Nhà văn Nguyễn Việt Hà:
Mỗi cuốn tiểu thuyết là một đoạn đời
Cuối thế kỷ trước, khi Cơ hội của Chúa được công bố, lập tức tên tuổi Nguyễn Việt Hà được đóng đinh vào hàng ngũ không nhiều những nhà cách tân tiểu thuyết. Và từ đó đến nay, mỗi lần tác giả này xuất hiện là một lần ấn tượng. 20 năm 10 đầu sách, gồm 2 tập truyện ngắn, 4 tập tản văn và 4 tiểu thuyết. Thị dân tiểu thuyết vừa ra mắt bạn đọc là thế giới nghệ thuật với mê lộ cấu trúc chằng chịt liên văn bản đông tây kim cổ, sắc lẻm hào sảng tiếng cười trào giễu bông phèng, lịch lãm duyên dáng ý giọng lấp lửng tưng tửng, tiểu thuyết tản văn tiểu luận tích hợp bất phân. Vẫn là một Nguyễn Việt Hà như vốn là…+ Tôi là người đặt tên sách rất kém. Hầu như tên các tập tạp
văn của tôi là do người khác đặt, tất nhiên họ chọn tên một bài của chính tôi ở
trong tập. Cuốn đầu tiên tôi đặt là “Lối rẽ của văn”, anh đầu nậu góp ý đổi
thành Nhà văn thì chơi với ai để dễ bán. Cuốn Con giai phố cổ lúc đầu
tôi đặt là “Ma nữ ngây thơ”, vì tôi vốn thích truyện chưởng; chị biên tập nói
cuốn này rất Hà Nội, nên đổi thành… và tôi OK ngay. Tính tôi dễ mà. Nhưng đấy
là tạp văn, còn tiểu thuyết lại là chuyện khác. Có những người đặt tên cho tiểu
thuyết hay vô cùng, như Nguyễn Bình Phương chẳng hạn. Cơ hội của Chúa thì
khi viết xong tôi mới loay hoay tìm được tên. Khải huyền muộn thì tên đặt ngay
lúc bắt đầu. Còn Ba ngôi của người thì tên đặt lúc đang viết dở. Chủ
đề của “bộ ba” này khá giống nhau, đó là đô thị rồi tuổi trẻ, đương nhiên có những
băn khoăn tôn giáo và hơi nặng về độc thoại.Thị dân tiểu thuyết khác hơn rất nhiều, cách kể của nó
thiên về đối thoại. “Thị dân” là khái niệm không mới, nhưng khá nhiều người hiểu
nhầm về nó. Đa phần hiểu theo cái nghĩa “tiểu thị dân”.- Tôi cứ không thôi thắc mắc, rằng tại sao đô thị mọc lên dọc
dài dải đất hình chữ S này đã hơn một thế kỷ nay, vậy mà văn học Việt Nam cơ bản
vẫn cứ mãi là văn học về thôn dân…+ Hình như trong một bài phê bình văn học thời 1930-1945, ông
Hoài Thanh nói: “Trong mỗi người An Nam đều có một người nhà quê”. Lịch sử đô
thị ở ta, phần lớn hình thành trên nền văn hóa làng. Trong quá trình phát triển,
đô thị “nuốt” dần dần những làng ven đô vào nó. Đấy là chưa kể dân từ các vùng
nông thôn khác vì mưu sinh mà tràn tới. Cho dù dan díu một thời gian dài với đô
thị, nhưng sâu xa ở những cư dân vẫn giữ một tinh thần làng xã. Đương nhiên khi
ăn như thế yêu như thế thì họ sẽ viết như thế. Bây giờ làng Láng đã thành đường
Láng. Làng Hòa Mục đã thành trung tâm khu Trung Hòa - Nhân Chính sặc sỡ xanh đỏ,
một khu ăn chơi sành điệu lừng danh kinh kì. Làng Phú Thượng lô nhô cao ốc dở
ta dở Tây với cái tên Ciputra đầy ắp những cư dân mới tinh người ngoại tỉnh dư
tiền mua biệt thự. Và hình như họ đều biết rằng, dưới cái nền nhà sang chảnh
lát gỗ pơ mu mà mình đang ở, chính là nền ruộng của ngôi làng đầy tự hào về trồng
đào tết.Đó là lý do khi nói về Hà Nội người ta hay dùng chữ “lắng đọng”.
“Đọng” là phần kết tủa trì trệ, còn “lắng” là phần tinh hoa kết tinh. Hà Nội đẹp
nhất là ở phần này. Không phải ngẫu nhiên mà bất cứ ai có mong manh đôi chút chất
“nghệ”, bất kể gốc gác thập phương tứ xứ, đã ở Hà Nội một đoạn thì chợt nhiên
thăng hoa thành nghệ sĩ. Có lẽ vì Hà Nội vốn tự thân là một thành phố dày dặn
văn hóa và nghệ thuật.- Đến hôm nay, theo quan sát của tôi, thảng hoặc ở đâu đó có
tác phẩm viết về đô thị thì thường khi vẫn là từ điểm nhìn của thôn dân ngụ cư
trông vời cố xứ, với cái nhìn nhị nguyên và cách kiểu diễn ngôn có từ thời Vũ
Trọng Phụng: nông thôn thì thuần khiết nguyên bản, đô thị thì phồn tạp tha hóa.
Ông có thấy như vậy không?+ Điều này cũng không hẳn đúng, bởi thành phố lớn như Hồ Chí
Minh hay Hà Nội mà giờ đây người ta quen sống, đã có lịch sử trên cả trăm năm.
Nó có hẳn hoi một lớp thị dân của riêng nó. Đương nhiên, cũng phải có những tác
phẩm văn học của riêng thị dân. Những cuốn tiểu thuyết hay về đô thị không hề
hiếm. Sài Gòn trước bảy nhăm có những tác giả rất oách chuyên trị đề tài này.
Nhưng bởi nhiều lý do, họ bị lãng quên một cách rất đáng tiếc. Còn chỉ cần theo
cái nhìn lịch sử văn học trong nhà trường, ta cũng dễ dàng có thể kể, Số đỏ của
Vũ Trọng Phụng này, Bỉ vỏ của Nguyên Hồng này, hay Sống mãi với
thủ đô của Nguyễn Huy Tưởng này. Tất nhiên, vì đang thời manh nha hình
thành, nên chúng phảng phất mùi “nhị nguyên” như bạn nói.Theo logic của vấn đề, muốn có tiểu thuyết về Hà Nội chẳng hạn
thì phải có “người Hà Nội” đã. Trong một bài viết về Hà Nội tôi có lý giải:
“Khái niệm người Hà Nội thì đương nhiên khác khái niệm người ở
Hà Nội, cho dù theo năm tháng những người ở Hà Nội, phần nào đấy, rất dễ thành
người Hà Nội. Những người Hà Nội gốc gác xa xưa tuy đã thấp thoáng ẩn hiện ở Thượng
kinh kí sự của thần y Lê Hữu Trác, ở Vũ trung tùy bút của
lãng tử Phạm Đình Hổ, thế nhưng phải đến thượng bán thế kỷ XX họ mới thực sự có
một chân diện đậm nét. Họ là những người thấm đẫm cốt cách phương Đông nhưng
ung dung phóng khoáng khi tiếp nhận văn hóa phương Tây. Ở thời đoạn sơ khai ra
một Hà Nội hiện đại này, không thể không nhắc đến vai trò của người Pháp. Tất
nhiên, ngoài phần lớn những tên thực dân tham lam hung hăng, nước Pháp còn đem
theo vào những đứa con tử tế nhất làm quà tặng riêng cho Hà Nội. Đó là những
trí thức văn nghệ sĩ đích thực, chân thành đem tinh hoa văn hóa phương Tây tới
Thăng Long-Kẻ Chợ. Không phải ngẫu nhiên mà ở hôm nay, Hà Nội vẫn trân trọng có
con phố với vườn hoa tuyệt đẹp mang tên Yec Xanh. Có thể nói không ngoa, thế hệ
vàng thi văn tiền chiến với những Thế Lữ, Xuân Diệu, Thạch Lam… là hệ quả thành
tựu từ sự tiếp biến văn minh tích cực ấy. Và không chỉ văn hóa, kinh tế ở Hà Nội
cũng có những đổi thay nhất định. Một giai tầng trung lưu tương đối dư dật đã
xuất hiện, nó tạo tiền đề manh nha khởi sinh một lớp thượng lưu có chữ thuần Việt
vẫn được quen gọi là tư sản dân tộc. Ở sâu xa nội lực tâm hồn của tất cả lớp thị
dân hiện đại ban sơ này, đã hình thành nên các phẩm tính mà bây giờ chúng ta vẫn
coi là Hà Nội. Đó là sự tinh tế tài hoa cầu kì kiêu bạc, là sự thẩm thực
thẩm âm thẩm văn thượng thặng, nhưng cực kì tự nhiên nhi nhiên. Đã là người Hà
Nội thì không bao giờ phải cố. Họ vô tư trong sáng ái quốc, nồng nàn hồn nhiên
ngay cả khi phải khắc nghiệt lao động và chiến đấu. Có thể thấy rất rõ những phẩm
chất đó trong thế hệ chiến binh đầu tiên của Trung đoàn Thủ Đô khét tiếng mà
nòng cốt là những học sinh tiểu tư sản, những người buôn bán nhỏ hay những công
chức trẻ. Thật dễ hiểu khi ngã xuống thành liệt sĩ, hình tượng của họ luôn
thăng hoa cảm động trong văn trong nhạc trong họa của lớp thị dân kế tiếp”.Những nhân vật có chữ trong Thị dân tiểu thuyết cũng
nằm trong mạch chảy thơm và sạch này. Đây là nguồn sinh lực
chính để giữ cho chất Hà Nội bớt phôi pha. Đương nhiên đặc sản của Hà Nội thì
phải có cả “kẻ cắp chợ Đồng Xuân” hay “phe phẩy chợ Giời”, đại loại như nhận định
mà bạn vừa dẫn, “đô thị phồn tạp tha hóa”. Tôi đã tự bỏ đi một chương dài viết
về những kiểu sống của vỉa hè để tập trung vào những người mang vẻ trí thức.
Nhưng đã là văn hóa của Kẻ Chợ thì rất khó tránh được sự ồn tạp. Đấy là lí do
hai nhân vật chính của tôi trong cuốn tiểu thuyết mới này lại là “thằng Tĩnh” rồi
“ông Lâm”. Thị dân đương đại mang đậm nét dở ông dở thằng.- Xưa nay người ta thường mặc định, rằng nhà văn thì phải xê
dịch, để có thể thu vào tầm mắt đặt lên lòng tay rộng dài thế giới sâu thẳm
nhân quần… Nhưng ông lại có vẻ như chẳng cần đi đâu ra ngoài bán kính vài
kilômét từ phố Nhà Chung của Hà Nội; chỉ cần nhẩn nha dốc cái vốn liếng Hà Nội,
cái vốn liếng sách vở cổ kim đông tây cùng cái khiếu kể chuyện của mình lên
trang sách là đủ để làm nên độc đáo đặc sắc văn hiệu Nguyễn Việt Hà…+ Có một sáo ngôn thỉnh thoảng lại hay được nhiều người viết
nhắc, có lẽ do nó đúng một cách trung bình. Đại loại, một nhà văn thì nên dành
một phần ba cuộc đời cho xê dịch, một phần ba thì cho việc đọc, phần còn lại
thì ngồi viết. Tôi hồi trẻ cũng hay đi lang thang, nhưng chưa bao giờ sống xa
Hà Nội quá ba tháng. Và đúng là khoảng hai chục năm lại đây, sau khi viết
xong Cơ hội của Chúa, thì hầu như chẳng đi đâu nữa. Cũng có nhiều lý do,
đôi khi chỉ giản dị đời thường thôi, ví như bố mẹ thì già, con cái thì nhỏ.
Đến cuốn tiểu thuyết mới nhất này, Nguyễn Việt Hà mới chính thức đưa nhân vật mà mình sử dụng để kể câu chuyện về Hà Nội lên nhan đề: thị dân. Một nhan đề ngả hẳn sang màu sắc thế tục, nếu đặt bên cạnh ba tiểu thuyết trước đó của ông vốn mang âm hưởng tôn giáo và tham vọng khái quát tấn kịch của nhân sinh. Nhưng thực ra văn chương của Nguyễn Việt Hà vốn dĩ vẫn luôn là câu chuyện về/ của lớp thị dân Hà Nội. Những phát hiện của ông về diện mạo của con người thị dân Hà Nội đương đại, với cá nhân tôi, có sức gợi mở cho những suy tư nhân học về bản sắc của thành phố này. Tiến sĩ TRẦN NGỌC HIẾU |
Trường hợp nhà văn ít đi thì ở lịch sử văn chương cũng không
hề hiếm, dễ thấy nhất là William Faulkner. Ông này sau khi viết xong Âm
thanh và cuồng nộ thì hầu như chỉ loanh quanh ở nhà. Lúc đó mới khoảng ba
mươi. Và tất nhiên sau kiệt tác ấy, ông còn viết thêm gần chục cái kinh hoàng nữa.
Rồi ngay như trường hợp Vũ Trọng Phụng mà bạn đã nhắc chẳng hạn. Ông Vũ mất rất
trẻ, hiển nhiên không có thời gian cho những chuyến đi theo cái kiểu mà bây giờ
người ta hay khuyên những nhà văn trẻ, phải “thâm nhập thực tế”. Tôi kể ra chuyện
hai vị đại sư này chẳng hàm ý gì, chỉ cốt nói một điều, vốn liếng ở nhà văn là
một thứ vừa buồn cười vừa khó hiểu. Sinh lực để nuôi dưỡng nó chính là trữ lượng
cảm xúc. Bởi tiểu thuyết nói cho cùng vẫn là câu chuyện của vui buồn. Nó không
phải là một tác phẩm triết học và càng không phải là một cuốn về đạo đức học.
Có lẽ nó được hình thành từ một nỗi đau sâu kín nào đó.
- Cuối thế kỷ trước, khi Cơ hội của Chúa được công
bố, lập tức tên tuổi ông được đóng đinh vào hàng ngũ không nhiều những nhà cách
tân tiểu thuyết ấn tượng. Ông chủ ý nỗ lực cách tân lạ hóa thể loại tiểu thuyết
thật không, hay đơn giản chỉ là tự nhiên hồn nhiên viết ra như thế? Hỏi thế là
vì tôi cứ nghĩ, rằng nhà văn nếu tự tin đi tận cùng cái tôi đầy tràn của mình
thì sẽ tự khắc trừu xuất được vân chữ mùi chữ độc sáng.
+ Tôi hiểu ý bạn “hồn nhiên viết” tức là thả lỏng ngòi bút.
Nhưng, đúng như bạn nói, một người cầm bút trước khi dám viết một cuốn tiểu
thuyết tử tế một cách “hồn nhiên” thì anh ta phải “đi tận cùng cái tôi đầy tràn
của mình”. Viết một cuốn sách dài chừng hơn ba trăm trang, chưa bàn chuyện hay
dở chuyện chăm chỉ lao động, thì ngoài việc từng trải luôn đòi hỏi một sự chín
chắn, đặc biệt về tư duy. Khi sống đến một thời đoạn nào đó tự cho là đầy đủ,
người ta mới can đảm viết. Hơn nữa, viết tiểu thuyết không phải là một công việc.
Đi buôn, đọc sách, viết lý luận phê bình là công việc. Còn làm thơ hay viết tiểu
thuyết là vì người ta sống. Cuốn tiểu thuyết đấy chính là một đoạn đời. Nếu cuốn
tiểu thuyết ban đầu là khỏe mạnh, thì cuốn tiểu thuyết sau có thể sẽ suy đồi hoặc
yếu ớt. Hoặc ngược lại. Chẳng có gì cố ý ở đây cả, bởi đời sống con người vốn vậy.
Còn chuyện cách tân cũng chỉ là cách nói. Bởi ở những người viết trẻ, thì “tân”
đã chính là họ, thế thì cần gì phải “cách”. Khổng Tử bảo “nhật tân, nhật tân, hựu
nhật tân” cơ mà. Sống như thế nào thì sẽ hoặc viết hoặc vẽ hoặc làm nhạc như thế.
Chỉ có người cổ hủ đã già mới thích cách tân. Mà đã “hủ” đã “lão” thì đâu cần đợi
tuổi. Tôi tự dịch chữ “hủ” là thiu. “Thiu” nguy hiểm hơn “ôi” vì nó không bị
mùi, trông giống như là ăn được. Thậm chí được phi hành phi mỡ còn khét lẹt
thơm. Bất hủ là tươi mới là không thiu.
Người ta kể rằng M.Proust khi viết kiệt tác Đi tìm thời
gian đã mất thì bán hơn nửa gia tài được thừa kế, cốt để sống giống hệt
như những quý tộc Pháp cuối mùa. Nhàn tản, bải hoải tinh tế, bơ phờ sang trọng,
ông coi đấy là một tâm trạng để đón một ngày mới (nhật tân). Có thể ông cho rằng,
phải ăn như thế ngủ như thế thì may ra sẽ nghĩ được như thế. Ý thức cách tân
tích cực nhất là đừng để mình thiu.
- Đọc cuốn tiểu thuyết thứ tư mà ông vừa công bố, gặp lại một
Nguyễn Việt Hà như vốn là; vẫn câu chuyện của con phố ấy thành phố ấy, vẫn mê lộ
cấu trúc chằng chịt liên văn bản, vẫn tiếng cười trào giễu bông phèng, vẫn ý giọng
lấp lửng tưng tửng, vẫn tiểu thuyết tản văn tiểu luận tích hợp bất phân… Ông có
tiên liệu, rằng việc tiền hậu như nhất này của mình sẽ làm rơi rụng khách văn
ít nhiều?
+ Tử vi của tôi “Thân Mệnh đồng cung” cư ở Dần, có nghĩa là
“tiền hậu như nhất” như bạn nói. Tôi thích một ngoa ngôn không nhớ nguyên văn của
Milan Kundera, nôm na là, một cuốn tiểu thuyết mà tự lặp lại, không bàn chuyện
lặp lại người khác, chỉ cần lặp lại mình thôi cũng là một cuốn vô đạo đức. Tôi
chưa bao giờ làm ra mắt sách, trừ cái lần tới Paris khi Cơ hội của Chúa được
dịch. Còn cuốn mới của tôi, nhà xuất bản bảo bán có vẻ ổn. Ơn giời, thường một
nhà văn nào đó đã định danh đều luôn có một lượng độc giả trung thành nhất định
của riêng mình.
- Trong Thị dân tiểu thuyết, ông có viết đại ý, rằng mục
đích tối thượng của sự đối thoại giữa nhà văn và những độc giả cao cấp là đạt tới
một sự hiểu nhau trong thinh lặng, rằng Nabokov viết Lolita là cho “một
số ít bọn phi thường nhà văn”. Vâng, tính đại chúng nên được xem là trở lực
trên hành trình tiến hóa của văn học, không nên được xem là thước đo của văn học,
thưa ông?
+ Chuyện tác phẩm có tính đại chúng ăn khách hay tính nghệ
thuật vắng khách thì đã được bàn rất nhiều. Ở đây chúng ta nên đặt nó vào một
khoảng không-thời gian mang tính đặc thù. Đức Phật quảng đại từ bi như thế mà
cũng phải “tùy cơ thuyết pháp”. Bởi muốn nói gì thì nói, độc giả vẫn chia thành
thượng, trung, hạ. Gặp giai nhân thì nên tặng mĩ phẩm hay sách ngôn tình, gặp
văn nhân thì nên tặng rượu quý. Tất nhiên cũng có quý bà quý cô uống rượu thành
thần nhưng số đó đâu có đông.
Tôi có dự buổi ra mắt Lolita dịch ra tiếng Việt, và
cực ngạc nhiên khi ông dẫn chương trình khẳng định rằng nó sẽ gây một cơn sốt
cho người đọc Việt Nam. Nabokov có kể là ông lấy cốt truyện trên một tờ báo lá
cải kiểu như cướp giết hiếp. Nhưng cũng nên nhớ rằng Humbert, nhân vật chính của Lolita,
là một giáo sư văn chương có viết văn. Nhà văn thì không phải là cái gì quá
siêu đẳng khó hiểu, nhưng chắc chắn nó là số ít, vừa phức tạp vừa là giống
không bình thường. Đã thế nó lại độc thoại bằng giọng đặc sệt của nghề. “Nhất
kiêng đừng lấy chồng thi sĩ”, Nguyễn Bính ở ta cũng nghẹn ngào dặn vậy. Tôi
chưa từng thấy một ông nhà văn tử tế nào lại sở hữu một gia đình hớn hở. Đã thật
là nhà văn thì thời nào cũng chẳng nhiều. Có phải vậy chăng mà “tính đại chúng
sẽ thành trở lực trên hành trình tiến hóa của văn học” như bạn nói. Văn chương
rất giống hội họa, bởi sự đối thoại với im lặng. Nó có phải là điện thoại di động
đâu mà cần phủ sóng toàn quốc. Chính vì thế mà có những cuốn sách rất hay,
nhưng vì không có duyên nên chúng ta không được đọc. Văn chương cũng rất giống
tôn giáo, nó hoàn toàn là nhu cầu tự thân. Mẹ tôi lúc sinh thời, đều đặn ngày
nào cũng đi lễ hai lần, sáng sớm và chiều muộn. Bà bảo đấy là việc riêng của bà
với Chúa, nó chẳng dính dáng gì tới cái chuyện rằng mình sẽ được tiếng là người
ngoan đạo. Tôi cũng tin rằng tiểu thuyết là câu chuyện của riêng từng người,
khái niệm “nền tiểu thuyết” là khái niệm hài hước.
- Quan sát văn học Việt Nam những năm gần đây, tôi ấn tượng với
sự xuất hiện tự tin tự chủ của một lớp tác giả trẻ đọc nhiều hiểu rộng, đa
năng, hăm hở với cái mới cái khác cái khó, ý thức sâu sắc cao độ về nghề nghiệp.
Ông có theo dõi họ không, có lạc quan về tương lai văn học nước nhà không?
+ Vì mưu sinh nên tôi cũng phải hay viết báo. Đó là lý do tôi
giữ mục tạp văn cho vài tờ nguyệt san. Khoe một tí, nhân ngày báo chí 21/6 vừa
rồi, tôi cùng một nhóm tác giả của tờ Nhân dân hàng tháng được giải A
báo chí toàn quốc. Và khi một thằng nhà văn đi viết báo thì ngoài chuyện linh
tinh như kinh tế rồi thời sự thì biết viết gì nếu không bàn về nghề. Đương
nhiên tôi “có theo dõi một lớp tác giả trẻ đọc nhiều hiểu rộng”. Tôi ấn tượng với Ngựa
thép của Phan Hồn Nhiên, thích Xuyên Mĩ của Phan Việt nhưng rất
không thích Tiếng người cũng của tác giả này. Còn những tác giả trong
hệ “Văn nghệ quân đội” thì lần lượt theo thời gian đọc là Nguyễn Đình Tú, Nguyễn
Xuân Thủy, Đỗ Bích Thúy, Uông Triều và cuốn mới đọc gần đây nhất là Con
chim joong bay từ A đến Z của Đỗ Tiến Thụy. Có điều, những nhà văn này là
7x, hình như không còn “trẻ” nữa. Nhà xuất bản Trẻ vừa tặng tôi một bộ sách của
các tác giả trẻ có Đinh Phương mà trước đấy tôi đã đọc Nhụy khúc nhưng
không thích bằng Chuyến tàu nhật thực, rồi Nhật Phi với Người ngủ
thuê mà tôi có gặp “ọp lai” ở cà phê Hàng Hành.
Ở đây chúng ta đang bàn về văn xuôi viết dài nên tôi cũng muốn
nhắc một câu không rõ nguyên văn của Lev Tolstoy, một chuyên gia đầu ngành về
tiểu thuyết, đại ý là ông không tin những người viết tiểu thuyết dưới ba mươi
tuổi, lại càng không tin những người đã trên bảy mươi tuổi. Hình như ông có nhấn
mạnh rằng, tuổi vàng của tiểu thuyết gia là từ băm nhăm đến năm nhăm. Nếu theo
cái “ba rem” ấy thì tôi đã là thứ quá “đát”.
- Ở một hướng quan sát khác, tôi thấy văn học Việt Nam có vẻ
như đang là thời của tiểu thuyết, tức là “văn xuôi viết dài” như ông vừa nói,
khi mà nhiều tác giả thành danh ở thể loại truyện ngắn chuyển hẳn sang viết tiểu
thuyết, nhiều tác giả trẻ trình làng tác phẩm đầu tay là tiểu thuyết, có tác giả
thành danh ở thể loại thơ một ngày đẹp trời cũng ra mắt tiểu thuyết… Cứ tưởng
con người của thời đại chỉ vừa khuôn với những cái viết ngắn đọc nhanh, nhưng
thì ra hình như không phải. Ông kiến giải như thế nào về nghịch lý thú vị này?
+ Giáo lý của các tôn giáo lớn, đặc biệt là Phật giáo, nói rất
hay về hai trạng thái “thô” và “tinh”. Có cái đúng và cái đẹp nhưng rất “thô”,
vì thế nó không bao giờ đạt tới cảnh giới của “tinh”. Những người đã sâu sắc
tinh tế thì rất khó thỏa mãn được với những gì “viết ngắn đọc nhanh”. Những người
đã thực sự yêu văn thì đa phần đều là “yêu tinh”. Đại để là sâu cay dày vỏ. Thể
loại tiểu thuyết đáp ứng được điều đó. Viết tiểu thuyết với những người đã sáng
tác văn, luôn có một nỗi niềm cuốn hút ma mị, từa tựa như sự quyến rũ của chất
liệu sơn dầu đối với đám họa sĩ. Nó giống hệt như những người mê nhạc không lời
thì thường kính trọng cây dương cầm. Ai cũng biết, thể loại của văn chất liệu của
vẽ hay dụng cụ âm nhạc thì tất thảy đều là phương tiện. Có điều, không phải loại
nào cũng dễ dàng dung chứa được bằng hết mọi sắc thái tình cảm. Mà bản chất của
nghệ thuật là tình. Một bậc thầy chơi đàn tính tẩu thì vẫn có thể là bậc thầy,
nhưng nếu là một bậc thầy chơi đàn piano thì đấy là thần tiên. Đó là chưa kể với
những người có đôi chút thành danh trong nghề văn, thì viết tiểu thuyết vừa là
thử thách nghệ thuật cho chính mình vừa là khẳng định “trình” nghề của mình. Ai
cũng thích rằng mình đã lớn đã trưởng thành. Nhất là nghệ sĩ, hầu như chẳng ai
lại chịu về nhì cả.
- Là người có tiểu thuyết được chọn dịch in ở nước ngoài, ông
có thể chia sẻ một vài suy tư của mình, về khoảng cách hiện tại giữa tiểu thuyết
Việt Nam và tiểu thuyết thế giới, về công việc quảng bá tiếp thị tiểu thuyết Việt
Nam ra thế giới…
+ Về chuyện tiểu thuyết Việt Nam đang ở đâu thì thật chân
thành, tôi chưa bao giờ nghĩ tới. Và nếu có khoảng cách nghệ thuật nào đó giữa
nó với thế giới, mà chắc chắn là có, thì đấy là chuyện của giời chứ không phải
chuyện của người. Tài năng mà Thượng đế ban cho mỗi dân tộc, đặc biệt ở văn
chương, bao giờ cũng là một dự án tuyệt mật. Còn câu chuyện về công việc quảng
bá tiếp thị cho nó, thì sau khi đi Pháp về nhân vụ Cơ hội của Chúa được
dịch, tôi cũng được nhiều người hỏi. Tôi cũng có trả lời và thật tình không nhớ
rõ là mình đã từng nói linh tinh điều gì. Tất nhiên phải cố tránh nói những điều
làm mếch lòng những người quản lý văn học ở ta. Bởi với tôi, cái slogan “Văn học
Việt giong buồm ra thế giới” mãi chỉ là thứ khát khao của ai đấy. Quá nhiều hội
thảo của nhà nước lẫn tư nhân diễn ra dưới khẩu hiệu này, và giờ đây đều vô tăm
tích.
Nhắc đến vai trò của tư nhân, tôi xin kể một chuyện của riêng
tôi, vì chúng ta đang sống trong phong trào xã hội hóa mọi ngành nghệ thuật.
Trước hôm sang Paris, có một hãng đồ uống cho đến giờ vẫn nổi tiếng tìm đến tôi
với nhã ý tài trợ. Mừng, vì các đại gia ở ta cho đến hôm nay vẫn chỉ tài trợ
cho showbiz hay bóng đá. Điều kiện thì cũng đơn giản thôi, logo của hãng đấy sẽ
in ở bìa bốn của cuốn sách. Thank you very much. Và tôi gọi sang nhà xuất bản
thì cũng được OK. Sau một hồi bàn tính, nhà tài trợ đồng ý tài trợ cho tôi. Tôi
ra mắt sách ở một nhà sách gần Notre-Dame, có tên dịch ra tiếng ta là “Phượng
Hoàng”, nơi mà người ta tự hào giới thiệu là chuyên bán sách của châu Á. Đại loại
trên là trời và dưới là sách Tàu, sách Nhật rồi sách Hàn… Hầu như không có tiểu
thuyết Việt, hình như có Linda Lê. Tôi lật thử vài cuốn sách của các nước bạn,
gần như bìa bốn của cuốn nào cũng có logo tài trợ của một hãng lừng danh ở
chính nước họ. Theo tôi biết thì cho đến bây giờ, tất tật sách Việt nếu nhỡ có
được dịch sang tiếng nước ngoài, bìa bốn đều trắng tinh.
Tiểu thuyết Việt được đàng hoàng dịch sang tiếng nước khác
đâu có nhiều, đã thế những người viết ra nó đều đương nhiên là không giàu. Liệu
các đại gia dư dật hay nói yêu văn chương ở ta có để ý đến điều ấy không. Đây
có thể là một trong những “khoảng cách” giữa tiểu thuyết Việt và thế giới
chăng.
11/11/2019
Hoàng Đăng Khoa
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét