rabap, tiếng
trống Paranưng và tiếng Chiêng lễ.
- Nghi lễ múa cho con ăn: Lễ múa này do bà
bóng và vũ sư của tộc họ thực hiện. Chuẩn bị lễ vật múa cho con ăn bao gồm: mâm
cơm, canh, cá, gà luộc, chuối. Sau khi lễ vật chuẩn bị xong thì bà bóng và vũ
sư ngồi vào bàn tổ. Trên vai bà vũ sư có đeo một chiếc váy trắng ngang ngực -
tượng trưng cho tục “điệu con”. Lúc vào lễ thì bà con dự lễ rót rượu khấn vái tổ
tiên thần linh cho tộc họ con đàn cháu đống. Thầy Kadhar kéo đàn Rabap hát bài
lễ “cho con ăn”. Trong lúc Kadhar hát lễ thì bà bóng làm động tác cho con ăn. Đầu
tiên bà bóng múa cho con uống nước, tiếp đó là xúc miệng cho con bằng nước muối.
Sau đó là cho con ăn cơm với cá, đùi gà và cuối cùng là trái chuối. Tất cả lễ vật
đó bà bóng bỏ vào chiếc váy trắng mà vũ sư đang đeo trước ngực. Vì chiếc váy
đeo tượng trưng cho con. Sau lễ cho ăn thì bà bóng múa mừng.
- Múa lễ ru con:
Múa lễ ru con do vũ sư (Muk Rija) thực hiện. Bắt đầu vào lễ này thì nhà lễ được
tháo gỡ để trống ở đầu nhà lễ. Ở phần trống này họ treo một tấm váy trắng làm võng ru con. Khi vào lễ bà bóng ngồi vào bàn
tổ rót rượu khấn vái và vũ sư đứng bên cạnh chiếc võng và treo bằng váy trắng
làm động tác ru con theo tiếng hát bài ru con (duah dai anưk) về nữ thần mẹ Po
Inư Nưgar do thầy Kadhar kéo đàn Rabap hát… Đây là điệu múa lễ cuối cùng trong
hệ thống múa đãi tế thần linh Payak của tộc họ. Cũng tương tự như lễ cúng đãi
thần linh - Puis đã trình bày ở trên, lễ Payak này cũng kết thúc lễ bằng nghi
thức lễ tiễn đưa các vị thần linh về lại thiên giới (palau yang).
Lễ tế trâu tộc
họ tại tháp Pô KLong Garai:
Từ xa xưa người Chăm còn có tục lễ tế trâu, tục gọi
là “Kabaw akadang khun salao” để tế đãi thần linh. Lễ này do một họ tộc thực hiện.
Hiện nay họ còn cúng tế trâu 7 năm một lần. Lễ này tương tự như lễ cúng đãi thần
linh Payak. Chỉ khác là cúng trâu nướng nguyên con và phải cúng tại một rạp lễ
gần chân núi tháp Pô KLong Garai. Hành lễ tế trâu ngoài nội dung múa hát, nó
còn có nghi thức lễ nướng trâu nguyên con khiêng lên dâng cúng tại tháp Pô
KLong Garai theo nghi thức lễ cúng như lễ mở cửa tháp, lễ hội Katê… Lễ này cũng
do thầy Kadhar và bà bóng thực hiện.
Tóm lại: Lễ tế trâu này cũng nằm trong loại
nghi lễ cúng thần linh của tộc họ như lễ Puis, Payak. Nhưng lễ nghi Puis, Payak
là loại nghi lễ của tộc họ phổ biến hơn. Lễ Puis và Payak là ngày hội của tộc họ
- Ngày lễ hội mừng được mùa, mừng con cháu đầy đàn, no ấm, biểu hiện sự giàu
sang phú quý của tộc họ mà làm lễ tạ ơn và thết đãi thần linh. Loại hình lễ hội
của tộc họ này còn chứa đựng nhiều dấu ấn về văn hóa, tín ngưỡng bản địa cổ sơ
có trước khi người Chăm tiếp nhận, ảnh hưởng loại hình tôn giáo Bàlamôn và Hồi
giáo. Chính lễ nghi này là tiền đề để hình thành nên nghi thức lễ cúng tế ở đền
tháp Chăm. Tín ngưỡng ấy thể hiện ở hình thức tế lễ, nội dung tế lễ. Lễ Puis,
Payak do thầy cúng lễ Kadhar và Muk Pajau thực hiện, không có tu sĩ Paseh và
Acar tham gia. Văn hóa, tín ngưỡng bản địa ấy còn thể hiện dấu ấn cổ sơ như tục
thờ cúng tổ tiên, tục làm nhà một mái, tục ăn lúa nổ, lúa rang, uống rượu cần…
Đó là biểu hiện lối sống của cư dân tiền nông nghiệp mới thoát thai từ nghề săn
bắn và hái lượm. Đặc biệt ở hệ thống lễ này, có nghệ thuật múa dân gian Chăm
như múa mừng, múa đạp lúa, múa ngậm lửa, múa hát ru con… Tất cả những điệu múa
này chỉ mới dừng lại ở những động tác đơn giản của múa cổ điển như động tác
nhún nhảy cổ tay, bàn chân, đi, đứng, ngồi… Cùng với múa là nhạc lễ Puis, Payak
cũng vậy. Nhạc ở đây chỉ là nhạc cụ đơn giản như đàn Rabap, chiêng, nhạc gõ bằng
gỗ (tăm gek), có cả tiếng vỗ tay… với khúc thức đơn giản mang tính cổ điển. Tuy
vậy, cả múa và nhạc ở lễ Puis, Payak chính là tiền đề, là con đường manh nha để
hình thành và nâng cao loại hình múa quạt Chăm và nhạc lễ trống Ginăng,
Paranưng và kèn Saranai Chăm sau này. Đây chính là loại hình nghệ thuật múa nhạc
cổ điển mang tính bản địa của dân tộc Chăm rất quý giá có trước loại hình múa
quạt Chăm và nhạc lễ trống Ginăng, kèn Saranai hiện nay. Chính nó là cội rễ, là
nền tảng, là phần hồn góp phần quan trọng để hình thành nên kho tàng nghệ thuật
múa hát đặc sắc, tô thêm những sắc màu rực rỡ cho lễ hội Chăm.
NGƯỜI CHĂM CÓ MỘT LÀNG NGHỀ CỔ
Phan Quốc Anh
Những nhà nghiên cứu lịch
sử văn hóa thường rất quan tâm đến đồ gốm. Họ đi khai quật khắp nơi, bởi lẽ gốm
là một nghề rất cổ của loài người. Thông qua những hiện vật, di chỉ gốm, người
ta có thể nghiên cứu được con người và xã hội trong quá khứ.
Dọc theo quốc lộ
I, cách thành phố Phan Rang Tháp Chàm khoảng 7 km về phía nam có làng Chăm Bầu
Trúc. Đây là một làng nghề cổ, những người Chăm ở đây đang sản xuất ra những sản
phẩm gốm cổ bằng phương pháp tối cổ. Trong lịch sử, những người của nền văn hóa
Đông sơn cách đây hơn 2000 năm đã biết sử dụng bàn xoay để làm gốm. Còn ở làng
Chăm Bầu Trúc, bước vào thế kỷ 21, những người Chăm ở đây vẫn hàng ngày làm gốm
không có bàn xoay. Người thợ làm gốm vẫn phải đi vòng quanh, xoay theo đồ gốm
đang làm. Đó là một phương pháp thủ công tối cổ vào thời tiền Đông sơn ở Đại Việt.
Những sản phẩm gốm Chăm Bầu Trúc thì sao? Anh em ở Trung tâm nghiên cứu văn hóa
Chăm Ninh Thuận thường nói vui, bây giờ chỉ cần lấy vài mảnh gốm Bầu Trúc đem
ra chôn ở Bắc Ninh hay Hà Tây, ở Nghệ An hay Quảng Nam v.v... Sau đó lại đào lên
và làm thông báo khoa học, đưa tin về việc phát hiện một nền văn hóa cổ. Trung
tâm sẽ lại tha hồ mà tổ chức hội thảo, các nhà khảo cổ tha hồ công việc nghiên
cứu. Đó là nói vui, nhưng trên thực tế, trong lịch sử, sản phẩm gốm Chăm của
dân làng Bầu Trúc đã từng được các thương gia buôn bán thông thương với các nước
trên thế giới bằng nhiều con đường khác nhau. Gốm cổ Chăm đã được tìm thấy khắp
nhiều nơi trong và ngoài nước. Sản phẩm gốm Chăm sản xuất ra hiện nay ở làng Bầu
Trúc vẫn không khác gì mấy so với hàng vài nghìn năm trước đây. Có đồ gốm thô
và có cả đồ gốm mịn Ngoài việc không có bàn xoay, lò nung gốm của người Chăm hiện
nay cũng rất cổ. Đó là kiểu nung bán lộ thiên. Độ nung của gốm Chăm hiện nay
cũng vẫn chỉ dưới 1000 0C.
Việc tiêu thụ sản phẩm thì sao? Hiện nay ở Ninh thuận
có 22 làng Chăm với khoảng trên 60 nghìn dân và chỉ có một làng làm gốm là làng
Bầu Trúc. Người Chăm vẫn sử dụng những sản phẩm gốm do mình sản xuất ra. Khi được
hỏi tại sao không dùng đồ dùng bằng nhôm, bằng nhựa cho thuận tiện? Bà con Chăm
trả lời rằng đồ gốm nấu cơm cũng như thức ăn ngon hơn, đựng nước và nấu nước uống
ngon hơn, giá cả lại rẻ hơn. Đồ gốm Chăm hiện nay vẫn được chở đi bán ở khắp
nơi. Ngoài những đồ dùng như chum, vại, nồi niêu, ché, chậu v.v…những sản phẩm
khác như bếp lò nấu than, lò làm bánh Căn, bánh Xèo vẫn dễ tiêu thụ ở cả thị
trường trong và ngoài tỉnh.
Tuy nhiên, làng
gốm Chăm vẫn chỉ nổi tiếng trong lĩnh vực nghiên cứu văn hóa làng nghề thủ
công. Chính phương pháp thủ công của lịch sử để lại đã không đáp ứng nhu cầu
kinh tế thị trường hiện nay. Do phương pháp thủ công nên tốn rất nhiều công lao
động dẫn đến giá thành cao. Mẫu mã sản phẩm không được đổi mới. Việc tiêu thụ sản
phẩm ngày càng khó khăn do hàng tiêu dùng bằng những nguyên liệu khác như nhôm,
nhựa ngày càng phong phú, một phần lại bị tư thương ép giá v.v... Đây chính là những
nguyên nhân dẫn đến những lo ngại về sự tồn vong của một làng nghề đã có hàng
nghìn năm tuổi.
Trước đây, làng Bầu Trúc có hơn 300 hộ làm nghề gốm, nay chỉ
còn được gần 70 hộ. Những hộ này hiện nay cũng chỉ sản xuất cầm chừng do hàng gốm
ngày càng khó tiêu thụ, giá cả ngày càng rẻ. Nhiều hộ đầu tư sản xuất càng nhiều
càng lỗ. Các hộ dân chuyển sang trồng lúa, trồng nho có lãi hơn. Nghề gốm ngày
càng bị coi nhẹ. Nguy cơ biến mất của một làng nghề có hàng nghìn năm tuổi đang
hiển hiện.
Nguyên nhân từ đâu?
Họa sĩ Đàng Năng Thọ, người trở nên nổi tiếng nhờ
những tác phẩm nghệ thuật làm từ đất gốm nung, cũng là người dân làng Bầu Trúc,
tâm sự:” Báo chí, các nhà nghiên cứu khoa học, các nhà văn hóa ai cũng ca ngợi
làng gốm Bầu Trúc, coi Bầu Trúc là một làng nghề truyền thống nổi tiếng của nền
văn hóa Chăm chúng tôi. Thế nhưng chẳng ai quan tâm đến sự sống còn của nó, nhà
nước không đầu tư, cũng không hề có một chính sách nào để bảo tồn làng nghề.
Các cụ già trong làng rất lo lắng, nghề làm gốm đang bị thất truyền từng ngày.
Bà con làng nghề Bầu Trúc chúng tôi chỉ mong được sự quan tâm chỉ đạo, định hướng
của nhà nước để làm sao duy trì được làng nghề”.
Việc duy trì làng nghề truyền
thống gốm Chăm không chỉ có ý nghĩa về mặt kinh tế mà còn có ý nghĩa lớn về mặt
bảo lưu văn hóa dân tộc. Người Chăm có một nền văn hóa phong phú, đa dạng,
trong đó gốm Chăm đã góp phần rất lớn trong việc nghiên cứu lịch sử văn hóa Việt
nam nói riêng và lịch sử văn hóa Đông Nam Á nói chung.
"KHÔNG GIAN VĂN
HÓA CHĂM" GIỮA LÒNG HÀ NỘI
Dân tộc Chăm, xưa kia là cư dân của Vương quốc Champa
cổ, có một nền văn hóa dân gian độc đáo và đặc sắc được giữ gìn cho đến tận
ngày nay. Không Gian Sáng Tạo Trung Nguyên sẽ giới thiệu một “Không gian văn
hóa Chăm” giữa lòng Hà Nội. Triển lãm sẽ khai mạc tại 36 - Điện Biên Phủ-Hà Nội
vào chiều 28/5 và được trưng bài tới hết ngày 11/6/2010.
Dân tộc Chăm, xưa kia
là cư dân của Vương quốc Champa cổ, hiện có khoảng 20 vạn người, nhiều nhất ở
Ninh Thuận - 85.000 người, và Bình Thuận - 37.000 người. Người Chăm theo chế độ
mẫu hệ, sinh hoạt hàng ngày vẫn giữ nếp truyền thống với các lễ hội dân gian rất
đặc sắc. Rija Nưgar (vào đầu năm Chăm lịch, tức tháng 4 Dương lịch) và Katê (Tết
Chăm, vào tháng 7 Chăm lịch, tức tháng 10 Dương lịch) là hai lễ hội quan trọng
hơn cả.
Người Chăm biết sử dụng chữ viết từ khá sớm. Bia Võ Cạnh bằng chữ
Sanskrit ở Nha Trang (năm 192 sau Công nguyên) và bia Đông Yên Châu (cuối thế kỉ
IV) là minh văn bằng chữ bản địa có mặt sớm nhất trong khu vực. Ngôn ngữ - chữ viết
phát triển thúc đẩy văn học Chăm phát triển theo. Song hành với văn học bình
dân như tục ngữ, ca dao, truyện cổ… là nền văn học viết có mặt từ rất sớm: văn
bi kí, sử thi, trường ca, thơ thế sự, thơ triết lý, gia huấn ca… Mặc dù đã thất
tán nhiều, nhưng ngày nay người ta vẫn có thể tìm đọc một số tác phẩm, như những
cuốn sách 150 năm tuổi tại triển lãm “Không gian văn hóa Chăm” lần này. Đặc biệt,
người Chăm rất giỏi nghề thủ công, nổi bật nhất là nghề gốm và dệt thổ cẩm. Nói
về nghề gốm, hiện còn hai cộng đồng Chăm còn giữ nghề này là làng Bầu Trúc
(Ninh Thuận) và xã Phan Hòa (Bình Thuận). Đất sét trộn cát mịn được nhồi nhuyễn
thành hình quả bí đặt lên bàn kê (chứ không phải bàn xoay); người thợ vừa đi giật
lùi vừa dùng tay tạo khối đất thành dáng cơ bản. Hoa văn trang trí gốm Chăm khá
đơn giản, thường là hình sóng hay hình con thoi, được tạo bằng que nhỏ, răng lược
hay vỏ sò... Sản phẩm gốm được phơi khô cả trong nhà và ngoài nắng, trước khi
đem nung bằng củi, phân trâu bò khô, rơm rạ… Sau 2 - 3 tiếng, người thợ dùng
sào móc sản phẩm và dùng màu thực vật chiết từ da cây săng, trái thị để tạo màu
cho gốm ngay khi gốm còn nóng. Do nung bằng nhiều nguyên liệu khác nhau, lửa táp
không đều, nên không có hai sản phẩm gốm Chăm nào hoàn toàn giống nhau.
Trước đây, gốm Chăm gồm ba nhóm: gốm nấu (nồi nấu
cơm, nồi nấu canh, trách kho cá, bếp lò,…); gốm đựng (khương đựng gạo, lu đựng
nước, ảng...); và gốm dùng trong sinh hoạt chung. Ngày nay, nhờ biết tạo nhiều
mẫu mã mới, gốm Chăm không chỉ là mặt hàng tiêu dùng tự cung tự cấp nữa mà phần
nào đã trở thành hàng mĩ nghệ, nhưng kỹ thuật sản xuất vẫn không thay đổi.
“Không gian văn hóa Chăm” tự hào giới thiệu với người xem hơn 50 sản phẩm tiêu
biểu cho gốm Chăm xưa và nay.
Với người Chăm, dệt thổ cẩm là nghề “mẹ truyền
con nối”. Nghề này hiện vẫn là nguồn sống của cả làng Mỹ Nghiệp (Ninh Thuận), mảnh
đất văn vật từ thời Vương quốc Champa cổ mà tên còn tìm thấy trong bi ký. Khoảng
thập niên 50 trở về trước, người Chăm thường trồng bông để lấy sợi và dùng lá
cây, vỏ cây để tạo màu, còn ngày nay, các nguyên liệu từ tơ sợi cho đến thuốc
nhuộm đều được mua sẵn. Trên nền vải ưa thích là màu đen hay đỏ, người thợ Chăm
dệt nên các loại hoa văn rất phong phú và độc đáo: có hoa văn được bố trí trên
toàn mặt vải, có hoa văn chạy song song với nền sợi dọc, cũng có hoa văn hình động
vật cách điệu như rồng, phụng, chim trão, công… Trong xã hội Chăm, có thể phân
biệt mức độ sang hèn của một người chỉ qua hoa văn trên y phục. Như phụ nữ Chăm
thuộc tầng lớp trên thì mặc y phục có hoa văn chim trão hay chim phụng..., còn
phụ nữ tầng lớp dưới thì mặc y phục có hoa văn dây rừng… Đến với “Không gian
văn hóa Chăm”, người xem có cơ hội thưởng lãm những mẫu hoa văn thổ cẩm Chăm cổ
xưa và nguyên bản nhất.
Triển lãm còn có sự tham gia của nghệ nhân Thuận Thị Trụ,
danh hiệu “Bàn tay vàng thổ cẩm Việt Nam”, cùng tham gia hành trình giới thiệu
văn hóa Chăm. Bà là người có công sưu tầm hơn ba mươi hoa văn nền tưởng như đã
thất truyền và từ đó cách điệu ra khoảng năm mươi hoa văn khác. Công ty Dệt may
thổ cẩm Inrahani do bà thành lập là công ty thổ cẩm đầu tiên và duy nhất ở Việt
Nam, chuyên chế tác hàng thô thành các sản phẩm phục vụ cuộc sống như váy áo,
túi xách, ví, thắt lưng, khăn trải bàn…, góp phần đưa thổ cẩm Chăm được nhiều
người biết đến hơn. Tại triển lãm, bà sẽ kể những câu chuyện thú vị về văn hóa
Chăm thông qua phần trình diễn nghệ thuật dệt thổ cẩm và những điệu múa của
mình.
Huyền bí
Tết Katê của người Chăm
Người Chăm có ba ngày Tết trong năm để cùng nhau tụ
họp lại tưởng nhớ các vị thần linh, tổ tiên và tổ chức những hoạt động vui chơi
giải trí. Cuối thu, khi mùa màng đã thu hoạch xong, theo lịch của người Chăm là
ngày 1 tháng 7 (tương ứng vào khoảng cuối tháng 9 Dương lịch), các làng Chăm lại
rộn ràng vui Tết Katê. Hư thực chuyện di vật vua Chăm
Theo ông Phú Trạm -
Inrasara, một nhà nghiên cứu văn hóa Chăm, hội viên Hội văn nghệ dân gian Việt
Nam: Trước đây, ngày Tết của người Chăm là một dịp lễ khác được tiến hành vào đầu
tháng tư (lịch Chăm). Đây mới là ngày lễ có ý nghĩa xua đuổi cái xấu của năm
cũ, đón mừng cái may mắn của năm mới. Tuy nhiên, do quy mô của lễ hội Katê lớn
hơn, lại có thêm phần lên tháp tiến hành các nghi thức, nên lễ Katê được biết đến
nhiều hơn và trở thành cái Tết lớn nhất của người Chăm trong năm.
Những cụ già
người Chăm kể lại: Ngày trước, lễ hội Katê có thể kéo dài đến nửa tháng, nhưng
ngày nay đã được rút xuống chỉ còn ba ngày. Ngày đầu tiên dành để chuẩn bị quần
áo cho các thần linh. Ngày thứ hai rước quần áo lên tháp cho các thần. Ngày thứ
ba, dành cho cúng tế thần làng và tổ chức trò chơi, cúng tế tại gia đình.
Nhà
nghiên cứu Phú Trạm cho biết, theo truyền thuyết, người Raglai vốn là con út của
vua, là em của người Chăm. Trong thực tế, qua nhiều lần trải qua thăng trầm
trong hàng trăm năm lịch sử, các vị vua người Chăm đã phải nhiều phen lánh nạn.
Khi rời quê nhà lánh nạn, không muốn tháp bị hoang phế nên phải gửi lại vương
miện, mũ mão, quần áo cho người Raglai, vốn là tộc người sống ở miền núi, trong
các bản làng có đường lên hiểm trở để ai có ý định trộm cướp cũng khó thực hiện
được.
Hàng năm, cứ trước ngày khai hội một hôm, người Raglai lại từ buôn làng
trên núi, rước các di vật xuống làng Chăm. Trước lễ hội chính một ngày, cả hai
dân tộc cùng làm lễ rước y phục về đền thờ trong làng. Lễ thỉnh y phục gồm các
tiết mục đàn hát ca ngợi công đức của các vua, dâng lễ vật và khấn mừng thần
kéo dài đến khuya mới chấm dứt.
Sau lễ hội, di vật lại theo họ về bảo quản, thờ
cúng trong một ngôi nhà riêng. Qua nhiều đời, ngày nay vẫn còn nhiều bảo vật của
các vị vua được gìn giữ như áo, thắt lưng... Để "đến hẹn lại lên",
mùa Tết Katê năm sau, anh em người Chăm - Raglai lại cùng nhau sum họp. Cũng ở
một số nơi, tục lệ này không còn.
Ông Phú Trạm kể lại câu chuyện ở chính ngôi
làng quê hương ông: Làng Chăm Chakleng, xã Mỹ Nghiệp, thị trấn Phước Dân, huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận. Trong làng có
đền thờ một vị tướng tài người Chăm nhưng y phục của vị tướng lại được gửi mãi
tại một làng người Raglai trên đèo Krông Pha (thuộc huyện Ninh Sơn, cách đó khoảng
30km). Hàng trăm năm không sao, đến một mùa Katê gần đây, người Raglai của làng
đó sau lễ hội xin với các già làng được gửi lại y phục cho được ở đền làng Chăm
luôn vì người ở làng Raglai cùng họ với người Chăm đến nay đều đã không còn ở
nhà, không có điều kiện đi lại hàng năm. Mùa katê năm sau đó, lễ hội ở làng quê
ông Phúc Trạm vắng bóng áo xanh của người anh em Raglai.
Lễ Katê - bức tranh
nhiều sắc màu
Từ 5 giờ sáng ngày lễ chính, dân làng Chăm đã bắt đầu làm lễ xin
rước y phục từ đền thờ làng lên tháp Chăm. Trong khi vị cả sư (Pô Dhia) làm lễ
khấn tại đền thờ làng, đoàn rước gồm các thầy trong ban tế lễ, dàn nhạc người
Chăm và người Raglai, các nam thanh niên khiêng kiệu, các thiếu nữ trong đội
múa... đã chờ sẵn trước sân đền thờ làng.
Đúng 7 giờ sáng, sau màn trình diễn của
các thiếu nữ với tiết mục vừa múa quạt vừa đội bình hoa trên đầu mà bình không
hề ngả nghiêng, lễ rước y phục từ làng lên tháp bắt đầu.
Đi đầu đoàn rước là cờ
Tổ quốc và đoàn nhạc công người Raglai, tiếp đến là các thầy trong ban điều
hành. Kiệu đặt y phục của các thần được hộ tống xung quanh bởi các bức trướng,
lọng che nắng, cờ lễ hội và đội thiếu nữ múa quạt.
Đoàn người gồm dân làng và
khách thập phương kéo dài theo sau trên đường làng dẫn lên tháp Chăm trong tiếng
nhạc do đội nhạc lễ vừa đi vừa cử hành. Cờ đỏ sao vàng của cờ Tổ quốc, áo tím nẹp
xanh của người Raglai, áo trắng khăn đỏ của đàn ông người Chăm và muôn vàn sắc
tía của trang phục truyền thống phụ nữ Chăm tạo thành một bức tranh khổng lồ
nhiều màu sắc.
Tại cụm tháp chính của tỉnh Ninh Thuận, qua đoạn đường khoảng 4
km từ thôn Phước Đồng tới khu vực tháp Poklong Garai, đội rước lễ còn phải leo
qua hàng trăm bậc thang dẫn lên chân tháp. Hàng vạn người dân địa phương và
khách du lịch đã đợi sẵn đoàn rước lễ từ dưới chân đồi.
Những nghi thức huyền
bí
Lễ Katê cuốn hút khách thập phương tới tham dự không chỉ để ngắm nhìn bức
tranh sinh hoạt cộng đồng nhiều màu sắc, không chỉ vì những điệu múa huyền ảo của
các vũ nữ hay tiếng kèn saranai, tiếng trống ginăng bập bùng... Katê còn huyền ảo
với những lời khấn nguyện, những nghi thức hành lễ độc đáo và đầy chất huyền
bí.
Trên sân tháp hướng về phía tháp chính, sau phần tặng quà và chúc mừng của
chính quyền địa phương, sẽ là phần trình diễn điệu múa quạt của các thiếu nữ
người Chăm và các nhạc công Raglai trình diễn điệu nhạc dân tộc.
Kết thúc phần
múa hát, lễ cúng xin phép thần Siva cho mở cửa
tháp được cử hành với lễ vật là rượu, trứng, trầu cau và nước thánh (nước pha
trầm). Đọc xong những lời cầu khấn bằng tiếng Chăm, một vị trong ban tế lễ hắt
lọ nước thánh lên phù điêu thần Siva trên vòm cửa tháp, xin phép được mở cửa
tháp để ban tế vào hành lễ.
Theo quan niệm của người Chăm, đền tháp là nơi trú
ngụ của thần linh, vì vậy trong lễ hội lớn nhất trong năm này, phải có nghi thức
tắm cho tượng. Nước thánh được vảy lên mình tượng, trong khi những người xung
quanh nhảy múa, hát và hứng nước rỏ từ tượng thần rớt xuống để bôi lên cơ thể
mình cầu may mắn. Ban tế lễ tiếp tục cử hành buổi lễ với các nghi thức tiếp
theo là mặc y phục cho tượng, đại lễ với nghi thức dâng lễ vật, lễ tạ, lễ ban
ơn.
Trong tất cả các bước hành lễ, đều có đặc trưng là thầy cả sư đọc kinh, thầy
kéo đàn hát các bài hát lần lượt mời các vị thần về chứng giám dự lễ (tổng cộng
có khoảng hơn 30 bài hát trong buổi lễ tương ứng với lời mời hơn 30 vị thần),
bà bóng thì rót rượu, dâng lễ vật lên thần linh.
Trong khi đó, bà con người
Chăm ở phía ngoài tháp cũng bày đồ cúng ra trên bãi cỏ để cúng tế, cầu mong thần
linh ban cho một năm mới mưa thuận gió hòa, ban cho gia đình và người thân được
may mắn, khỏe mạnh...
Tuy nhiên, những nghi thức bên trong tháp như đã nêu trên
chỉ được các giáo sĩ trong ban tế lễ chứng kiến và mô tả lại cho người khác biết,
chứ chưa từng nhà nghiên cứu, hay du khách nào được chiêm ngưỡng.
Vì vậy, chưa
từng có bức ảnh hay cuốn video nào được thực hiện trong các tháp Chàm nơi thờ
các vị vua. "Ngay cả đến tôi là một người Chăm, lại là một người nghiên cứu
văn hóa, nhưng không phải là người có nhiệm vụ nên cũng chưa lần nào trong đời
được chiêm ngưỡng phía bên trong tháp Chàm, dù đã nhiều lần năn nỉ được vào bên
trong", ông Phú Trạm nói. Cũng theo ông Phú Trạm, các giáo sĩ người Chăm
thường "giấu nghề", vì vậy không ít nghi lễ, tập tục kỳ bí của người
Chăm hoặc không được giải thích, hoặc đã dần mai một. Ông nêu ra một ví dụ:
"Không ít trường hợp, các giáo sĩ khi không có người kế tục đã thả trôi
sông hàng trăm cuốn kinh sách quý. Vì theo quan niệm của họ, sách là của thánh
thần, nếu giáo sĩ không dùng nữa thì phải thả trôi sông trả thần linh".
Nhiều thế kỷ trước, sách "Đại Nam nhất thống chí" đã viết: "Tục
Chăm thì hàng năm cứ tháng 10, tức như tháng giêng của Kinh là Tết. Đến kỳ thì
sắm đủ cỗ bàn cúng tiên tổ, hội khách khứa bạn bè".
Nhiều thế kỷ sau, những
phong tục này vẫn được người Chăm giữ vẹn nguyên.
Mai Minh
LỄ HỘI RAMƯWAN
CỦA NGƯỜI CHĂM HỒI GIÁO
Đình Hy
Hằng năm, cứ đến cuối tháng 8, suốt tháng 9
(tháng Ramadan, tính theo lịch Hồi giáo, trong bài viết này thể hiện ngày tháng
theo lịch Hồi giáo), người Chăm Hồi giáo tổ chức lễ hội Ramưwan. Theo các sử liệu,
Hồi giáo du nhập vào người Chăm sau thế kỷ X. Quá trình đó lại gặp tín ngưỡng bản
địa thờ Mẫu (Pô Inư Nưgar) và Bàlamôn giáo trước đó, nên đã có những biến đổi về
lễ nghi cúng kính so với các vùng Hồi giáo khác ở Đông Nam Á, Trung Á, Trung
Đông... và Hồi giáo được người Chăm gọi là đạo Bàni (cũ), còn nguyên mẫu gọi là
đạo Islam (mới). Tìm hiểu sâu lễ này thì đây là tháng nhịn ăn, chay niệm của
các tu sĩ Hồi giáo và là dịp để tín đồ người Chăm Hồi giáo cúng gia tiên để tưởng
nhớ người thân đã mất, đồng thời tổ chức ca múa nhạc dân gian vui hội ở tất cả
các làng Chăm Hồi giáo.
Theo thống kê hiện nay, làng Chăm Hồi giáo, tại tỉnh
Ninh Thuận có 08 làng. Tại tỉnh Bình Thuận có 07 làng. Ngoài ra còn ở vùng Châu
Đốc, Châu Giang (tỉnh An Giang) và tại quận Phú Nhuận thành phố Hồ Chí Minh.
Nhìn chung ở các làng Chăm, lễ hội Ramưwan diễn ra trình tự như sau:
1. Tảo mộ:
Vào những ngày cuối cùng của tháng 8, tín đồ Chăm mặc trang phục truyền thống
mang theo lễ vật, trẻ em xách nước đi đến các nghĩa địa (ghurrăk) để tảo mộ và
cúng. Những tu sĩ Hồi giáo chủ lễ, cầu kinh Coran bằng tiếng Ả Rập, vị phụ tế vẩy
nước thánh lên từng viên đá (bia mộ). Mỗi dòng họ có một nghĩa địa riêng, tất cả
thành viên trong dòng họ đều kính cẩn cúng bái, cầu khấn mời tổ tiên về hưởng
mùa Ramưwan với con cháu. Kết thúc phần cúng, ở mỗi ngôi mộ đều để dưới đá bia
một miếng trầu. Người Chăm Hồi giáo có tập quán khi chết, chôn đầu quay về hướng
Bắc, nghiêng mặt về hướng Tây. Trên ngôi mộ có 2 viên đá. Lễ tảo mộ và cúng
kính được xem như là sự hành hương của người Chăm về với tổ tiên, ông bà. 2.
Cúng gia tiên: Sau phần tảo mộ và cúng mời, họ về nhà, gia chủ chuẩn bị một chỗ
trang trọng trên giường hoặc phảng, trải chiếu mới bày trầu cau, trà, hoa quả
(chỗ này chính là nơi tổ tiên về ngự). Khi lễ vật và người phục vụ đã chuẩn bị
xong, vị chủ lễ là thầy Achar (1 chức sắc Hồi giáo), hoặc người thông hiểu, thuộc
Kinh thánh làm lễ tẩy trần. Mọi người chỉnh tể trang phục. Vị chủ lễ khấn nguyện
và vẽ bùa, toàn gia đình bắt đầu cúng. Lễ vật cúng thường có 2 loại được chưng
lên các mâm có chân cao đó là: mâm lễ ngọt gồm: bánh trái, chè và mâm lễ mặn có
cơm, canh, cá, thịt dê, gà, và trầu cau, trầm hương (tín đồ Hồi giáo kiêng ăn
thịt con heo, con dông, kiêng uống rượu).
Tuần tự, lễ vật được dâng nhiều đợt, mỗi đợt 2 mâm thức ngọt và thức mặn và gia
chủ khấn mời tên 1 vị thần, vị tổ tiên và cầu phù hộ cho toàn gia tộc, toàn
làng xóm, tín đồ.
Trong những ngày này, về phần hội, tùy theo khả năng các làng
để có tổ chức văn nghệ dân gian, thi dệt vải, đội nước, thi cày bằng bò, các
trò chơi thể thao... tạo ra không khí vui nhộn để bước vào tháng chay tịnh. Đây
là dịp thu hút đông đúc mọi người, mọi dân tộc khác đến chung vui, có năm mỗi
làng thu hút hàng ngàn người đi lễ hội.
3. Lễ chay niệm: Cuối ngày 30 tháng 8,
các chức sắc Hồi giáo vào hẳn trong Thánh Đường ôn luyện kinh Coran và chay tịnh.
Lúc này đông đảo tín đồ đội mâm lễ vật đến Thánh Đường để dự khai lễ Ramưwan. Kể
từ đây, các chức sắc ở, sinh hoạt trong Thánh Đường 1 tháng. Mỗi ngày đêm họ cầu
kinh 5 lần với những quy tắc chặt chẽ. Trong vòng 1 tháng này, có 4 ngày thứ 6
làm lễ cầu kinh, giảng kinh và 4 đêm thứ 5 vừa cầu kinh vừa cầu nguyện tổ tiên
bằng những bài riêng.
Tục lệ trong tháng chay tịnh Ramưwan là: 15 ngày đầu tín
đồ trong làng hoàn toàn không được phép sát sinh, các gia đình không được cúng
kính (theo quan niệm tổ tiên cũng đang chay tịnh). Chỉ đến ngày thứ 15, sau khi
làm lễ Muk trũn, tín đồ mới được phép sát sinh và cúng tổ tiên ở trong làng. Đến
ngày thứ 20, người ta làm lễ Ôn trũn, lễ vật và hình thức cúng như các lễ khác,
song sau lễ này, tín đồ bên ngoài dâng gạo vào Thánh Đường với ý nghĩa hành
hương đến Thánh địa La Meca, bố thí người nghèo...
Đến đêm thứ 30, thân nhân
các chức sắc Hồi giáo đem phần gạo được chia từ Thánh Đường về nấu cơm để rạng
sáng hôm sau dâng lên Thánh Đường, phần còn lại mời tất cả mọi người trong làng
cùng đến ăn. Thực phẩm có trứng, muối mè...
Sáng ngày thứ 31 này, tại Thánh Đường,
toàn thể chức sắc, tu sĩ và tín đồ trong cả làng làm lễ kết thúc tháng Ramưwan,
họ đọc kinh cầu an lành cho muôn người. Sau đó mọi người về lại gia đình mình mở
đầu cho một năm mới sau tháng chay tịnh Ramưwan.
Lễ hội Ramưwan của cộng đồng
người Chăm Hồi giáo, cũng như lễ hội Katê của người Chăm Bàlamôn có ý nghĩa văn
hoá truyền thống cũng như giá trị tâm linh, tình cảm, đoàn kết cộng đồng, dân tộc,
tương tự ngày tết Nguyên Đán của người Kinh, nên có nhiều người gọi là tết.
Nhân dịp này, mọi người đều phấn khởi, cùng nhau cầu nguyện cho mọi người bình
yên, xóm làng thanh tịnh, ai cũng lấy tình thương yêu để đối xử với nhau, chia
sẻ khó khăn lẫn nhau theo truyền thống bao đời truyền lại.
PHONG TỤC THẢ DIỀU CỦA ĐỒNG BÀO CHĂM
Hàng năm, vào thứ
bảy của tháng 11 (lịch Chăm), một dòng tộc "Yang In" ở Ninh Thuần mặc
bộ đồ truyền thống dân tộc tập trung đến một bãi đất rộng đầu làng - nơi vừa dựng
sẵn một cái rạp vuông nhỏ để thực hiện nghi lễ thả diều. Lễ tục này đồng bào
Chăm gọi là Papăn kalang Pô Yang In để phù hộ cho con cháu khỏe mạnh, hạnh
phúc, mùa màng bội thu.
Cánh diều được thiết kế theo giới tính diều đực và diều
cái. Diều đực hình thoi, có hai túi tròn, tượng trưng cho bộ phận sinh dục nam.
Khung thân dài 1,5 mét, cánh dài 0,6 mét, rộng 1,4 mét, được làm bằng tre và buộc
dây mây. Mặt trước cánh dán giấy đỏ, mặt sau dán tờ giấy ghi ngày con cháu thực
hành nghi lễ và sử lược về Ngài Pô Yang In do ông Kadhar thảo bằng chữ Chăm. Diều
đực được gắn sáo hai tầng và ba cái đuôi dài chừng 5 mét bằng lá buông to bản.
Dây buộc diều là dây màu (dây rừng) được tết vận thừng, dài từ 50-100 mét, cuộn
trong khung gỗ hình chữ H. Diều cái chỉ lớn bằng 1/3 diều đực, không có túi,
không dán giấy viết sự tích Poo Yang, sáo diều một tầng.
Ông Kadhar dâng lễ vật
gồm có: chuối, trứng, trầu cau, rượu, thịt dê hay chè xôi... và làm phép mời
Ngài Pô Yang In về chứng giám cho lòng thành của con cháu. Lễ vật này tượng
trưng cho sự thịnh vượng phát đạt của con cháu trong một năm làm ăn.
Trong
không khí đượm mùi trầm hương từ chiếc lư đồng tỏa ra, bà Pajâu nâng cánh diều
từ trong rạp đi ra rồi thả dây. Chiếc diều đã được gắn ống sáo nên khi lên cao,
gặp gió mạnh phát ra âm thanh vi vu. Đồng bào cho rằng diều lượn càng uyển chuyển,
tiếng sáo càng thanh chứng tỏ sự hưởng ứng của các bậc thần linh càng nhiều. Ở
dưới đất, Kadha vừa kéo đàn kanhi vừa hát bài ca về Pô Patao Yang In và Chay
Tathun... Con cháu dòng tộc Yang In thả diều từ sáng đến tối mịt mới thu diều về,
bóc giấy, cắt khung để sang năm mang ra dán giấy tiếp tục thả.
Theo quan niệm của
đồng bào Chăm, cánh diều sẽ là sợi dây liên lạc hai thế giới âm, dương để báo
cáo tình hình làm ăn cũng như sức khỏe của con cháu cho tổ tiên biết, đồng thời
cầu xin tổ tiên ban phúc lành năm tới. Cánh diều quê vừa mang giá trị văn hóa
dân tộc, vừa gợi nét thanh bình hiện vẫn được đồng bào Chăm bảo lưu.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét