Thứ Hai, 22 tháng 3, 2021

Trăm năm cô đơn 1

Trăm năm cô đơn 1

Giới thiệu:
Trăm năm cô đơn là câu chuyện về dòng họ Buênđya tồn tại bảy thế hệ, người đầu tiên bị trói vào gốc cây và người cuối cùng đang bị kiến ăn, một dòng họ tự lưu đày vào cõi cô đơn để chạy trốn tội loạn luân.
Điều gì khiến "Trăm năm cô đơn" - một tiểu thuyết theo chủ nghĩa "hiện thực huyền ảo", dày tới hơn 600 trang, chỉ kể về câu chuyện loạn luân của một dòng họ ở một ngôi làng "huyền thoại", giành được giải thưởng Nobel Văn học? Phải chăng tác phẩm đã đạt tới hai tiêu chí cơ bản của giải thưởng. Đó là bút pháp độc đáo, mới mẻ và ý nghĩa nhân văn của thông điệp tác phẩm gửi tới người đọc.
"Trăm năm cô đơn" được đánh giá là sản phẩm tuyệt vời của hư cấu nghệ thuật. Với bút pháp "hiện thực huyền ảo", Márquez đã dựng nên một ngôi làng có tên gọi Macondo. Đó là ngôi làng không một người dân nào sống quá ba mươi tuổi và chưa có nghĩa địa, đã từng xảy ra những chuyện hoang đường như cơn mưa hoa trong một đám tang, những con người được hoài thai bởi bướm và bọ cạp, những người có đuôi, có người bay lên trời không trở lại... ở ngôi làng đó, những người con trai và con gái cùng huyết thống đã yêu nhau, lấy nhau, sinh ra những đứa con dị tật có đuôi như lợn hoặc như khỉ!
Nỗi ám ảnh về tội loạn luân đã đẩy những con người nơi đây chìm sâu vào nỗi cô đơn. Họ cô đơn trong ngôi nhà của mình. Cô đơn giữa những người thân thuộc. Cô đơn trên chiếc giường của mình, trong giấc mơ của mình... Cuối cùng, sau một trăm năm sống trong cô đơn, làng Macondo bị một cơn cuồng phong cuốn mất khỏi thế giới. Rõ ràng là, về phương diện xã hội, Márquez muốn viện dẫn một vấn đề có tính quy luật. Đó là, nếu anh đơn lẻ trong cuộc đấu tranh với thiên nhiên và con người, anh sẽ thất bại. Nếu anh khép mình, đóng kín, quay lưng lại với thế giới, đi ngược lại những quy luật vốn có, anh sẽ bị hủy diệt. Tương tự như thế, đất nước Colombia cùng với lục địa Mỹ Latinh nếu đóng cửa, tuyệt giao với thế giới bên ngoài, sẽ vĩnh viễn bị giam cầm trong lạc hậu, đói nghèo.
Còn về thông điệp, Márquez muốn nhắn nhủ một điều giản dị, nhưng sâu đậm tính nhân văn: Mọi người hãy sống đúng bản chất người - tổng hòa các mối quan hệ xã hội của mình, hãy vượt qua mọi định kiến, thành kiến cá nhân, hãy lấp bằng mọi hố ngăn cách cá nhân để cá nhân tự hòa đồng với gia đình, xã hội.

Trăm năm cô đơn
Tác giả: Gabriel Garcia Marquez
Lĩnh vực: Văn học Colombia
Dịch giả: Trung Đức - Đình Lợi và Quốc Dũng
CHƯƠNG 1
Rất nhiều năm sau này, trước đội hành hình, đại tá Aurêlianô Buênđya đã nhớ lại buổi chiều xa xưa ấy, cái buổi chiều cha chàng dẫn chàng đi xem nước đá. Thời ấy Macônđô là một làng gồm vài chục nóc nhà tranh vách đất dựng bên bờ con sông nước trong như pha lê, ào ào chảy qua những tảng đá nhẵn thín, trắng bong, to như những quả trứng thời tiền sử. Thế giới lúc ấy còn ở buổi hồng hoang, chưa có tên gọi các đồ vật và để gọi chúng cần phải dùng ngón tay chỉ đích vào từng cái một. Cứ vào tháng ba hàng năm, một gia đình digan rách rưới dựng một túp lều bạt ngay cạnh lâng, rồi với tiếng kèn trống om xòm quảng cáo những phát minh mới. Ðầu tiên, họ mang tới đá nam châm. Một người digan lực lưỡng, hàm râu lởm chởm,. bàn tay lông lá, tự giới thiệu mình tên là Menkyađêt, làm ngay một thí nghiệm kinh rợn trước công chúng về cái mà chính ông ta gọi là kỳ quan thứ tám của các thuật sĩ luyện đá giả kim uyên bác xứ Maxêđoan. Từ nhà này sang nhà khác ông ta kéo hai thỏi kim loại đã nhiễm từ, và thế gian kinh ngạc khi nhìn thấy xanh, chảo, vạc, kìm, bếp lò rơi đổ ngổn ngang, đồ gỗ kêu cọt kẹt bởi đinh, ốc vít đang như muốn tuột ra khỏi chúng, và hơn nữa, những vật bằng sắt bị mất từ lâu bỗng lại ló ra ở ngay nơi chủ nó từng mất công tìm kiếm.
Rồi sau đó, mọi người bị lôi cuốn đổ ra đường, lũ lượt, ồn ĩ theo sau những trò ảo thuật đầy thích thú của Menkyađêt. "Mỗi một vật đều có cuộc sống", người digan quảng cáo với giọng lanh lảnh, "vấn đề là ở chỗ biết đánh thức tâm hồn nó". Hôsê Accađiô Buênđya, người có trí tưởng tượng thường đi xa hơn cả bản thể của giới tự nhiên và còn vượt quá rất xa những phép màu và trò huyền ảo, nghĩ rằng có thể sử dụng phát minh vô bổ ấy vào việc moi vàng từ trong lòng đất. Menkyađêt, vốn là người cao thượng, nói trước cho ông biết: "Ðồ này không dùng vào việc ấy được" Nhưng Hôsê Accađiô Buênđya lúc ấy vẫn không tin đức tính cao thượng của người dân digan, vì vậy đã đổi ngay một con lừa và một cặp dê đực để lấy hai thanh nam châm. Ucsula Igoaran, vợ ông, từng nghĩ tới việc dùng những gia súc này vào việc mở rộng ngôi nhà ở của họ vốn dĩ tồi tàn, đã không thuyết phục được ông. "Ôi dà, rồi chúng ta sẽ có ối vàng để xây nhà, lo gì mình ơi", ông cãi lại. Trong vài tháng liền, ông trần lưng làm việc để biến những dự đoán của mình thành hiện thực. ông đào bới cặn kẽ khắp vùng, kể cả dưới lòng sông, rồi kéo rê hai thanh nam châm, khấn rõ to lời cầu nguyện của Menkyađêt. Vật duy nhất mà ông đào bới được là một bộ giáp trụ từ thế kỷ XV, bị lớp han rỉ phủ kín, bên trong như một quả bí khổng lồ chứa đầy đá Khi Hôsê Accađiô Buênđya và bốn người đàn ông trong đội khai quật của mình tháo rời được bộ giáp trụ này, họ thấy một bộ xương người đã hoá vôi, cổ còn lủng lẳng đeo một hộp thánh tích bằng đồng đựng mớ tóc phụ nữ.
Những người digan trở lại làng vào tháng ba. Lần này họ mang theo một kính viễn vọng và một kính lúp có mặt gương to bằng mặt trống, họ trưng bày chúng như thể trưng bày phát kiến mới nhất của những người Do thái ở Amtecđam. Họ cho một cô digan ngồi ở đầu làng và đặt cái kính viễn vọng ở ngay cửa vào của túp lều bạt. Sau khi trả năm đồng rêan, dân chúng ghé mắt vào kính viễn vọng và họ nhìn thấy cô digan ở ngay trong tầm tay mình. "Khoa học đã rút ngắn khoảng cách", Menkyađêt quảng cáo: "Chẳng bao lâu, không cần phải ra khỏi nhà mình, con người đã có thể biết được bất kỳ điều gì xảy ra trên trái đất". Một buổi trưa nóng bỏng, bọn họ làm một thử nghiệm khủng khiếp bằng chiếc kính lúp khổng lồ: chồng một đống cỏ khô ở giữa đường rồi lấy kỉnh lúp chiếu tia mặt trời vào, thế là cả đống cỏ bùng cháy. Hôsê Accađiô Buênđya, người vẫn chưa nguôi buồn về sự thất bại của việc dùng nam châm tìm vàng, lại nẩy ra ý định sử dụng phát minh ấy như một thứ vũ khí. Một lần nữa, Menkyađêt lại khuyên can ông. Nhưng rồi chính Menkyađêt phải nhận lại hai thanh nam châm và nhận thêm ba đồng tiền thời thuộc địa để đổi cho Hôsê Accađiô Buênđya chiếc kính lúp. Ucsula khóc lóc thảm thiết. Số tiền ấy là một phần của túi tiền vàng mà cha bà đã tích cóp trong suốt cuộc đời ăn đói mặc rách và bà đã chôn chúng dưới gẩm giường chờ dịp cần thiết mới tiêu đến. Hôsê Accađiô Buênđya, ngay đến an ủi vợ cũng không có ý định, đã vội dốc toàn lực vào những việc thí nghiệm với đam mê của một nhà khoa học và hơn thế nữa còn dấn thân vào những nguy hiểm chết người. Ðể làm rõ hiệu quả của kính lúp đối với quân địch, chính ông đã tự mình đứng ngay vào vùng ánh sáng là nơi kính lúp đã hội tụ tia nhiệt mặt trời, và ông bị bỏng, những vết bỏng này trở thành ung nhọt phải mất nhiều thời gian mới chữa lành. Suýt nữa ông đốt nhà vì không thể chịu nổi những lời rỉa rói của bà vợ, người từng cảnh giác trước nỗi nguy hiểm của phát minh này. ông ở lỳ trong phòng mình nhiều giờ liền, tính toán-về những khả năng chiến lược của thứ vũ khí mới sáng chế, cho đến khi ông viết được một bản chỉ dẫn mạch lạc có tính sư phạm và đầy sức thuyết phục. ông gửi nó cho nhà chức trách, có kèm nhiều bằng chứng của kinh nghiệm bản thân và vài bản vẽ thuyết trình. Ông giao nó cho một sứ giả mang đi. Người này đi xuyên rừng, bị lạc trong đầm lầy đáng sợ, vượt qua những con sông cuộn sóng, suýt nữa thì mất mạng vì thú dữ, vì thất vọng và dịch bệnh, trước khi tìm thấy con đường mà những con lừa của người đưa thư vẫn qua lại. Mặc dù đường đi đến thủ đô thời ấy là rất khó khăn, Hôsê Accađiô Buênđya đã dự định sẽ chế tạo rất nhanh thứ vũ khí này nếu như chính phủ ra lệnh thử nó ngay trước mặt các nhà quân sự và ông sẽ đích thân hướng dẫn cho họ về nghệ thuật phức tạp của chiến tranh sử dụng năng lượng mặt trời. Trong nhiều năm liền ông chờ đợi thư phúc đáp của chính phủ. Cuối cùng, chán chường vì chờ đợi, ông đành phải than phiền với Menkyađêt về sự thất bại của công việc vừa ở bước khởi đầu. Vậy là người digan lại có dịp bày tỏ tư chất cao thượng của mình: trả lại ông những đồng tiền đôblông để lấy lại chiếc kính lúp ngoài ra còn để lại một số tấm bản đồ của người Bồ Ðào Nha, và một vài dụng cụ đi biển. Tự tay mình, Menkyađêt còn viết một bản tổng kết chặt chẽ về những nghiên cứu của thày tu Hecman, rồi đặt vào vị trí của nó để ông có thể sử dụng kính thiên văn, la bàn và thước đo góc 60 độ. Trong những năm tháng mưa dài lê thê, Hôsê Accađiô Buênđya ở lỳ trong cái phòng nhỏ làm ở cuối nhà để không một ai quấy rầy mình trong lúc làm thí nghiệm. Nhờ hoàn toàn bỏ thói quen ăn, ngủ đúng giờ, ông ở ngoài sân suốt đêm để theo dõi đường đi của các vì sao và suýt nửa mắc bệnh đau đầu vì ý muốn xây dựng một phương pháp chính xác để tìm phương Nam. Khi đã thành thạo sử dụng và điều khiển các dụng cụ, ông có ý niệm về một khoảng không gian mênh mông cho phép ông đi thuyền trên những biển xa lạ, đến những miền đất hoang vu không bóng người và kết bạn với những người hiển hách mà không cần phải ra khỏi bàn làm việc của mình. Ðấy là thời kỳ ông mắc tật nói một mình, đi dạo khắp nhà chẳng để ý tới ai trong lúc Ucsula và bọn nhóc nhổ cỏ trong vườn, chăm bón chuối và khoai sọ sắn và củ từ, bí ngô và cà dái dê. Không một dấu hiệu báo trước nào, bỗng nhiên ông ngừng mọi hoạt động sôi nổi để chìm đắm trong suy tưởng. Vài ngày liền, ông cứ như người bị bỏ bùa mê, giọng thì thầm nhắc đi nhắc lại cho chính mình nghe hàng loạt những phỏng đoán đầy kinh ngạc mà ông không cần tin vào sự hiểu biết của chính mình. Cuối cùng, vào giờ ăn trưa, một ngày thứ ba tháng chạp, ông xổ tung tất cả nỗi căng thẳng trong tâm tưởng mình. Bọn trẻ cả đời sẽ nhớ mãi vẻ trang trọng của cha chúng khi ông ngồi vào đầu bàn, người run rẩy lên cơn sốt, gầy rộc đi vì công việc quan sát kéo dài và vì lòng chua xót bởi trí tưởng tượng. ông đã công bố cho chúng biết phát kiến của mình: "Trái đất tròn như thể quả cam ấy?
Bà Ucsula không chịu được nữa. "Nếu ông có điên thì một mình ông điên thôi", bà gào, "nhưng xin ông chớ có nhồi sọ bọn trẻ những ý nghĩ bông lông của mình nhét. Hôsê Accađiô Buênđya lặng thinh, không để cho mình sợ hãi trước cơn thất vọng của bà vợ mà trong lúc bực mình bà đã quẳng kính thiên văn xuống sàn nhà làm nó vỡ toang. ông làm cái khác và tụ tập những người đàn ông trong làng ở ngay trong phòng nhỏ rồi bằng thứ lý thuyết khó hiểu đối với bọn người này ông đã chứng minh cho họ thấy khả năng trở lại điểm xuất phát ban đầu nếu cứ nhằm hướng đông cho tàu thuyền chạy. Cả làng đều nhất loạt đồng ý với nhau rằng Hôsê Accađiô Buênđya đã mất trí.
Giữa lúc ấy, Menkyađêt trở lại để dàn xếp mọi việc. ông công khai biểu dương trí thông minh của con người bằng việc đơn thuần nghiên cứu thiên văn, đã xây dựng được một lý thuyết từng được công nhận trong thực tiễn mặc dù cho đến lúc ấy ở làng Macônđô vẫn chưa ai biết tới, và để bày tỏ lòng ngưỡng mộ của mình ông đã tặng lại Hôsê Accađiô Buênđya một phòng thí nghiệm giả kim, một kỷ vật sẽ gây ảnh hưởng quyết định đối với tương lai của làng này.
Vào thời ấy, Menkyađêt già đi nhanh đến mức ai cũng phải ngạc nhiên. Trong những chuyến đẩu tiên đến làng này hầu như ông cùng trạc tuổi với Hôsê Accađiô Buênđya. Nhưng trong lúc ông này vẫn giữ được sức khoẻ vâm váp của mình, cái sức chỉ cầm hai tai con ngựa có thể quật ngã nó, thì người digan dường như đã bị suy nhược bởi những đau đớn khủng khiếp. Thực ra đó là hậu quả của rất nhiều thứ bệnh lạ lùng do ông nhiễm phải trong những chuyến du lịch vòng quanh thế giới.
Theo như chính lời ông kể với Hôsê Accađiô Buênđya trong lúc giúp ông này dựng phòng thí nghiệm thì thần chết đuổi theo ông khắp miền, nó cứ đánh hơi ống quần ông mà theo riết nhưng vẫn không túm được ông. Cuộc đời ông là cả một cuộc trốn chạy trước không biết bao nhiêu thứ tai ương và hoạn nạn đã giống xuống đầu cái giống người. ông qua khỏi bệnh phong ở Ba Tư, bệnh hoại huyết ở quần đảo Malaixia, bệnh hủi ở Alêchgiăng, bệnh phù thũng ở Nhật Bản, bệnh dịch hạch ở đảo Mađagaxca, nạn động đất ở Xixin và nạn đắm tàu xảy ra thường ngày ở eo biển Magadanêt(1). Cái con người kỳ vĩ đó, người từng nói rằng mình nắm được các bí quyết. của Nôstrađam(2), là một người mang vẻ buồn rầu, bởi mặt trời buồn bao quanh ông, với con mắt Á châu dường như đã biết được mặt trái của sự vật. ông dùng một chiếc mũ rộng vành màu đen nom như cánh quạ xoè và một chiếc áo nỉ khoác ngoài bị rêu xanh hàng thế kỷ phủ lên. Nhưng dù có sức hiểu biết quảng bác là thế và có môi trường hoạt động bí hiểm là thế, ông vẫn có một tư chất người, một tư chất thế tức, là cái làm cho ông gắn bó với những vấn đề nhỏ nhặt của cuộc sống thường ngày: ông than vãn về những mệt mỏi của tuổi già, do phải chịu đựng hoàn cảnh kinh tế túng thiếu, và từ lâu ông không mỉm cười vì bệnh hoại huyết đã nhổ hết răng. Hôsê Accađiô Buênđya hiểu rõ rằng cái buổi trưa ngột ngạt Menkyađêt đã bộc bạch những chuyện riêng tư của đời mình mãi mãi sẽ là
ngọn nguồn của một tình bạn vĩ đại. Bọn trẻ đầy thán phục trước những câu chuyện huyền thoại của ông. Aurêlianô, lúc ấy chưa quá năm tuổi, sẽ phải nhớ suốt đời hình ảnh Menkyađêt mà cậu đã được nhìn thấy: ông ngồi để cho ánh sáng chói chang trắng bạc từ cửa sổ chiếu vào mặt, trong lúc mồ hôi ròng ròng chảy trên hai thái dương và với giọng nói trầm vang của cây. đại phong cầm ông đã rọi ánh sáng vào những miền tối tăm nhất của trì tưởng tượng. Hôsê Accađiô, ông anh cậu có lẽ sẽ di lại cho con cháu mình cái hình ảnh kỳ diệu ấy như di lại một kỷ vật truyền đời. Trái lại, Ucsula lại giữ mãi kỷ niệm xấu về chuyến thăm viếng ấy, bởi vì bà bước vào phòng đúng lúc Menkyađêt do đãng trí đã làm vỡ một chai thuỷ ngân.
- Ðó là mùi của quỷ dữ phải không? - bà hỏi.
- Hoàn toàn không phải, - Menkyađêt bào chữa. - Người ta xác minh rằng quỷ dữ có mìn diêm sinh còn thứ này chẳng qua chỉ có mùi thuỷ ngân thôi, bà ạ!
Lúc nào cũng với tác phong sư phạm, ông làm một cuộc trưng bày về những đặc tính quái đản của chất ngân sa, nhưng Ucsula chẳng hề để ý mà trái lại mang bọn trẻ đi cầu kinh. Cái mùi tử thần ấy, gắn rất chặt với kỷ niệm về Menkyađêt, sẽ mãi mãi lưu lại trong trí óc bà.
Phòng thí nghiệm thô sơ - chưa kể tới hàng lô chiếc phễu, bình thí nghiệm, bình lọc và những chiếc rây - bao gồm một bình cơ bản vốn là những bình thuỷ tinh cổ dài và hẹp mô phỏng theo hình chiếc bình giả kim và một nồi cất được người digan làm theo đúng mẫu miêu tả hiện đại của chiếc nồi cất có 3 cánh tay của bà Maria, người Do thái. Ngoài những thứ này Menkyađêt còn để lại bảy thứ kim loại tượng trưng cho bảy hành tinh, những hình mẫu về Moisê và Xôximo; một cục vàng giả và một cuốn sổ trong đó có những lời chỉ dẫn và hình vẽ miêu tả các quá trình của thuật giả kim vĩ đại, những thứ này cho phép người nào biết giảng giải chúng sẽ có ý định hành nghề chế tạo đá giả kim(3). Bị cách thức làm vàng giả tưởng như quá giản đơn này quyến rũ, trong vài tuần liền, Hôsê Accađiô Buênđya tán Ucsula cho mình đào số tiền vàng để nhân số vàng này lên gấp bội. Trước tính gàn của ông, Ucsula phải nhượng bộ chồng như trước đây vẫn nhượng bộ. Thế là Hôsê Accađiô Buênđya đổ ba mươi đồng đôblông vào chảo trộn lẫn chúng với bột đồng, bột diêm sinh và bột chì. Rồi ông để chúng trong một chảo sâu và đun cách thủy trên bếp lửa, cho tới khi chúng chảy ra biến thành một thứ nước xirô đặc quánh, nồng nặc mùi khét, giống kẹo cháy hơn là thứ vàng quý. Trong quá trình chưng cất vất vả đây thất vọng, thất hợp kim này cùng với bảy thứ kim loại tượng trưng cho bảy hành tinh được ngâm trong dung dịch thủy ngân đặc và muối sun phát, sau đó chúng lại được ngâm trong chảo mỡ lợn (vì không có dầu củ cải nên phải thay bằng mỡ lợn) để đun cách thuỷ trên bếp lửa. Cuối cùng, số vàng quý giá của Ucsula sau quá trình đun nấu công phu đã hoá thành một thứ giống như thứ cháo đặc sệt, cháy thành than, bết chặt lấy đáy chảo không tài nào gờ ra được.
Khi những người digan trở lại làng này, Ucsula đã cố ngăn dân làng không đi xem họ. Nhưng tính hiếu kỳ bao giờ cũng thắng nỗi sợ sệt, bởi vì hôm ấy, những người digan chạy đi khắp làng thổi kèn, khua trống inh ỏi, trong lúc người quảng cáo loan báo tin sẽ trưng bày thành tựu kỳ ảo nhất của những người Naxianxênô(4). Thế là cả làng đổ xô nhau đến lều của người digan. Trả một xu vào cửa, bọn họ nhìn thấy một Menkyađêt trẻ trung, khoẻ mạnh, da dẻ căng bóng, với hàm răng mới trắng bong. Những ai nhớ hàm răng móm mém vì bệnh hoại huyết, đôi mà tóp và đôi môi thâm xịt của ông sẽ phải rùng mình kinh ngạc trước thí nghiệm đầy sức thuyết phục về những khả năng siêu việt của người digan. Dân chúng chuyển từ trạng thái kinh ngạc đến trạng thái sợ hãi khi nhìn thấy Menkyađêt moi hàm răng ra, mới nguyên, được cắm trên hai lợi, rồi chìa cho mọi người xem trong một lát - trong giây lát thoáng qua ấy, Menkyađêt lại trở thành chính cái con người già lụ khụ của những năm trước đây - sau đó ông cắm chúng vào lợi rồi mỉm cười với tất cả sức trẻ trung vừa được khôi phục lại. Ngay đến cả Hôsê Accađiô Buênđya cũng phải thừa nhận rằng hiểu biết của Menkyađêt đã đạt tới những đỉnh cao quá sức tưởng tượng, nhưng rồi ông cảm thấy một niềm vui lành mạnh hơn khi người digan giải thích riêng cho ông về cách thức trồng răng giả. Điều đó khiến ông thấy vừa đơn giản vừa kỳ diệu, khiến cho ông, chỉ từ đêm đến sáng, mất ngay hứng thú trong việc nghiên cứu thuật giả kim; ông trở nên lầm lỳ khó tính và lại ăn uống thất thường, lại suốt ngày chỉ đi lại trong nhà. "Ngoài đường xảy ra biết bao điều kỳ lạ không thể tưởng được", ông nói với Ucsula.
"Ở bên kia sông, vâng, chính ở đó, có đủ loại máy móc kỳ diệu, trong khi đó chúng ta vẫn sống như những con lừa". Hết thảy những ai quen biết ông từ thuở mới lập làng Macônđô, đều ngạc nhiên thấy dưới ảnh hưởng của Menkyađêt ông đã thay đổi biết nhường nào.
Lúc đầu, Hôsê Accađiô Buênđya là một vị trưởng giả trẻ tuổi người vẫn thường dạy dân việc trồng cấy, khuyên nhủ cách nuôi dạy trẻ nhỏ và gia súc, cộng tác với mọi người, ngay cả trong công việc dùng đến sức mạnh cơ bắp, để đưa cuộc sống chung của làng đi lên, ngày một nhấm khá và yên bình hơn. Bởi vì ngôi nhà của ông ngay từ thuở ban đầu đã là ngôi nhà đẹp nhất làng còn những ngôi nhà khác đều được làm theo hình mẫu của nó: ngôi nhà có cửa ra vào rộng và sáng sủa, có một nhà ăn, làm theo kiểu hành lang vây xung quanh trồng hoa màu sắc sặc sỡ, có hai phòng ngủ, một cái sân rộng với cây dẻ khổng lồ, một vườn cây thẳng hàng và một vườn cỏ rộng mà ở đấy nào dê, nào lợn, nào gà sống thành bầy vui vẻ. Những con vật duy nhất bị cấm nuôi không chỉ ở trong nhà này mà ngay cả trong làng là những chú gà chọi.
Đức cần mẫn của Ucsula sánh ngang với đức cần mẫn của chồng mình. Bà năng nổ, mảnh khảnh, kiên nghị. Người đàn bà run rẩy mà chẳng một ai nghe thấy cất tiếng hát trong suốt cả cuộc đời mình, là người có mặt ở khắp chốn kể từ lúc trời vừa bừng sáng cho đến khi tối mịt, lúc nào cũng bận bịu với đàn gà kêu chíp chíp. Nhờ có bà, nền nhà đất nện không chút bụi, tường đất không vấy bẩn, bàn ghế giường tủ do chính bàn tay vợ chồng bà làm nên lúc nào cũng sạch sẽ, và những rương hòm cũ đựng quắn áo lúc nào cũng dịu thơm mùi húng dồi.
Hôsê Accađiô Buênđya, vốn là người tháo vát chưa từng có trong làng, đã bố trí các nhà theo hình thức sao cho từ mọi nhà đều có thể đi ra sông và không một nhà nào phải gánh nước vất vả hơn nhà nào, đánh những con đường chạy thật khéo để mọi nhà đều chịu nắng như nhau vào mùa nóng. Chỉ trong ít năm, Macônđô là một làng ngăn nắp gọn gàng và chuyên cần hơn bất kỳ làng nào trong số những làng được ba trăm cư dân ở đây biết tới cho đến lúc bấy giờ. Thực tế, đó là một làng hạnh phức, là nơi chưa một ai ngoài ba mươi tuổi, và chưa hề có người chết.
Kể từ những ngày lập làng, Hôsê Accađiô Buênđya đã làm bẫy và làm lồng chim. Chẳng bao lâu, không chỉ trong nhà ông mà trong tất cả các nhà của làng này đều đầy chim: nào chim tổ treo, chim hoàng yến, chim cổ đỏ, chim axulêhô. Tiếng chim tổ treo inh ỏi khiến Ucsula phải lấy sáp ong bịt lỗ tai lại để khỏi mất cảm giác thực. Khi những người digan thuộc bộ tộc của Menkyađêt đến đây lần đầu tiên để bán những viên thuốc đau đầu, thì mọi người lấy làm kinh ngạc nhận thấy bọn người này làm sao có thể tìm đến làng mình, một cái làng chìm trong hơi mù của đồng lầy, và những người digan thú nhận rằng họ đến được là nhờ tiếng chim hót dẫn đường.
Những tập tục tốt đẹp nhưng còn sơ đẳng ấy, trong thời gian ngắn bị cuốn tuột đi bởi cơn đam mê đá nam châm, bởi những tính toán thiên văn, bởi những mơ mộng biến chì thành vàng và bởi những thèm khát được biết những kỳ quan thế giới của Hôsê Accađiô Buênđya. Vốn là người hoạt bát và sạch sẽ, Hôsê Accađiô Buênđya đã trở thành một người lười nhác, ăn mặc thì lôi thôi lếch thếch, râu ria thì xồm xoàm đến mức Ucsula phải dùng con dao thái thịt cạo cho nó gọn lại. Không thiếu người cho rằng ông là nạn nhân của một thứ bùa yểm quái quỉ nào đó.
Nhưng những người tâm đầu ý hợp với cơn điên của ông đã bỏ công việc và gia đình để theo ông, khi ông đặt lên vai mình bộ đồ nghề thợ mộc và yêu cầu mọi người cùng giúp tay mở một con đường để làng Macônđô có thể giao tiếp với những phát minh lớn của loài người.
Hôsê Accađiô Buênđya hoàn toàn không hiểu địa lý của vùng này. ông biết rằng về hướng đông là dãy núi không thể vượt qua dược và ở phía bên kia dãy núi là thành phố cổ Riôacha, nơi trong những thời đã qua - theo như lời ông nội Aurêlianô Buênđya thứ nhất kể với ông - tên cướp biển Phrăngxit Đrăc rất ham mê môn thể thao dùng đại bác săn cá sấu sau đó lột da, nhồi rơm rồi đem chúng tiến dâng nữ hoàng Isaben. Trong thời trai trẻ của mình, ông cùng với những người bạn đã mang vợ, con cái, gia súc cùng nồi niêu bát ba vượt qua dãy núi này để tìm đương ra biển, nhưng sau hai mươi sáu tháng ròng rã, bọn họ đã phải bỏ cuộc và đành phải lập ra làng Macônđô để khỏi phải trở về chốn cũ. Đó là con đường ông không thích vì nó chỉ có thể dẫn ông trở lại thời quá vãng. Ở phía nam là những hồ nước phủ kín thứ rong bèo lâu đời và cả một thế giới đầm lầy rộng mênh mông mà theo như lời chứng của những người digan thì nó không có bờ bến. Đầm lầy mênh mông ấy biến mất về phía tây với một mặt nước trắng xóa trải đến nơi sắc nước lẫn vào màu trời, là nơi có bộ cá kình gồm những con vật có nước da mềm mại, có đầu và cổ của người phụ nữ. Với ma lực của bộ vú khổng lồ, chúng vẫn thường làm cho những người đi biển mất mạng. Những người dì gan phải mất sáu tháng trời đi thuyền trên con đường thủy ấy để cuối cùng gặp được một doi đất liền là nơi những con lừa của người đưa thư qua lại. Theo tính toán của Hôsê Accađiô Buênđya thì khả năng duy nhất để giao lưu với nền văn minh bên ngoài là con đường hướng bắc. Vậy là ông phân phát dỗ nghề thợ mộc và khí giới săn thú cho chính những người từng đi với ông trong chuyến đi tìm và thành lập làng Macônđô; rồi tự tay nhét la bàn, bản đồ vào ba lô và bắt đầu cú thám hiểm quá táo bạo này.
Trong những ngày đầu họ không gặp một trở ngại đáng kể nào. Họ men theo bờ đá lổn nhổn, đi ngược dòng sông cho tới nơi mấy năm trước từng đào được bộ giáp trụ thế kỷ XV, rồi từ đó họ theo con đường mòn len lỏi qua những cây cam dại đi sâu vào rừng rậm. Cuối tuần thứ nhất, họ giết và quay thịt một con nai, nhưng họ bảo nhau chỉ ăn một nửa, phần còn lại ướp muối dành cho những ngày sắp tới. Với tính toán thận trọng ấy, để duy trì cuộc thám hiểm, bọn họ ăn thịt vẹt đuôi dài, một thứ thịt xanh lè có vị hạc của xạ hương. Sau đó, khoảng hơn mười ngày liền, họ không được nhìn thấy mặt trời. Đất dưới chân họ lại ẩm thấp và nhão nhoét giống như tro tàn của núi lửa, và cây cối ngày một rậm rạp, hiểm hóc hơn, tiếng chim kêu vượn hú ngày một xa dần và quang cảnh lại trở nên mãi mãi buồn tẻ.
Những người trong đoàn thám hiểm cảm thấy buồn phiền vì những ký xe cổ xưa nhất của mình trỗi dậy trong cái thiên đường ẩm ướt và quạnh hiu này, cái thiên đường còn xa xưa hơn cả cái thiên đường ở đó giống người đã phạm tội tổ tông, là nơi ủng ngập sâu trong thứ nước bùn giống như dầu bốc hơi và những con dao rựa phải hạ xuống chém ngang thân những cây hoa loa kèn trắng và những chú kỳ nhông vàng ươm. Trong suốt cả một tuần, hầu như không ai mở miệng nói lấy một lời, với bộ ngực tức thở bởi thứ không khí khô nóng tanh mùi máu, bọn họ đi như những kẻ mắc chứng mộng du trong một thế giới ảm đạm, hầu như chỉ được soi sáng nhờ lùa đom đóm lập loè.
Họ không thể quay lui được vì con đường được mở ra theo dấu chân họ chẳng bao lâu đã bị thứ cây cỏ mới, lớn nhanh tưởng như nhìn thấy được, lấp mất lối. "Đừng sợ", Hôsê Accađiô Buênđya nói: "Cất nhất đừng để mất phương hướng". Không lúc nàn rời mắt khỏi la bàn, ông hướng đạo mọi người trong đoàn đi về phương bắc, cho tới khi họ ra tới một vùng đất thú vị. Đó là một đêm tối mịt mùng, không một vì sao, nhưng lại là một đêm thoáng đãng nhờ không khí mới mẻ và trong trẻo. Qua chuyến xuyên rừng dài ngày, mọi người đều mệt phờ vội đi mắc võng và lần đầu tiên trong hai tuần liền họ say sưa ngủ. Khi thức dậy, mặt trời đã lên cao. Họ đều hào hứng. Trước họ là một chiếc tàu Tây Ban Nha khổng lồ, màu trắng và bụi bậm, nổi lên giữa những cây dương xỉ và chà là trong ánh sáng ban mai dịu dàng.
Nó nằm nghiêng về mạn phải. Những mảnh buồm rách còn treo trên những cột buồm nguyên vẹn, nằm giữa những thừng chão có kết hoa nguyệt quế. Thân tàu, được lớp vẩy cá ép đã hoá đá và lớp rêu xanh phủ kín, hoàn toàn bị gắn chặt xuống nền đá.
Toàn bộ cấu trúc của nó dường như chiếm cứ cả một khung cảnh riêng, cái khung cảnh cô đơn và lãng quên, cái khung cảnh được bảo vệ trước sự phá phách của thời gian và chim chóc. Ở bên trong tàu mà những người thám hiểm đã khéo léo mở được cửa, không có gì khác hơn là một rừng hoa chen kín.
Việc bắt gặp con tàu này, dấu hiệu tỏ rằng biển đã gần kề, như một gáo nước lạnh dội vào ngọn lửa nhiệt tình của Hôsê Accađiô Buênđya. Ông cho rằng việc này như một lời nhạo báng cái số phận trớ trêu của mình: khi đi tìm biển, dù phải trả giá đắt với biết bao hì sinh và khó nhọc, thì không thấy, còn giờ đây không đi tìm thì lại thấy nó lù lù hiện ra trên con dường của mình như một trở ngại không thể nào vượt nổi. Rất nhiều năm sau, đại tá Aurêlianô Buênđya có dịp trở lại vùng này khi nó đã có một dường bưu điện bình thường, vật duy nhất của chiếc tàu ấy mà chàng bắt gặp là một mạn tàu cháy nham nhở nằm giữa cánh đồng hoa mỹ nhân thảo, chỉ đến lúc này, chàng nhận ra rằng cái câu chuyện ấy chẳng qua chỉ là một sản phẩm của trí tưởng tượng của cha mình. Chàng tự hỏi làm sao con tàu ấy đã có thể tiến sâu vào cái địa điểm nằm ngay trên dết liền này.
Nhưng Hôsê Accađiô Buênđya không cần phải bận tâm như vậy khi mà sau bốn ngày đi bộ, ông đã gặp được biển cách chỗ con tàu khoảng mười hai kilômét. Những mơ ước của ông tan biến trước cái biển màu xám tro, ngầu bọt và bẩn tưởi, thật không bõ cái công ông đã khó nhọc trong chuyến mạo hiểm của mình.
- Con c...? - Ông gào -, Macônđô đã bị nước vây quanh rồi.
Cái ý niệm về một bán đảo Macônđô cứ lớn lên trong thời gian dài, được thể hiện trên tấm bản đồ nhiều sai lầm mà Hôsê Accađiô Buênđya đã vẽ nó vào lúc đoàn thám hiểm của ông trở về ông vẽ nó mà lòng đầy giận dữ, do đó đã quá cường điệu những khó khăn giao lưu với bên ngoài. Ông làm thế như là để trừng phạt ngay chính mình vì tội thiếu cân nhắc cặn kẽ khi chọn địa điểm này để lập làng. "Sẽ chẳng bao giờ chúng ta đi tới đâu được", ông thở than trước mặt Ucsula. "Chúng ta đến mục xác trong khi còn sống ở đây mà chẳng thể nào được hưởng những lợi ích của khoa học đem lại". Cái ý nghĩ sáng tỏ ấy, được nung nấu vài tháng trong phòng thí nghiệm dã dẫn ông tới việc thai nghén một kế hoạch chuyển Macônđô đến một địa điểm thích hợp hơn. Nhưng lần này Ucsula phản đối những kế hoạch vội vàng của ông. Trong quá trình vận dộng thầm lặng và khéo léo của một nhời đàn bà cần mẫn, bà chuẩn bị cho các bà phụ nữ trong làng chống lại mọi sự hời hợt của những ông chồng đã bắt đầu chuẩn bị để di chuyển. Hôsê Accađiô Buênđya không biết từ bao giờ và vì sức mạnh chống đối nào mà các kế hoạch của ông cứ lộn nhào trong mớ bòng bong những nguyên cớ và mâu thuẫn để rết cục chúng chỉ còn là một ảo tưởng đơn thuần.
Ucsula chăm chú theo dõi ông, theo dõi ông cho đến khi bà mủi bòng thương. Ấy là buổi sáng bà gặp ông trong căn phòng ở cuối nhà. Trong lúc sắp xếp dụng cụ của phòng thí nghiệm vào các hòm, ông lải nhải dự tính những mơ ước khi di chuyển được làng. Bà để cho ông làm xong. Bà để cho ông đóng đinh các hòm lại và dùng cành bài hương chấm mực viết tắt tên họ mình lên trên mà không hề than với ông một lời, nhưng bà hiểu rằng ông thừa biết (vì bà nghe thấy ông nói ra trong các cuộc độc thoại) rằng những người đàn ông trong làng sẽ không tham gia kế hoạch di chuyển. Chỉ đến khi ông gỡ cánh cửa phòng ra, lúc ấy bà mới dám hỏi vì sao ông làm thế, và ông chua xót trả lời bà: "Bởi vì không ai đi thì chúng mình cứ đi". Ucsula vẫn bình tĩnh:
- Chúng mình cũng không đi đâu hết, - bà nói. - Chúng mình ở tại đây bởi vì ở đây chúng mình đã sinh hạ được một đứa con.
- Một khi chúng ta chưa có người thân chết để chôn dưới đất thì chúng ta vẫn cứ là những kẻ không quê hương bản quán.
Với lòng kiên nhẫn, bà nhẹ nhàng cãi lại:
- Nếu cần thiết tôi phải chết để các người ở lại đây, tôi sẽ chết.
Hôsê Accađiô Buênđya không tin rằng quyết tâm của vợ mình lại nghiêm túc đến thế. Ông cố thuyết phục bà bằng phép mầu nhiệm của mình, bằng lời hứa về một thế giới huyền ảo nơi chỉ cần rỏ mấy giọt nước thần xuống đất là đủ để cây đơm trái theo ý nguyện của con người, nơi mọi thuốc men và phương tiện chữa bệnh cho con người được bán với giá rẻ. Nhưng Ucsula vẫn điềm nhiên trước những lời đường mật có sức thôi miên của ông:
- Thôi đi, xin ông hãy bỏ những ý nghĩ viển vông ấy đi và hãy lo cho các con, - bà nói. - Hãy nhìn chúng kìa, có thảm không! Ôi những đứa trẻ không được chăm sóc theo đúng ý lành của Thượng đế. Chúng chẳng khác gì những con lừa.
Lần nữa, Hôsê Accađiô Buênđya chăm chú nghe từng lời của vợ mình. Ông nhìn qua cửa sổ và thấy hai đứa trẻ đi chân đất ở ngoài vườn nắng và ông có cảm giác rằng chỉ đến lúc ấy chúng mới bắt đầu tồn tại. Ông để ý tới chúng nhờ lời khẩn cầu của Ucsula. Vậy là có một cái gì đó đã xảy ra trong tâm trạng ông, cái gì đó thiêng liêng và có thực đôi ông ra khỏi thời hiện tại của mình và đưa ông trôi dần vào cõi nguyên sơ của dòng ký ức.
Trong lúc Ucsula quét nhà, ngôi nhà mà giờ đây chắc chắn bà sẽ gắn cả đời mình với nó, ông ngồi đắm đuối nhìn những đứa trẻ cho đến khi mắt ông đẫm lệ. Ông lấy mu bàn tay chùi đi, thở phào một cách nhẹ nhõm rồi đĩnh đạc nói:
- Thôi được, nào bà hãy bảo chúng nó đến giúp tôi ôi các thứ trong hòm ra?
Hôsê Accađiô, đứa lớn, đã lên mười bốn tuổi. Cậu có cái đầu vuông vức, tóc rễ tre và có đức tính làm theo sở thích riêng y hệt tính cha. Mặc dù cậu to lớn và có sức mạnh cơ bắp nhưng rõ ràng ở tuổi này cậu đã để mất trí tưởng tượng. Cậu được hoài thai và sinh ra trong lúc mọi người đang khó nhọc vượt núi, ấy là lúc trước khi thành lập làng Macônđô. Cha mẹ cậu cảm tạ thượng đế khi xem khắp người cậu không thấy có bộ phận nào là bộ phận của con vật. Aurêlianô, người đầu tiên sinh ra ở Macônđô, sẽ lên sáu tuổi vào tháng ba tới. Cậu bé lặng lẽ và cô ơn. Cậu đã khóc trong bụng mẹ và lọt lòng với đôi mắt mở thao láo. Trong lúc người ta cắt rốn cho cậu thì cậu ngọ nguy cái ẩu từ bên này sang bên kia để làm quen với các vật bày trong phòng và với tính tò mò không sợ hãi, dò xét khuôn mặt của đám đông. Sau đó, mặc kệ những ai đến gần để xem mình, cậu bé cứ chăm chăm nhìn lên mái nhà ọp ẹp xuýt sập xuống dưới sức ép khủng khiếp của cơn mưa. Một ngày nọ, cậu bé Aurêlianô, mới lên ba tuổi, bước vào nhà bếp giữa lúc Ucsula lắc nồi canh ra khỏi bếp và đặt nó lên bàn, chính trong ngày ấy, bà mới nhớ lại sức nặng của cái nhìn ấy. Cậu bé thập thò ở hoài cửa, nói: "Nó sẽ đổ đấy"... Cái nồi đã được đặt che chắn trên bàn, nhưng bỗng nhiên, đúng như lời cậu báo trước, nó bắt đầu rung lên bần bật rồi lăn ra mép bàn như có sức đẩy từ bên trong, và nó vỡ toang từng mảnh trên sàn nhà. Ucsula hoảng sợ, kể lại câu chuyện với chồng mình, nhưng ông giải thích cái hiện tượng ấy như một hiện tượng tự nhiên. Ông vẫn thường như thế, luôn luôn không để ý đến sự có mặt của các con mình, phần vì coi tuổi thơ như một giai đoạn thiếu trí tuệ và phần vì lúc nào ông cũng quá đam mê trong những lý thuyết hư vô.
Nhưng kể từ buổi sáng gọi bọn trẻ đến giúp mình tháo dỡ các dụng cụ của phòng thí nghiệm ra khỏi thùng, ông đã dành cho chúng những giờ quí nhất của mình. Trong căn phòng biệt lập mà trên các tường của nó ngày một dày đặc các bản đồ khó hiểu và các bức hoạ huyền thoại, ông dạy chúng đọc, viết, làm toán và ông nói với chúng về những điều kỳ diệu của thế giới không chỉ dừng lại trong khuôn khổ những hiểu biết mà nhiều khi còn vượt xa trí tưởng tượng của ông. Đây là điều mà bọn trẻ vừa học được: ở một miền đất tận cùng Nam châu Phi, có những người rất đỗi thông tuệ và hiền lành đến mức niềm vui duy nhất của họ là được ngồi suy tư; và rằng người ta có thể lội qua biển Egiê(5) bằng cách nhảy từ đảo này sang đảo khác cho đến tận cảng Xalônich(6). Những buổi học kỳ thú ấy đọng lại như khắc vào ký ức những đứa trẻ, đến mức nhiều năm sau này, một phút trước khi viên sĩ quan của quân đội Bảo hoàng ra lệnh cho đội hành hình nổ súng, đại tá Aurêlianô Buênđya đã sống lại buổi chiều tháng ba êm đềm, cái buổi chiều cha chàng bỏ dở bài học vật lý, đầy hào hứng với một tay giơ lên không và đôi mắt lim dim để đón nghe từ xa vọng đến tiếng kèn, tiếng trống, tiếng lục lặc của người digan đã nhiều lần tới làng đang rùm beng quảng cáo phát minh mới nhất đầy kình ngạc của các nhà thông thái sứ Memphi(7).
Đó là những người digan mới. Những người đàn ông và dàn bà trẻ, chỉ biết chính thứ tiếng mẹ đẻ của mình. Họ là những vật mẫu khả ái về nước da bóng mịn và bàn tay thông minh, mà những điệu nhảy và âm nhạc của họ gieo niềm vui ồn ào trên mọi nẻo đường làng. Họ mang theo những chú vẹt lông nhuộm đủ màu có thể ngâm những bài dân ca Ý; con gà mái đẻ trăm quả trứng vàng theo nhịp trống panđêrêta; con khỉ đã được dạy dỗ đoán điều anh đang suy nghĩ; cỗ máy vạn năng vừa đơm cúc vừa làm hạ cơn sốt; chiếc máy dể quên đi những ký ức buồn, dữ; lá cao để quên thời gian và hàng nghìn những phát minh khác, tất cả đều rất khéo léo và kỳ thú đến mức Hôsê Accađiô Buênđya cũng muốn chế ra cái máy nhớ để có thể nhớ tất cả. Chỉ trong chốc lát, người digan làm cho làng thay đổi. Những người dân Macônđô bỗng chốc cũng bị lạc đường ở ngay chính quê hương mình, vì họ đang ngây ngất trước hội chợ phong phú này.
Dắt tay từng đứa trẻ để chúng khỏi bị lạc trong đám đông hỗn độn, đụng hoài phải những người làm trò ảo thuật có hàm răng mạ vàng và những người múa rối có sáu cánh tay, ngột ngạt trong mùi dầu hồi và mùi bạc hà do đám đông phả ra, Hôsê Accađiô Buênđya đi tìm Menkyađêt khắp nơi để ông ta giảng giải cho mình nghe những bí mật không lường hết được của nỗi trăn trở huyễn hoặc ấy. Đi mãi, đi mãi, rồi cuối cùng ông cũng đến nơi Menkyađêt vẫn thường dựng lều, nhưng ông lại gặp một người Acmêni lầm lỳ nói tiếng Tây Ban Nha đang quảng cáo một thứ nước xi rô có phép tàng hình. Ông ta uống đánh ực một cốc nước pha hổ phách trong lúc Hôsê Accađiô Buênđya rẽ đám đông đang trố mắt xem trò ảo thuật và ông đã đến tận nơi để hỏi thăm Menkyađêt. Người digan ngạc nhiên nhìn ông, trước khi tàng hình vào một vũng nước hắc ín đặc sánh và nóng hổi, từ đó vọng lên câu trả lời: "Menkyađêt đã chết rồi ị. Hoảng hốt trước cái tin dữ này, Hôsê Accađiô Buênđya chết lặng người, cố vượt qua nỗi thống khổ, cho đến khi đám người xem bỏ đi theo lời mời chào của các trò ảo thuật khác, và vũng nước của người Acmêni hoàn toàn bay hơi. Sau đó những người digan khác cũng khẳng định với ông rằng quả đúng thế. Menkyađêt đã chết vì sốt rét tại những cồn cát ở Xinhgapo và thi hài của ông ta đã được ném xuống vùng nước sâu nhất của biển Giava. Bọn trẻ không để ý đến tin này.
Chúng đang nũng nịu đòi cha dẫn đi xem phát minh mới lạ của các nhà thông thái xứ Memphi, được quảng cáo ở ngay cửa ra vào của quán hàng, theo như lời đồn, nó thuộc về hoàng đế Xalômông. Chúng đòi da diết đến mức Hôsê Accađiô Buênđya phải trả ba mươi đồng rêan vào cửa để dẫn các con mình vào ngay giữa quán hàng là nơi có một người khổng lồ thân thể lông lá có cái đầu cạo nhẵn, mũi đeo một chiếc khuyên đồng, cổ chân đeo một chiếc xiềng sắt nặng trịch, đang canh giữ một chiếc hòm bí mật. Khi người khổng lồ mở nắp, từ trong hòm phả ra một luồng hơi lạnh buốt. Trong hòm chỉ có một khối trong suốt với những lỗ nhỏ li ti mà khi ánh hoàng hôn chiếu vào bỗng lấp lánh đủ sắc màu như các vì sao. Lòng đầy hoang mang vì biết rằng bọn trẻ nhà ông đang đợi một lời giải thích ngay tức thì, Hôsê Accađiô Buênđya chỉ dám thầm thì nói:
- Đó là một viên kim cương lớn nhất thế giới.
- Không phải, - người digan chữa lại, - đó là nước đá.
Không hiểu gì, Hôsê Accađiô Buênđya giơ tay định sờ vào tảng nước đá, nhưng gã khổng lồ gạt phắt tay ông đi. "Muốn sờ nó, phải đưa thêm năm đồng rêan nữa!", gã nói. Hôsê Accađiô Buênđya đưa năm đồng rêan rồi đặt bàn tay lên tảng nước đá. Ông để nguyên tay vài phút trong lúc tìm ông đập dồn dập đầy vẻ vừa lo sợ vừa thích thú khi được tiếp xúc vôi vật diệu kỳ này.
Không biết nói gì hơn, ông móc túi trả thêm mười đồng rêan nữa để cho các con ông cũng được sống cái cảm giác diệu huyền này. Cậu bé Hôsê Accađiô không dám sờ tảng nước đá. Trái lại, Aurêlianô tiến lên phía trước một bước, đặt bàn tay vào tảng nước đá nhưng rụt ngay ra. "Eo ơi, bỏng kinh", cậu hốt hoảng thốt lên. Nhưng cha cậu không để ý đến lời cậu. Lòng đầy cảm kích thước sự hiển nhiên của vật kỳ ảo, lúc này ông quên đi sự thất bại của những công việc viển vông của mình, quên đi cái tử thi Menkyadêt bị ném xuống biển làm mồi cho cá mực. Ông trả thêm năm đồng rêan nữa, rồi với bàn tay đặt trên tảng nước đá, như để trình bày một lời chứng trên Kinh Thánh, ông thốt lên:
- Đây là một phát minh lớn nhất của thời đại chúng ta.
Chú thích:
1) Magadanet: vịnh biển ở Chilê, mang tên nhà thám hiểm Phecnamđô đê Magadanêt đã phát hiện ra nó vào năm 1520.
(2) Nôstrađam, còn gái Mighen đơ Nôstređam (1503-1566) nhà chiêm tinh và thầy thuốc người Pháp, tác giả của những lời sấm truyền nổi tiếng.
(3) Nguyên văn: Piedra filosofal (tiếng Pháp là Pierre Philosophal) có học giả dịch là "điểm kim thạch", một hợp kim mà theo quan niệm của các nhà giả kim thuật có phép màu biến các kim loại thành vàng.
(3) Naxianxênô: dân thành Naxianxô thuộc Tiểu Á.
(5) Biển Egiê là một phần của Địa Trang Hái, nằm giữa bán đáo Ban căng và Anatôli.
(6) Cảng Xalônich thuộc Hy Lạp trong vịnh cùng tên được biển Egiê tạo nên, là mót trung tâm công nghiệp quan trọng.
(7) Memphi, thuộc Hoa Kỳ, một trung tâm công nghiệp nằm trên bờ sông Misisipi
CHƯƠNG 2
Khi tên cướp biển Phrăngxit Đrăc tấn công Riôacha ở thế kỷ XVI, bà tổ của Ucsula Igoaran đã quá kinh ngạc trước tiếng chuông nhà thờ inh ỏi đổ hồi và tiếng đại bác chát chúa nổ rền, đến mức quẫn trí ngồi vào một bếp than hồng. Những vết sẹo cháy đã làm cho cụ trở thành một người vợ ăn bám suốt đời. Cụ chỉ có thể ngồi nghiêng một phía dựa lưng trên những chiếc gối đệm và đi đứng kỳ dị, bởi thế chẳng bao giờ cụ đi ra ngoài trước con mắt mọi người. Cụ từ bỏ mọi sình hoạt xã hội vì bị ám ảnh bỏi cái ý nghĩ người mình phả ra mùi khét khó chịu. ánh bình minh bắt gặp cụ ở ngoài sân. Cụ không dám ngủ bởi nằm mộng thấy bọn người Anh cùng với những con chó dữ tợn đã trèo qua cửa sổ phòng ngủ và làm cụ chết khiếp vì những cực hình ghê rợn bằng những thanh sắt nung đỏ. Chồng cụ, một thương nhân người vùng Aragông(1), đã có hai con với cụ, tiêu tốn một nửa cửa hàng để thuốc thang và mua vui cho vợ, ngõ hầu làm giảm bớt nỗi sợ hãi. Cuối cùng, ông cụ bỏ nghề buôn, mang gia đình đi sống ở một miền xa biển, trong một xóm những người dân Anhđiêng hiền lành ở sâu trong núi. Tại đây cụ ông đã làm cho vợ một phòng ngủ không cửa sổ để bọn ướp biển, trong những cơn ác mộng kia, không có lối nhảy vào.
Tại xóm vắng này, trước đó rất lâu có một nhà trồng thuốc lá người Âu, sinh ra trên châu Mỹ. Đó là Đông(2) Hôsê Accađiô Buênđya người mà cụ tổ Ucsula cùng thành lập một tổ hợp sản xuất chỉ trong một thượng ngắn đã có vốn to. Vài thế ky sau, người cháu của ông tổ kết hôn với cô cháu gái của ông tổ Aragông. Vì thế mà mỗi bận Ucsula ra khỏi nhà theo tiếng gọi cuồng nhiệt của chồng mình, đã nhớ lại những ngẫu nhiên xảy ra cách đây ba trăm năm, và nguyền rủa cái giờ mà tên cướp biển Phrăngxit Đrăc tấn công Rioacha. Đó là cách đơn giản để giải phiền, bởi trên thực tế họ đã gắn bó với nhau cho tới khi chết bởi mối liên hệ còn bền chặt hơn cả tình yêu: đó là nỗi dằn vặt lương tâm chung cả hai người. Là anh em với nhau, họ cùng lớn lên trong một xóm cũ mà các bậc tiền bối của mình, bằng lao động và thuần phong mỹ tục, đã biến nó thành một cái làng tốt đẹp nhất trong số các làng thuộc tỉnh này. Mặc dù cuộc hôn nhân của họ đã thấy trước một cách hiển nhiên ngay khi trào đời, nhưng khi họ bộc lộ ý nguyện được lấy nhau thì cha mẹ hai bên đã định ngăn cản. Các cụ sợ rằng hai con người khoẻ mạnh đó thuộc hai dòng họ hàng thế kỷ đã có tình thâm giao sẽ phải sống trong tủi hổ vì sinh ra những con kỳ đà. Trước họ đã có tấm gương tày liếp. Bà cô của Ucsula lấy ông chú của Hôsê Accađiô Buênđya sinh ra một dứa con suốt đời mặc quần rộng thùng thình và chết vì bệnh chảy máu sau khi đã sống một cuộc đời bốn mươi hai tuổi luôn luôn trai tân, bởi vì y sinh ra và lớn lên với cái đuôi xoắn hình chiếc mở nút chai ở cuối có một túm lông. Đó là một cái đuôi lợn mà y không bao giờ để cho bất kỳ người đàn bà nào nom thấy. Và y đã phải trả giá bằng cả cuộc đời mình khi một người làm nghề đồ tể dùng con dao phay chặt phắt luôn cái đuôi lợn ấy đi. Hôsê Accađiô Buênđya với sự thanh thản của tuổi mười tám đã giải quyết vấn đề này bằng một câu gọn lỏn: "Có đẻ ra lợn anh cũng cóc cần, miễn là biết nói". Thế là họ cưới nhau với tiệc tùng kéo dài ba ngày liền có pháo nổ và các ban nhạc giúp vui. Từ đó trở đi, bọn họ sẽ hạnh phúc biết bao nếu như bà mẹ Ucsula không đe doạ cô bằng tất cả những dị dạng đáng sợ của những đứa con sẽ sinh ra đến mức cô không dám cho động phòng. Vì sợ người chồng vâm váp và ngang ngược sẽ cưỡng dâm trong lúc mình ngủ, Ucsula, trước khi đi nằm, đã mặc một chiếc quần do bà mẹ may cho. Đó là một chiếc quần vải gai được một hệ thống dây da chằng khéo làm cho bền hơn với một chiếc khoá sắt to sụ đóng kín lại. Bọn họ sống như vậy trong mấy tháng liền. Ban ngày, chàng đi chăn dắt những chú gà chọi của mình, còn nàng cùng với mẹ ngồi thêu bên khung thêu. Ban đêm cô phải chống cự trong vài giờ trước khát vọng cuồng nhiệt của chồng mà việc ấy dường như được làm là để thay thế cho sự chung đụng xác thịt, cho tới khi linh cảm của dân chúng đánh hơi thấy có một cái gì không bình thường đang xảy ra và họ liền tung tin đồn rằng Ucsula sau một năm cưới chồng vẫn tiếp tục trinh tiết là do chồng cô bất lực. Hôsê Accađiô Buênđya là người biết tin đồn sau cùng.
- Ucsula này, mình thấy đấy, người ta đang đồn ầm lên, - anh bình tĩnh nói với vợ.
- Thây kệ họ nói, - cô nói, - chỉ cần chúng ta biết với nhau rằng liều đó là không đúng sự thực.
Vậy là vợ chồng họ cứ sống trong tình cảnh ấy trong khoảng sáu tháng nữa, cho đến một ngày chủ nhật bi thương là ngày Hôsê Accađiô Buênđya đã thắng Pruđênxiô Aghila một trận chọi gà. Giận dữ, điên tiết vì thấy máu con gà của mình, kẻ bị thua liền tách ra xa Hôsê Accađiô Buênđya để mọi người trong sởi chọi gà có thể nghe được lời mình sẽ nói:
- Tao mừng cho mày, - anh ta gào, - để xem xem cuối cùng con gà ấy nó có làm ơn cho vợ mày không nào.
Hôsê Accađiô Buênđya nín thinh, ôm lấy gà mình. "Tôi sẽ trở lại ngay", anh nói với mọi người, sau đó anh nói với Pruđênxiô Aghila:
- Còn mày, liệu xác đấy, hãy trở về nhà và cầm lấy vũ khí đi, kẻo tao sẽ giết mày.
Mười phút sau anh trở lại với cây giáo sắc nhọn của ông nội mình. Ngay ở lối ra vào sởi chọi gà, nơi có đến nửa làng đã tụ tập, Pruđênxiô Aghila đang đứng chờ. Anh ta không có thời gian để tự vệ. Cây giáo của Hôsê Accađiô Buênđya được phóng đi với sức mạnh của con bò tót và với đường bay chính xác của chính cây giáo do cụ Aurêlianô Buênđya Thứ nhất phóng đi từng kết liễu những con hổ trong vùng, đã xuyên qua cổ họng Pruđênxiô Aghila. Đêm ấy, trong lúc mọi người đang viếng tử thi ở ngoài sới chọi gà thì Hôsê Accađiô Buênđya bước vào phòng ngủ giữa lúc vợ anh đang mặc chiếc quần trinh tiết.
Huơ huơ cây giáo trước mặt cô, anh ra lệnh: "Hãy cởi thứ đó ra".
Ucsula không nghi ngờ quyết định của chồng. "Mình sẽ phải chịu trách nhiệm về điều vừa xảy ra", anh rền rĩ nói. Hôsê Accađiô Buênđya cắm phập ngọn giáo xuống nền nhà.
- Nếu mình đẻ ra kỳ đà thì chúng mình sẽ nuôi kỳ đà, - anh nói - Nhưng trong cái làng này sẽ không có thêm những người hết vì tội lỗi của mình.
Đó là một đêm tháng bảy đẹp trời, trăng thanh gió mát và bọn họ thức suốt đêm vần nhau trên giường cho đến lúc rạng đông, không để ý tới gió lùa vào phòng mang theo tiếng than khóc của gia quyến Pruđênxiô Aghila.
Đám tang này được liệt hạng đám tang danh dự, nhưng hai người dằn vặt lương tâm. Có một đêm mất ngủ, Ucsula ra sân ống nước, đã nhìn thấy Pruđênxiô Aghila đứng ngay bên cạnh chum. Anh ta đứng đấy, xanh tái, vẻ rầu rĩ, đang muốn dùng ẵm rơm cọ bát để nhét vào lỗ thủng nơi cổ họng. Cô không hãi nhưng mủi lòng thay. Cô trở vào phòng kể lại cho chồng nghe điều mắt mình nhìn thấy nhưng anh không tin. "Những người chết không đi ra khỏi phần mồ của mình", anh nói. "Chẳng qua là chúng mình không chịu nữa sự giày vò của lương tâm mình thôi".
Hai đêm sau, Ucsula lại nhìn thấy Pruđênxiô Aghila ở trong nhà tắm đang dùng bã lau lau vết máu đọng lại ở cổ. Đêm khác cô lại thấy anh ta đang đi lại dưới trời mưa. Giận dữ trước việc vợ mình nhìn thấy ma, Hôsê Accađiô Buênđya cầm giáo bước ra sân. Quả nhiên bóng ma rầu rĩ đang đứng ở đấy.
- Cút mẹ mày đi? - Hôsê Accađiô Buênđya gào lên. - Mày mà cứ lảng vảng ở đây ông sẽ giết?
Pruđênxiô Aghila không đi, mà Hôsê Accađiô Buênđya cũng không dám phóng cây giáo. Từ đấy trở đi anh không thể ngủ ngon giấc. Anh bị dằn vặt bởi chính nỗi buồn mênh mang của người chết từ trong mưa nhìn anh, bởi chính nỗi thương cảm sâu sắc của người chết đối với những người sống, bởi chính cơn khát của người chết lục khắp nhà để tìm nước dấp bã lau. "Có lẽ anh ta đau khổ lắm", Ucsula nói với chồng: "Anh ta quá lẻ loi".
Cô càng cảm động hơn khi lần gần đây nhìn thấy bóng ma đang mở vung nồi bếp thì cô hiểu cái mà nó đang tìm và kể từ lần ấy, cô đặt những tô nước ở khắp nhà cho nó. Một đêm nọ, bắt gặp bóng ma đang rửa vết thương ở ngay trong phòng mình, Hôsê Accađiô Buênđya không thể chịu được thêm nữa, đã nói:
- Được rồi, Pruđênxiô ạ, - anh nói với bóng ma, - chúng tôi sẽ đi khỏi làng mày, đi đến nơi xa nhất mà chúng tôi có thể đi, và chúng tôi sẽ không bao giờ trở lại nữa. Bây giờ cậu hãy đi đi, hãy thanh thản mà đi đi.
Đó là nguyên nhân bọn họ vượt núi. Vài anh bạn của Hôsê Accađiô Buênđya, tất cả đều trai trẻ như anh, náo nức với chuyến đi mạo hiểm này, đã thu dọn đồ đạc rồi mang chúng cùng với vợ con để đi tới miền đất chẳng một ai đã hứa hẹn cho họ. Trước lúc khởi hành, Hôsê Accađiô Buênđya đã chôn cây giáo ở ngay ngoài sân và lần lượt chặt cổ những con gà chọi tuyệt vời của mình mà lòng anh đinh ninh tin rằng làm như thế sẽ an ủi phần nào vong linh Pruđênxiô Aghila. Vật duy nhất mà Ucsula mang theo là một chiếc rương trong đó đựng quần áo cưới một ít đồ ăn và một túi nhỏ đựng những đồng tiền vàng của cha cô để lại. Đoàn người ra đi không đi theo một lộ trình nhất đinh. Họ chỉ mải đi theo hướng ngược lại con đường dẫn tới Riôacha để không bỏ lại một dấu vết nào và để tránh chạm mặt người quen. Đó là một chuyến đi kì dị. Khi đoàn người đi được mười bốn tháng trời, với cái bụng quặn đau vì thịt khỉ và canh rắn, Ucsula đẻ ra một chú bé với tất cả các bộ phận người của chú. Cô đẻ rơi giữa đường ngay lúc nằm trên một chiếc võng hai người khiêng, bởi vì hai chân cô xuống máu sưng vù lên mất cả hình thù, và các tĩnh mạch cứ phồng lên như những vấp rộp. Những đứa trẻ thật đáng thương hại với cái bụng lép và đôi mắt quầng thâm. Tuy vậy chúng lại tỏ ra dẻo dai hơn cha mẹ chúng trong chuyến đi gian truân này, và trong phần lớn thời gian còn thích thú là khác. Một buổi sáng nọ, sau gần hai năm ròng rã leo núi, họ là những người đầu tiên nhìn thấy sườn phía tây của dấy núi. Từ trên đỉnh núi mù mây phủ họ nhìn thấy mặt nước bằng bao la của một đầm lầy mênh mông trải tới tận bờ bên kia thế giới. Song chẳng bao giờ họ gặp biển. Có một đêm, sau vài tháng lạc lối giữa những đầm nước, những đã cách rất xa nơi cuối cùng họ gặp những người Anhđiêng trên con đường mình đi, họ nghỉ lại bên bờ một con sông nhiều đá, nước trong như một dải pha lê đông lạnh. Nhiều năm sau này, đại tá Accađiô Buênđya định theo con đường ấy để đánh úp Riôacha và sau sáu ngày đi chàng hiểu rằng đó là một cơn điên. Tuy nhiên, cái đêm họ nghỉ lại bên cạnh sông ấy, những người đồng hành của cha chàng đều hoảng hốt như những người chết đuối không nơi bám víu, nhưng con số của họ đã tăng thêm trong cả quá trình vượt núi và tất cả bọn họ quyết sống (dĩ nhiên họ đã tìm cách) cho đến lúc đẩu bạc răng long. Đêm ấy Hôsê Accađiô Buênđya nằm mộng thấy ở ngay nơi đó một thành phố đông vui với những ngôi nhà có tường kính đã mọc lên. Ông hỏi đó là thành phố gì và ông được trả lời bằng một cái tên chưa bao giờ nghe thấy, một cái tên chẳng có ý nghĩa gì nhưng nó cứ vang đọng trong giấc mơ: Macônđô. Ngay ngày hôm sau, ông thuyết phục các bạn mình rằng sẽ chẳng bao giờ bọn họ tìm thấy biển. Ông hạ lệnh cho họ phát quang một vùng bên cạnh sông, nơi thoáng mát hơn và tại dó họ lập làng.
Trước hôm được biết nước đá, Hôsê Accađiô Buênđya vẫn chưa hiểu được ý nghĩa của giấc mộng về những ngôi nhà có tường kính. Sau hôm đó, ông những tưởng mình đã hiểu được ý nghĩa sâu xa của nó. Ông nghĩ rằng trong một tương lai không xa người ta có thể sản xuất hàng loạt các khối nước đá bằng vật liệu hết sức thông thường như nước lã, và dùng chúng để xây dựng những ngôi nhà mới cho làng. Lúc đó Macônđô sẽ không còn là một nơi nóng bức đến mức bản lề và chốt cửa bằng sắt cũng phải quăn lại vì hơi nóng, và trở thành một thành phố quanh năm là mùa đông. Nếu như ông không nôn nóng tiến hành xây dựng một nhà máy nước đá ngay là vì lúc ấy ông đang hào hứng với việc dạy dỗ các con mình, trước hết là Aurêlianô, cậu bé ngay từ đầu đã bộc lộ một năng khiếu đặc biệt về thuật làm vàng giả. Phòng thí nghiệm lúc nào cũng sạch bong không một vết bụi. Giờ đây, rất bình tâm, không náo nức trước điều kỳ ảo bằng việc xem lại những chỉ dân của Menkyađêt, ông cố tách vàng của Ucsula ra khỏi thứ hợp chất đóng chóc lại ở đáy chảo. Cậu thanh niên Hôsê Accađiô hầu như không tham gia công việc ấy. Trong khi cha cậu dốc toàn tâm toàn sức vào công việc trong ống nghiệm thì cậu cả, vốn là người thực làm theo ý mình, là người lớn trước tuổi, đã trở thành một chàng thanh niên lực lưỡng. Cậu vỡ giọng. Mép cậu đã lún phún mọc đầy lông tơ. Một đêm nọ, Ucsula bước vào phòng khi cậu đã cởi hết quần áo để đi ngủ. Bà thảng thốt cảm thấy vừa thẹn vừa thương. Đó là người đàn ông, sau chồng mình, bà thấy khỏa thân, và y đã được chuẩn bị chu đáo để vào đời và điều đó bà thấy không được bình thường. Lần thứ ba, Ucsula hoài thai, và lại sống lại những nỗi lo âu thuở mới lấy chồng.
Vào thời ấy, có một người đàn bà vui tính, ăn thô nói tục hay khơi chuyện, thường đến nhà, là người vẫn hay làm giúp các việc vặt trong nhà và biết bói bài. Ucsula đem chuyện con trai mình thổ lộ với thị. Bà nghĩ rằng cái cơ thể quá cỡ của con trai mình là một sự không bình thường như cái đuôi lợn của người chú họ. Người đàn bà bật một tràng cười ha hả vang vọng khắp nhà giống như một dòng thuỷ tinh ào chảy. Trái lại, thị nói, "cậu cả sẽ là người hạnh phúc đấy, bà ạ". Để khẳng định lời đoán số, vài ngày sau thị mang tới nhà một cỗ bài, rồi sau đó, một mình lẻn vào kho ngô ở gắn nhà bếp với Hôsê Accađiô và đóng chặt cửa lại. Thị điềm nhiên đặt cỗ bài lên chiếc bàn thợ mộc cũ, rồi liến thoắng nói rặt những chuyện không đâu, trong lúc đó chàng trẻ tuổi buồn chán hơn là thích thú ngồi bên cạnh thị chờ đợi. Bỗng nhiên thị giơ tay lên ôm choàng lấy anh. "Ôi tuyệt quá , thị nói một cách thảng thốt vẻ chân thành, và đó là điều duy nhất thị có thể nói được. Hôsê Accađiô cảm thấy gân cốt bủn rủn, sợ hãi và muốn khóc thét lên. Người đàn bà không hề dặn bảo anh điều gì. Nhưng suốt đêm ấy Hôsê Accađiô cứ lục tìm thị trong thứ mùi khói phả ra từ nách thị, và cái mùi ấy cứ bám lấy da thịt anh. Anh muốn lúc nào cũng được ở bên cạnh thị, muốn thị là mẹ mình. muốn rằng bọn họ, anh và thị không bao giờ sẽ ra khỏi kho ngô, muốn thị nói với mình ôi tuyệt quá, muốn thị lại ôm lấy mình rồi nói ôi tuyệt quá. Một ngày nọ, anh không thể chịu đựng thêm nữa và đã đến nhà thị để tìm thị.
Anh đến chơi nhà không được tự nhiên lắm, ngồi đợi ở phòng khách, không nói không rằng. Trong thời khắc ấy anh không thèm khát thị. Anh thấy thị hoàn toàn khác với hình ảnh mà cái mùi của thị khêu gợi; lúc này thị như một người đàn bà khát. Anh uống cà phê rồi từ biệt ngôi nhà ọp ẹp. Đêm ấy, trong nỗi sợ hãi do mất ngủ, anh lại da diết khát khao thị, nhưng lúc ấy anh không yêu thị như lúc ở trong kho ngô mà trái lại như trống cái buổi chiều ấy.
Mấy ngày sau, người đàn bà đột ngột gọi anh đến nhà mình vào lúc thị đang ở nhà với bà mẹ. Thị lôi anh vào buồng ngủ với cái cớ dạy anh chơi bài. Thế là thị tha hồ ôm anh, đến mức anh mất cả khoái cảm sau cú ngây ngất ban đầu, rồi anh cảm thấy sợ nhiều hơn là thích thú. Thị nũng nịu đòi anh phải đến tìm mình vào ngay đêm ấy. Anh đã trót đồng ý nhưng khi đi ra anh mới hiểu rằng không thể đi được. Song đêm ấy, trên cái giường nóng bỏng như than lửa, anh hiểu rằng cần phải đi tìm thị dù biết việc đó là không thể làm được. Anh sờ soạng mặc quần áo, tai lắng nghe trong bóng tối tiếng thở đều đều của cậu em, tiếng ho khan của cha mình ở phòng bên, tiếng hen khò khè của đàn gà mái ở ngoài sân, tiếng muỗi vo ve, tiếng thình thình của con tim mình đập và tiếng ồn ào của trời đất chưa bao giờ anh được nghe, rồi anh bước ra con đường đang im lìm ngủ. Anh thành tâm mong muốn cửa đã được cài then hẳn hoi chứ không chỉ khép lại như lời thị hứa với anh. Nhưng cửa vẫn chưa cài then.
Anh lấy ngón tay khẽ đẩy cánh cửa và thế là các bản lề rít lên cọt kẹt nghe vừa buồn vừa âm vang khiến anh lạnh cả gáy. Kể từ lúc anh bước vào, bằng cách lách vai nhẹ nhàng để không gây tiếng động, anh vẫn cảm thấy cái mùi ấy. Anh vẫn còn ở trong phòng khách là nơi ba người em trai thị mắc võng ở những vị trì mà cho đến lúc này anh không biết và trong bóng tối không thể xác định được, vậy là anh chỉ còn thiếu sờ soạng mà bước vào, mà đẩy cánh cửa phòng và đi đến nơi ấy làm sao không bị nhầm giường thì nằm. Anh tìm nó. Anh vấp phải dây võng mắc ở tầm thấp hơn là anh tưởng, và cái người đàn ông đang ngáy khò khò cho đến lúc ấy vẫn đang mộng mị, nói vẻ tỉnh khô: "Đó là ngày thứ tư". Khi đẩy cánh cửa buồng ngủ anh đã không thể tránh được cú vấp phải mép sàn nhà nhô cao.
Trong bóng đêm tối đen như mực, bỗng nhiên, với một nỗi nhớ nhung không thể đừng được, anh hiểu rằng mình đã hoàn toàn mất phương hướng. Trong phòng chật hẹp này có bà mẹ, cô em, người chồng và ba đứa con của cô ta đang ngủ, và cả người đàn bà nữa, mà có lẽ thị không đợi anh, cũng đã ngủ rồi. Có lẽ anh sẽ không lần theo cái mùi ấy nếu như nó không nồng nặc khắp nhà. Cái mùi đàn bà ấy vừa có vẻ hư hư lại vừa có vẻ thực thực như thể lúc nào nó cũng ở ngay trên làn da anh. Anh đứng im như thằng phỗng trong một lúc lâu mà ngạc nhiên tự hỏi lòng mình đã làm thế nào để đi tới cái vực thẳm trống trải này. Giữa lúc ấy có một bàn tay xoè rộng các ngón cũng đang sờ soạng trong bóng tối, đã đụng phải mặt anh. Cái bàn tay ấy không ngạc nhiên, vì dù không biết đích xác là anh, nó đang đợi anh.
Thế là anh tin cái bàn tay ấy và trong trạng thái mệt mỏi đến kinh khủng, anh đã để cho nó lôi tuột mình đến một chỗ không được tiện nghi lắm, là nơi nó lột truồng anh ra, nó mân mê anh như mân mê củ khoai, nó vần anh sang bên trái lại xoay anh sang phải, là nơi anh không ngửi thấy mùi đàn bà nữa mà chỉ thấy mùi nước đái quỷ, và là nơi anh định nhớ lại gương mặt thị thì anh lại hình dung ra gương mặt bà Ucsula; rồi anh hoang mang mà nhận ra rằng mình đang làm một việc mà từ lâu hằng mong muốn nhưng chưa bao giờ nghĩ rằng trên thực tế sẽ có thể được làm, không hề biết đang là nó như thế nào bởi không biết đâu là chân, đâu là đầu và cũng chẳng biết chân ấy là của ai, đầu ấy là của ái và anh cảm thấy mình không thể chịu đựng được hơn nữa trước cơn nhói biết nơi thận mình, trước cơn đau quắn nơi bụng mình, anh đâm phát hoảng và cảm thấy nỗi khao khát chếnh choáng vừa muốn được chạy trốn đồng thời vừa muốn được ở lại mãi mãi trong cái im lặng đầy thất vọng và cái cô đơn đáng sợ hãi này.
Người đàn bà ấy tên là Pila Tecnêra. Thị là một thành viên của đoàn người di cư đã lập nên làng Macônđô, bị gia đình lôi đi leo để tách thị ra khỏi gã đàn ông từng cưỡng hiếp thị vào lúc thị mới mười bốn tuổi, và theo đuổi thị đến năm thị hai mươi mốt tuổi, nhưng không bao giờ quyết định công khai quan hệ cửa hai người trước công chúng vì gã là con người sở khanh. Gã hứa sẽ theo thị đến cùng trời cuối đất, nhưng ngay sau đó, khi vấn đề đã êm đẹp đâu vào đó, thị cứ mòn mắt chờ trông, bằng cách đánh đồng gã với những người đàn ông cao lớn và cả với những người nhỏ bé thấp lùn, với những người đàn ông tóc hung và cả những người tóc đen, đó là những người mà quân bài hứa hẹn với thị rằng họ sẽ đến từ đường biển và từ đường bộ trong ba ngày, ba tháng hoặc ba năm. Trong lúc chờ đợi, thị đã đánh mất độ săn chắc của các bắp vế, độ căng phồng của bộ ngực, vẻ duyên dáng yểu điệu, nhưng lúc nào thị cũng giữ được con tim luôn bốc lửa tình. Cuồng nhiệt trước trò mê say ấy, đêm nào cũng vậy, Hôsê Accađiô đi tìm hơi thị bằng cách vượt qua cái mê cung ấy. Có những khi gặp cửa đóng then cài, anh đã gõ cửa vài lần, vì biết rằng đã có gan gõ lần thử nhất ắt phải gõ tới lần chót, và sau khi đã dai dẳng chờ đợi, anh được thị mở cửa.
Ban ngày, thiếp đi vì buồn ngủ, anh thầm ngậm nhấm khoái cảm đêm trước. Song khi thị bước vào nhà, vui vẻ, hồn nhiên, vẻ bông lơn, thì anh chẳng phải mệt sức để che giấu nỗi mệt mỏi của mình, bởi vì cái người đàn bà có tiếng cười giòn từng làm kinh động những con bồ câu ấy rất mãn nguyện đã dạy cho anh biết thở thật sâu, biết giữ cho tim không đập quá dồn dập và đã cho phép anh biết vì sao những người đàn ông lại sợ chết đến thế. Anh quá mải mê suy tư đến nỗi không hiểu niềm vui tràn trề của tất cả mọi người trước việc cha và em trai anh làm náo loạn cả nhà bằng cách loan tin đã nung chảy được chất hợp kim và đã tách được vàng của Ucsula.
Quả nhiên, sau những ngày làm việc cần cù đầy hứng thú, cha con Hôsê Accađiô Buênđya đã giành được kết quả. Ucsula rất sung sướng, đến mức bà phải cảm ơn Thượng đế về phát minh của thuật giả kim, trong lúc đó dân làng tụ tập trong phòng thí nghiệm và gia đình mời họ xơi mứt ổi với bánh qui để mừng kỳ tích, Hôsê Accađiô Buênđya cho họ xem cái nồi nấu kim loại với số vàng đã được lấy lại, làm như thể ông vừa chế được. Sau khi cho mọi người xem khắp lượt, cuối cùng ông mang nó đến trước mặt đứa con trai đầu lòng của mình, người trong thời gian gần đây hầu như không bước chân vào phòng thí nghiệm. Đặt trước mắt anh thứ kim loại khô khốc và vàng óng, rồi ông hỏi: "Con thấy thế nào?". Hôsê Accađiô chân thành trả lời cha:
- Cái đồ cứt chó ấy mà!
Cha anh liền vả một cái tát trái vào miệng anh đến là đau, làm cho anh phải chảy máu và ứa nước mắt. Đêm ấy Pila Tecnêra dán thuốc cao lên chỗ sưng, mò mẫm trong bóng tối tìm chai rượu và bông và làm tất cả những gì thị muốn nhưng không làm anh khó chịu, để yêu anh mà không làm anh đau đớn. Bọn họ trở nên thân thiết, chỉ ít phút sau, không ai bảo ai, đã thầm thì to nhỏ nói chuyện với nhau:
- Anh muốn chỉ một mình em bên anh, - anh nói, - một ngày gần đây, anh sẽ kể hết chuyện chúng mình cho mọi người biết để kết thúc những trò vụng trộm luôn một thể.
Thị không định ngăn cản anh.
- Thế thì rất hay, - thị nói, - nếu chỉ có mình chúng mình với nhau thôi, chúng mình sẽ thắp đèn sáng để nhìn nhau cho sướng và em có thể gào to tất cả những gì em thích không còn lo một ai quấy rối, và anh sẽ thì thào bên tai em tất cả những lời tục tĩu anh nghĩ ra được.
Buổi trao đổi này, nỗi căm tức cha mình, và khả năng khẩn cấp của mối tình quá trớn, đã làm cho anh thêm bạo dạn rồi đột ngột, anh kể tất cả cho em trai mình nghe.
Thoạt đầu, Aurêlianô chỉ hiểu được nỗi nguy hiểm và những tai hoạ sẽ xảy ra do các cú liều mạng của anh trai mình gây nên, nhưng cậu vẫn chưa cảm nhận được cái khoái cảm đến đê mê của câu chuyện. Rồi niềm khao khát dần dần xâm chiếm cậu. Cậu bắt người anh kể tỉ mỉ những tình tiết li kì, đồng cảm với nỗi đau đớn ê chề và mềm lạc thú của ông anh, cậu cũng thấy bồi hồi lo âu và sung sướng. Cậu thức đợi ông anh mình cho đến gần sáng, cứ trằn trọc bồi hồi trên cái giường như có ai bỏ than đỏ vào, và khi ông anh trở về, cả hai người đều tỉnh như sáo nói chuyện cho đến lúc dậy, vì vậy mà chẳng bao lâu cả hai anh em đều lử đử lừ đừ, chán ngấy thuật giả kim và kiến thức uyên bác của cha mình và cả hai đều trốn vào cõi cô đơn.
"Bọn trẻ nhà này cứ như những thằng đần, lúc nào cũng thẫn thờ", Ucsula nói. "Có lẽ chúng bị giun quấy đấy". Bà chuẩn bị cho họ một tô nước thuốc lá paicô (3) và cả hai người điềm nhiên uống, rồi chỉ trong một ngày họ đã mười một lần ngồi vào bô, thải ra một vài con giun màu hồng hồng. Hai anh em thích thú chìa cho mọi người xem vì chúng cho phép họ đánh lạc hướng Ucsula về căn nguyên cái bệnh buồn phiền của họ. Lúc đó Aurêlianô không chỉ hiểu mà còn có thể cảm nhận những kinh nghiệm tình dục của ông anh như chính mình đã trải qua, bởi vì có một lẩn khi người anh kể rất tỉ mỉ về cách thức làm tình như thế nào, thì cậu đã ngắt lời hỏi: "Anh cảm thấy như thế nào?"... Không ngần ngừ, Hôsê Accađiô trả lời ngay:
- Như thể trời rung đất chuyển ấy.
Vào lúc hai giờ sáng một ngày thứ năm trong tháng Giêng, Amaranta đã ra đời. Trước lúc chưa có ai vào phòng, Ucsula xem xét khắp người đứa hài nhi. Nó nhẹ tênh và căng mọng như một con thằn lằn non, nhưng tất cả các bộ phận trên người nó đều thuộc giống người. Aurêlianô chỉ biết tin vui khi thấy mọi người kéo đến nhà mình rất đông. Để trốn tránh sự ồn ĩ này, cậu ra khỏi nhà đi tìm ông anh, người đã bỏ trống giường từ lúc mười một giờ, và đó là một quyết định đột ngột đến mức cậu không kịp tự hỏi làm thế nào để lôi được anh mình ra khỏi phòng Pila Tecnêra. Cậu đi quanh nhà thị vài giờ liền, cứ huýt sáo làm hiệu liên tục cho đến khi buổi bình minh buộc cậu phải trở về. Trong phòng của bà mẹ, cậu bắt gặp Hôsê Accađiô với bộ mặt tỉnh bơ, đang chơi với cô em gái mới sinh.
Ucsula hầu như vừa kết thúc kì nghỉ đẻ bốn mươi ngày thì những người digan cũng vừa tới làng. Đó chính là những người làm xiếc và những người múa rối từng mang nước đá đến đây.
Khác với nhóm người của Menkyađêt, chẳng bao lâu bọn họ đã trưng bày các thứ hàng hóa tiêu xài chứ không như trước đây chỉ có những thành tựu của tiến bộ khoa học. Khi mang nước đá đến, họ đã không quảng cáo mặt ích lợi phục vụ cho đời sống con người mà chỉ quảng cáo nó như một trò ảo thuật đơn thuần. Lần này, bên cạnh các trò tiêu khiển khác, họ mang đến một cái thảm bay. Họ không giới thiệu nó như một đóng góp cơ bản cho sự phát triển giao thông mà giới thiệu nó như một thứ đồ chơi. Dĩ nhiên dân chúng moi nốt những mẩu vàng cuối cùng để thưởng thức cú bay vù vù trên các nóc nhà trong làng.
Lợi dụng sự tha thứ đầy thú vị của công chúng đang ồn ào, Hôsê Accađiô và Pila Tecnêra đã sống những giờ tự do. Họ là hai người tình ngây ngất hạnh phúc giữa đám đông đến mức tưởng rằng tình yêu còn sâu sắc và lắng đọng hơn cả cái khoái lạc tột dình và tức thời của họ trong những đêm vụng trộm. Tuy vậy Pila Tecnêra lại phá tan cái niềm vui ấy. Phấn chấn hẳn lên trước đam mê của Hôsê Accađiô lúc đang tận hưởng hạnh phúc đôi lứa, thị nhầm lẫn cách thức nói và lúc cần nói, đã bỗng nhiên chụp lên đầu anh một trách nhiệm nặng nề bằng cả quả địa cầu. "Giờ đây, anh đã là một người đàn ông rồi đấy", thị nói với anh. Và vì anh không hiểu điều thị vừa nói, thị thong thả giải thích cặn kẽ:
- Nghĩa là anh sẽ có một đứa con trai.
Trong vài ngày liền, Hôsê Accađiô không dám ra khỏi nhà. Chỉ cần nghe thấy tiếng cười khanh khách của Pila Tecnêra là đã đủ để anh trốn vào phòng thí nghiệm, là nơi những thứ đồ thủ công mỹ nghệ, thành quả của thuật giả kim, đang sống lại nhờ lòng từ thiện của Ucsula. Hôsê Accađiô Buênđya vồn vã đón đứa con lầm lạc và hướng dẫn anh tập sự trong công việc mẩy mò của thuật giả kim đã được ông hiểu cặn kẽ. Một chiều nọ, hai anh em rất phấn khởi trước tấm thảm bay ngang tầm cửa sổ phòng thí nghiệm mang theo người digan lái và vài em nhỏ trong làng đang vui vẻ vẫy tay chào, và Hôsê Accađiô Buênđya không thèm nhìn tấm thảm bay. "Cứ để họ mơ mộng", ông nói, "chúng ta sẽ bay cao hơn bọn họ với phương tiện khoa học hơn cái thảm bay thảm hại này". Dẫu đang phải giả vờ làm ra vẻ hứng thú với công việc, Hôsê Accađiô không bao giờ có thể hiểu được những khả năng kỳ vĩ của lò luyện đá giả kim mà đối với anh nó chỉ đơn giản là một bình thuỷ tinh làm tồi quá. Anh biếng ăn, mất ngủ, cáu kỉnh, giống hệt cha mình lúc ông phải đối mặt với những thất bại trong một số công việc và trạng thái thất thường ấy của anh đã buộc ông phải thay anh làm mọi công việc trong lò luyện đá giả kim vì nghĩ rằng công việc này làm anh quá lao lực. Aurêlianô dĩ nhiên hiểu rằng nỗi đau khổ ấy của ông anh mình không liên quan gì đến lò luyện đá giả kim, nhưng cậu không tài nào làm cho anh thổ lộ với mình điều sâu kín kia. Hôsê Accađiô không còn hiếu động như trước. Từ một người hóm hỉnh và cởi mở anh trở thành một kẻ kín đáo và khó tính. Quá ưa thích nôi cô đơn, lúc nào cũng giận hờn xung quanh, một đêm nọ, như mọi bữa anh lại để trống giường bỏ đi ra ngoài, nhưng không đến nhà Pila Tecnêra mà đi thẳng một mạch đến hội chợ. Sau khi dạo khắp các trò vui, không thích thú trước bất kỳ trò thơi nào, anh để ý đến một người không diễn trò, một cô gái digan rất trẻ, hầu như còn đang ở tuổi thơ, đeo đầy cổ những hạt pha lê giả ngọc. Đó là một người đàn bà đẹp nhất cho đến lúc ấy anh được biết. Anh đang ở giữa đám người mải mê xem trò diễn một người đàn ông biến thành con rắn vì không nghe lời bố mẹ.
Hôsê Accađiô không để ý xem. Trong lúc diễn ra cuộc tra hỏi người đàn ông - con rắn, anh len lỏi giữa đám đông để đi tới nàng người đầu tiên là nơi anh gặp cô gái digan, dừng lại phía sau cô ta. Từ phía sau, anh ôm lấy thắt lưng cô ta. Cô ta cố vùng ra nhưng Hôsê Accađiô càng ôm chặt hơn. Vậy là cô đã rung động, đứng im nhưng vẫn quay lưng lại anh, run rẩy vì ngạc nhiên và sợ hãi mà không thể tin điều đó là sự thực, cuối cùng cô ngoảnh mặt lại, với nụ cười run rẩy cô nhìn anh. Trong lúc ấy hai người đàn ông digan lùa người đàn ông con rắn vào túi và mang vào bên trong quán hàng. Một người digan trưởng trò quay ra phía công chúng nói:
- Thưa quý ông quý bà, bây giờ chúng tôi xin trình diễn tiết mục kinh rợn về một người đàn bà, đêm nào cũng như đêm này, đều bị chặt đầu vào đúng giờ này trong suốt một trăm năm mươi năm vì tội đã dám nhìn cái không nên nhìn.
Hôsê Accađiô và cô gái không xem tiết mục chặt đầu người đàn bà. Họ đi về quán của cô, là nơi với nỗi thèm khát tuyệt vọng họ thỏa sức hôn nhau trong lúc cởi quần áo. Cô gái digan cởi hết những chiếc áo ngoài, những chiếc váy lót, chiếc coóc-xê đệm nhiều lần vải, chuỗi hạt pha lê giả ngọc thì bộ ngực căng và đôi mông nở trước đây bỗng biến đi mất. Thực ra cơ thể cô giống như một cành khô, ngực lép, vế teo không bằng cánh tay của Hôsê Accađiô, nhưng lại có được cái vẻ dạn dĩ và cái hơi nồng ấm kéo lại. Tuy nhiên, Hôsê Accađiô không thể đáp ứng ngay cơn cuồng nhiệt của cô, bởi họ đang nằm trong một cái quán công, là nơi những người digan qua lại luôn, lúc thì mang các dụng cụ làm xiếc, lúc thì hoá trang, có lúc họ tụ tập bên cạnh giường chơi một ván xúc xắc. Ngọn đèn treo trên một cây cột ở giữa bãi soi sáng xung quanh. Lúc họ thôi không mân mê nhau, Hôsê Accađiô trần truồng nằm duỗi thẳng cẳng trên giường, không biết làm gì thêm, thì cô gái cố làm trò khêu gợi anh. Sau đó, có lúc có một ả digan da dẻ bóng mượt bước vào, theo sau là một người đàn ông, vốn không phải là người cùng gánh xiếc cũng không phải là người làng này. Và rồi cả hai cùng cởi quần áo ngay trước giường Hôsê Accađiô đang nằm. Không có ý định trêu ngươi anh, người đàn bà nhìn Hôsê Accađiô, với lòng đầy thèm khát, háo hức ngắm nghía con vật trứ tuyệt của anh đang nghỉ ngơi.
- Ôi, anh bạn? - Ả reo lên. - Cầu Thượng đế sẽ che chở cô em cho anh bạn nhé.
Người bạn gái của Hôsê Accađiô yêu cầu để cho họ được yên và cái đôi ấy nằm xuống nền nhà ngay cạnh giường. Nỗi đam mê của những người khác đánh thức cơn hăng của Hôsê Accađiô. Ngay từ phút đầu, các xương hóc cô gái dường như long ra kêu ràn roạt như những quân đôminô chạm vào nhau, trên da cô nhớp nhúa thứ mồ hôi nhờ nhờ vàng, đôi mắt cô giàn giụa lệ cả người cô phát ra tiếng kêu ư ứ và phát ra thứ mùi bùn cứ lẩn vẩn đây đó. Nhưng cô gái dai sức đã vượt qua cú chung đụng với một tính cách kiên cường và một sự dũng cảm đáng khâm phục.
Lúc ấy Hôsê Accađiô cảm thấy mình bị nâng bổng lên đến trạng thái khó thở là nơi trái tim anh tan ra trong một cái giếng nhục dục êm dịu đang chảy vào cô gái theo các lỗ tai và chui ra qua lỗ miệng biến thành những lời được dịch sang ngôn ngữ của cô. Đó là thứ năm. Đêm thứ bảy, đầu đội một chiếc khăn đỏ, Hôsê Accađiô bỏ nhà ra đi cùng với những người digan.
Khi Ucsula thấy anh vắng mặt vội đi khắp làng tìm anh. Tại khu lán tan hoang, không có gì hơn là một dòng nước bẩn giữa những đám tro còn nóng trong các bếp đã dập lửa. Một người đang tìm những hạt pha lê giả ngọc trong đống rác, nói với Ucsula rằng đêm qua họ đã nhìn thấy con trai bà lẫn trong đám người digan ồn ào, tay đẩy chiếc xe cũi trong nhất người-rắn.
"Thế là nó theo bạn digan rồi", bà gào lên bên tai ông, người không tỏ một dấu hiệu lo lắng nào trước tin con trai mất tích.
- Cầu Chúa đúng như thế, - Hôsê Accađiô Buênđya nói và vẫn nghiền cái chất liệu đã được nghiền ngàn lần trong cối, đã được nung rồi lại nghiền. - Như vậy nó sẽ học để làm người.
Ucsula hỏi mọi người bọn digan đi về hướng nào. Trên đường đi bà lại hỏi, người ta lại chỉ cho, bà tiếp tục đi vì nghĩ rằng vẫn còn thời gian để đuổi kịp con trai. Cứ như thế bà đi ngày một xa làng hơn cho đến khi nhận ra mình đã ở cách làng quá xa đến mức không nghĩ sẽ trở về. Hôsê Accađiô Buênđya chỉ phát hiện ra sự vắng mặt của vợ mình vào lúc tám giờ tối, khi ông đặt chất hợp kim được nấu lại trên một lớp mùn và đi xem vì sao bé Amaranta khóe đến khản tiếng. Ít giờ sau, ông tập hợp một nhóm đàn ông nai nịt gọn gàng, đặt bé Amaranta vào tay một bà nhận cho bú chực, rồi đi tìm Ucsula. Aurêlianô cũng cùng đi với họ. Những ngư dân người Anhđiêng, bằng điệu bộ, đã ra hiệu cho họ biết rằng không thấy ai đi qua kể từ sáng sớm đến giờ. Sau ba ngày tìm kiếm vô ích, những người đi tin trở về làng.
Trong vài tuần, Hôsê Accađiô Buênđya hoàn toàn chịu thất vọng. Ông chăm nom bé Amaranta như một người mẹ. Ông tắm, thay quần áo cho bé rồi ban ngày, bốn lần mang bé đi xin bú, và ban đêm ông hát ru bé ngủ, vốn là việc Ucsula chưa từng làm. Có lần Pila Tecnêra tự nguyện đến xin đỡ đần công việc nội trợ cho đến khi nào Ucsula trở về. Aurêlianô, mà linh cảm kỳ lạ của cậu vốn đã cảm thấy thị là kẻ thủ phạm gây ra nỗi bất hạnh này, quắc mắt nhìn thị khi thị bước vào. Vậy là cậu biết rằng dù dưới hình thức nào đi nữa thị cũng là kẻ có tội trong việc ông anh trai bỏ đi và tiếp đó, bà mẹ cậu mất tích, rồi bằng cách đó cậu đã thầm lặng và kiên quyết kết tội thị khiến cho người đàn bà này không dám bén mảng tới nhà nữa.
Với thời gian trôi đi mọi việc lại đâu vào đấy. Hôsê Accađiô Buênđya và con trai ông không hay biết vào lúc nào họ lại làm việc trong phòng thí nghiệm, nào lau bụi, nào đất lửa cho ống nghiệm, rồi lại mải mê tiến hành công việc bào chế các chất hợp kim đã vài tháng nay ngủ yên trên lớp mùn. Ngay đến bé Amaranta, nằm gọn trong chiếc nôi mây, cũng tò mò quan sát công việc lặng lẽ của cha và anh mình trong căn phòng lạ kì hẳn đi vì hơi thuỷ ngân. Sau mấy tháng Ucsula biệt tích, có một lần đã xảy ra những sự việc lạ lẫm. Một bình thuỷ tinh rỗng nằm trên tủ từ lâu từng bị người ta bỏ quên, bỗng nặng đến mức không thể xê dịch được. Một nồi đựng nước lọc đặt trên bàn làm việc, không hề có lửa đun ở dưới, cũng tự nhiên sôi sùng sục và chỉ trong nửa giờ đã cạn sạch nước. Hôsê Accađiô Buênđya và con trai ông thảng thốt nhìn những hiện tượng đó mà không thể giải thích được, nhưng rồi họ cứ khăng khăng cho chúng là điềm báo trước của chất hợp kim sẽ ra đời. Một ngày nọ, chiếc nôi của bé Amaranta tự nó quay tròn rồi đi xung quanh căn phòng trước nỗi hoảng hốt của Aurêlianô, người đã vội vàng chạy đến giữ lại. Nhưng cha cậu vẫn cứ điềm nhiên như không. Ông đặt chiếc nôi trở lại chỗ cũ rồi cột nó vào một chân bàn, lòng tin rằng cái sự kiện hằng mong đợi hẳn sẽ phải xảy ra nay mai. Đúng lúc ấy Aurêlianô nghe thấy cha mình nói:
- Nếu không sợ Thượng đế thì hãy sợ kim loại vậy!
Bỗng nhiên Ucsula trở về sau gần năm tháng mất tích. Bà trở về với vẻ hớn hở, trẻ trung, mặc bộ váy áo lạ kiểu đối với người làng. Hôsê Accađiô Buênđya mừng mừng tủi tủi hầu như không thể cưỡng lại cứ ôm hôn bà. "Chao ôi, ra thế cơ đấy!", ông nói như gào: "Tôi biết sẽ xảy ra mà" và thực tình ông tin, bởi vì trong những buổi ở lý trong phòng khi bào chế hợp chất, từ trái tim mình ông đã cầu cho sự kiện đang háo hức chờ đợi sẽ không phải là kết quả mỹ mãn của thuật giả kim, cũng không phải là sự giải thoát khỏi bễ lò đang thổi lửa nung chảy kim loại, cũng không phải phép biến bản lề, khoá cửa ở nhà này thành vàng, mà là cái sự kiện vừa xảy ra: Cuộc trở về của Ucsula. Nhưng bà không chia sẻ niềm vui ồn ĩ của chồng mình. Bà hôn ông theo lệ như thể bà vắng nhà chưa quá một giờ đồng hồ, rồi bảo ông:
- Mình hãy ra ngoài đi!
Khi ra đường và nhìn ngắm đám đông, Hôsê Accađiô Buênđya mãi mới định thần được. Họ không phải là bọn digan. Họ là những người đàn ông và đàn bà y hệt dân làng này, cũng có mái tóc mềm và nước da nâu, cũng là những người nói chính tiếng nói của ông và cũng thở than về cạnh những nỗi đau khổ ấy. Họ mang theo những chú lừa thồ thức ăn, những chiếc xe bò chở bàn ghế và dụng cụ nấu ăn, vốn là những thứ hàng giản dị và thiết cốt được những người bán hàng bày bán không phải quảng cáo. Họ tới đây từ bờ bên kia của đầm lầy, cách Macônđô khoảng hai ngày đường, là nơi các làng hàng tháng đều đặn nhận thư từ bưu điện và đã làm quen với các máy móc sản sinh nhiều lợi ích. Ucsula không đuổi kịp bọn digan, nhưng bà gặp được con đường mà chồng mình không thể phát hiện ra trong chuyến tìm kiếm những phát minh vĩ đại đã thất bại.
Chú thích:
(1) Một vùng phía Tây Bắc nước Tây Ban Nha.
(2) Tiếng tôn xưng: ngài, ông...
(3) Paicô - một thứ cây thuộc họ rau muối sản ở châu Mỹ, lá có vị chát có thể tẩy được giun.
CHƯƠNG 3
Đứa con trai của Pila Tecnêra được mang về nhà ông bà nó sau hai tuần cất tiếng chào đời. Ucsula miễn cưỡng thừa nhận nó, bởi lại một lần nữa bà phải nhượng bộ tính gàn của chồng mình, người kiên trì giữ ý nghĩ rằng không thể để cho con cháu ông cù bơ cù bất trong cuộc đời, nhưng bà đã đặt điều kiện là không bao giờ cho đứa trẻ biết rõ gốc gác của nó. Mặc dù đứa trẻ mang tên Hôsê Accađiô, nhưng ông bà quyết định để tránh nhằm lẫn sẽ chỉ gọi chọc lỏn là Accađiô. Vào thời ấy ngoài làng có nhiều hoạt động xã hội và trong nhà có lắm công nhiều việc, cho nên việc chăm sóc trẻ lui xuống hàng thử yếu. Những đứa trẻ được giao phó cho Visitaxiôn, một cô thôn nữ người Anhđiêng, vì phải chạy trốn bệnh dịch mất ngủ từ vài năm nay đang hoành hành ở bộ tộc mình đã đến làng này cùng với em trai. Cả hai chị em đều hiền lành, ngoan nết và chịu thương chịu khó, vì vậy bà Ucsula đã tin cậy giao cho họ giúp mình công việc trong nhà. Bởi thế mà Accađiô và Amaranta đã nói tiếng của người thổ dân trước khi biết nói tiếng Tây Ban Nha, tập húp nước súp thịt thằn lằn và ăn trứng nhện mà Ucsula không hay biết, bởi vì bà đang mải công việc kinh doanh kẹo nặn hình con giống, một nghề nhiều triển vọng. Macônđô đã thay đổi hẳn. Những người cùng đến với Ucsula đã biết cách khai thác đất đai màu mỡ và vị trí địa lý nhiều ưu thế của Macônđô so với vùng đầm lầy, do đó chẳng bao lâu cái làng xác xơ nhanh chóng trở thành một làng nhộn nhịp có các cửa hiệu và xưởng thủ công và một phố buôn bán thường xuyên ở nơi những người A-rập đi giày păngtup và tai đeo khuyên đầu tiên đến đây để đổi những chuỗi hạt pha lê giả ngọc lấy những con vẹt đuôi dài. Hôsê Accađiô Buênđya không có lấy một lúc nghỉ ngơi.
Hào hứng trước một thực tế mà lúc này đối với ông còn huyền ảo hơn cả cái thế giới bao la trong trí tưởng tượng của mình, ông mất luôn hứng thú với công việc ở phòng thí nghiệm giả kim, bỏ mặc cái chất kim loại đã được nung đi nấu lại trong nhiều tháng liền để trở lại con người năng nổ như trước đây từng quyết định vạch những con đường và xây cất các ngôi nhà sao cho không một ai được hưởng nhiều thuận lợi hơn những người khác. Ông có uy tín cao đối với những người mới tới làng, đến mức những người này muốn đào móng xây nhà hoặc muốn rào vườn đều phải đến xin ý kiến ông trước, và ông được mọi người bầu là người đầu tiên quyết định chia lại đất đai của làng. Khi những người digan làm trò ảo thuật trở lại, lần này quầy hàng di động của họ đã trở thành một cửa hàng khổng lồ có các trò chơi may rủi, thì bọn họ đã được đón tiếp nồng nhiệt vì người ta nghĩ rằng Hôsê Accađiô sẽ cùng trở về. Nhưng Hôsê Accađiô đã không trở về, và bọn người digan này cũng không mang theo người- rắn, mà theo như Ucsula nghĩ thì cái gã người-rắn ấy sẽ là kẻ duy nhất có thể cho bà biết được sự thực về con mình, thế là bà đã không cho phép những người digan dừng lại mở cửa hàng và trong tương lai cũng sẽ không được đặt chân lên đất làng này bởi vì bọn họ đã bị lên án là những sứ giả của trò dâm dục và đồi bại. Nhưng Hôsê Accađiô Buênđya lại tỏ ra rất sáng suốt trong ý nghĩ rằng bộ tộc của Menkyađêt, cái bộ tộc bằng những hiểu biết lâu đời và những phát minh kỳ diệu từng đóng góp rất nhiều vào sự trưởng thành của làng Macônđô, lúc nào cũng được mở rộng cửa đón tiếp. Nhưng bộ tộc Menkyađêt, theo như lời những kẻ giang hồ, đã bị xoá khỏi lặt đất này bởi tội dám cả gan vượt qua những giới hạn hiểu biết mà Thượng đế đã phán quyết cho con người.
Thoát khỏi sự dằn vặt của những ham muốn huyễn hoặc, ít ra là trong thời gian này, Hôsê Accađiô Buênđya đã ổn định được nếp sống của làng trong kỷ cương và lao động, và cho phép thả những chú chim từ thời thành lập làng đã làm vui nhộn bầu không khí với tiếng hót của chúng, thay vào đó ông cho lắp dông hồ nhạc ở các nhà. Đó là những chiếc đồng hồ quý giá làm bằng gỗ được bào nhẵn mà những người Arập đổi cho dân làng để lấy những chú vẹt đuôi dài, và Hôsê Accađiô Buênđya đã điều khiển cho không cùng chạy một cách chính xác đến mức cứ nửa giờ một, dân làng vui vẻ hẳn lên trong tiếng nhạc hoà đồng dường như phát ra từ một chiếc đồng hồ duy nhất. Hôsê Accađiô Buênđya là người trong những năm ấy quyết định trồng những cây hạnh đào thay cho những cây keo dọc khắp các con đường và ông cung chính là người phát hiện ra nhưng không bao giờ tiết lộ các biện pháp khiến chúng trường tốn. Rất nhiều năm sau này, khi làng Macônđô trở thành một trại tập trung gồm những ngôi nhà tường gỗ mái lợp tôn, thì trên những con đường cổ kính vẫn còn những cây hạnh đào già cỗi phủ đầy bụi đường mặc dù lúc ấy không một ai biết người nào đã trồng chúng. Trong lúc cha lo sắp đặt công việc chung của làng và mẹ lo làm những chiếc kẹo hình con gà và con em cắm trên những chiếc que được mang ra chợ bán một ngày hai lần để tăng thu nhập gia đình, thì Aurêlianô say đắm ở lỳ trong phòng thí nghiệm bỏ không để nghiên cứu nghề mỹ nghệ vàng bạc. Cậu làm chỉ đơn thuần vì hứng thú riêng. Trong một thời gian ngắn Aurêlianô lớn ngồng lên, đến mức đã không mặc vừa quần áo cũ của anh trai và phải mặc quần áo của cha, nhưng Visitaxiôn lại phải chít nách áo và may hẹp ống quần lại vì cậu vẫn chưa có được thân hình vâm váp của cha và anh mình. Tuổi thanh niên đã lấy đi mất của Aurêlianô giọng nói ngọt ngào và đã khiến cho cậu trở nên lầm lỳ ít nói và cô đơn, nhưng trái lại nó cũng trả cho cậu sức biểu cảm mãnh liệt vốn có từ thuở lọt lòng mẹ trong đôi mắt. Aurêlianô tập trung quá sức vào những việc thực nghiệm kim hoàn đến mức hầu như không ra khỏi phòng thí nghiệm để đi ăn cơm. Lo lắng trước sự tập trung trí tuệ đến cao độ của con trai, Hôsê Accađiô Buênđya liền đưa cho cậu chìa khoá cửa và một ít tiền, vì ông nghĩ rằng có thể con trai mình thiếu gái ở bên cạnh. Nhưng Aurêlianô dùng khoản tiền đó mua axit clohydrich để tạo ra dung dịch axit clohydrich rồi cậu làm cho những chiếc chìa khoá bóng lộn nhờ một lớp vàng mạ bên ngoài. Những tính nết khác thường ấy của Aurêlianô cũng phù hoạ với Accađiô và Amaranta mà lúc này tuy đã thay răng nhưng đi đâu cũng bám lấy gấu quần những người Anhđiêng và rất ương bướng không chịu bỏ thổ ngữ để nói tiếng Tây Ban Nha. "Mình chẳng còn phải kêu ca gì nữa nhé", Ucsula nói với chồng mình: "Con cái thừa kế tính điên khùng của cha mẹ chúng". Trong lúc bà than vãn về số phận hẩm hiu của mình mà lòng tự thấy rằng những sự trái thói trái tính của các con trai mình quả thật cũng đáng kinh sợ như cái đuôi con lợn, thì Aurêlianô mơ màng nhìn bà:
- Có người sẽ đến nhà mình đấy! - cậu bảo mẹ.
Vì lâu nay cậu vẫn thường nói về những điềm báo, nên Ucsula, với thứ lý lẽ thông thường của mình, định làm cậu cụt hứng. Người đến nhà là chuyện bình thường. Hàng chục người lạ mặt vãng lai qua làng Macônđô mà chẳng khiến ai ngạc nhiên cũng chẳng thông báo điều gì bí mật. Tuy nhiên, bất chấp những lý lẽ thông thường ấy, Aurêlianô vẫn khẳng định điều mình tiên đoán:
- Con không biết là ai? - cậu nói, - nhưng người đến đây hiện đang trên đường đi.
Quả nhiên, Rêbêca đã đến vào một ngày chủ nhật. Cô bé chưa đến tuổi mười một. Cô bé đã phải vất vả đi từ Manaurê đến đây cùng với những người buôn da là những người có nhiệm vụ giao lại cô bé và bức thư tại nhà Hôsê Accađiô Buênđya, nhưng cũng chính những người này không thể giải thích rõ ràng ai là người đã nhờ cậy họ. Tất cả hành trang của cô bé gồm một cái hòm nhỏ đựng quắn áo, một chiếc ghế xích đu gỗ và một bao tải gai trong đó đựng hài cất của bố mẹ nó, những thứ vẫn thường kêu lộc cộc, lộc cộc, lộc cộc khi va chạm vào nhau. Bức thư gửi cho Hôsê Accađiô Buênđya được viết bằng những từ ngữ âu yếm thổ lộ tình cảm của người dù xa cách lâu ngày vẫn yêu thương ông và bởi một tình cảm rất thân ái, người đó tự thấy mình phải nhờ vả gia đình ông trông nom cô bé mồ côi không nơi nương tựa này và kể rằng cô bé là một người họ hàng tất gần với Ucsula và do đó cũng là chỗ thân tình của Hôsê Accađiô Buênđya tuy có xa hơn chút ít, bởi vì cô bé là con gái của một người bạn không thể nào quên được tên là Nicanô Udôa và người vợ cao quý của ông ta tên là Rêbêca Môntiên. Đó và những người đang được Thượng đế che chở trên thiên đường của Người, và hài cất của họ đã được thu lại để gia đình ông mai táng dưới phần mộ những con chiên của chúa Crixtô.
Những tên tuổi được dẫn ra cúng như chữ ký trong lá thư đều hoàn toàn rõ ràng, nhưng cả Hôsê Accađiô Buênđya lẫn Ucsula đều nhớ rằng mình không có ai thân quen có những tên ấy, kể cả tên người gửi thư và ở làng Manaurê xa xưa ấy càng không thể có ai mang những tên ấy. Qua cô bé họ cũng không thể tìm dược những tin tức đầy đủ hơn. Kể từ lúc đến, cô bé ngồi trên ghế xích đu, mút tay và với đôi mắt to sợ sệt quan sát tất cả mọi người, không hề tỏ vẻ rằng mình có hiếu hay không hiểu những điều người ta hỏi. Cô bé mặc quần áo vải điagônan dệt sọc đen đã sờn rách và đôi ủng màu vécni đã thủng, tóc vén qua mang tai buộc bằng những chiếc nơ đen. Cô bé còn mặc một chiếc áo choàng thêu không tay bị mồ hôi làm phai bạc đi, và trên cổ tay phải đeo một chiếc răng thú dữ cắm trên đế đồng, nó tựa như một chiếc bùa hộ mạng. Nước da cô bé xanh tái, cái bụng tròn vo và căng phồng giống như mặt trống, tất cả đều chứng tỏ cô bé rất bệnh hoạn và đói ăn lâu ngày. Nhưng khi được người ta cho ăn thì cô bé ngồi yên, đặt bát thức ăn trên đùi mà không hề nếm thử. Mọi người cứ đinh ninh rằng cô bé bị bệnh câm điếc cho tới khi những người Anhđiêng dùng thổ ngữ hỏi cô bé có muốn uống nước không thì đôi mắt cô bé chơm chớp làm ra vẻ hiểu họ và gật đầu xin nước.
Không còn cách nào khác là gia đình buộc phải nhận nuôi cô bé. Mọi người quyết định gọi cô bé là Rêbêca cho hợp với tên mẹ vì Aurêlianô đã đủ kiên nhẫn ngồi trước mặt nó đọc hết các tên thánh nhưng cậu không nhìn thấy một phản ứng nào, dù rất nhỏ, trên gương mặt cô bé. Trong thời gian ấy, ở làng Macônđô chưa có nghĩa địa, vì cho đến lúc này vẫn chưa có ai chết và thế là gia đình buộc phải cất giữ chiếc bao tải đựng hài cất cho tới khi nào có địa điểm xứng đáng để mai táng. Trong thời gian khá lâu chúng vương vãi khắp nơi, bị bắt gặp ở những nơi ít ngờ nhất thường kèm với tiếng kêu quang quác của chú gà hay bới. Phải mất một thời gian dài, Rêbêca mới làm quen với cuộc sống ở nhà này. Cô bé ngồi trên ghế xích đu, mút tay chùn chụt ở trong xó nhà vắng vẻ nhất. Chỉ có tiếng nhạc phát ra từ đồng hồ là cái duy nhất khiến cô bé chú ý. Cứ nữa giờ một, với đôi mắt thảng thốt, cô đón nghe như thể đang chờ đợi âm nhạc ấy ở một nơi tráng gió nào đó. Trong vài ngày liền, gia đình không làm sao mời cô ăn cơm được. Không một ai hiểu nổi làm sao cô bé không chết đói, cho đến khi những người Anhđiêng, những người biết tất cả vì họ nhẹ nhàng chạy đi chạy lại khắp nhà, đã phát hiện ra rằng Rêbêca không thích ăn cơm mà trái lại chỉ thích ăn đất ẩm ngoài sân và đất vách do cô ta dùng ngón tay cậy ra từ các bức tường. Rõ ràng là cha mẹ cô hoặc bất kì người nào nuôi dưỡng cô bé từng quở mắng nó vì cái tật xấu ấy bởi thế cô bé đã ăn vụng với ý thức rõ ràng đó là một tội lỗi. Cô bé cứ lén lấy những mảng đất vách giấu đi để ăn khi không có ai nhìn thấy. Từ đó trở đi người ta càng để ý cô bé kỹ hơn. Người ta đổ mật bò cái xuống nền sân và tẩm nước ớt cay lên các bức tường, đinh ninh tin rằng bằng những phương pháp này có thể trì được cái tật xấu nguy kịch. Nhưng cô gái lại tinh khôn và khéo léo tìm cách giấu đất để ăn, do đó buộc Ucsula phải sử dụng các biện pháp hữu hiệu hơn nữa. Bà lấy nước cam hoà lẫn với bột đại hoàng cho vào một cái mếu rồi phơi sương thâu đêm và sáng hôm sau vào lúc ăn sáng, bà cho cô bé uống một cốc nước ấy. Dù cho không ai bảo với bà rằng cái thứ này là một phương thuốc đặc hiệu dùng để trị bệnh ăn đất, bà nghĩ rằng bất kỳ thứ nước đắng nào vào bụng lúc dạ dầy đói meo có tác dụng đến buồng gan. Mặc dù mắc bệnh còi xương, Rêbêca rất dữ tợn và rất khỏe đến mức phải vật ngửa cô bé như vật ngửa con bê để cho uống thuốc và hầu như người ta không thể ghìm được chân nó giãy đạp và không thể bưng miệng nó lại để khỏi buột ra những âm thanh khó hiểu kèm với những cú cào cấu và nhổ nước bọt mà theo như những người Anhđiêng thì đó là những lời tục tằn nhất có thể nhận ra trong ngôn ngữ thổ dân. Khi biết điều đó, Ucsula phải dùng đến cả đòn roi trong lúc cho cô bé uống thuốc. Sẽ chẳng bao giờ xác định được bột đại hoàng hay nhũng chiếc roi da, hoặc cả hai thứ cùng phối hợp là cái phương thuốc đưa đến hiệu nghiệm, nhưng thực tế cho thấy rằng trong ít tuần, Rêbêca đã bắt đầu có những dấu hiệu chứng tỏ cô bé đang khỏi bệnh. Rêbêca tham gia các trò chơi của Accađiô và Amaranta là những đứa trẻ đón nhận cô như đón nhận một người chị cả, và cô ăn rất ngon miệng bởi biết sử dụng thành thạo các đồ dùng ăn uống. Cô bé cũng nhanh chóng chứng tỏ rằng mình nói tiếng Tây Ban Nha cũng lưu loát như nói tiếng của những người Anhđiêng, rằng cô có khả năng thích hợp với công việc chân tay. Cô bé hát theo nhạc van do đồng hồ phát ra với lời ca rất hay do chính cô ứng khẩu. Chẳng bao lâu cô được nhận là một thành viên nữa của gia đình. Ucsula yêu mến cô hơn cả chính các con mình và cô bé gọi Amaranta và Accađiô là các em, gọi Aurêlianô là chú, gọi Hôsê Accađiô Buênđya là ông.
Vậy là cuối cùng cô bé rất xứng đáng mang tên Rêbêca Buênđya, một cái tên duy nhất của cô và cô kiêu hãnh mang nó trong suốt cuộc đời mình cho đến hơi thở cuối cùng.
Có một đêm, ấy là vào thời kỳ Rêbêca chữa khỏi tật ăn đất và được đưa vào ngủ cùng phòng với những đứa trẻ khác, cô gái Anhđiêng vẫn thường ngủ chung phòng với chúng bỗng nhiên thức giấc và nghe thấy có tiếng động khác thường. Cô gái thảng thốt ngồi dậy cứ nghĩ rằng có con vật nào đó đã chui vào phòng và lúc ấy cô ta nhìn thấy Rêbêca ngồi trên ghế xích đu đang mút ngón tay với đôi mắt sáng như mắt mèo trong đêm đen.
Hoảng hốt trước căn bệnh nguy hiểm, lo lắng cho nỗi bất hạnh của số phận mình, Visitaxiôn nhận ra trong đôi mắt ấy những triệu chứng của một thứ bệnh mà sự đe dọa của nó đã buộc họ, cô và em trai cô, mãi mãi phải vĩnh biệt cái vương quốc lâu đời, nơi họ từng là công chúa và hoàng tử. Đó là bệnh dịch mất ngủ.
Cataurê, em trai của Visitaxiôn, đêm ấy đã bỏ trốn khỏi nhà. Bà chị anh ở lại bởi vì trái tim định mệnh của chị đã chỉ cho chị biết rằng thứ bệnh nguy hiểm chết người ấy sẽ bằng mọi cách theo riết chị đến tận cùng trời cuối đất. Không một ai hiểu được nỗi lo lắng của Visitaxiôn. "Nếu chúng ta không ngủ được thì càng tốt", Hôsê Accađiô Buênđya vui vẻ nói, "như thế cuộc sống sẽ càng có ích đối với chúng ta hơn". Nhưng cô gái Anhđiêng đã giải thích cho họ rằng điều đáng sợ nhất của bệnh mất ngủ không phải là khả năng không thể ngủ được, bởi vì cơ thể ta không cảm thấy mệt mỏi, mà là vì nếu không chạy chữa kịp thời, nhất định sẽ dẫn tới bệnh còn nguy kịch hơn, đó là bệnh mất trí nhớ. Nghĩa là khi bệnh nhân đã quen với trạng thái mất ngủ thì những ký ức tuổi thơ sẽ bị xoá khỏi trí thớ của anh ta, sau đó đến tên và ý nghĩa của các sự vật, rồi cuối cùng đến lượt bản thể của con người và hơn nữa ngay cả ý thức về chính bản thân mình, đều bị xoá khỏi trí nhớ của anh ta để rồi tất cả đều chìm đắm trong trạng thái đần độn chưa từng có trong quá khứ. Hôsê Accađiô Buênđya cảm thấy chết cười được, đã nhận xét rằng cô gái đang nói về một trong những thứ bệnh do thói mê tín của những người Anhđiêng phía ra. Song, Ucsula, để đề phòng, đã cẩn thận cách ly Rêbêca khỏi đám trẻ. Mấy tuần sau đó khi nỗi lo lắng của Visitaxiôn lắng dịu xuống thì Hôsê Accađiô Buênđya trải qua một đêm trằn trọc trên giường không tài nào ngủ được. Ucsula, lúc ấy cũng đã thức giấc, hỏi ông làm sao vậy và ông đã trả lời bà: "Lại một lần nữa tôi nghĩ đến Pruđênxiô Aghila, bà ạ". Cả hai vợ chồng đều không ngủ lấy một phút nhưng ngày hôm sau họ đều thấy khoẻ mạnh đến mức quên luôn cái đêm mất ngủ. Vào giờ ăn cơm trưa, Aurêlianô thảng thốt kể rằng cậu vẫn thấy khoẻ mạnh mặc dù đêm qua thức suốt để mạ vàng chiếc cặp tóc, một tặng phẩm cậu nghĩ sẽ tặng mẹ nhân ngày sinh của bà. Không một ai trong gia đình tỏ ra lo lắng cho mãi tới ngày thứ ba, vào giờ đi ngủ họ vẫn không cảm thấy buồn ngủ, và chỉ đến lúc ấy mọi người mới vỡ nhẽ rằng đã hơn năm mươi giờ liền họ không hề chợp mắt.
- Bọn trẻ con cũng tỉnh như sáo, - cô gái Anhđiêng nói với niềm tin chắc vào định mệnh không sao tránh khỏi. - Một khi bệnh dịch lây đến thì chẳng một ai thoát được cả.
Quả nhiên bệnh mất ngủ đã lan tràn tới đây. Ucsula nhờ học mẹ mình mà biết được một số cây có tác dụng chữa lành bệnh, đã vò lá cây phụ tử lấy nước cho tất cả mọi người uống nhưng không công hiệu, không một ai ngủ được mà trái lại cả ngày hom đó mọi người đều mơ trong khi thức. Trong trạng thái tỉnh táo mà mơ màng ấy, không những người ta chỉ nhìn thấy những bóng hình trong chính giấc mơ của mình mà còn nhìn thấy cả những bóng hình trong giấc mơ của người khác. Cứ như thể nhà này đông nghịt khách khứa. Ngồi trên chiếc ghế xích đu đặt ở trong xó bếp, Rêbêca mơ thấy một người đàn ông rất giống nó, mặc bộ đồ lanh trắng, nơi cổ gài một chiếc cúc vàng, mang đến cho nó một cành hoa hồng. Một người phụ nữ có đôi bàn tay nuột nà đi bên ông đã ngắt một bông hồng, rồi cài lên mái tóc cô bé. Ucsula hiểu rằng đó là cha mẹ của Rêbêca, nhưng dẫu rằng đã cố sức để nhận mặt bà vẫn phải thừa nhận rằng chưa bao giờ nhìn thấy họ. Trong khi đó, do một sơ suất đáng tiếc mà Hôsê Accađiô Buênđya sẽ chẳng bao giờ tha thứ cho mình: những chiếc kẹo nặn hình con giống sản xuất trong nhà này vẫn tiếp tục được mang ra chợ bán. Trẻ con và người lớn thích thú mút những chiếc kẹo hình con gà béo màu xanh đã nhiễm bệnh mất ngủ, những con cá màu hồng đã nhiễm bệnh mất ngủ, những chú ngựa con màu vàng đã nhiễm bệnh mất ngủ, do đó buổi bình minh ngày thứ hai đã bắt gặp cả làng đang thức. Đầu tiên không một ai hốt hoảng. Trái lại, tất cả đều vui sướng vì không ngủ được, bởi lúc đó có rất nhiều việc cần phải làm đến mức hầu như họ không có đủ thời gian. Họ làm lụng quá nhiều do đó lập tức chẳng còn gì để làm và vào lúc ba giờ sáng tất cả đều khoanh tay ngồi đếm từng nốt nhạc van vang lên từ những chiếc đồng hồ. Những người muốn ngủ, không vì họ cảm thấy mệt mỏi mà chỉ vì nhớ giấc ngủ thường ngày thôi, đã phải vận dụng hết các phương thức cần thiết để gọi giấc ngủ đến với mình, nhưng thảy đều vô hiệu. Họ tụ tập lại để chuyện phiếm không hề ngừng nghỉ, để lặp đi lặp lại chỉ một câu chuyện gây cười trong hàng giờ và hàng giờ liền, để làm cho mọi người tức phát điên lên với câu chuyện về con gà Capôn vốn là một trò chơi không bao giờ kết thúc, trong đó người kể chuyện hỏi các vị muốn tôi kể chuyện con gà Capôn không và khi người nghe trả lời rằng. có thì người kể chuyện nói rằng ông ta không yêu cầu bảo rằng có mà rằng các vị muốn tôi kể chuyện con gà Capôn không và khi người nghe trả lời rằng không thì người kể chuyện nói ông ta không yêu cầu trả lời rằng không mà rằng các vị có muốn tôi kể chuyện con gà Capôn chăng và khi người nghe im lặng thì ông ta nói ông ta không yêu cầu im đặng mà rằng có phải các vị muốn tôi kể chuyện con gà Capôn và không một ai có thể bỏ đi được bởi người kể chuyện sẽ nói rằng ông ta không yêu cầu bỏ đi mà rằng phải chăng các vị muốn tôi kể chuyện con gà Capôn, rồi cứ như thế lặp đi lặp lại trong eái vòng luẩn quẩn kéo suốt những đêm dài.
Khi Hôsê Accađiô Buênđya nhận ra bệnh dịch đã lây lan khắp làng, ông liền họp các chủ hộ lại để giải thích về bệnh mất ngủ theo đúng như hiểu biết của mình. Các chủ hộ đều thống nhất sử dụng biện pháp cần thiết để ngăn chặn tai ương này khỏi tràn lan sang các cư dân khác ở vùng đầm lầy. Thế là người ta tháo khỏi cổ dê những quả chuông nhỏ mà những người Arập mang đến đây đổi lấy những chú vẹt đuôi dài rồi để chúng ở ngay cổng làng chuẩn bị cho những ai không thèm để ý tới những lời khuyên, những lời van xin tha thiết của người gác cổng mà cứ một mực xin vào thăm làng Macônđô. Tất cả những người lạ mặt đi lại trên các nẻo đường Macônđô trong thời gian ấy đều phải rung chuông để báo cho những người bệnh biết họ là người khoẻ mạnh. Trong thời gian ở lại đây, bọn họ không được ăn uống bất cứ thứ gì vì không còn nghi ngờ gì nữa dịch bệnh lây lan qua đường miệng, và hơn nữa đồ ăn thức uống đều đã nhiễm bệnh mất ngủ. Bằng hình thức này bệnh dịch đã bị thu hẹp lại trong phạm vi của làng. Biện pháp kiên quyết ấy chính là biện pháp dùng trong thời kỳ kiểm dịch, và nó được duy trì cho đến ngày tình trạng mất ngủ được xem như là một hiện tượng bình thường và cuộc sống được tổ chức sao cho công việc làm ăn lấy lại nhịp điệu vốn có của nó và không một ai phải bận tâm tới việc đi ngủ, coi đó như một thói quen vô tích sự.
Aurêlianô là người đầu tiên tìm ra biện pháp chống lại bệnh giảm trí nhớ. Ngẫu nhiên mà cậu tìm ra thôi. Vì là người mất ngủ lâu ngày nhất trong làng, cậu đã học tập để có được trình độ tinh xảo trong nghề kim hoàn. Có một hôm cậu đang tìm chiếc đe nhỏ để dát mỏng kim loại và bỗng nhiên cậu quên nó.
Cha cậu bảo cậu nó gọi là tas. Aurêlianô liền lấy giấy viết chữ tas rồi đem tờ giấy ấy dán lên bệ đe. Như vậy cậu tin rằng trong tương lai mình sẽ không quên tên nó nữa. Cậu cũng không ngờ rằng việc quên tên này là biểu hiện đầu tiên của bệnh đãng trí mà chỉ cho rằng chẳng qua đó là vì cái dụng cụ ấy có tên rất khó nhớ. Nhưng sau đó mấy hôm, cậu phát hiện ra rằng bản thân mình không thể nhớ nổi tên các dụng cụ trong phòng thí nghiệm. Thế là cậu viết tên chúng lên từng đồ vật một, do đó chỉ cần đọc tên là đã có thể nhận biết được chúng rồi. Khi cha cậu đem nỗi lo lắng về việc ông quên hết những kỷ niệm sâu sắc từ thời ấu thơ kể cho cậu nghe thì Aurêlianô đã giải thích phương pháp của mình cho cha hiểu, và Hôsê Accađiô Buênđya liền áp dụng phương pháp này cho mọi người trong nhà, sau đó cho tất cả dân làng. Lấy cành bài hương đã chấm mực, ông viết lên từng vật thể tên của nó: bàn, ghế, đồng hồ, cửa, tường, giường chảo rán. Rồi ông ra vườn viết lên từng con vật và từng cây một: bò cái, dê đực, lợn đực, gà mái, sắn, khoai sọ, chuối mắm. Do tìm hiểu những khả năng vô hạn của bệnh đãng trí, dần dần ông nhận thấy rằng có thể đến một ngày nào đó qua con chữ người ta sẽ nhận ra các sự vật nhưng sẽ không nhớ được công dụng của chúng trong đời sống. Vậy là cần phải viết cho rõ ràng hơn. Tấm bảng viết treo trên cổ con bò cái là một bằng chứng tiêu biểu cho hình thức dân chúng Macônđô đã sử dụng để chống lại bệnh đãng trí. Đây là con bò cái, tất cả các buổi sáng cần phải vắt sữa và đối với sữa cần phải đun sôi lên để pha với cà phê và làm cà phê sữa. Như vậy dân làng cứ sống trong một thực tại trơn chuồi chuội không thể khắc vào trí nhớ, được nhận bắt thoáng qua bởi những từ ghi trên giấy nhưng nó sẽ biến đi khi người ta quên mất ý nghĩa của các từ.
Ngay ở cổng vào làng Macônđô, một tấm biển được dựng lên viết: Macônđô và trên con đường trung tâm của làng cũng dựng lên một tấm biển còn to hơn nữa đề "Thượng đế tồn tại". Để ghi nhớ các đồ vật cũng như các loại tình cảm của con người, trong các nhà cũng có treo các bảng đề tên từng đồ vật và từng loại tình cảm một. Nhưng hệ thống nhớ ấy đòi hỏi quá nhiều sự quan sát và quá nhiều sự nỗ lực của bộ óc đến mức rất nhiều người đã phải đầu hàng trước niềm vui của một thế giới tưởng tượng, được chính họ bịa ra mà đối với họ nó là một thế giới để an ủi hơn là một thế giới để hành động. Pila Tecnêra là người đóng góp nhiều công sức hơn vào việc phổ biến trò phỉnh phờ này khi thị cảm nhận được cách đọc quá khứ trong những lá bài cũng như trước đây qua chúng thị đọc tương lai. Bằng thủ thuật này những người mất ngủ bắt đầu sống trong một thế giới được xây dựng bởi những hình ảnh mơ hồ không xác tín trong những lá bài, là nơi ông bố nhớ lại hầu như mình là một người đàn ông rám nắng vừa đến đây vào đầu tháng tư và bà mẹ nhớ lại mình gần như một người đàn bà trẻ tóc đen tuyền, còn đeo nhãn vàng trên bàn tay trái, và là nơi một ngày sinh nhích gắn lại dường như mới vừa hôm thứ ba còn văng vẳng tiếng chim chiền chiện hót trên cây nguyệt quế. Bị thất bại trước những thủ thuật có tính chất an ủi ấy, Hôsê Accađiô Buênđya đã quyết chí làm một cái máy nhớ ông từng ao ước để nhớ những phát minh kì diệu của những người digan. Vào tất cả các buổi sáng cái máy ấy phải có khả năng duyệt lại toàn bộ những hiểu biết thu được trong cuộc sống kể từ đầu cho đến cuối. Ông tưởng tượng nó giống như một cuốn từ điển tự quay tròn mà một người ngồi ở trục, nhờ một chiếc tay quay, có thể khiến cho những tri thức về đời sống sẽ lần lượt hiện ra ngay trước mắt họ chỉ trong ít giờ đồng hồ. Ông đã viết được một vạn bốn nghìn cái phích. Cũng chính lúc ấy trên đường từ đầm lầy vào làng, xuất hiện một cụ già quái dị tay cầm một quả chuông nhỏ rung lên những âm thanh buồn buồn của kẻ ngái ngủ, vai vác một va li căng phồng có đai thừng chằng buộc cẩn thận, đẩy một chiếc xe nhỏ phủ kín những mụn vải thâm. Cụ đi thẳng đến nhà Hôsê Accađiô Buênđya.
Khi mở cửa cho cụ, Visitaxiôn không nhận ra cụ và cô nghĩ rằng cụ già đến đây định bán thứ gì mà không biết rằng không thể bán được bất cử thứ gì ở cái làng đang ghìm trong bệnh đãng trí khủng khiếp vô phương cứu chữa này. Đó là một cụ già cao tuổi lắm. Mặc dù tiếng nói của cụ thều thào đứt quãng, bàn tay cụ run lẩy bẩy như không thừa nhận sự tồn tại của các vật thể nhưng rõ ràng cụ là người đến từ miền đất người ta vẫn có thể ngủ được và nhớ được. Hôsê Accađiô Buênđya bắt gặp cụ ngồi trong phòng khách; tay quạt chiếc mũ rách đã vá lại, mắt đang mải đọc những tờ giấy viết chữ dán trên các bức tường. Ông cung kính chào cụ để khỏi thất lễ vì sợ rằng đó là một người quen lâu ngày không gặp lại và hiện giờ ông chưa nhận ra. Nhưng vị khách đã nhận ra ông không thành tâm. Cụ cảm thấy mình bị chủ nhà quên nhưng đó không phải là sự lãng quên do vô tâm mà là một sự lãng quên quái ác và vô phương cứu chữa do không thể tập trung trí nhớ được, một sự lãng quên cụ từng biết rất rõ bởi vì đó chính là sự lãng quên của cái chết.
Cụ mở chiếc va li chật ních những thứ không thiếu được, rồi cụ lấy ra một chiếc túi dựng các chai lọ. Cụ cho Hôsê Accađiô Buênđya uống tuột thứ nước có mùi dễ chịu và lập tức trong trí nhớ của ông bừng sáng. Mắt ông nhoà đi vì lệ trước khi ông kịp nhìn ra mình đang ở trong căn phòng bừa bãi những đồ vật bị viết tên, trước khi ông kíp cảm thấy hổ thẹn vì những điều ngu ngốc được viết trên tường với tất cả lòng thành kính và hơn thế nữa, trước khi ông nhận ra người mới đến trong ánh sáng tươi hững của niềm vai. Người đó là Menkyađêt.
Trong lúc Macônđô mở hội ăn mừng trì nhớ bình phục thì Hôsê Accađiô Buênđya và Menkyađêt đánh bóng tình bạn cũ của họ lâu nay bị thời gian phủ bụi. Người digan quyết định ở lại làng này. Đúng là cụ ở trong cõi chết và đã chạy trốn về đây vì không chịu nổi nỗi cô đơn. Bị bộ tộc mình ruồng bỏ, bị tướt mất năng lực siêu phàm, tất cả những thứ đó như một sự trừng phạt đối với lòng trung thành của cụ trước cuộc đời, cụ đã quyết chí chạy trốn đến đây, một xó xỉnh của thế giới mà thẩn chết chưa phát hiện ra và cụ hiến thân cho nghề chụp ảnh đaghe(1). Hôsê Accađiô Buênđya chưa bao giờ nghe nói về phát minh này. Nhưng khi ông nhìn thấy chính mình và gia đình mình với giây lút đời đời hiện hình trên một tấm kim loại óng ánh, thì ông đứng thẩn người ra. Vẫn còn lại một bức ảnh trên tấm kim loại đã hoen rỉ thuộc thời kỳ ấy cho thấy Hôsê Accađiô Buênđya xuất hiện với mái tóc xoăn điểm sương, một chiếc cúc đồng đóng kín cổ cồn áo sơmi, và với vẻ nghiêm trang đầy sợ sệt khiến cho Ucsula cười ngặt nghẽo mà miêu tả ông như "một tướng quân đang hãi hùng". Quả nhiên là Hôsê Accađiô Buênđya đang hoảng hốt trong buổi sáng tháng chạp khi người ta chụp ảnh, bởi vi lúc ấy ông nghĩ rằng dân chúng sẽ mất dần đi theo giây phút hình ông hiện trên tấm kim loại. Bởi một sự đảo lộn kì dị của thói quen, Ucsula là người dã khiến ông nẩy sinh ý nghĩ ấy cũng như bà là người quên đi những mặc cảm khó chịu trước đây, đã đồng ý để cho Menkyađêt ở lại trong nhà mình mặc dù chẳng bao giờ cho phép ông chụp ảnh bà bởi (theo đúng như lời bà) bà không muốn cử tồn tại như thế để giễu các cháu mình.
Buổi sáng ấy bà mặc đẹp đến thăm đám trẻ, thoa phấn cho chúng rồi cho mỗi đứa uống một thìa cháo tuỷ để chúng có thể đứng yên không nhúc nhích trong hai phút đồng hồ trước máy chụp ảnh của Menkyađêt. Trong bức ảnh đaghe chụp toàn gia đình đã mất từ lâu, Aurêlianô mặc đồ dạ đen đứng giữa) Amaranta và Rêbêca. Cậu mang vẻ buồn buồn và đôi mắt nhìn sắc sảo mà nhiều năm sau này khi đứng trước đội hành hình chúng vẫn nguyên vẹn, những lúc đó cậu vẫn chưa có được dự cảm về số phận mình. Cậu đã là một thợ kim hoàn lành nghề được cả vùng ngưỡng mộ. Trong xưởng thủ công được đặt cùng với phòng thí nghiệm ồn ĩ của Menkyađêt, dường như cậu đã chạy trốn vào một thời đại khác để làm việc đến mức không còn nghe thấy tiếng cậu thở; trong khi đó cha cậu và Menkyađêt lớn tiếng tranh luận với nhau về những lời tiên tri của Nôstrađam.
Những lời ấy vang lên giữa những tiếng va chạm của bình và cốc đựng các dung dịch, và nỗi bất hạnh của axit đổ và muôi bạc bị rơi vãi từng lúc từng lúc do những cú động cùi tay và trượt chân gây nên. Sự toàn tâm toàn sức hiến dâng cho công việc, cái quan niệm đúng đắn hướng dẫn mọi hứng thú của cậu, dã cho phép cậu trong một thời gian ngắn thu được khoản tiền lớn hơn khoản tiền của Ucsula thu được nhờ những chiếc kẹo nặn hình con giống rất ngon lành, nhưng cả bàn dân thiên hạ ai ai cũng lấy làm lạ rằng tuy cậu đã là một người đàn ông thực thụ thế mà vẫn chưa biết đến đàn bà. Thực tình cậu vẫn chưa hề cùng ai.
Mấy tháng sau đó, cụ Phranxixcô - Con Người, một khách giang hồ gần hai trăm tuổi vẫn thường qua lại Macônđô để phổ biến các bài hát do chính cụ đặt ra, đã trở lại làng. Trong các bài hát này, cụ Phranxixcô - Con Người kể lại tường tận những điều xảy ra ở các đàng trong hành trình của mình, kể từ làng Manaurê đến các hang cùng ngõ hẻm thuộc vùng đầm lầy, vậy là nếu ai muốn nhắn gửi điều gì hoặc muốn loan báo một sự kiện nào đó thì cứ việc trả cụ hai xu để cụ đưa nó vào chương trình của mình. Nhờ vậy mà một đêm nọ Ucsula nghe các bài hát của cụ với hy vọng chúng sẽ nói về Hôsê Accađiô, đã biết tin mẹ mình quá cố một cách ngẫu nhiên thôi. Cụ được gọi là Phranxixcô - Con Người là vì trong một cuộc thi hát đối đáp cụ đã đánh bại con quỉ, vả lại cũng không một ai biết tên thật của cụ. Trong lúc dịch mất ngủ hoành hành ở làng Macônđô, cụ lặng lẽ biến mất và bây giờ không một lời báo trước cụ lại có mặt ở đây trong cửa hàng của bác Catarinô. Cả làng đều kéo đến nghe cụ để xem có gì mới xảy ra trên thế giới này. Trong dịp này, cùng đến với cụ còn có một người đàn bà béo mập ngồi trên ghế xích đu được bốn phu Anhđiêng khiêng và được một cô gái da lai vẻ cô đơn cầm ô che nắng cho. Đêm ấy Aurêlianô đến cửa hàng bác Catarinô. Cậu thấy cụ Phranxixcô - Con Người, như một con kỳ nhông hoá đá, ngồi giữa đám người tò mò đang nghe cụ kể tích... Với giọng hát thều thào được cây đàn phong cầm cũ kỹ đệm, cây đàn này cụ được ngài Oante Rahch(2) tặng cho ở đảo Goadana. Cụ hát để kể lể các tin tức, trong khi đó đôi bàn chân to, thô, nứt nẻ bởi phải cuốc bộ qua các mỏ diêm sinh, cùng giậm liên hồi để đánh nhịp. Mụ Tú bà ngồi trên ghế xích đu, tay phe phẩy quạt ở trước cửa phía cuối phòng nơi có một số người đàn ông vào ra. Với bông hồng nỉ giắt trên mang tai, bác Catarinô bán những cốc nước Goarapô(3) - gần từng người một đặt tay mình lên người họ vào đúng cái chỗ không nên. Đêm về khuya, nóng bức không thể chịu được. Aurêlianô ngồi nghe tin tức cho đến hết chương trình mà vẫn không thấy điều gì bổ ích đối với gia đình mình. Đang lúc cậu sửa soạn để về nhà thì mụ Tú bà chỉ tay ra hiệu, bảo cậu:
- Cậu cũng vào đi, - mụ nói, - chỉ tốn kém có hai hào thôi!
Aurêlianô bỏ đồng hai hào vào cái đĩa mụ kẹp nơi bẹn rồi bước vào phòng mà không biết để làm gì. Cô bé da lai đang trần truồng nằm trên giường với đôi vú hệt như vú chó. Đêm ấy trước lúc Aurêlianô vào đã có sáu mươi ba người đàn ông qua phòng này rồi. Không khí trong phòng, vì đã có quá nhiều người qua lại và bị ngào trong mồ hôi và hơi thở, bắt đầu đông đặc lại nhuyễn thành bùn. Cô bé lột chiếc ga trải giường ướt sũng và nhờ Aurêlianô cầm hộ một đầu. Nó nặng chình chịch. Hai người vặn hai đầu vắt tấm vải trải giường cho đến khi kiệt nước. Hai người lật nghiêng chiếc giường, mồ hôi dòng dòng chảy về phía nghiêng để rơi xuống sàn nhà. Aurêlianô khao khát mong mỏi công việc này sẽ không bao giờ kết thúc. Về mặt lý thuyết cậu đã biết nghệ thuật làm tình, nhưng vì gối đã mỏi nên không thể đứng thẳng được, và mặc dù da mình đã nổi gai gà và nóng hầm hập cậu vẫn không thể kìm được những cú trung tiện đang đòi hỏi mau chóng được thoát ra ngoài. Khi sửa sang xong giường đệm, cô bé lệnh cho cậu cởi quần áo, thì cậu ngờ nghệch giải thích: "Người ta bảo tôi vào. Người ta bảo tôi hãy bỏ hai hào vào đĩa đựng tiền và không được chậm trễ". Cô gái hiểu được nỗi lo lắng của cậu. "Nếu như anh bỏ thêm hai hào nữa ở cửa ra, anh có thể ở lại thêm ít phút nữa", cô dịu dàng nói.
Aurêlianô cởi quần áo, vẻ khổ sở vì xấu hổ, không tài nào rũ bỏ được ý nghĩ cho rằng cái thân xác lõa lồ của mình sẽ không địch nổi cái thân xác cường tráng của ông anh mình. Mặc cho cô gái cố gắng khêu gợi, cậu vẫn cảm thấy đơn độc, đơn độc đến khủng khiếp. "Tôi sẽ bỏ thêm hai hào nữa" với giọng chán nản cậu nói thế. Cô bé lặng lẽ cám ơn cậu. Lưng cô bé đỏ lừng lựng. Da cô bọc lấy xương để lộ từng cái xương sườn một và hơi thở của cô gấp gáp rối loạn đầy vẻ mệt mỏi. Hai năm trước đây, ở một làng xa tít mù, cô bé ngủ quên không tắt ngọn đèn nến và khi choàng tỉnh dậy cô đã ở ngay cạnh lửa cháy. Cái ngôi nhà nơi cô sống với bà nội, vốn là người nuôi cô từ tấm bé, đã biến thành tro tàn. Từ đó trở đi, người bà mang cô bé đi hết làng này sang làng khác, bắt cô phải ngủ với đàn ông với giá hai hào một lần để có một số vốn ngõ hầu bù lại toàn bộ giá trì ngôi nhà bị cháy. Theo những tính toán của cô gái, thì cô còn thiếu hơn mười năm mà đêm nào cũng phải hiến thân cho đủ số bảy mươi thằng đàn ông, bởi vì ngoài số tiền phải trả cho bà nội, cô còn phải kiếm đủ tiền để trang trải cho việc đi lại, cho việc ăn uống của hai bà cháu, và tiền công cho những người Anhđiêng khiêng chiếc ghế xích đu. Khi mụ Tú bà gõ cửa lần thứ hai, Aurêlianô ra khỏi phòng mà vẫn chưa kịp hành sự, đau đớn đến muốn khóc lên được. Đêm ấy, cậu không ngủ, chỉ nghĩ đến cô gái trong tình cảm vừa yêu vừa thương hại. Cậu cảm thấy vừa yêu thương lại vừa muốn che chở cô gái. Đó là thứ tình cảm da diết không thể dừng được. Vào lúc trời rạng sáng, người mệt rã rời vì mất ngủ và vì sốt, cậu quyết định một quyết định lành mạnh, sẽ cưới cô gái để giải phóng cô khỏi sự cai quản của người bà và để cùng cô hưởng trọn những đêm hoan lạc mà cô vẫn thường phải chia sẻ cho bảy mươi thằng đàn ông. Nhưng, vào lúc mười giờ sáng, khi cậu đến cửa hàng bác Catarinô thì cô gái đã đi khỏi làng.
Thời gian xoa dịu dần ý định ngây thơ của Aurêlianô nhưng nó lại khắc sâu thêm mặc cảm về sự thất bại của mình. Cậu trốn vào công việc. Cậu quyết chí ở vậy một đời để chôn vùi ý nghĩ hổ thẹn tự cho mình là đồ vô tích sự. Trong khi đó Menkyađêt đã làm xong công việc ghi lên các tấm phim của mình tất cả những gì có thể ghi hình ở làng Macônđô và cụ đã bỏ mặc buồng tối cho những say mê của Hôsê Accađiô Buênđya, người đã quyết định sử dụng nó để giành lấy một thí nghiệm khoa học về sự tồn tại của Thượng đế. Bằng một quá trình phức tạp trình bày những bức ảnh chụp được ở những địa điểm khác nhau trong nhà, ông tin chắc rằng sớm hay muộn sẽ có một tấm ảnh Thượng đế, nếu quả thật Thượng đế tồn tại, rồi cùng một lúc sẽ kết liễu tất cả những phỏng đoán về sự hiện hữu của Người. Menkyađêt ngày một nghiên cứu sâu những lời thuyết giảng của Nôstrađam. Cụ làm việc cho đến chiều tối, phát ngột trong chiếc áo nỉ khoác ngoài đã bạc màu, với đôi bàn tay chim sẻ nhỏ xíu của mình mà những chiếc nhẫn đeo trên các ngón tay đã mất vẻ sáng bóng của các thời trước đây, cụ vẽ nguệch ngoạc lên những tờ giấy. Có một đêm cụ tưởng rằng mình đã bắt gặp được một lời tiên tri về tương lai của làng Macônđô. Nó có thể sẽ là một thành phố sáng rực rỡ, với những toà nhà pha lê đồ sộ, là nơi sẽ không còn một dấu tích nào của dòng dõi nhà Buênđya. "Đó là một sự nhầm lẫn", Hôsê Accađiô Buênđya nổi giận nói. "Đó không phải là những tòa nhà pha lê, mà là những tòa nhà làm bằng nước đá, như chính tôi đã thấy trong mộng, và cho dù hàng bao nhiêu thế kỷ sau, luôn luôn và lúc nào cũng vẫn có một Buênđya". Trong ngôi nhà quái gở ấy, Ucsula là người cố gắng duy trì không khí bình thường nhờ việc khuếch trương nghề buôn bán những chiếc kẹo nặn hình con giống, với một lò nướng bánh trong một đêm đã sản xuất ra hàng sọt, hàng sọt bánh mì, và hàng lô những chiếc bánh puđinh, bánh trửng, bánh bích qui mà chỉ trong vòng vài giờ đồng hồ chúng đã tản mác đi khắp các nẻo đường mòn thuộc miền đầm lầy. Dù tới tuổi được quyền nghỉ ngơi, nhưng bà lại hoạt bát hơn. Quá bận rộn trong các công việc sinh nhiều lợi ấy, đến mức trong một buổi chiều nọ khi cô gái Anhđiêng giúp bà ngào mật vào bột, bà đã nhìn ra sân và bắt gặp hai thiếu nữ lạ, xinh đẹp đang ngồi thêu bên khung thêu dưới ánh hoàng hôn. Đó là Rêbêca và Amaranta. Họ vừa đoạn tang bà ngoại, một cái tang được họ kiên trì để trở trong ba năm ròng và giờ đây bộ quần áo màu sặc sỡ dường như đã đặt họ vào một vị trí mới trong cuộc đời.
Hoàn toàn trái với những gì có thể chờ đợi cô trong tương lai, Rêbêca là cô gái đẹp nhất. Cô có nước da trắng như ngó cần, đôi mắt to và sâu thẳm, đôi bàn tay khéo léo dường như đang dệt những sợi chỉ vô hình trên một bức thảm thêu. Amaranta, cô gái bé hơn, tuy có kém phần duyên dáng tí chút, nhưng lại có vẻ cao nhã tự nhiên, một sự thanh thản nội tâm của bà ngoại đã quá cố. Bên cạnh hai cô gái là Accađiô. Mặc dù đã có được sức vóc của cha mình, Accađiô vẫn là một chú nhóc con. Cậu quyết định học nghề kim hoàn dưới sự hướng dẫn của Aurêlianô, người ngoài việc dạy nghề còn dạy chú bé học đọc và viết. Ngay lập tức Ucsula nhận ra rằng nhà bà rồi sẽ chật chội, rằng con cái của bà đã đến tuổi dựng vợ gả chồng và sẽ có con, do thiêu chỗ ở chúng sẽ buộc phải ly tán. Vậy là bà móc số tiền dành dụm được trong nhiều năm làm ăn vất vả, giao kèo hợp đồng với các khách hàng của mình, và khởi công mở rộng ngôi nhà.
Bà quyết định sẽ xây hai phòng khách trong đó có một phòng đầy đủ tiện nghi và thoáng mát hơn để dùng vào công việc hàng ngày, một phòng ăn đủ rộng kê chiếc bàn ăn to với mười hai chỗ ngồi để gia đình và khách khứa cùng ăn một thể, chín phòng ngủ đều mở cửa sổ thông ra sân và một hành lang dài có bao lơn đặt các chậu cây dương xỉ và chậu cây thu hải đường, bên ngoài là một vườn hồng che ánh nắng gay gắt buổi ban trưa. Bà cũng quyết định phá nhà bếp cũ để xây dựng hai lò bánh; phế kho ngô cũ nơi Pila Tecnêra đã xem hậu vận cho Hôsê Accađiô qua những lá bài để xây một nhà kho lớn gấp hai lần đủ dự trữ lương ăn cho rất nhiều năm. Bà quyết định dựng một nhà tắm nam và một nhà tắm nữ và ở cuối sân, một tàu ngựa lớn, một chuồng gà thưng lưới thép, một chuồng vắt sữa bò, và một chuồng chim mở rộng cửa đón những chú chim không đường kiếm ăn có thể tuỳ thích đến ở. Được hàng chục thợ mộc và thợ nề theo sau, như thể bà nhiễm phải cơn sốt vàng của chồng mình, Ucsula sắp xếp vị trí cho ánh sáng và đường thông gió, phân chia các khoảng không mà vẫn không quên các ranh giới của chúng. Ngôi nhà khởi thuỷ của các bậc sáng nghiệp bỗng chật ních cưa đục và vật liệu xây dựng, và những người công nhân mệt mỏi vã mồ hôi đang yêu cầu tất cả những người khác đừng làm đảo lộn các đồ vật mà không hay biết rằng chính họ mới là những người đang làm đảo lộn hết thảy. Bọn họ phát điên lên vì chiếc tải đựng xương người với tiếng kêu lộc cộc, lộc cộc lộc cộc cứ theo riết họ đi khắp nơi. Trong quang cảnh khó chịu cứ phải thở hít mùi vôi nồng nặc và mùi nhựa đường, không một ai hiểu được vì sao từ trong lòng đất lại nổi lên một ngôi nhà không chỉ lớn chưa từng thấy trong làng, mà còn là ngôi nhà hiếu khách và mát mẻ chưa từng có trong khắp vùng đầm lầy này. Hôsê Accađiô Buênđya những tưởng sẽ làm cho Thượng đế chí tôn phải giật mình trước khung cảnh nhiều thay đổi to lớn ấy, lại là người hiểu được điều đó ít nhất. Khi ngôi nhà sắp sửa hoàn thành thì Ucsula đã lôi ông ra khỏi thế giới mơ mộng để báo cho ông hay rằng đã có lệnh buộc bức tường mặt tiền của mọi nhà đều phải quét vôi xanh chứ không được quét vôi trắng như dân làng vốn ưa thích. Bà chìa cho ông xem mảnh giấy ghi cái mệnh lệnh chính thức ấy. Hôsê Accađiô Buênđya, vẫn chưa hiểu điều bà vợ mình nói, đang cố đọc chữ ký:
- Người này là ai vậy? - Ông hỏi.
- Quan thanh tra đấy, - Ucsula buồn bã trả lời. - Người ta đồn ằng ông ấy là một nhà chức trách mới do chính phủ phái tới.
Đông Apôlina Môscôtê, Quan thanh tra, đã lặng lẽ đến làng Macônđô. Ngài xuống xe và ở trong khách sạn Giacôp do một trong những người Arập đầu tiên đến đây đổi đồ vật lấy vẹt đuôi dài dựng nên. Ngày hôm sau ngài thuê luôn một phòng mở cửa ra đường chỉ cách nhà của Buênđya hai ô phố. Ngài bày biện một chiếc bàn và một chiếc ghế mua của Giacôp, treo tấm quốc huy do ngài mang theo lên tường và trên cửa một chiếc biển đề: Quan thanh tra. Công việc đầu tiên của ngài là ra lệnh cho các nhà trong làng phải quét vôi xanh để mừng ngày độc lập. Hôsê Accađiô Buênđya, tay cầm bản sao tờ lệnh, bắt gặp ngài ngủ trưa trên chiếc võng mắc trong một căn phòng bày biện và trang trí sơ sài. "Ngài là người đã viết tờ giấy này?", ông hỏi. Đông Apôlina Môscôtê, một người đàn ông chín chắn, vẻ hút nhát, mặt đỏ nhừ, đã trả lời rằng đúng thế. "Nhân danh cái gì mà ông viết nào?" , Hôsê Accađiô Buênđya lại hỏi tiếp.
Đông Apôlina Môscôtê tìm một tờ giấy cất trong ngăn kéo bàn chìa cho ông xem: "Tôi vừa được phong chức Quan thanh tra của làng này". Hôsê Accađiô Buênđya không thèm nhìn tờ sắc phong, nói:
- Ở làng này, chúng tôi không ra lệnh bằng giấy tờ - ông nói với vẻ bình thản, - và để ngài biết luôn một thể, chúng tôi không cần bất kỳ một Quan thanh tra nào, bởi vì ở đây chẳng có gì để mà phải thanh tra cả.
Trước thái độ cứng rắn của đông Apôlina Môscôtê, người không lúc nào to tiếng, Hôsê Accađiô Buênđya kể lại tường tận câu chuyện họ đã xây dựng làng như thế nào, chia ruộng đất như thế nào, rồi mở đường như thế nào, mở mang các nghề cần cho đời sống và sinh lợi như thế nào, không hề làm phiền lòng chính phủ và cũng chưa một ai đã làm phiền dân làng này.
"Chúng tôi sống rất hiền lành đến mức làng chúng tôi chưa hề có người chết vì bệnh tật hay vì tuổi già", ông nói: "Ngài thấy đấy làng chúng tôi vẫn chưa có nghĩa địa mà!". Ông không hề đau khổ vì chính phủ đã không giúp đỡ dân làng. Trái lại, ông lấy làm vui lòng nhận thấy cho đến lúc này chính phủ vẫn để cho dân làng tiếp tục sống như vậy, bởi vì bọn họ không tốn công hoài sức lập làng để cho kẻ khác đến lên mặt dạy họ phải làm thế này thế nọ. Đông Apôlina Môscôtê mặc chiếc áo khoác vải chéo go, màu trắng như màu quần, không lúc nào để mất cử chỉ bình tĩnh của mình.
- Vậy là nếu như ngài muốn ở lại đây, như những cư dân bình thường khác, ngài sẽ được đón tiếp nồng hậu, - Hôsê Accađiô Buênđya kết thúc, - bằng không, nếu như ngài đến để gây rối buộc dân làng phải quét vôi xanh lên tường nhà thì ngài có thể thu xếp hành lý và cút về nơi ngài khởi hành. Bởi vì, nhà tôi phải trắng như một con bồ câu.
Đông Apôlina Môscôtê tái người đi. Ngài giật lùi một bước, nghiến răng lại với vẻ sượng sùng, nói:
- Tôi báo cho ông biết rằng tôi có vũ khí.
Hôsê Accađiô Buênđya không biết tự lúc nào cái sức trai tráng bẻ gẫy sừng trâu đã dồn lên hết đôi tay mình. Túm lấy ve áo bông Apôlina Môscôtê, ông xách ngài lên ngang tầm mắt mình, nói:
- Cái này thì ta làm, - Ông nói, - bởi vì ta muốn xách sống nó và để khỏi phải ân hận suốt đời vì phải xách một xác chết.
Cứ thế xách ngài đi giữa đường cái cho đến khi tay mỏi để tuột mất ve áo, ông mới đặt ngài đứng xuống. Lúc đó Quan thanh tra đã ở trên con đường ngoài đầm lắy. Một tuần sau, ngài trở lại mang theo sáu người lính chân đất, ăn mặc rách rưới, tất cả đều mang súng hỏa mai, và một chiếc xe bò chở vợ cùng bảy cô con gái của ngài. Sau đó hai xe bò chở giường ghế bàn tủ, rương hòm và các dụng cụ nấu bếp cũng đến theo. Ngài để gia đình trọ tại khách sạn Giacốp trong khi tìm mua một ngôi nhà và tiếp tục mở lại công sở có lính gác bên ngoài.
Các bậc sáng nghiệp của làng Macônđô sẵn sàng tống khứ bọn người xâm lược đi. Cùng với các con trai lớn của mình họ đã kéo đến để tiếp sức cho quyết tâm của Hôsê Accađiô Buênđya.
Nhưng ông phản đối bởi vì theo như lời ông giải thích thì đông Apôhna Môscôtê đã trở lại đây cùng với vợ và các con gái ngài và đã là đàn ông thì không nên làm sượng mặt kẻ khác trước mặt gia quyến họ. Vậy là ông quyết định sẽ giải quyết công việc theo những thể thức êm đẹp hơn.
Aurêlianô đi cùng ông. Lúc này cậu đã để bộ ria đen vểnh lên ở hai bên mép và đã có giọng nói sang sảng mà sau này chúng là những đặc điểm khiến cậu nổi bật lên trong chiến tranh. Không mang theo vũ khí cũng không tuân lệnh bọn lính gác, cha con họ bước thẳng vào công sở của Quan thanh tra.
Đông Apôlina Môscôtê vẫn điềm tĩnh. Ngài giới thiệu với họ hai cô con gái ngẫu nhiên có mặt tại đó. Amparô, mười sáu tuổi, nước da rám nắng như nước da mẹ cô, và Rêmêđiôt xấp xỉ chín tuổi, một cô bé kháu khỉnh với nước da trắng ngà và đôi mắt xanh. Cả hai đều duyên dáng và có nền nếp. Cũng chớp nhoáng như cha con họ bước vào, trước khi được cha giới thiệu, các cô đã mang ghế cho khách ngồi. Song cả hai cha con đều đứng.
- Tốt lắm? - Hôsê Accađiô Buênđya nói. - Ngài sẽ ở lại đây, nhưng không phải vì ngài đã có bọn lính canh mang súng hỏa mai ấy mà vì lòng kính trọng của dân làng đối với bà nhà và cấc cô gái đây.
Đông Apôlina Môscôtê hoang mang, nhưng Hôsê Accađiô Buênđya không cho ngài có thời gian để đối đáp: "Chúng tôi chỉ yêu cầu ngài hai điều thôi", ông nói: "Trước tiên hãy để cho mỗi người được theo sở thích mình mà quét vôi nhà. Thứ hai là hãy để cho những người lính đi khỏi làng ngay lập tức. Chúng tôi sẽ đảm bảo an ninh cho ngài". Quan thanh tra xòe rộng bàn tay phải, giơ lên:
- Lời hứa danh dự chứ?
- Lời nói của kẻ thù đấy, - Hôsê Accađiô Buênđya nói. Nhưng với giọng cay đắng ông nói rõ:
- Bởi tôi muốn nói rõ để ngài biết: Ngài và tôi sẽ tiếp tục là kẻ thù của nhau.
Ngay buổi chiều ấy, bọn lính đã phải bán xới đi. Mấy ngày sau, Hôsê Accađiô Buênđya đã tìm cho gia đình Quan thanh tra một ngôi nhà. Tất cả đều sống thanh thản trong hoà bình, trừ Aurêlianô. Hình ảnh Rêmêđiôt, cô gái út của Quan thanh tra, mà cứ theo tuổi tác để xét thì cô bé chỉ đáng tuổi con cậu, đã đọng lại trong tâm khảm làm nhức nhối thân xác cậu. Đó là một cảm giác có tính chất cơ học giống như một viên sỏi lẫn trong giày làm nhói đau chân mỗi khi đi.
Chú thích:
(1) Đaghe (Jacques Daguerre, 1787-1851) nhà vật lý người Pháp đã phát mình ra thấu kính và buồng tối. Có công hoàn thiện nghề chụp ảnh. Bởi thế người ta lấy tên ông để đặt cho nghề chụp ảnh (Dnguerretypie).
(2) Sir Walter Raleigb (1552-1618), nhà hàng hải và chính khách người Anh, được Nữ hoàng Isabel Đệ Nhất ủng hộ, đã chinh phục Guayasca năm 1616.
(3) Một thứ nước uống làm từ nước mía và men rượu.
CHƯƠNG 4
Một buổi khiêu vũ được tổ chức để ăn mừng ngôi nhà mới trắng như một con bồ câu. Ucsula từng ấp ủ ý nghĩ ấy ngay từ buổi chiều bà thấy Rêbêca và Amaranta đã trở thành những thiếu nữ và hầu như có thể nói rằng cái lý do chủ yếu của việc xây cất nhà mới là niềm khao khát mong muốn cho các cô gái có một chỗ tiếp khách xứng đáng. Trong khi tiến hành công việc xây dựng lại ngôi nhà, Ucsula vất vả làm lụng như một tên tù khổ sai để không một trở lực nào cỏ thể dìm tắt cái mục đích rực rỡ ánh hào quang ấy.
Do đó trước khi các công việc này hoàn thành, bà đã gửi mua sắm các đồ trang trí và đồ ăn thức đựng, toàn là những thứ đắt tiền. Trong số đó có một vật kỳ diệu từng khiến cho cả làng ngạc nhiên và khiến cho tuổi trẻ phải sung sướng thích thú, đó là cây đàn pianô tự động. Người ta chở từng bộ phận của nó đến. Những bộ phận này được để trong mấy chiếc thùng và chúng được moi ra khỏi thùng cùng với bàn ghế giường tủ sản xuất tại Viên, gương kính sản xuất ở xứ Bôhêmia, bát đĩa do Công ty Tây Ấn sản xuất, khăn phủ bàn của Hà Lan và hàng loạt đèn dầu và đèn nến, bình hoa, màn lụa in hoa treo tường và thảm trải nhà. Công ty nhập khẩu đã phái một chuyên gia người Ý giàu kinh nghiệm, tên là Piêtrô Crêspi, đến nhà để lắp và chỉnh cây đàn pianô tự động, để dạy cách sử dụng cho những người mua nó và nhất là dạy họ khiêu vũ theo âm nhạc hợp mốt thời đại được in trên sáu cuộn băng.
Piêtrô Crêspi là một thanh niên trẻ, tóc hung, một người đẹp trai nhất và có học vấn nhất ở Macônđô, là một người tự trọng trong cách ăn mặc đến mức mặc cho không khí nóng hầm hập anh vẫn mặc bộ quần áo bằng lụa bó sát người và một chiếc áo khoác ngoài bằng dạ thâm dày cộp. Người xâm xấp mồ hôi, cố giữ một khoảng cách rõ ràng giữa mình với các chủ nhân, anh đã ở lỳ vài tuần liền trong phòng đóng kín cửa, với sự say mê giống hệt sự say mê của Aurêlianô trong xưởng làm đồ kim hoàn. Có một buổi sáng nọ, không hề mở cửa, không cần cầu cứu một nhân chứng thần thánh nào, anh đặt một băng nhạc lên cây đàn pianô tự động, và thế là âm nhạc trong trẻo và du dương vang lên khiến cho những tiếng búa chát chúa và những tiếng va chạm thường xuyên của các tấm gỗ bỗng ngừng bặt trong cái thanh vắng đến thảng thốt. Tất cả mọi người vội đổ xô tới phòng khách. Hôsê Accađiô Buênđya hào hứng hẳn lên không phải do vẻ đẹp hấp dẫn của âm nhạc mà là do cây đàn pianô tự động gõ lấy phím đàn và ông đã đặt chiếc máy ảnh của Menkyađêt ở trong phòng khách với hy vọng sẽ chụp được bức ảnh người chơi nhạc vô hình. Ngày hôm ấy nhạc sư người Ý ăn trưa với gia đình. Rêbêca và Amaranta giữ nhiệm vụ hầu bàn, đều có cảm tình trước cử chỉ nhẹ nhàng khoan thai của con người thanh tao ấy trong lúc đôi bàn tay da mái xanh không đeo nhẫn của anh sử dụng thìa ma trên bàn ăn. Trong phòng chờ ăn thông với phòng khách, Piêtrô Crêspi dạy hai cô gái khiêu vũ. Đánh nhịp bằng chiếc máy đo tiết điệu, anh dạy họ đưa chân mà tay không chạm vào thân thể họ trong sự canh chừng rất đáng yêu của Ucsula, người không lúc nào bỏ đi ra ngoài phòng khách trong lúc các con gái bà học nhẩy. Trong những ngày đó, Piêtrô Crêspi mặc những chiếc quắn đặc biệt, mềm mại bó sát lấy cơ thể và đi một đôi giày múa. "Bà không tội gì mà cứ phải lo lắng thế", Hôsê Accađiô Buênđya nói với vợ. "Cái anh chàng này là một gã ái nam ái nữ thôi". Song bà vẫn những thôi việc canh chừng một khi việc học khiêu vũ của các con gái chưa xong và anh chàng người Ý chưa đi khỏi Macônđô. Vậy là bà bắt tay vào công việc chuẩn bị ngày vui. Ucsula lên danh sách những người được mời tới dự tiệc, trong đó những người duy nhất được chọn mời là con cháu của các bậc sáng nghiệp làng Macônđô, trừ gia đình Pila Tecnêra mà lúc ấy đã có thêm hai đứa con hoang. Thực ra đó là một sự lựa chọn độc đáo lược quyết định bởi những tình cảm bạn bè, vì những người tược chọn không chỉ là những người bạn chí cốt đối với nhà Hôsê Accađiô Buênđya kể từ trước khi tiến hành cuộc di cư đưa tới sự ra đời của làng Macônđô, mà còn vì những con cháu của họ vốn là bạn nối khố từ thuở ấu thơ của Aurêlianô và Accađiô. Các con gái họ vốn là những cô gái duy nhất thường đến chơi thà để cùng thêu thùa với Rêbêca và Amaranta. Đông Apôlina Môscôtê, một quan chức tốt bụng mà hoạt động của ngài đã thu hẹp ở việc giữ lại hai viên cảnh sát chỉ vũ trang bằng dùi cui và nuôi họ trong điều kiện kinh tế eo hẹp của mình, chỉ là nhà chức trách trên danh nghĩa. Để đảm bảo chi tiêu hàng ngày, các cô gái của ngài đã phải mở một hiệu may vừa nhận làm thuê những bông hoa nỉ, vừa nhận làm cả mứt ổi lẫn viết thuê những bức thư tình cho các chàng trai cô gái trong làng. Mặc dù có đức khiêm tốn và ngoan nết, con gái ngài - những cô gái đẹp và nhảy các điệu vũ mới uyển chuyển nhất làng này - đã không tìm nổi cách nào để người ta mời mình đến dự ngày vui.
Trong lúc Ucsula và các cô gái mở hộp lấy ra các đồ dùng, lánh bóng bát đĩa cốc tách và treo lên tường những bức tranh các bà quý phái đứng trên những chiếc thuyền chở đầy hoa lồng, và bằng những công việc ấy mẹ con bà đã truyền hơi thở cuộc đời mới cho các phòng nhẵn bóng do những người thợ nề cây nên thì Hôsê Accađiô Buênđya từ bỏ việc truy tìm hình ảnh thượng đế, ông buộc phải thừa nhận sự không tồn tại của người, và đã bổ cây đàn pianô tự động ra để tìm hiểu cài huyền bí của nó. Sau bao ngày lúng túng trước mớ bòng bong những sợi dây duỗi ra ở một đầu để rồi lại cuộn lại ở đầu kia và một đống những chốt và cần đàn thừa ra, Hôsê Accađiô Buênđya cũng lắp lại được cây đàn pianô tự động nhưng lắp rất tồi. Ông làm xong việc này hai ngày trước khi có cuộc vui. Chưa bao giờ ở nhà này có nhiều lo lắng với tất tả chạy vạy như những ngày ấy. Song những cây đèn mới thắp nhựa đường vẫn cứ bừng sáng vào đúng ngày và giờ qui định. Nhà mở rộng toang cửa, vẫn còn thơm mùi nhựa thông và mùi vôi ẩm. Con cháu của các bậc sáng nghiệp làng Macônđô làm quen với hành lang những chậu cảnh trồng cây dương xỉ và cây thu hải đường, những căn phòng thanh vắng, vườn hoa ngào ngạt mùi hoa hồng, rồi bọn họ họp mặt nhau trong phòng khách trước cỗ máy chưa từng biết đã được phủ một tấm vải trắng. Những ai từng biết đàn pianô thường dùng, rất phổ biến ở các làng quanh vùng đầm lầy đều cảm thấy chút ít thắc thỏm. Nhưng cay cú hơn cả vẫn là nỗi thất vọng của Ucsula khi người ta đặt một băng nhạc lên cây đàn pianô tự động để Rêbêca và Amaranta mở đẩu buổi khiêu vũ, nhưng máy móc đã không hề chuyển động.
Menkyađêt, mà lúc này hầu như đã lòa mắt, cố nhớ lại các ngón nghề trong kho trí thức bác cổ của mình để vận dụng vào việc sửa chữa cây đàn pianô tự động. Cuối cùng, hoàn toàn ngẫu nhiên thôi, Hôsê Accađiô Buênđya đã khiến cho một bộ máy chết bỗng quay được và do đó âm nhạc phát ra lúc đầu nghe rầu rĩ sau nghe tuôn chảy như dòng suối âm thanh gồm những nốt nhạc khó hiểu. Các cần đàn gõ loạn xạ. Chúng cứ đập hoài vào các dây cây đàn được bố trí bừa bãi, không theo một trật tự nào và do đó những dây đàn này rung lên run rẩy đầy vẻ sợ hãi.
Nhưng những cháu con ương bướng của hai mươi mốt người bạo phổi từng đi xuyên rừng theo hướng tây để tìm biển, đã biết vượt qua những chỗ khó nhẩy do sự thay đổi của âm nhạc gây nên, và do đó buổi khiêu vũ đã kéo dài cho đến sáng.
Piêtrô Crêspi đã trở lại để sửa chữa cây đàn pianô tự động.
Rêbêca và Amaranta giúp anh sắp đặt thứ tự các dây đàn và họ cùng phụ hoạ cười với anh vào những chỗ khó nhẩy của các điệu van. Anh tỏ thái độ rất đáng kính trọng và có tư chất cao thượng đến mức khiến cho Ucsula không thấy cần thiết phải canh chừng các buổi học khiêu vũ của các con gái mình. Đêm trước ngày anh lên đường, một buổi khiêu vũ với cây đàn pianô tự động đã sửa sang tất được tổ chức gấp để tiễn anh. Anh đã cùng với Rêbêca biểu diễn tuyệt hay các điệu vũ hiện đại.
Accađiô và Amaranta cũng không kém họ trong những động tác duyên dáng và hoạt bát. Nhưng buổi biểu diễn buộc phải ngừng lại bởi vì Pila Tecnêra, mà lúc ấy đang ở ngoài cửa cùng với những kẻ tò mò, đã ẩu đả với một người đàn bà dám bình luận rằng Accađiô có bộ mông đàn bà. Đến nửa đêm, Piêtrô Crêspi đã chia tay gia đình bằng một bài phát biểu chan chứa tình cảm lưu luyến và hứa không lâu sẽ trở lại. Rêbêca đưa tiễn anh đến tận cửa chính, và sau khi đã đóng kín các cửa và đã tắt đèn nhà thì cô vào phòng mình để khóc. Đó là một tiếng khóc não nề kéo dài vài ngày mà về nguyên nhân của nó thì không ai biết kể cả Amaranta. Cô vốn là người khó hiểu và điều đó không có gì là lạ. Dù có cái vẻ bề ngoài dường như cởi mở và lễ mạo, nhưng thực ra cô vốn là người cô đơn và có trái tim thầm kín khôn lường. Cô là một cô gái đang tuổi dậy thì lộng lẫy, dáng người son sẻ và lại thích ngồi trên chiếc ghế xích đu gỗ cô đã mang theo đến nhà, từng được sửa chữa nhiều lần và đã thiếu tay ngai. Không một ai phát hiện ra rằng vào tuổi ấy cô vẫn giữ thói mút ngón tay. Bởi thế cô không bao giờ bỏ lỡ dịp ở một mình trong buồng tắm và duy trì thói quen ngủ quay mặt vào tường. Trong những buổi chiều mưa, đang lúc ngồi thêu với một nhóm bạn gái ở hành lang đặt những chậu cây thu hải đường, bỗng dưng cô không chú tâm theo dõi mạch chuyện đang sôi nổi, để một giọt nước mắt nhớ nhung lăn trên gò má làm mặn cuống lưỡi mình khi nhìn thấy những vỉa đất ướt và những viên sét mà giun đùn lên từng đống nhỏ trong vườn hoa. Khi cô bắt đầu khóc thì những thích thú vụng trộm ấy, từng bị nước cam hoà với bột đại hoàng dành bại trong những năm trước đây lại trỗi dậy trong nỗi khao khát không thể kiềm chế được. Cô lại ăn đất như trước đây. Lúc đầu cô ăn hầu như chỉ vì tính tò mò bởi tin rằng mùi khó chịu của đất sẽ là phương thuốc hữu hiệu để cưỡng lại ý muốn của mình. Và quả nhiên là cô không thể chịu được đất ở trong mồm. Nhưng do cơn thèm khát đang ngày một lớn thêm khuất phục, cô đã cố gắng chịu đựng. Đó là cơn thèm khát trước đây, là sở thích ăn quặng mỏ, là niềm vui háo hức được ăn món ăn nguyên thuỷ. Cô nhét các mẩu đất vào túi rồi lén ăn từng mẩu một mà không bị ai nhìn thấy. Cô ăn chúng mà tự cảm thấy vừa sung sướng mãn nguyện vừa giận hờn ai oán trong lúc dạy các bạn gái học những mũi thêu hóc hiểm nhất và nới chuyện về những người đàn ông không xứng đáng với sự hy sinh mà vì họ cô phải ăn vôi tường. Những mẩu đất này ngày một ít xa xưa hơn và ngày một rõ nét hơn đối với người đàn ông duy nhất xứng đáng với sự tự huỷ hoại ấy, cứ như thể mặt đất mà anh ta với đôi ủng vécni thanh nhã của mình giẫm lên ở một nơi khác nơi trần gian này sẽ truyền cho cô gái sức nặng và độ ấm nóng của máu anh ta trong mùi vị của quặng mỏ từng để lại một cảm giác chua chát ở miệng cô và một lớp cặn của sự bình yên đọng lại mãi mãi ở trái tim cô.
Một chiều nọ, không một duyên cớ gì, bỗng nhiên Amparô Môscôtê xin được đến thăm nhà. Amaranta và Rêbêca bối rối trước chuyến đến chơi nhà không hẹn trước, đã phải miễn cưỡng đón tiếp. Họ dẫn cô đi xem ngôi nhà mới làm lại, cho cô nghe những băng nhạc phát ra từ cây đàn pianô tự động, mời cô ăn cam với bánh bích quy. Amparô tự thể hiện là cô gái danh giá vui vẻ và nền nếp khiến cho Ucsula cảm động trong những giây lát bà cùng ngồi tiếp khách. Sau hai giờ, khi buổi nói chuyện đã bắt đầu tàn, Amparô lợi dụng lúc Amaranta lơ đễnh đã đưa cho Rêbêca một bức thư. Cô gái chỉ kịp nhìn dòng chữ: gửi cô Rêbêca Buênđya trác việt được viết với một lối chữ ngay ngắn, một thứ mực xanh và lối để cách chữ vừa thoáng vừa đẹp mắt mà chúng vẫn được dùng để viết những lời chỉ dẫn cách thức sử dụng cây đàn pianô tự động, rồi bèn lấy ngón tay cẩn thận gấp và viết bức thư rồi cất vào trong yếm ngực. Cô đưa mắt nhìn Amparô Môscôtê hàm ý vừa cảm ơn khôn xiết, vừa thầm hứa thực hiện điều ước nguyện cho tới khi chết.
Tình bạn bỗng nhiên có giữa Amparô và Rêbêca đã thức dậy những hy vọng của Aurêlianô. Nỗi nhớ nhung cô bé Rêmêđiôt không ngừng giày vò nhưng anh không có dịp gặp lại cô bé. Khi cùng với những người bạn cố tri của mình như Măcgơmphicô Visban và Hêrinênđô Mackêt - những đứa con của những bậc sáng nghiệp cùng tên như vậy - đi dạo chơi quanh làng, bằng đôi mắt háo hức anh dò tìm cô bé ở trong hiệu may nhưng anh chỉ thấy các bà chị cô. Việc Amparô Môscôtê có mặt ở nhà mình giống như một điểm báo. "Em sẽ đến cùng với chị", Aurêlianô tự nhủ thầm. "Cô em sẽ đến". Anh nhắc đi nhắc lại nhiều lần với tất cả niềm tin. Do đó một buổi chiều nọ khi đang làm con cá vàng trong xưởng kim hoàn, anh có niềm tin chắc chắn rằng cô bé đã đáp lại tiếng gọi của trái tim mình. Quả nhiên, sau đó ít lâu, anh nghe thấy tiếng nói trong trẻo ngây thơ và vào lúc ngẩng mặt lên với trái tim giật thốt anh nhìn thấy cô bé mặc bộ váy áo bằng sa mỏng màu hồng, đi ủng trắng đứng ngay trước cửa.
- Rêmêđiôt ơi, em đừng vào đấy nhé! - Amparô Môscôtê đứng ở hành lang gọi. - Người ta đang làm việc mà!
Nhưng Aurêlianô đã không để cho cô bé kịp nghe lời chị mình: Anh chìa con cá vàng miệng ngậm một cái vòng nhỏ rồi nói với cô bé:
- Vào đây! Vào đây!
Cô bé bước lại gần và hỏi anh một vài câu hỏi mà Aurêlianô không thể trả lời nổi, bởi vì cơn hen bất thình lình đến đã ngăn cản anh. Anh muốn mãi mãi ở bên cô bé, gần kề với nước da trắng ngà, gần kề với đôi mắt xanh màu ngọc bích, gần kề với tiếng nói mà mỗi câu hỏi cô bé cứ gọi anh là "ngài" với tất cả lòng kính trọng cô vẫn dành cho cha. Menkyađêt ngồi ở xó phòng bên cạnh bàn viết, đang ghi lại những ký hiệu không thể nào đọc được. Aurêlianô căm tức cụ. Anh không làm gì được ngoại trừ việc anh bảo Rêmêđiôt là sẽ tặng cô một con cá vàng và cô bé hoảng hốt trước tặng vật đã vội vàng ù té chạy ra khỏi xưởng kim hoàn. Chiều ấy, Aurêlianô mất bình tĩnh, cái bình tĩnh thâm trầm anh vẫn thường có để chờ đón dịp được thìn cô bé. Anh sao lãng công việc. Trong những cố gắng tuyệt vọng để tập trung tư tưởng, đã nhiều lẳn anh gọi tên cô bé nhưng Rêmêđiôt đã không đáp lời. Anh tìm cô bé ở hiệu may của các chị cô, trong các buổi đến chơi nhà cô, trong văn phòng cha cô, nhưng anh chỉ thấy cô trong hình ảnh thấm đậm nỗi cô đơn khủng khiếp của chính mình. Hàng giờ và hàng giờ cùng với Rêbêca anh ngồi trong phòng khách để nghe nhạc van phát ra từ cây đàn pianô tự động. Rêbêca nghe những bản nhạc van là vì Piêtrô Crêspi đã dạy cô nhảy với thứ nhạc đó. Còn Aurêlianô nghe những bản nhạc van là vì, chỉ đơn giản thôi, chính thứ âm nhạc ấy gợi anh nhớ Rêmêđiôt.
Ngôi nhà đầy ứ tình yêu, Aurêlianô biểu hiện tình yêu của mình trong thơ, những vần thơ không đầu không cuối. Anh viết chúng trên những tấm da thuộc do cụ Menkyađêt tặng, trên tường nhà tắm, trên làn da hai cánh tay mình, và trong những vần thơ đó biểu hiện một Rêmêđiôt méo mó: Rêmêđiôt trong cơn gió vật vờ lúc hai giờ chiều, Rêmêđiôt trong hơi thở trầm mặc của những bông hồng, Rêmêđiôt trong hơi bánh nghi ngút khói mới ra lò lúc ban mai, Rêmêđiôt ở khắp mọi nơi và Rêmêđiôt mãi mãi và mãi mãi. Đứng thêu bên cửa sổ, Rêbêca ngnng mong tình yêu đến vào lúc bốn giờ chiều. Cô biết răng con lừa của người đưa thư chỉ đến làng này nửa tháng một lần, nhưng lúc nào cô cũng mong ngóng mà lòng nhủ rằng do nhầm lẫn nó có thể đến bất cứ ngày nào. Nhưng đã xây ra một việc trái lại hoàn toàn: có một lần con lừa không đến đúng cái ngày quy định. Thế là cô gái phát điên vì thất vọng. Đang lúc nửa đêm, cô thức dậy ăn những vốc đất bốc ở ngoài vườn hoa. Trong nỗi khao khát muốn tự tử, cô khóc lóc thảm thiết vừa đau khổ vừa giận hờn, mà nhai những con giun mềm mại, mà nghiến sụn những chú ốc sên. Cô nôn mửa cho tới sáng Cô lả đi vì kiệt sức. Cô mất trí khôn và trái tim cô bồi hồi đập không còn biết xấu hổ. Ucsula hoảng hốt mở khoá rương và bắt gặp ở dưới đáy mười sáu lá thư thơm lựng được buộc cẩn thận bằng những dải nơ hồng, cùng với những bộ xương lá và đài hoa ướp khô giấu trong các cuốn sách cổ và xác khô những con bướm, mà nếu khẽ chạm phải chúng sẽ biến ngay thành bụi.
Aurêlianô là người duy nhất hiểu được nỗi thống khổ vô bờ.
Buổi chiều ấy, trong lúc Ucsula cố gắng điều trị cho Rêbêca khỏi cơn mê mẩn thì anh cùng với Măcgơniphicô Visban và Hêrinênđô Mackêt đến tiệm ăn của bác Catarinô. Tiệm ăn đã được mở rộng với một dãy phòng gỗ, phòng của những người đàn bà son phấn sống độc thân. Một ban nhạc gồm trống và đàn phong cẩm chơi các bài hát của cụ Phranxixcô - Con Người đã biến mất tăm khỏi làng Macônđô từ mấy năm nay. Ba người bạn uống rượu goarapô. Măcgơniphicô và Mackêt là những người cùng thời với Aurêlianô, nhưng lại thạo đời hơn anh về ngón ăn chơi. Cả hai đều xả láng uống rượu với các cô gái ngồi trên đùi mình. Một trong số những cô ấy, cái cô héo hon và cắm răng vàng ấy đã chủ động chài Aurêlianô. Nhưng anh không thích cô này. Anh nhận thấy rằng mình càng uống rượu càng nhớ Rêmêđiôt da diết, nhưng nỗi nhớ nhung dằn vặt lại dễ chịu hơn. Anh không biết từ lúc nào người mình lâng lâng bay bổng.
Anh nhìn thấy các bạn mình cùng những người đàn bà trôi nổi bồng bềnh đang bơi trong ánh sáng phản chiếu rực rỡ, mà nói những lời dường như không phát ra từ miệng họ, mà làm những cử động thần bí dường như không ăn nhập với cử chỉ.
Bác Catarinô đặt tay lên ngang lưng anh, bảo: "Sắp mười một giờ rồi". Aurêlianô quay mặt lại, nhìn thấy một gượng mặt to bự, méo mó trên tai gài một bông hoa nỉ, và thế là anh mất luôn trí nhớ như trước đây anh từng mắc bệnh đãng trí, rồi sau đó anh lại nhớ được rằng: vào một buổi sáng sớm xa vời và ở trong một căn buồng hoàn toàn khác lạ đối với anh là nơi đang có mặt Pila Tecnêra mặc đồ lót, chân không đi tất, đầu tóc bù xù, cầm cây đèn dầu soi tỏ mặt anh và thị sửng sốt nửa tin nửa ngờ:
- Ôi trời, Aurêlianô dấy à!
Aurêlianô đứng vững trên hai chân, ngẩng đầu lên. Anh quên mất không biết làm thế nào mà mình đi đến đây nhưng vẫn nhận rõ mình đến với mục đích gì rồi, bởi vì từ thuở còn thơ anh đã mang theo mình cái mục đích ấy và giấu kỹ nó trong cõi sâu kín nhất của trái tim mình.
- Tôi đến để ngủ với chị đây!
Anh mặc bộ quần áo vấy bẩn bùn đất và thức ăn nôn ra. Pila Tecnêra, mà lúc ấy sống một mình với hai đứa con nhỏ nhất của thị, không hỏi anh một lời. Thị đưa anh tới giường nằm. Lấy giẻ lau ướt, thị chùi mặt cho anh, cởi quần áo cho anh, rồi sau đó thị tự mình lõa lỗ, buông màn để đám trẻ nhỏ nhỡ ra thức dậy khỏi nhìn thấy. Thị mệt mỏi đợi một người đàn ông ở lại, rồi trông chờ những người đàn ông đã bỏ đi, rồi mong tất cả đều nhầm lẫn do sự không chính xác của những quân bài. Trong lúc chờ đợi, da thị nhăn nheo, ngực thị mềm nhẽo, và trái tim thị không còn bốc lửa tình nồng say như xưa nữa. Thị mò tìm Aurêlianô trong bóng tói rồi hôn lên cổ anh với tình cảm âu yếm của người mẹ: "Ôi chú nhóc đáng thương của ta". Aurêlianô bủn rủn rùng mình với ngón chơi thong thả, không gây tiếng động, anh để lại phía sau mình những bến bờ của nỗi đau và anh gặp Rêmêđiôt đã biến thành một hồ nước rộng mênh mông không thấy đường chân trời, sực nức mùi con vật non và mùi quần áo vừa mới là. Khi thấy mình bâng khuâng trôi nổi trên hồ nước ấy anh khóc lóc. Lúc đầu là những tiết nấc ấm ức, tức tưởi.
Rồi sau anh lúng túng bơi trong một nguồn nước không bờ mà cảm thấy cái gì đó vừa đau nhoi nhói vừa tức anh ách vỡ tung trong bụng mình. Bằng cách lấy ngón tay quất đầu anh, thị đợi chờ cho tới khi cơ thể anh thải ra một chất xam xám khiến cho anh mệt lử. Lúc đó Pila Tecnêra hỏi anh: "Ai thế vậy?".
Aurêlianô nói cho thị biết tên người ấy. Thị bật một tiếng cười, cái tiếng cười từng làm giật thót những chú chim bồ câu mà lúc này vân không hề làm đám trẻ thức giấc. "Thế thì anh phải nuối con bé mất". Thị giễu cợt anh. Nhưng trong sự giễu cợt ấy, Aurêlianô bắt gặp nơi yên tĩnh của dòng thông cảm. Khi ra khỏi phòng, anh đã lưu lại ó đó không chỉ sự không rõ ràng về sức cường tráng của mình mà còn cả sức nặng cay đắng từng bóp nghẹt trái tim mình nhiều tháng ròng rã. Pila Tecnêra bỗng hứa với anh:
- Ta hứa là sẽ đến nói chuyện với con bé, - thị nói, - và anh sẽ thấy là ta đưa nó đến cho anh chẳng khó khăn gì.
Thị đã thực hiện lời hứa trong một thời điểm bất lợi vì ngôi nhà của Buênđya đã mất đi không khí êm đềm của những ngày trước đây. Khi phát hiện ra nỗi đam mê của Rêbêca, vốn không thể giữ kín được vì cô bé cử gào thét hoài, Amaranta cũng phát sốt. Cô gái cũng cảm thấy cái gai nhức nhối của tình yêu cô đơn.
Tự giam mình trong nhà tắm, cô gái làm dịu nhẹ đi cơn giông tố của một nỗi đam mê không hy vọng để viết những lá thư nóng bỏng mà cô tự bằng lòng giấu kín dưới đáy rương. Ucsula hầu như không đủ sức để chàm sóc hai cô con gái ôm. Trong những lúc vấn an dài dòng và tế nhị, bà vẫn không hiểu được nguyên nhân nào đã dẫn Amaranta đến tình trạng suy nhược. Cuối cùng, trong một thoáng bừng sáng trí thông minh, bà phá khóa rương và bắt gặp những bức thư được sợi nơ hồng buộc chặt, căng phồng những bông huệ tươi, vẫn còn nhòe nước mắt, để gửi nhưng sẽ không bao giờ gửi cho Piêtrô Crêspi. Uất ức mà khóc, bà nguyền rủa cái giờ mình nẩy ra ý định mua cây đàn pianô tự động, cấm ngặt các buổi học thêu và tuyên bố để tang, một thứ tang không có người chết trong một thời kỳ dài cho đến khi các con gái bà vỡ mộng. Hôsê Accađiô Buênđya, mà lúc này đã đính chính dược cảm nhận đẩu tiên của ông về Piêtrô Crêspi và thán phục nghệ thuật khéo léo sử dụng các máy âm nhạc của anh, đã can thiệp vào câu chuyện, nhưng mọi cố gắng của ông đều trở nên vô ích. Vậy là khi Pila Tecnêra báo cho Aurêlianô biết rằng Rêmêđiôt đã sẵn sàng lấy chồng thì anh hiểu rằng cái tin này sẽ kết thức mọi day dứt cho cha mẹ mình.
Nhưng chính tin ấy lại đặt anh đối mặt với hoàn cảnh thực tế.
Được mời lên phòng khám tham dự một buổi tọa đàm thường lệ Hôsê Accađiô Buênđya và Ucsula bình tĩnh nghe những lời bày tỏ của con trai. Khi biết tên người yêu của con trai, Hôsê Accađiô Buênđya đỏ bừng mặt vì hổ thẹn. "ái tình là một thứ dịch hạch", ông nổi cáu giáng đòn sấm sét. "Có biết bao cô gái xinh đẹp và danh giá cho mày, thế mà mày lại đi lấy con gái kẻ thù của tao". Song Ucsula lại tán thành sự lựa chọn của con trai. Bà bày tỏ cảm tình yêu quí của mình đối với bảy chị em nhà Môscôtê, tất cả đều xinh đẹp và chịu thương chịu khó, đều nền nếp và được giáo dục tốt. Và bà chúc mừng sự sáng suốt của con trai mình trong việc lựa chọn người bạn trăm năm. Bị nhiệt tình của vợ thuyết phục, Hôsê Accađiô Buênđya đặt một diều kiện: Rêbêca, vốn là người thích hợp, sẽ lấy Piêtrô Crêspi.
Trong một chuyến du lịch khi có thời gian, Ucsula sẽ mang Amaranta ra tỉnh để cho việc giao du với một công chúng khác hẳn sẽ làm cho cô khuây khoả dần dần, rồi cô sẽ tỉnh mộng.
Rêbêca bình phục rất nhanh chóng khi được biết ý kiến thống nhất của gia đình và lập tức viết một bức thư vui báo tin cho người yêu biết quyết định chính thức của bố mẹ mình, rồi cô bỏ vào thùng thư mà không cần tới người trung gian nữa.
Amaranta giả vờ tuân theo quyết định của cha mẹ và dần dần cũng khỏi sốt nhưng lòng vẫn nhủ rằng Rêbêca muốn lấy được Piêtrô Crêspi thì phải bước qua xác chết của mình. Ngày thứ bảy sau đó, Hôsê Accađiô Buênđya mặc bộ dạ sẫm màu, áo sơ mi cổ cồn, đi đôi ủng da sơn dương từng được trưng diện trong đêm ăn mừng nhà mới đến hỏi Rêmêđiôt Môscôtê cho con trai mình. Quan thanh tra và phu nhân ngài vừa mừng vừa lo đón tiếp ông, bởi vì họ chưa biết ngụ ý của chuyến đến thăm đường đột này, rồi sau đó họ lại nghĩ rằng ông nhầm lẫn tên người con gái được lựa chọn. Để tránh hiểu lầm, bà mẹ đánh thức Rêmêđiôt và bế cô trên tay ra phòng khách. Cô bé vẫn còn đang ngái ngủ. Người ta hỏi cô bé rằng nếu quả thật là cô đã muốn lấy chồng và cô bé vừa khóc vừa trả lời rằng cô chỉ muốn được mọi người để yên cho mình ngủ. Hôsê Accađiô Buênđya do đã hiểu được sự lúng túng của vợ chồng Môscôtê bèn về nhà nói rõ mọi chuyện cho Aurêlianô nghe. Khi ông trở lại nhà Quan thanh tra, vợ chồng Môscôtê đã ăn mặc theo đúng lễ tân, sắp xếp lại bàn ghế và thay hoa mới vào bình. Mệt mỏi bởi phải làm chuyện miễn cưỡng và bởi cái cổ cồn cài cúc chặt cứ riết lấy cổ đến khó chịu, Hôsê Accađiô Buênđya đã khẳng định rằng quả thật Rêmêđiôt là người được Aurêlianô chọn làm vợ.
"Chẳng ra làm sao cả", đông Apôlina Môscôtê buồn rầu nói. "Chúng tôi còn có sáu cô con gái nữa, tất cả đều chưa có nơi có chốn và đang ở tuổi lấy chồng, và đều lấy làm vui thích nếu được làm vợ chính chuyên của các chàng trẻ tuổi đứng đắn và chăm làm như cậu ấy bên nhà, nhưng tiếc thay Aurêlianô lại duy nhất ưng con bé hãy còn đái dầm".
Phu nhân ngài, một người phụ nữ vẫn giữ được vẻ son sẻ duyên dáng, có đôi mắt và điệu bộ hơi ủ rũ đã phản đối những lời nói hồ đồ của ngài. Khi mọi người uống xong nước hoa quả, vợ chồng Môscôtê đã vui vẻ nhận lời cầu hôn của Aurêlianô. Chỉ có điều bà Môscôtê yêu cầu được nói chuyện riêng với bà Ucsula. Phần vì tò mò, phần vì tự than phiền rằng mình đã bị người ta làm rắc rối trong các vấn đề đàn ông, nhưng thực ra bà rất lo sợ và cảm động, Ucsula đã đến thăm phu nhân Môscôtê vào ngày hôm sau. Nửa giờ sau, bà trở về báo tin rằng Rêmêđiôt chưa đến tuổi thành niên. Aurêlianô không coi đó là một trở ngại lớn. Anh đã đợi lâu rồi nên có thể đợi bao lâu nữa cũng được, cho tới khi cô gái đến tuổi dậy thì.
Ngôi nhà lấy lại không khí yên vui đầm ấm và nó chỉ bị đảo lộn khi Menkyađêt qua đời. Mặc dù cái chết của cụ đã là một sự kiện hiển nhiên, song thời điểm xảy ra thì không ai đoán trước được.
Sau khi trở lại được mấy tháng, trong cơ thể cụ diễn ra quá trình già lão rất nhanh và rất mạnh, đến mức lập tức cụ bị coi như những cụ cố già lụ khụ, đi lại vất vưởng như những chiếc bóng ở trong phòng, nặng nề kéo lê đôi chân, mồm lảm nhảm nói to những ký ức thuở oanh liệt của đời mình và trên thực tế các cụ già là những người không được mọi người quan tâm chăm sóc và nhớ đến cho tới một ngày kia, sáng ra các cụ đã chết còng queo trên giường nằm. Lúc đầu Hôsê Accađiô Buênđya giúp đỡ cụ, thích thú cái tân kỳ của nghề ảnh, và những lời tiên tri của Nostrađam. Nhưng rồi dần dần ông bỏ mặc cụ trong thế giới cô đơn của riêng cụ, bởi vì sự giao tiếp giữa hai người ngày một khó khăn hơn. Cụ cứ ngày một loà và điếc hơn, dường như cụ nhầm lẫn những người hỏi chuyện mình với những người cụ quen trong các thời xa xưa của loài người và cụ trả lời những câu hỏi của họ bằng những câu nói rườm rà lẫn lộn các thứ tiếng với nhau. Như thể được linh cảm trực tiếp hướng dẫn, cụ sờ soạng không khí mà đi. Dù rằng phải len lỏi giữa các đồ vật vẫn không hề làm chúng rơi đổ. Một ngày nọ cụ quên lắp hàm răng giả, vẫn được ngâm trong ca nước để ở ngăn cạnh đầu giường. và cụ không dùng đến nó nữa. Khi Ucsula quyết định mở rộng ngôi nhà ở, bà đã làm cho cụ một căn buồng riêng ngay bên cạnh xưởng kim hoàn của Aurêlianô.
Căn buồng này cách xa những tiếng ồn ào và công việc bếp núc, có một cửa sổ ánh sáng chan hoà rọi vào phòng và một giá sách gồm các cuốn sách hầu như đã rách nát bởi bụi bặm và gián nhấm, những mẩu giấy vụn chi chít ghi những con chữ không thể đọc được và ca nước đựng hàm răng giả đã có những cây bèo trổ hoa vàng nhỏ li ti, tất cả đều do Ucsula tự tay sắp đặt. Căn phòng mới dường như khiến cụ Menkyađêt hài lòng vì không bao giờ thấy cụ ra khỏi phòng mình, ngay cả những lúc ăn cơm cũng không thấy cụ có mặt trong phòng ăn. Cụ chỉ đi sang xưởng kim hoàn của Aurêlianô và cụ vẫn ở lại đây hàng giờ, và hàng giờ để viết thứ văn chương khó hiểu trên những tấm da thuộc. Hình như những tấm da này cứ rạn nứt ra bởi chúng được làm từ chất liệu khô khốc như bột làm bánh phồng. Tại đó, cụ xơi cơm do Visitaxiôn mang đến một ngày hai lần, mặc dù tròng những ngày cuối đời cụ không thích ăn và chỉ ăn rau thôi.
Ít lâu sau, cụ mang vẻ cô đơn buồn tủi của những người ăn chay. Một lớp rêu non giống hệt lớp rêu rậm rì phong trên chiếc áo khoác ngoài tứ thời không bao giờ chịu cởi ra, đã phủ lên lớp da cụ, và hơi thở của cụ nồng nặc mùi rắm của con vật đang ngủ. Aurêlianô cũng quên cụ, vì anh mê mải viết những vần thơ của mình. Nhưng cũng có những lúc anh tưởng mình hiểu được đôi điều cụ nói trong lúc cụ độc thoại bâng quơ và anh đã chú tâm nghe. Thực ra, điều duy nhất anh có thể phân biệt được trong ngôn từ khó hiểu của cụ là sự lắp đi lắp lại không cùng của từ Ekinôxiô(1) và tên Alêchxanđơ Vôn Humbon(2). Accađiô gần gũi cụ hơn khi cậu bé giúp việc cho Aurêlianô ở trong xưởng kim hoàn. Menkyađêt đã đáp ứng lại sự cố gắng giao tiếp ấy bằng cách đôi lúc xổ ra hàng tràng tiếng Tây Ban Nha rất ít liên quan đến thực tế cuộc sống. Tuy nhiên, cũng có một buổi chiều nọ, cụ bỗng bừng vui lên một lúc. Những năm sau này, đứng trước những họng súng của đội hành hình, Accađiô nhớ lại nỗi kinh hoàng của mình khi nghe cụ Menkyađêt đọc vài trang bản thảo. Dĩ nhiên cậu không hiểu ý nghĩa của chúng, nhưng khi nghe cụ đọc to thành lời cậu có cảm tưởng chúng giống như lời ngâm chỉ dụ của Giáo hoàng. Sau đó lần đầu tiên trong nhiều năm, cụ mỉm cười và nói bằng tiếng Tây Ban Nha: "Khi ta chết, hãy thiêu ta trên ngọn lửa thuỷ ngân ba ngày ở ngay trong phòng này". Accađiô kể lại cho Hôsê Accađiô Buênđya nghe điều ấy, và thế là ông cố gắng tìm mọi cách để có thể được Menkyađêt giảng giải rõ ràng hơn, nhưng ông chỉ nhận được một câu trả lời gọn lỏn: "Ta đã đạt tới trình độ bất diệt". Khi hơi thở của Menkyađêt đã nặng mùi, Accađiô đưa cụ ra sông tắm vào buổi sáng ngày thứ năm hàng tuần. Dường như cụ khoẻ lại. Cụ cởi quần áo và cụ lội xuống sông tắm cùng với lũ trẻ, và linh giác thần bí có khả năng dắt dẫn cụ đã giúp cụ tránh được những quãng sông nguy hiểm nhiều đá tảng. "Chúng mình thảy đều sinh ra từ nước", có lần cụ nói vậy. Cụ sống như thế khá lâu mặc dù không ai nhìn thấy cụ ở trong nhà trừ cái độ cụ cố gắng hết sức để sửa lại cây đàn pianô tự động. Khi cùng Accađiô đi ra sông tắm, cụ mang theo gáo múc nước làm bằng vỏ quả bí, và một cục xà phòng gói trong khăn tắm kẹp dưới nách. Có một ngày thứ năm, trước khi người ta gọi cụ đi ra sông, Aurêlianô nghe thấy cụ nói: "Ta đã chết vì sốt rét ở những cồn cát xứ Xinhgapo". Ngày hôm ấy, cụ lội xuống sông theo một lối đi nguy hiểm và người ta không tìm thấy cụ cho đến sáng hôm sau là lúc thi hài cụ giạt vào một cù lao rực rỡ ánh nắng nằm ở phía hạ lưu khoảng vài kilômét, có một con diều hâu lẻ đàn đậu ngay trên bụng cụ. Cưỡng lại những lời phản đối om xòm của Ucsula, người khóc cụ còn thảm thiết hơn cả khóc chính cha mình, Hôsê Accađiô Buênđya chống lại việc dân làng định mai táng cụ ngay. "Cụ là đấng bất diệt, - ông nói - và chính cụ đã làm sáng tỏ cái cách thức hồi sinh". Ông làm sống lại ống dẫn nước bị lãng quên, và đun sôi một chảo thuỷ ngân ở bên cạnh tử thi ngày một dày đặc những mụn phỏng xanh lè nước. Đông Apôlina Môscôtê bạo dạn nhắc ông rằng người chết trôi không chôn ngay sẽ nguy hại cho sức khoẻ chung của dân làng. "Không phải thế, vì cụ vẫn sống mà". Đó là câu trả lời của Hôsê Accađiô Buênđya, người đã thực hiện đầy đủ sáu mươi hai giờ đốt lửa thuỷ ngân bên tử thi và khi những mụn phỏng xanh lè nước của cái tủ thi ấy bắt đầu bung ra như ngô nở với tiếng nổ lép bép đã làm cho căn nhà nồng nặc mùi khó chịu. Chỉ đến lúc ấy ông mới cho phép người ta chôn cụ, nhưng không phải dưới bất kỳ hình thức nào, mà phải với những lễ nghi trọng thể đối với vị ân nhân vĩ đại nhất của làng Macônđô. Đó là đám tang đầu tiên và xúc động hơn cả mà người ta thấy trong làng này, và nó chỉ bị đám tang của Bà Mẹ vĩ đại sau gần một thế kỷ lấn át thôi. Người ta chôn cất cụ trong một nấm mồ nổi lên ở chính giữa bãi đất mà làng đã dành làm nghĩa địa, với một bia mộ khác nổi điều duy nhất người ta đã được biết về cụ: MENKYAĐÊT. Người ta cử hành chín đêm tang lễ cho cụ. Trong đám đông tụ tập ở ngoài sân để uống cà phê, tán gẫu và đánh bài, Amaranta đã tìm được dịp để tự thổ lộ tình yêu với Piêtrô Crêspi, người cách đây mấy tuần đã chính thức xin cầu hôn với Rêbêca và đã dựng cửa hàng nhạc cụ và đồ chơi bằng dây da ở ngay địa điểm trước đây những người Arập đến ở để đổi các thứ hàng vặt vãnh lấy những chú vẹt đuôi dài, và dân làng vẫn quen gọi nó là đường Thổ Nhĩ Kỳ. Anh chàng người Ý, với mái tóc xoăn vàng óng trên đầu từng khiến cho các bà phụ nữ phải thở dài thèm muốn, không cần phải nghĩ ngợi nhiều đã đối xử với Amaranta như với một cô bé nghịch ngợm.
- Tôi còn có một người em trai nữa, - anh bảo cô gái, - cậu ấy sẽ đến để giúp tôi trông nom cửa hàng mà.
Amaranta cảm thấy tủi thân, và cô nổi cơn giận dữ nói với Piêtrô Crêspi rằng cô đã quyết chí ngăn cản đám cưới của chị mình, cho dù người ta phải lôi xác chết của mình ra khỏi nhà.
Anh chàng người Ý cảm động trước sự đe doạ bi thương đó đến mức không dám nói lại với Rêbêca. Chuyến du chơi của Amaranta, lúc nào cũng bị Ucsula thúc giục, đã được chuẩn bị trong vòng một tuần. Amaranta không cưỡng lại, nhưng khi hôn tạm biệt Rêbêca, cô đã rỉ tai chị mình:
- Đừng vội mừng nhé. Dù cho người ta mang em đến tận gầm trời cuối đất em sẽ tìm được cách để ngăn cản chị lấy chồng, như vậy thì em phải giết chị thôi.
Ngôi nhà dường như to ra và trống trải hơn khi không có Ucsula ở nhà và khi cụ Menkyađêt đã qua đời nhưng hình như hình bóng cụ vẫn thấp thoáng đi lại trong các phòng. Rêbêca trông nom công việc nội trợ, còn cô gái Anhđiêng trông nom cửa hiệu kẹo bánh. Vào lúc chập tối, khi Piêtrô Crêspi, mặc quần áo dịu thơm mùi oải hương đến, luôn luôn mang theo một thứ đồ chơi làm tặng vật, thì cô người yêu tiếp anh ngay trong phòng khách mở toang các cửa để tránh mọi ngờ vực. Đó là một sự cẩn thận không cần thiết bởi vì chàng thanh niên người Ý đã từng thể hiện mình là con người cao thượng đến mức không dám cầm tay người con gái sẽ là vợ mình trước khi cưới một năm. Những buổi đến chơi đó khiến cho ngôi nhà ngày một chật ních các đồ chơi. Những vũ nữ khiêu vũ nhờ lên dây cót, những hộp nhạc, những con khỉ làm xiếc trên dây, những con chiến mã đang tung vó phi, những thằng hề đánh trống, đó là cả một bộ sưu tập đồ chơi bán cơ khí phong phú và kỳ diệu và nó đã an ủi được Hôsê Accađiô Buênđya đang âu sầu đau đớn trước cái chết của Menkyađêt và chúng lại đưa ông trở về với thời kỳ ông háo hức trước thuật giả kim. Vậy là ông sống trong một thế giới những con vật bị mổ bụng, những cỗ máy bị bổ ra để nghiên cứu nhằm hoàn thiện hệ thống chuyển động liên tục dựa trên những nguyên tắc của quả lắc đồng hồ.
Về phần mình, Aurêlianô đã bỏ mặc công việc trong xưởng kim hoàn để dạy cô bé Rêmêđiôt học đọc và học viết. Lúc đầu cô bé vòi ông khách vẫn thường đến chơi vào các buổi chiều mang cho mình những cán búp bê, và cô bé sẽ là đứa trẻ đáng trách nếu người ta dẹp ngồi trong phòng cùng tiếp khách. Nhưng với đức tính kiên trì và tận tình, Aurêlianô đã cám dỗ được cô bé đến mức nó ngồi với anh hàng giờ đồng hồ để lĩnh hội các bài học và dùng bút chì mầu vẽ trên một tấm bảng con bức tranh những ngôi nhà nhỏ với đàn bò cái đang gậm cỏ ngoài vườn và ông mặt trời tròn gác trên đỉnh núi tỏa chiếu những tia nắng vàng.
Chỉ riêng mình Rêbêca đau khổ trước lời đe doạ của Amaranta. Cô hiểu rất rõ tính cách, thói ương bướng và lòng căm thù sâu sắc của cô em. Những thứ ấy đang làm cô lo sợ.
Hàng giờ ngồi trong buồng tắm, cô mút ngón tay tự kiềm chế cơn thèm để khỏi ăn đất. Cô gọi Pila Tecnêra đến nhà xem bói cho mình để dẹp bớt nỗi lo lắng trong lòng. Sau khi chương bài rồi sắp xếp các quân bài đầy hào hứng, Pila Tecnêra xuất thần bói:
- Em chưa được sung sướng khi mà cha mẹ em chưa được chôn cất tử tế!
Rêbêca rùng mình. Như một giấc mơ cô nhớ lại thấy mình còn bé bỏng lắm, bước vào nhà mang theo một cái rương nhỏ, một chiếc ghế xích đu gỗ và một bao tải chưa bao giờ biết trong đó đựng cái gì. Cô nhớ một công tử hói đầu, mặc vải lanh và trên cổ áo sơ mi đơm một chiếc cúc vàng, người ấy chẳng có liên quan gì với người đàn ông trong lá bài. Cô nhớ một thiếu phụ lộng lẫy rất trẻ, có đôi bàn tay mềm mại và thơm phức mùi nước hoa không hề giống với những bàn tay mắc chứng phong thấp của người đàn bà trong lá bài, thiếu phụ ấy đã cài hoa lên tóc cô và dẫn cô đi dạo chơi quanh làng có những con đường xanh trong buổi chiều vàng.
- Em không hiểu, - cô nói.
Pila Tecnêra bối rối:
- Chị cũng thế, nhưng những quân bài đã nói vậy đấy.
Rêbêca hoảng hốt, ngày đêm không lúc nào yên khi nghĩ tới lời tiên đoán ấy, đã phải nói lại cho Hôsê Accađiô Buênđya nghe và ông này lập tức mắng át đi, không chịu chứng thực lời đoán của cái lá bài. Nhưng trên thực tế, ông lại thầm lặng lục tìm cái túi tải đựng xương người ở khắp nhà: hết lục tủ rương hòm lại xoay chuyển bàn ghế, lật giường mà vẫn chẳng thấy. Ông nhớ ra từ ngày xây lại nhà mình không nhìn thấy nó nữa. Ông bí mật gọi những người thợ nề đến nhà và một người trong số họ khẳng định rằng anh ta đã đặt túi tải xương người ấy vào một cái hốc tường rồi trát vữa lại vì nó cứ quấy rầy, làm anh rối trí không làm được việc, nhưng lúc này anh không nhớ rõ bức tường ấy thuộc phòng nào. Sau vài ngày dò tìm, với lỗ tai áp sát vào tường, họ đã tìm thấy tiếng kêu lộc cộc, lộc cộc, lộc cộc thầm thì chìm trong tường. Họ đục bức tường và thấy những xương người trong túi tải còn mới nguyên. Ngay ngày hôm đó, người ta mai táng hai bộ xương người trong một nấm mồ không bia mộ ở ngay cạnh mộ cụ Menkyađêt. Hôsê Accađiô Buênđya trở về nhà lòng thanh thản như vừa trút bỏ gánh nặng y hệt như ký ức về Pruđênxiô Aghila trước đây từng đè nặng lên lương tri ông. Khi đi qua nhà bếp, ông hôn lên trán Rêbêca rồi bảo:
- Hãy rũ sạch những ý nghĩ tội nghiệp ấy đì, con ạ! - Ông nói - Từ đây trở đi con sẽ được hạnh phúc.
Tình bạn của Rêbêca đã mở cửa cho Pila Tecnêra đến nhà. Thị đã bị Ucsula cấm cửa kể từ ngày đẻ Accađiô. Như sự chạy nhảy ồn ào của bầy dê cái thị đến nhà vào bất cứ giờ nào và thị hăng hái làm mọi việc nặng nhọc. Đôi lúc thị có mặt trong xưởng kim hoàn và bằng cử chỉ hoạt bát giúp đỡ Accađiô thoa mịn giấy ảnh trong tình cảm âu yếm. Cuối cùng thị đã làm cho cậu lúng túng. Người đàn bà ấy đã làm cậu hoang mang. Nước da rám nắng, mùi khét, tiếng cười khúc khích trong phòng tối của thị khiến cậu thở rộn rã hối hả, khiến cậu lúng túng hoài, cứ va vấp phải các đồ vật ở xung quanh.
Cũng có những lúc Aurêlianô có mặt trong phòng, mải mê làm việc và Pila Tecnêra dựa người vào bàn mà thán phục anh làm việc cần mẫn và tỉ mỉ. Bỗng nhiên thị xuất thần. Aurêlianô nhận rõ rằng Accađiô đang ở trong phòng. Trước khi ngước mắt lên và bắt gặp đôi mắt của Pila Tecnêra, để lộ ý nghĩ rất sáng rõ như thể chúng lộ ra mồn một ngay ở dưới ánh mặt trời lúc đang trưa, anh hỏi:
- Được! Chị hãy nói cho tôi biết cái gì vậy?
Pila Tecnêra liếm môi rồi nở một nụ cười buồn:
- Anh thích hợp với chiến tranh, - thị nói, - anh đặt mắt ở đâu thì ở đó viên đạn do anh bắn sẽ tới.
Aurêlianô nâng tay tán thành lời tiên đoán ấy. Anh tập trung tư tưởng trở lại với công việc như thể chẳng có chuyện gì vừa xảy ra và anh nói với một giọng bình thản mà rắn rỏi:
- Biết rồi, - anh nói, - cuộc chiến tranh ấy sẽ mang tên tuổi của tôi mà.
Cuối cùng Hôsê Accađiô Buênđya thực hiện được cái mà ông muốn làm. Ông đã nối được vũ nữ nhẩy múa nhờ dây cót vào bộ máy đồng hồ và nó khiêu vũ theo nhạc suốt ba ngày liền. Chiến tích ấy khiến ông vui sướng hơn bất kỳ một công việc hao tâm tổn sức nào của ông trước đây. Ông không ăn. Ông không ngủ. Vì thiếu Ucsula ở bên cạnh để chăm nom và săn sóc, ông tự để cho mình bơi trong thế giới tưởng tượng do đó dẫn ông đến tình dạng hưng phấn thường xuyên. Ông sống những đêm dài trăn trở mà đi đi lại lại trong phòng, mà lảm nhảm tính suy mà tìm cách áp dụng những nguyên tắc của quả lắc đồng hồ cho những chiếc xe bò, cho những lưỡi cày, nghĩa là cho tất cả những gì hữu hiệu được đặt trong chuyển động. Cơn sốt vì mất ngủ làm cho ông mệt mỏi quá tới mức một buổi đêm về sáng nọ ông không thể nhận ra một ông già tóc bạc phơ có cử chỉ ngỡ ngàng bỗng bước vào phòng ngủ. Đó là Pruđênxiô Aghila. Khi nhận ra Pruđênxiô Aghila, ông ngạc nhiên thấy rằng người chết cũng già theo năm tháng. Hôsê Accađiô Buênđya cảm thấy rùng mình vì nỗi nhớ nhung. "A, Pruđênxiô, - ông reo lên, - xa xôi thế mà bác cũng tìm đến đây được sao". Sau rất nhiều năm ở trong cõi chết, nỗi nhở nhung người sống mới da diết làm sao, sự cần thiết phải có bạn mới bức bối làm sao, sự gắn kề một cái chết khác vốn đã tồn tại ngay trong lòng cõi chết mà chính Pruđênxiô Aghila vừa rồi mong cho kẻ thù tệ mạt nhất của mình mới đáng sợ làm sao. Pruđênxiô Aghila đã tốn nhiều thời gian đi tìm ông. Pruđênxiô Aghila hỏi thăm ông qua những linh hồn chết ở Riôacha, qua những linh hồn chết ở thung lũng Uga, qua những hnh hồn chết từ vùng đầm lầy tới, nhưng không một linh hồn chết nào đã trả lời đúng điều ông muốn hỏi, bởi vì Macônđô thời ấy còn là một làng chưa được các linh hồn chết biết tới. Mãi cho tới khi cụ Menkyađêt đến và cụ chỉ cho ông biết một chấm đen trên những tấm bản đồ nhiều màu của thần chết. Hôsê Accađiô Buênđyanói chuyện với Pruđênxiô cho đến tận sáng. Sau đó ít giờ, người phờ phạc vì mất ngủ, Hôsê Accađiô Buênđya bước vào xưởng kim hoàn của Aurêlianô và hỏi anh: "Hôm nay là thứ mấy?". Aurêlianô trả lời cha là ngày thứ ba. "Ta cũng nghĩ như vậy", Hôsê Accađiô Buênđya nói.
"Nhưng ngay lập tức ta hiểu rằng hôm nay vẫn cứ là ngày thứ hai như ngày hôm qua ấy mà. Con hãy nhìn bầu trời kia, hãy nhìn các bức tượng kia, hãy nhìn những chậu thu hải đường kia. Hôm nay cũng vẫn là ngày thứ hai". Đã quen với những lời lẩn thẩn ấy, Aurêlianô không nghe lời ông. Vào ngày hôm sau, tức sáng ngày thứ tư, Hôsê Accađiô Buênđya lại bước vào xưởng. "Đây là một thảm hoạ" - ông nói, "Con hãy nhìn gió kìa, hãy nghe tiếng kêu vo vo của ông mặt trời kìa, y hệt như hôm qua, hôm kia". Đêm ấy Piêtrô Crêspi gặp ông ở ngoài hành lang bang khóc lóc với tiếng khóc khô khốc của người già, khóc cho Pruđênxiô Aghila, khóc cho cụ Menkyađêt, khóc cho cha mẹ của Rêbêca, khóc cho cha mẹ ông, khóc cho tất cả những ai ông nhớ được và lúc ấy họ đang cô đơn trong cõi chết. Piêtrô Crêspi tặng ông một con gấu cử động nhờ dây cót đi hai chân trên một dây sắt, nhưng với quà tặng này anh vẫn không làm ông vui lên được. Ông hỏi anh kế hoạch mà ông đặt ra cho anh từ những hôm trước như thế nào rồi, tức là công việc nói về khả năng xây dựng một cái máy dựa trên nguyên tắc quả lắc đồng hồ có thể nâng bổng bất cứ vật gì trong không trung, có thể giúp con người bay lên. Và anh đã trả lời ông rằng: không thể được, vì là quả lắc đồng hồ có thể nâng bổng bất kỳ một vật nào lên không trung nhưng nó lại không thể tự nâng mình lên được. Ngày thứ trăm ông lại có mặt trong xưởng kim hoàn với bộ dạng đau khổ của mặt đất bị chà sát. "Bộ máy thời gian đã hỏng rồi, - ông khóc nức nở, - còn Ucsula và Amaranta lại ở rất xa". Aurêlianô mắng mỏ cha như mắng một đứa trẻ và ông lại ngoan ngoãn nghe theo. Sáu giờ liên tục ông kiểm tra các đồ vật cố tìm gặp một sự khác biệt về một phương diện nào đó mà ngày hôm qua chúng đã có nhằm phát hiện trong chúng một sự thay đổi chứng tỏ rằng thời gian vẫn trôi chảy tuần tự. Cả đêm ông nằm trên giường, mắt mở thao láo, mà gọi Pruđênxiô Aghila, gọi Menkyađêt, gọi tất cả những người đã chết để họ tới cùng chia sẻ với ông nỗi chán chường. Nhưng không một ai tới. Ngày thứ sáu, ngay trước lúc mọi người thức dậy, ông lại quan sát mọi biểu hiện bên ngoài của thiên nhiên, ông quan sát mãi cho tới khi ông không nghi ngờ rằng hôm ấy vẫn cứ là ngày thứ hai.
Thế là ông vớ lấy thanh gỗ chèn cửa và với sức mạnh tàn bạo vốn có của mình ồng đập phá tan tành các dụng cụ phòng thí nghiệm giả kim, xưởng kim hoàn, cỗ máy ảnh. Rồi như một con ác quỷ ông gào thét bằng một thứ ngôn ngữ có âm thanh sang sảng đồng thời lại thao thao bất tuyệt mà thực tế không thể nào hiểu được. Ông sẵn sàng đập phá nốt cả ngôi nhà cũng vừa hay Aurêlianô đã nhờ hàng xóm đến giúp mình. Phải nhờ tới mười người đàn ông lực lưỡng mới vật đổ được ông, mười bốn người trói ông, hai mươi người lôi ông tới cây dẻ ở giữa sân là nơi người ta bỏ mặc ông bị trói, tha hồ sủa những lời quái dị, thả sức nhổ phì phì thứ đờm xanh lè. Khi Ucsula và Amanranta trở về, ông vản bị trói chặt tay chân vào gốc cây, người ướt, đẫm nước và hoàn toàn ngây dại. Hai mẹ con nói chuyện với ông, nhưng ông không nhận ra người ruột thịt của mình. Ông nói với họ về một cái gì đó không thể hiểu được. Ucsula cởi dây trói nơi cổ tay và cổ chân cho ông, đó là những chỗ thịt đã thành chai do dây thừng thít chặt quá và chỉ để ông bị trói ngang thắt lưng thôi. Sau đó người ta dựng tạm một túp lều lá cọ để che mưa che nắng cho ông.
Chú thích:
(1) Chỉ thời điểm ngày và đêm bằng nhau, và một năm chỉ có hai lần, đó là ngày xuân phân và thu phân.
(2) Alexander Von Humboldt (1769-1859). nhà địa lí người Đức, tác giá cuốn sách nổi tiếng: Cuộc du lịch đến những miền ngày và đêm như nhau của châu lục mới.
CHƯƠNG 5
Một ngày chủ nhật tháng Ba, Aurêlianô Buênđya và Rêmêđiôt Môscôtê làm lễ thành hôn trước bàn thờ Chúa do cha Nicanô Râyna sai dựng ngay trong phòng khách nhà Buênđya. Đó là cả một thời kỳ rộn rã đến cao độ kéo lài bốn tuần liền trong nhà Môscôtê, là vì cô bé Rêmêđiôt đến nổi dậy thì trước khi từ bỏ những thói quen của tuổi thơ. Đã được mẹ chỉ bảo cho những thay đổi đột biến của tuổi dậy thì, thế mà vào một buổi chiều tháng hai cô bỗng hoảng hốt kêu oang lên chìa cho đám chị em mình đang ngồi thêu xem chiếc líp vấy bẩn một thứ nước nhơn nhớt màu sôcôla. Ngày cưới được ấn định sau đó một tháng. Hầu như người ta không có đủ thời gian để dạy cô bé tự rửa ráy, tự mặc lấy quần áo, tự hiểu lấy những công việc thiết yếu của cuộc sống gia đình. Người ta cho cô đái vào những hòn gạch nung nóng để trị bệnh đái dầm. Vất vả lắm mới thuyết phục nổi để cô hiểu tính bất khả xâm phạm của buồng kín, bởi vì Rêmêđiôt vừa rất hoảng sợ đồng thời lại rất hào hứng trước những lời chỉ dẫn đến mức cô cứ muốn mọi người nói về đêm tân hôn với tất cả tình tiết của nó. Đó là một cố gắng hết sức, song trong ngày được chọn làm ngày cưới, cô bé tỏ ra thạo đời y hệt như bất cứ bà chị nào của mình.
Ông Apôlina Môscôtê khoác tay con gái dẫn đi trên những con đường làng trang hoàng hoa lá, dậy vang tiếng pháo nổ và tiếng hạc mừng vui. Cô bé vẫy tay chào và nhoẻn miệng cười cám ơn những ai từ cửa sổ nhà mình chúc cô may mắn và hạnh phúc.
Aurêlianô, mặc bộ complê dạ màu đen, đi đôi ủng màu cánh dán có dính cựa thúc ngựa, đôi ủng mà ít năm sau này đứng trước đội hành hình chàng vẫn mang, da nhợt nhạt xanh tái và cổ họng như nghẹn lại khi đón cô dâu ngay ở cửa và đưa nàng đến trước bàn thờ Chúa. Cô bé cư xử hết sức tự nhiên, hết sức đúng mực đến độ không để mất sự hài hoà ngay cả khi Aurêlianô, vào lúc đeo nhẫn cho vợ, đã để rơi chiếc nhẫn. Trong không khí ồn ào những tiếng thì thầm bàn tán và trong phút đầu tiên khi các vị khách mời còn bỡ ngỡ, cô dâu vẫn giương cao bàn tay mang chiếc tất để hở ngón và vẫn chìa nguyên ngón đeo nhẫn đợi cho tới khi chú rể lấy chân đi ủng chặn đứng chiếc nhẫn khỏi lăn ra cửa và nhặt lấy nó, mặt đỏ bừng trở về trước bàn thờ. Mẹ và các chị cô khổ sở lo lắng chỉ sợ con bé thất thố, dù chỉ là một cử chỉ nhỏ thôi trong lúc tiến hành lễ cưới, và đến khi buổi lễ kết thúc, chính họ là người đã chạy đến, bất chấp quan khách đông đủ, bế cô lên tặng cho những chiếc hôn nồng nàn. Kể từ ngày đó, cô đã tỏ rõ là người có ý thức phục tùng, ý nhị, điềm tĩnh trước những tình huống mâu thuẫn trong gia đình. Chính cô là người mở đầu tiệc cưới và là người xắn lấy miếng bánh cưới ngon nhất, đặt nó vào cái đĩa có để sẵn chiếc nĩa, mang đến cho Hôsê Accađiô Buênđya. Bị trói vào thân cây dẻ, ngồi khom lưng trên chiếc ghế gỗ trong túp lều lá cọ, ông già to béo, da bệch bạc vì mưa nắng mỉm một nụ cười lơ đãng mang vẻ biết ơn và tay cầm lấy miếng bánh ăn, miệng ngâm nga một bài nhã ca khó hiểu. Người duy nhất không hạnh phúc trong đám cưới linh đình kéo dài tới sáng sớm ngày thứ hai là Rêbêca Buênđya. Ngày vui của cô đã không thành. Theo sự thỏa thuận của Ucsula, hôn lễ của cô cũng sẽ được tổ chức cùng ngày với hôn lễ của Aurêlianô, nhưng ngày thứ sáu Piêtrô Crêspi đã nhận được lá thư báo tin mẹ anh sắp chết. Đám cưới của họ bị đình lại. Sau một giờ nhận thư, Piêtrô Crêspi đi ra tỉnh ngay và trên đường đi anh không gặp mẹ mình, người cũng đang trên đường đến làng Macônđô cho kịp đêm thứ bảy và trong đám cưới của Aurêlianô đã hát một bài hát buồn do chính bà sáng tác với mục đích dành riêng cho đám cưới của con trai mình.
Piêtrô Crêspi trở lại vào lúc nửa đêm ngày chủ nhật để quét dọn mẩu tàn thuốc lá của tiệc vui sau khi anh đã phi như gió làm cho năm chú ngựa phải ngã gục ở dọc đường, cố về cho kịp giờ làm đám cưới của mình. Kẻ viết thư ấy sẽ không bao giờ bị phát giác. Bị Ucsula rày la, Amaranta khóc lóc thảm thiết thề sống thề chết trước bàn thờ Chúa vẫn chưa được những người thợ mộc dọn đi.
Cha xứ Nicanô Râyna - người được đông Apôlina Môscôtê đưa về đây để làm lễ cưới - là một người nhẫn nại trong công việc quá ư tẻ nhạt và nhàm chán của mình. Cha có nước da đến là buồn thảm cứ dán chặt lấy xương, có cái bụng ỏng tròn vo, mang dáng vẻ hiền quá hoả đần của một vị thần già. Cha định sẽ trở về giáo khu của mình ngay sau khi làm xong lễ cưới nhưng cha lấy làm ngạc nhiên trước vẻ thô kệch quá ư quê mùa của dân chúng Macônđô vốn sinh sôi nẩy nở đến là đông đúc, sống mù quáng tuân theo luật tự nhiên, không chịu làm lễ rửa tội cho con cái cũng như không đặt tên thánh cho các ngày lễ.
Vì nghĩ rằng mảnh đất này cần hạt giống của Thượng đế hơn bất kỳ nơi nào, cha bèn quyết định ở lại thêm một tuần lễ nữa để giáo hoá làng này thành một làng của Chúa, để làm lễ cưới cho những đôi trai gái chung sống theo sở thích và làm lễ rửa tội cho những người ốm sắp tắt thở. Nhưng không một ai nghe cha. Họ trả lời đức cha rằng trong nhiều năm ròng họ sống không có sự chăn dắt của cha xứ, rằng họ tự mình giải quyết một cách trực tiếp với Thượng đế những vướng mắc của linh hồn và họ đã hoàn toàn bỏ thói xấu gây tội ác. Mệt mỏi vì phải thuyết giảng ở vùng hoang mạc, cha Nicanô quyết định sẽ xây dựng một nhà thờ lớn nhất thế giới, có những bức tượng to bằng người thực, trên tường khảm những tấm kính nhiều màu. Một nhà thờ lớn như thế sẽ làm cho dân bổn đạo ở tận thành Rôm cũng phải đến để thờ khiến Chúa được hiển vinh ngay tại trung tâm của xứ vô đạo này. Cha đi khắp làng với chiếc đĩa đồng trên tay để quyên góp. Dân chúng cho rất nhiều nhưng cha lại muốn nhiều hơn, bởi vì nhà thờ cần có một quả chuông mà tiếng vang của nó có thể khiến cho xác những người chết đuối phải nổi lên trên mặt nước. Cha cầu xin quá sức đến nỗi khản cả tiếng. Xương hóc cha mỏi dừ như có kiến bò bên trong. Một ngày thứ bảy nọ, vì không xin được gì, ngay cả hoa quả hoặc thức ăn để sẵn ở cửa, cha đâm sợ hãi vì thất vọng. Cha làm vội một bàn thờ Chúa ở ngay giữa quảng trường và ngày chủ nhật, tay rung chuông như trong thời kỳ bệnh mất ngủ hoành hành, cha đi khắp làng để cổ động mọi người tới dự buổi lễ mixa quê mùa. Rất nhiều người vì tò mò đã đến. Một số người khác vì nhớ nhung. Số khác đến dự lễ mixa để khỏi bị Thượng đế coi cái lập trường trung gian của mình như một sự chống đối cá nhân. Vậy là vào lúc tám giờ sáng, có đến một nửa làng đã tụ tập ở quảng trường xem cha xứ Nicanô với giọng khản vì cầu xin, đang tụng kinh Phúc âm. Đến cuối buổi lễ, khi những người dự lễ bắt đầu tản mác ra về, cha giương cao hai tay lên ra hiệu để mọi người chú ý nghe:
- Hãy khoan? Hãy khoan? - cha nói. - Giờ đây chúng ta sẽ xem một bằng chứng không thể tranh cãi được về sức mạnh vô biên của Thượng đế.
Chú bé ban nãy giúp cha cử hành lễ mixa, lúc này mang đến hầu cha một tách sôcôla đặc nghi ngút khói và cha đã uống liền một hơi không nghỉ. Sau đó cha rút chiếc mùi soa dắt trong ống tay áo thụng ra lau mồm, dang rộng hai cánh tay, nhắm nghiền mắt lại. Vậy là cha xứ Nicanô liền tự nâng bổng mình lên cách mặt đất mười hai xăngtimét. Đó là một thủ đoạn dễ chấp nhận.
Trong vài ngày cha đi khắp mọi nhà để nhắc lại thử nghiệm việc tự nâng bổng mình khỏi mặt đất nhờ sức kích thích thần kinh của sôcôla. Trong lúc ấy, chú bé hầu lễ đã quyên được rất nhiều tiền đựng trong túi tải đến mức không đầy một tháng đã tiến hành khởi công việc xây dựng nhà thờ. Không một ai nghi ngờ cội gốc linh thiêng của sự chứng minh ấy, ngoại trừ Hôsê Accađiô Buênđya, người không hề cử động đã quan sát đám đông lộn xộn vây quanh gốc cây dẻ vào một buổi sáng để một lần nữa xem cha tự nâng mình khỏi mặt đất. Hầu như ông chỉ hơi duỗi chân trên ghế và nhún vai khi cha xứ Nicanô bắt đầu tự nâng mình khỏi mặt đất cùng với chiếc ghế cha ngồi.
- Hoc est simplicisimum - Hôsê Accađiô Buênđya nói - hom iste statum quartum materiae invenit(1)
Cha xứ Nicanô giơ tay lên và lập tức bốn chân ghế cùng hạ xuống đứng trên mặt đất.
- Nego - ông nói. - Faclum hoc existentiam Dei probat sinh dubio(2).
Do đó người ta biết rằng thứ ngôn ngữ quỉ ám khó hiểu ấy của Hôsê Accađiô Buênđya là tiếng Latinh. Cha xứ Nicanô liền tranh thủ dịp may mình là người duy nhất có thể giao dịch được với Hôsê Accađiô Buênđya để nhồi nhét đức tin Kitô giáo vào bộ não đã loạn trí của ông. Buổi chiều nào cũng vậy, cha xứ ngồi bên cây dẻ mà lải nhải thuyết giáo bằng tiếng Latinh nhưng Hôsê Accađiô Buênđya khoái chí không thừa nhận những con đường mòn cũ rích cũng như sự thay màu của sôcôla và đòi xem một bức ảnh Thượng đế, coi đó như là một bằng chứng cuối cùng. Thế là cha xứ Nicanô mang đến cho ông những huy hiệu và những bức ảnh và ngay cả tấm phục chế một tấm dạ thêu ảnh thánh Vêrônica, nhưng Hôsê Accađiô không thừa nhận mà coi chúng là đồ thủ công mỹ nghệ không có cơ sở khoa học. Ông rất ương bướng, tới mức cha xứ Nicanô buộc phải từ bỏ ý định biến ông thành một tín đồ đạo Thiên Chúa. Nhưng về phương diện tình cảm giữa người với nhau cha vẫn thường xuyên tới thăm ông. Song lúc ấy, Hôsê Accađiô Buênđya lại là người nắm thế chủ động tấn công và định bẻ gẫy niềm tin của cha cố bằng những suy tính của người duy lí. Có lúc cha xứ Nicanô mang tới gốc cây dẻ một bàn cờ có đủ số quân để mời ông chơi cờ đam(3).
Hôsê Accađiô Buênđya không chơi, bởi chưa bao giờ ông có thể hiểu được ý nghĩa của một cuộc thi đấutrong đó hai đối thủ đã thoả thuận với nhau về những nguyên tắc. Cha xứ Nicanô, người chưa từng thấy ai chơi cờ theo lối ấy, cũng không trở lại đánh cờ đam. Càng ngày cha xứ càng thán phục trí thông minh của Hôsê Accađiô Buênđya. Cha đã hỏi ông làm sao ông lại có thể bị trói chặt vào gốc cây thế.
- Hoc est simplicisimum, - ông trả lời - là vì tôi bị điên rồ mà.
Từ đó trở đi, chăm lo cho đức tin của mình, cha xứ không đến thăm ông nữa, quyết chí khởi công ngay việc xây dựng nhà thờ. Rêbêca cảm thấy hy vọng của mình đang sống lại. Tương lai của cô phụ thuộc vào việc hoàn thành công việc này. Cô nghĩ như vậy là vì kể từ ngày chử nhật nọ cha xứ Nicanô ăn cơm trưa ở nhà này và cả nhà quây quần ngồi quanh bàn ăn nói chuyện về những nghi lễ trang nghiêm và huy hoàng trong các hoạt động tôn giáo khi nhà thờ được xây xong. "Người gặp may nhất ở đây là chị Rêbêca", Amaranta nói. Và vì thấy Rêbêca không hiểu mình muốn nói gì, cô giải thích với một nụ cười ngây thơ:
- A, chả là vì lễ thành hôn của chị sẽ trùng với ngày khánh thành nhà thờ mà lị.
Rêbêca vội vã chặn trước bất kỳ lời bình phẩm nào về chuyện này. Theo tiến độ xây dựng thì nhà thờ sẽ không thể hoàn thành trước mười năm. Cha Nicanô không đồng ý vì cha cho rằng với sự hảo tâm mới nảy sinh hiện nay của những con chiên trung thành cho phép cha sẽ làm những con tinh lạc quan hơn. Trước thái độ hờn dỗi thầm lặng của Rêbêca, người đã phải bỏ dở bữa ăn, Ucsula tán thành ý nghĩ của Amaranta, và bà đã góp một phần của cải đáng kể để đẩy nhanh hơn tiến độ xây dựng công trình. Cha Nicanô cho rằng với một sự đóng góp nữa như sự đóng góp này, ngôi nhà sẽ được xây xong trước ba năm.
Từ lúc đó trở đi, Rêbêca không thèm nói chuyện với Amaranta mà lòng tự nhủ rằng thái độ khiêu khích của Amaranta không phải là quá ngây thơ như cô tưởng. "Đó là điều ít nghiêm trọng hơn có thể xảy ra", Amaranta cãi lại Rêbêca trong cuộc đấu khẩu ác liệt đã xảy ra đêm ấy. "Như vậy, trong ba năm tới đây, tôi chưa cần phải giết chị". Rêbêca chấp nhận lời thách thức ấy.
Khi Piêtrô Crêspi biết được lễ thành hôn của mình lại bị hoãn, anh lâm vào tình trạng thất vọng. Trái lại Rêbêca đã chứng tỏ lòng chung thuỷ của mình. "Chúng mình sẽ trốn đi khi nào anh quyết định xong", cô nói. Tuy nhiên, Piêtrô Crêspi không phải là người thích mạo hiểm. Anh đã thiếu tính cách sôi nổi của người yêu, lại còn quá câu nệ coi lời hứa như là một kho báu không thể nào phung phí được. Vậy là Rêbêca vận dụng những thủ đoạn mạnh bạo hơn. Một ngọn gió kỳ lạ thổi tắt phụt ngọn đèn trong phòng khách và Ucsula bắt gặp quả tang hai người đang hôn nhau trong bóng tối. Piêtrô Crêspi vụng về giải thích cho bà về sự kém phẩm chất của những cây nến hiện đại thắp nhựa đường và giúp bà đặt ở phòng khách một hệ thống đèn thắp sáng chắc chắn hơn. Nhưng lần khác, đèn lại bị đổ nhầm dầu hoặc bị tụt bấc. Ucsula lại bắt quả tang Rêbêca ngồi trên đùi người yêu. Thế là bà không thèm nghe bất cứ một lời thanh minh nào nữa. Bà giao cho cô gái Anhđiêng trông coi cửa hàng bánh kẹo và chính bà ngồi ở ghế xích đu giám sát các buổi chuyện trò của đôi tình nhân, quyết không chịu thua những thủ đoạn cũ rích mà bà vốn quen hồi còn xuân trẻ.
"Khốn thân mẹ quá!", Rêbêca nói với tất cả sự hờn giận có pha chút hài hước lúc nhìn Ucsula đang ngáp dài trong không khí căng thẳng của buổi đến chơi. "Khi mẹ chết có lẽ mẹ sẽ ra đi trên chiếc ghế xích đu này mất". Sau ba tháng sống trong tình yêu bị theo dõi khắt khe, nản lòng trước sự chậm trễ trong công việc xây dựng mà ngày nào anh cũng đến thăm, Piêtrô Crêspi bằng lòng góp cho cha Nicanô số tiền cha cần để hoàn thành việc xây cất nhà thờ. Amaranta vẫn không thối chí. Trong lúc ngồi nói chuyện với đám chị em vẫn thường đến nhà vào các buổi chiều để thêu hoặc đan ở ngoài hành lang, cô cố tìm những mưu mẹo mới. Một thiếu sót đã làm hỏng mất mưu mẹo mà cô cho là có hiệu lực hơn cả. Ấy là việc sẽ lấy trộm những viên băng phiến mà Rêbêca để ở bộ quần áo cô dâu trước khi cất nó vào rương trong phòng ngủ. Amaranta sẽ làm khi nào chỉ còn không đầy hai tháng việc xây cất nhà thờ kết thúc. Nhưng Rêbêca rất nôn nóng trước việc ngày cưới của mình ngày một đến gần cho nên cô muốn chuẩn bị quần áo cô dâu sớm hơn cả dự định của Amaranta. Vào lúc mở chiếc rương, rồi mở tờ giấy gói, sau cùng mở tấm lụa bọc ngoài, cô gặp bộ quần áo cưới sa tanh, một đầu khăn voan, chiếc mũ miện gài hoa cam, tất cả đều bị gián nhấm thành bụi. Mặc dù cô chắc chắn rằng mình đã để vào gói quần áo hai gói băng phiến bọc trong mùi soa, nhưng vì nỗi bất hạnh xem ra hoàn toàn ngẫu nhiên nên cô không dám đổ lỗi cho Amaranta. Chưa đầy một tháng sẽ đến ngày cưới nhưng không sao, vì cô có Amparô Môscôtê nhận may quần áo cô dâu chỉ trong vòng một tuần là xong. Một buổi trưa trời mưa, Amparô khoác áo tơi bước vào nhà để thừ lần cuối bộ quẩn áo cô dâu cho Rêbêca, Amaranta cảm thấy tức tối đến muốn chết được. Cô lạc cả giọng, và một dòng mồ hôi lạnh buốt chảy dọc theo sống lưng cô. Đã nhiều tháng nay cô sống trong phấp phỏng mong đợi cái giờ ấy. Bởi vì nếu không mưu tính thành công một trở ngại quyết định ngõ hầu cản trở đám cưới của Rêbêca, thì chắc chắn rằng, trong phút cuối cùng khi mà tất cả mọi thủ đoạn nghĩ ra được đều thất bại, cô sẽ có đủ dũng cảm để đầu độc Rêbêca. Buổi chiều ấy trong lúc Rêbêca chết ngốt vì nóng do phải mặc chiếc áo sa tanh may thử mà Amparô đang bình tĩnh dùng kim ghim lại cho vừa với cơ thể người mặc, thì Amaranta đã vài lần nhầm lẫn những mũi móc và đâm cả kim vào ngón tay mình. Nhưng với nỗi lạnh lùng đáng sợ cô đã quyết định ngày đầu độc Rêbêca sẽ là ngày thứ sáu gần kề ngày cưới và cách thức đầu độc sẽ là một giọt nha phiến hoà trong cà phê.
Một trở ngại lớn nhất, rất tàn bạo và cũng rất bất ngờ đã ập đến buộc đám cưới phải hoãn một lần nữa và không biết hoãn đến bao giờ. Chỉ còn một tuần nữa thì đến ngày cưới bỗng nhiên vào lúc nửa đêm Rêmêđiôt thức dậy miệng nôn trôn tháo, người ướt sũng những thứ từ trong bụng thải ra còn nóng hôi hổi, và sau ba ngày thì chết vì nhiễm độc bởi chính thứ máu mình và trong bụng mang cái bào thai sinh đôi. Amaranta tự mình dằn vặt lương tâm. Cô đã quá nhiệt tâm cầu xin Thượng đế một cái gì khủng khiếp sẽ xảy ra để mình khỏi phải đầu độc Rêbêca và do đó cô cảm thấy mình có tội trước cái chết của Rêmêđiôt. Đó không phải là cái trở ngại mà cô cầu mong. Rêmêđiôt đã mang về nhà này một luồng gió mới đầy vui vẻ. Cô cùng chồng chuyển ra ở trong phòng ngay cạnh xưởng kim hoàn và cô đã lấy tất cả búp bê và đồ chơi tuổi ấu thơ trang trí phòng ở và sức sống tươi trẻ của cô tràn ra ngoài bốn bức tường để như một luồng gió mát thổi qua hành lang bày những chậu thu hải đường. Ngay từ lúc thức dậy cô đã hát. Cô là người duy nhất trong nhà đã dám can ngăn những cuộc đấu khẩu giữa Rêbêca và Amaranta. Cô đã gánh vác nhiệm vụ săn sóc cụ Hôsê Accađiô Buênđya. Cô mang cơm cho ông bố chồng, tận tình có mặt hầu hạ lúc cụ ỉa đái tắm rửa cho cụ bằng xà phòng và bã cọ, giữ sạch bộ râu, mái tóc khỏi sự hành hạ của chấy rận, bảo vê tất túp lều lá cọ và tu bổ nó vào thời kỳ mưa bão. Ở những tháng cuối cùng của đời mình, cô đã giao tiếp được với cụ qua những câu latinh đơn giản. Khi đứa con trai của Aurêlianô với Pila Tecnêra ra đời, được mang về nhà và được làm lễ đặt tên là Aurêlianô Hôsê, thì Rêmêđiôt quyết định công nhận chú nhóc là đứa con đầu lòng của mình. Tình cảm người mẹ của cô khiến Ucsula rất đỗi ngạc nhiên. Về phần mình, Aurêlianô gặp ở cô lời biện minh tối cần thiết cho cuộc đời mình. Anh làm việc cả ngày trong xưởng và Rêmêđiôt mang đến cho anh một tách cà phê không pha đường vào giữa buổi sáng. Đêm nào cũng vậy, bọn họ đến thăm vợ chồng Môscôtê. Aurêlianô mê mải đánh đôminô với bố vợ trong lúc đó Rêmêđiôt nói chuyện vui với các bà chị và đàm đạo với mẹ về những vấn đề của người lớn. Mối quan hệ chặt chẽ với gia đình Buênđya đã củng cố thêm quyền lực của đông Apôlina Môscôtê ở trong làng. Trong những chuyến lên tỉnh thường xuyên, ngài đã xin được chính phủ cho mở một trường học do Accađiô, người kế thừa được nhiệt tình sư phạm của ông nội, chăm nom. Bằng biện pháp thuyết phục, ngài đã vận động được phần lớn các ngôi nhà trong làng quét vôi màu xanh để đón mừng lễ kí niệm ngày Quốc khánh. Để đáp lại những đề nghị của cha Nicanô, ngài đã quyết định chuyển tiệm ăn của bác Catarinô sang một con đường biệt lập và cho đóng cửa một số tụ điểm rộn rã đã mọc lên ở ngay trung tâm làng. Một lần lên tỉnh về ngài đã dắt theo sáu lính cảnh sát có súng ống. Đó là những người ngài trao cho nhiệm vụ giữ gìn trật tự. Thế nhưng, không một ai nhắc ngài nhớ lại lời ngài đã hứa với Hôsê Accađiô Buênđya là sẽ không sử dụng cảnh sát vũ trang ở trong làng.
Aurêlianô rất thích thú ông bố vợ tháo vát của mình. "Cậu rồi lại béo phục béo phịch như ông ta thôi", các bạn anh bảo anh vậy Nhưng sự an nhàn từng làm phính đôi má anh và tập trung ánh sáng trong con mát anh vẫn không tăng thêm trọng lượng thân xác và cũng chẳng làm đảo lộn tính kiêu hãnh của anh mà trái lại nó chỉ tô đậm thêm cái đường hằn trên làn môi anh, dấu hiệu của sự suy nghĩ lao lung và của quyết tâm không gì lay chuyển nổi. Tình cảm vợ chồng anh thật là sâu sắc đã đánh thức tình cảm của gia đình hai bên, đến mức khi Rêmêđiôt báo tin mình sẽ có con thì ngay đến cả Rêbêca và Amaranta cũng phải làm lành với nhau để cùng dệt một tấm lanh xanh nếu như sinh con trai và một tấm lanh hồng nếu như sinh con gái. Cô là người cuối cùng được Accađiô nghĩ tới ít năm sau này khi đứng trước họng súng của đội hành hình.
Ucsula quyết định để tang cô trong một năm. Bà ra lệnh đóng hết các cửa, nội bất xuất ngoại bất nhập trừ trường hợp không thể đừng được, cấm nói to và tự tay bà treo bức ảnh Rêmêđiôt ở nơi quàn thi hài cô và đặt một ngọn đèn dầu sáng mãi không tắt trước tấm ảnh đó. Những thế hệ con cháu sau này, không bao giờ để cho ngọn đèn dầu bị tàn, đã lúng túng trước tấm ảnh cô bé mặc váy phồng, đi ủng trắng, trên đấu gài một chiếc nơ soa, mà không thể nào đồng nhất được bức ảnh ấy với sự tưởng tượng vốn có của họ về một bà cô. Amaranta nhận nuôi Aurêlianô Hôsê. cô nuôi dạy nó như một đứa con trai. Nó sẽ là người chia sẻ nỗi cô đơn và an ủi cô khỏi nỗi dằn vặt về những lời cầu khẩn cuồng nhiệt của mình đã khiến cho chất nha phiến vô tình rơi vào cà phê của Rêmêđiôt. Tối đến, Piêtrô Crêspi đội chiếc mũ mang vành khăn tang rón rén bước vào nhà để lặng lẽ thăm Rêbêca, một Rêbêca dường như đang chảy hết máu ngay trong bộ quần áo đen với tay áo chùm. kín mu bàn tay. Nguyên việc nghĩ chọn lại ngày cưới đã có thể là trái đạo lắm rồi, vì thế quan hệ yêu đương của hai người trở thành một quan hệ vĩnh hằng, một tình yêu mỏi mệt không một ai muốn lại chăm sóc nó, như thể những người yêu nhau, từng tắt đèn để hôn nhau trong bóng tối đã xa rời nhau theo ý nguyện của thần chết. Mất phương hướng hoàn toàn, mất luôn cả lý trí, Rêbêca ăn đất trở lại.
Việc để tang tiến hành đã được khá nhiều thời gian đến mức gia đình buộc phải tổ chức lại các buổi cầu kinh tại gia. Vào lúc hai giờ chiều một ngày yên tĩnh, oi bức khủng khiếp, bỗng có một người đẩy cánh cửa ăn thông với đường cái và thế là các cánh cửa rền rĩ lên với sức mạnh làm rung chuyển cả nền ngôi nhà trong đó Amaranta cùng các bạn gái đang ngồi thêu ở hành lang, Rêbêca đang mút ngón tay trong phòng ngủ, Ucsula đang bận bịu trong nhà bếp, Aurêlianô đang cặm cụi làm việc trong xưởng kim hoàn và Hôsê Accađiô Buênđya đang cô đơn ngồi dưới gốc cây dẻ, tất cả mọi người đều cảm thấy rùng mình như có động đất. Một người đàn ông lực lưỡng đến nhà. Tấm lưng vuông vức của anh ta dường như không lọt được qua cửa. Trên cổ anh ta đeo một sợi dây chuyền có treo hình Thánh bà Đồng trinh Rêmêđiôt. Ngực và hai cánh tay anh ta săm kín hình ảnh các nghĩa trang. Trên cổ tay anh ta đeo bức tượng đồng Chúa Giêsu bị đóng đinh câu rút. Anh ta có nước da đen sạm bởi phong sương dãi nắng, mái tóc ngắn và bờm xờm như bờm lừa, hàm răng bạnh ra cứng kều, đôi mắt âu sầu. Thắt lưng của anh ta to gấp hai lần dây cương ngựa. Đôi ủng ngắn có cựa thúc ngựa và đóng cá sắt. Và sự có mặt của anh ta đem đến cho tất cả mọi người cái cảm giác rùng mình trước trận động đất. Anh ta bước qua phòng khách, rồi phòng đợi, tay mang những chiếc túi xách đã cũ. Rồi như một tiếng sấm, anh ta xuất hiện ở hành lang đặt những chậu thu hải đường, nơi Amaranta và các bạn gái dang ngồi khâu sửng sốt cứ giương cao bàn tay cầm kim lên.
"Xin chào", anh ta nói với các cô gái bằng giọng mệt mỏi, rồi ném những túi xách lên bàn làm việc. Sau đó, anh ta rảo cẳng bước vào nhà trong. "Xin chào", anh ta nói với Rêbêca đang hoảng loạn nhìn mình đi ngang qua cửa sổ phòng ngủ. "Xin chào", anh ta nói với Aurêlianô ở trong xưởng kim hoàn, đang giỏng cả năm giác quan lên nghe ngóng. Anh ta đi thẳng vào nhà bếp và ở đây lần đầu tiên anh ta đã dừng lại ở điểm kết thúc một chuyến đi vòng quanh thế giới. "Xin chào", anh ta nói.
Ucsula đứng lặng đi một giây, miệng há hốc, đã nhìn thẳng vào mắt anh ta. Bà ném ra một tiếng kêu rồi nhẩy lên ôm lấy cổ anh ta mà gào mà khóc đầy sung sướng. Đó là Hôsê Accađiô.
Anh trở về vẫn nghèo túng như lúc ra đi đến nỗi Ucsula phải cho anh hai đồng pêsô đẻ trả tiền thuê ngựa. Anh nói tiếng Tây Ban Nha có pha những từ lóng của dân thủy thủ. Người ta hỏi anh ở đâu thì anh trả lời: "Ở đằng ấy". Anh mắc võng ở trong phòng dành cho mình rồi ngủ ba ngày liền. Khi thức dậy, sau lúc ăn liền mười sáu quả trứng luộc, anh đi thẳng ra tiệm ăn của bác Catarinô. Tại đây, cơ thể đồ sộ của anh đã gây cho đám phụ nữ phải sôi nổi bàn tán đầy vẻ tò mò. Anh tổ chức một cú khao nhạc và rượu mạnh cho tất cả mọi người. Anh thách năm người đàn ông cùng một lúc vật tay với mình. "Chịu thôi", họ nói vào lúc đểu nhận thấy mình không thể lay chuyển được cánh tay của anh, "Vì anh có tượng Chúa Giêsu bị đóng đinh câu rút phù trợ"... Bác Catarinô, mà lúc ấy vẫn chưa tin vào nghệ thuật sử dụng sức mạnh của anh, đã thách anh mười hai đồng pêsô nếu nhấc nổi quầy hàng của mình. Hôsê Accađiô nhấc bổng cái quầy hàng, đội nó trên đầu rồi mang ra để ở giữa đường cái. Bác phải cần tới mười một người dàn ông lực lưỡng mới khiêng được nó vào vị trí cũ. Trong không khí sôi nổi vui như hội, Hôsê Accađiô đứng trên quầy hàng trưng cho mọi người xem cơ thể cường tráng của mình không chỗ nào không săm hình nhăng nhít với những dòng chữ viết màu xanh và màu đỏ thuộc vài ngôn ngữ khác nhau. Hướng về những người đàn bà đang vây lấy mình, với lòng tham không đáy, anh hỏi họ xem ai trả thêm nữa. Người đàn bà giàu hơn cả đã cho anh vài chục đồng. Thế là anh tổ chức một cuộc bắt thăm với giá mười pêsô một phiếu. Đó là một cái giá cắt cổ bởi vì người đàn bà đông khách nhất cũng chỉ kiếm được tám đồng pêsô một đêm. Nhưng tất cả các cô đều chấp nhận giá ấy. Người ta viết tên mình trên mười bốn tờ phiếu rồi trộn lẫn, để tất cả chúng vào một chiếc mũ, sau đó mỗi cô nhập một phiếu. Khi chỉ còn lại hai tờ nữa, anh ta tiến lại gần những người đến lượt nhập phiếu.
- Hãy trả thêm mỗi phiếu năm đồng nữa, - Hôsê Accađiô thúc giục, - rồi tôi sẽ chia cho hai cô mà.
Anh sống bằng cách ấy. Đã sáu mươi nhăm lần anh đi vòng quanh trái đất, sống chung với những người thủy thủ vong quốc. Những người đàn bà đêm ấy ngủ với anh trong tiệm bác Catarinô đã đưa anh trần như nhộng ra tận phòng nhẩy để tất cả mọi người xem cái cơ thể không có lấy một milimét không săm: săm đằng trước, săm đằng sau, săm từ cổ cho đến tận ngón chân. Anh ta không hòa nhập được vào cuộc sống gia đình.
Cả ngày thì ngủ, tối đến anh ta thức trắng đêm kiếm ăn bằng trò may rủi, thi thố sức lực ở cái xóm thợ nghèo khổ. Trong những dịp hiếm có, Ucsula mời được anh ngồi vào bàn ăn. Anh tỏ ra là một người dễ mến, nhất là khi kể về những chuyện mạo hiểm của mình ở những đất nước xa xôi. Anh từng bị đắm tàu và đã trôi giạt hàng vài tuần trên biển cả ở Nhật Bản và sống bằng cách ăn xác một người bạn chết vì bệnh cảm nắng mà thịt của anh ta được ướp muối rồi lại được ướp muối, được nấu chín dưới ánh mặt trời đã trở thành một thứ mắm ngấu có vị ngòn ngọt. Một buổi trưa chói chang nắng ở vịnh Bengala, con tàu của anh đã chiến thắng một chú rồng biển mà trong ruột nó người ta thấy nào mũ sắt, khoá thắt lưng và cả vũ khí của một người thám hiểm đại dương. Ở biển Caribê anh từng nhìn thấy bóng ma chiếc tàu của tên ướp biển Victo Huygô với một cánh buồm bị gió thổi rách tả tơi, mui thuyền bị dán biển nhấm thủng lỗ chỗ, mãi mãi nó bị lạc hướng trên đường tới đảo Goađalupê. Ngồi bên bàn, Ucsula thổn thức khóc như thể bà đang đọc những bức thư không bao giờ được gửi cho mình, trong đó Hôsê Accađiô kể cho bà nghe những chiến công cũng như những thất bại của anh. "Ở đây, nhà cửa rộng rãi đến như thế, con ta ạ", bà nức nở nói: "Và cơm thì thừa mứa phải đổ cho lợn ăn. Mà nào con có ở nhà cho mẹ nhờ...". Nhưng trong thâm tâm bà không thể nhận rằng cái thằng bé được những người digan mang đi theo giờ đây lại chính là kẻ phàm phu ăn hết một nửa con lợn sữa trong bữa ăn trưa và hơi thở của y nóng hổi làm héo úa hoa lá. Những người khác trong gia đình cũng nghĩ về anh tương tự như thế. Amaranta không thể giấu nổi sự kinh tởm mỗi bận anh ợ hơi ngay trong lúc ngồi ăn. Accađiô, người không bao giờ được biết mối quan hệ cha con giữa mình với Hôsê Accađiô, hầu như không trả lời những câu hồi anh gợi ra với mục đích giành lấy tình yêu mến của con trai. Aurêlianô định làm sống lại những năm tháng trước đây họ cùng ngủ một phòng, định gợi lại những trò ranh ma của tuổi thơ giữa hai người, nhưng Hôsê Accađiô đã quên hết cả, bởi vì cuộc đời trôi giạt của thủy thủ với biết bao sự việc cần nhớ đã làm bão hòa trí nhớ của anh. Chỉ riêng một mình Rêbêca thần phục anh ngay từ lần đầu. Buổi chiều nhìn thấy anh đi ngang qua cửa sổ phòng mình, cô đã nghĩ rằng Piêtrô Crêspi chẳng qua cũng chỉ là một gã béo phúng phính đứng bên cạnh người đàn ông cực kỳ lực lưỡng mà hơi thở nóng như núi lửa của anh tràn ra khắp nhà chỗ nào cũng cảm thấy. Cô kiếm cớ để dện gần anh. Có những lúc Hôsê Accađiô đã trơ tráo nhìn tấm thân cô gái và bảo: "Em rất đàn bà, em thân yêu ạ". Rêbêca không thể tự chủ được nữa. Cô ăn lại đất và vôi tường nhà với sự thèm khát trước đây và lại thèm thuồng mút ngón tay đến mức ngón cái phải lên chai. Cô nôn ra một thứ nước xanh lẫn những cục máu tím bầm. Cả đêm cô thao thức, người run lên vì cơn sốt hầm hập để vật lộn với cơn bồi hồi nhớ nhung, để chờ đợi cho đến khi trời sáng; cả ngôi nhà rung lên trong bước đi của Hôsê Accađiô trở về.
Một chiều nọ, khi cả nhà đang ngủ trưa, cô không thể nán chịu được nữa đã mò đến phòng ngủ của Hôsê Accađiô. Cô thấy anh thức, mặc quần đùi, nằm dài trên chiếc võng được mắc vào những chiếc vòng sắt to với những sợi chão buộc tàu. Cái cơ thể để trần lực lưỡng của anh khiến cô cảm động lắm đến mức cô tự nhiên dừng lại định quay ra. "Xin lỗi"... cô chống chế, "em không biết có anh ở đây". Nhưng cô hạ giọng ngay để khỏi đánh thức người khác. "Vào đây nào", anh nói. Rêbêca ngoan ngoãn nghe lời. Cô đứng ngay cạnh chiếc võng, mà toát mồ hôi lạnh, mà cảm thấy trong bụng mình cứ nổi cục lên, trong lúc Hôsê Accađiô với năm ngón tay mơn trớn cổ tay cô, rồi bẹn, rồi mông và miệng thì thầm: "Ôi, em nhỏ bé. Ôi, em nhỏ bé". Cô gái phải lấy hết sức bình sinh để khỏi chết khi một sức mạnh cuồng nhiệt như dông bão nhưng lại rất nhẹ nhàng đã cầm lấy thắt lưng bế cô lên, rồi cởi hết áo váy cô và dằn ngửa cô ra như dằn ngửa một con chim bé bỏng. Cô chỉ còn kịp cám ơn Thượng đế đã sinh ra mình, trước khi lương tri bị chìm nghỉm trong mềm khoái lạc đê mê át cả cái đau đớn để giãy giụa ở trong lòng chiếc võng bốc hơi nghi ngút. Cái võng như một tờ giấy thấm đã hút ráo ngay máu trinh của cô chảy ra.
Sau đó ba ngày, họ làm lễ cưới trong buổi lễ mixa lúc năm giờ chiều. Trước đó một hôm, Accađiô đã đến cửa hiệu Piêtrô Crêspi. Anh gặp Piêtrô Crêspi đang dạy đàn lục huyền cho học trò và anh không ý tứ gọi anh ta ra chỗ khác để nói. "Tôi lấy Rêbêca đấy", anh nói. Piêtrô Crêspi tái xanh mặt, đưa cây đàn lục huyền cho một học trò, rồi cho họ nghỉ học giữa buổi. Khi chỉ còn lại hai người với nhau trong phòng bày đầy nhạc cụ và đồ chơi dây cót, Piêtrô Crêspi nói:
- Rêbêca là em gái anh mà!
- Với tôi điều ấy không quan trọng, - Hôsê Accađiô đáp lại.
Piêtrô Crêspi rút chiếc mùi xoa thơm mùi oải hương lau mồ hôi trán.
- Lấy như vậy là trái với lẽ tạo hoá, anh ta giải thích, - ngoài ra luật pháp cấm ngặt lối hôn nhân ấy.
- Ôi dà, tôi ngồi xổm lên cái lẽ tạo hoá của nhà anh, - Hôsê Accađiô nói. - Tôi đến đây để bảo cho anh biết và để anh khỏi rày rà Rêbêca mà hỏi này hỏi nọ.
Song cách cư xử thô bạo của anh cũng phải mất đi khi anh nhìn thấy Piêtrô Crêspi nước mắt vòng quanh. - Bây giờ thế này nhé, - anh đổi giọng nói, - nếu cậu còn quyến luyến gia đình tôi thì còn Amaranta sẽ phần cậu đấy.
Trong bài thuyết giảng ngày chủ nhật, cha Nicanô dã chứng minh rằng Hôsê Accađiô và Rêbêca không phải là anh em ruột.
Ucsula không bao giờ tha thứ cho cái điều bà cho là vô lễ quá mức và khi họ từ nhà thờ trở về bà đã cấm cửa đôi tân hôn. Đối với bà, giờ đây họ như là những người đã chết. Thế là họ tậu một cái nhà nhỏ ở trước nghĩa địa và họ dọn về nhà mới không mang theo giường tủ gì ngoài chiếc võng của Hôsê Accađiô.
Đêm tân hôn, Rêbêca bị một con bò cạp chui vào giày păngtúp từ lúc nào cắn vào chân. Cô bị cứng lưỡi nhưng không vì thế mà tuần trăng mật của họ kém phần vui vẻ đi. Hàng xóm giật mình trước những tiếng la hét khiến cả xóm phải thức dậy một đêm tới tám lần, một buổi trưa tới ba lần và họ cầu khẩn cho cơn cuồng say quá trớn ấy không làm kinh động những người chết đang yên nghỉ trong cõi thanh tịnh ở ngoài nghĩa địa.
Aurêlianô là người duy nhất lo lắng cho họ. Anh sắm một số đồ dùng và trợ cấp tiền cho họ tới khi Hôsê Accađiô nhìn cuộc đời thực tế hơn và bắt tay khai phá đất đai vô chủ liền kề với sân nhà. Trái lại, Amaranta không bao giờ nguôi thù đối với Rêbêca, mặc dù cuộc đời đã mang đến cho cô niềm vui chưa từng mong đợi. Đó là việc Piêtrô Crêspi, vẻ bình thản, đầy cao thượng che giấu nỗi đau thất tình, vẫn đến ăn cơm trưa với gia đình vào ngày thứ ba hàng tuần theo gợi ý của Ucsula, người vẫn chưa biết làm thế nào để chữa thẹn. Vẫn giữ nguyên dải băng đen trên vành mũ như để biểu hiện sự thân tín đối với gia đình anh thích thú bày tỏ lòng mến phục của mình đối với Ucsula bằng cách mang đến biếu bà những tặng phẩm kỳ lạ: cá sacđin Bồ Đào Nha, mứt hồng Thổ Nhĩ Kỳ, và trong dịp cần thiết, cả một tấm khăn choàng vai Manila quí giá. Amaranta, với tình cảm âu yếm, chiều chuộng anh. Cô mò đoán cái sở thích của anh, tỉ mẩn nhật từng sợi chỉ tuột ở ống tay áo cho anh và để mừng ngày sinh nhật của anh, cô viền và thêu lồng chữ tên hai người trên cả một tá khăn mùi xoa. Những ngày thứ ba, sau bữa cơm trưa, trong lúc Amaranta ngồi ở hành lang, anh luôn ở bên cạnh tán chuyện vui. Có một buổi chiều thứ ba, khi không một ai nghi ngờ chuyện sẽ xảy ra thì đã xảy ra: Piêtrô Crêspi ngỏ lời muốn được cưới cô làm vợ. Cô gái vẫn điềm nhiên thêu. Đợi cho hết nóng tai, với giọng người lớn, cô bảo anh:
- Tuỳ thôi, Crêspi ạ, nhưng hãy để khi nào chúng mình thật hiểu nhau đã. Vội vã thì chẳng tất đâu.
Ucsula đâm ra bối rối. Mặc dù rất nể vì Piêtrô Crêspi bà vẫn chưa khẳng định được rằng nếu từ góc độ đạo đức mà xét, thì sự quyết định của mình là tốt hay xấu, nhất là việc này xảy ra ngay sau quan hệ tình yêu của Piêtrô Crêspi với Rêbêca kéo dài và ồn ĩ. Song, bà đã chấp nhận tình yêu ấy, coi như một sự kiện không cần phải hỏi han ý kiến người khác vì lúc ấy không một ai cùng chia sẻ những lo âu của mình. Aurêlianô, lúc này đã là người đàn ông có thẩm quyền trong gia đình, đã làm cho bà càng hoang mang hơn với ý kiến khẳng định và khó hiểu của anh:
- Bây giờ không phải là lúc bàn đến chuyện hôn nhân.
Mấy tháng sau này, Ucsula mới hiểu được ý kiến đó là câu trả lời duy nhất chân thành mà Aurêlianô đã có thể nói ra trong thời điểm ấy. Nó không chỉ là lời giải đáp đối với việc hôn nhân mà còn đối với bất kỳ vấn đề nào không liên quan đến chiến tranh. Khi đứng trước họng súng của đội hành hình, ngay chính anh cũng không hiểu thật rõ lắm vì sao hàng loạt những chuyện ngẫu nhiên trớ trêu dồn mình đến tình trạng ấy. Cái chết của Rêmêđiôt không dẫn anh tới sự kích động đáng sợ. Đúng ra, nó chẳng qua cũng chỉ là một cảm giác giận dữ thầm lặng dần dần thấm vào nỗi chán chường cô đơn và lặng lẽ, giống như sự chán chường trong những ngày anh quyết chí ở vậy.
Anh lại dấn thân vào công việc nhưng vẫn giữ nếp đến thăm bố vợ để chơi đôminô: "Aurêlianô, hãy lấy vợ đi", ông bố vợ bảo anh. "Ta có sáu đứa con gái để cho anh kén đấy". Có một lần, có lẽ sự việc xảy ra trước ngày bầu cử, đông Apôlina Môscôtê từ trên tỉnh về làng đầy lo âu trước tình hình chính trị của đất nước. Những người thuộc phái Tự do đã sẵn sàng lao mình vào cuộc chiến. Vì lúc ấy, Aurêlianô còn có những nhận xét hồ đồ về sự khác biệt giữa những người Bảo hoàng với những người Tự do, ông bố vợ liền giảng giải cho anh những nét đại cương.
Những người Tự do, ông ta nói, là những người Tam điểm, đám người xấu xa, ủng hộ việc treo cổ các cha cố, chủ trương hôn nhân bình quyền và ly hôn, công nhận quyền bình đẳng giữa con hoang và con trong giá thú, tán thành việc phân chia đất nước thành từng bang và các bang này liên kết trong thể chế liên bang nhằm tước bỏ các quyền lực địa phương để tập trung trong chính phủ tối cao. Trái lại những người thuộc phái Bảo hoàng, vốn đã nhận quyền lực trực tiếp của Thượng đế, bảo vệ trật tự công cộng đã được thiết lập và đạo đức gia đình, là những người bảo vệ Chúa Crixtô, bảo vệ cơ sở của quyền lực và không cho phép chia đất nước thành các bang tự do. Do những tình cảm nhân đạo, Aurêlianô có thiện cảm đối với thái độ tự do công nhận các quyền lợi của con hoang, nhưng dẫu sao đi nữa, anh không hiểu nổi vì sao người ta phải đi tới một cuộc chiến tranh vì những sự việc không thể sờ mó được. Anh cảm thấy ông bố vợ mình là người quá khích khi ông ta yêu cầu cấp trên phái sáu người lính dưới sự chỉ huy của một thày quản về Macônđô, một làng không hề có những đam mê chính trị, để bảo vệ cuộc bầu cử. Bọn lính không chỉ về làng, chúng còn đi các nhà, từng nhà một, tịch thu khí giới săn thú, dao rựa và cả dao làm bếp, trước khi phân phát cho những người đàn ông từ hai mươi mốt tuổi trở lên một lá phiếu xanh ghi tên các ứng cử viên thuộc phái Bảo hoàng và một lá phiếu hồng ghi tên các ứng cử viên thuộc phái Tự do. Trước ngày bầu cử, chính đông Apôlina Môscôtê đã đọc một sắc lệnh cấm bán rượu mạnh và các cuộc tụ tập từ ba người trở lên nếu không phải là người cùng nhà trong bốn mươi tám giở đồng hồ kể từ nửa đêm ngày thử bảy. Cuộc bầu cử được tiến hành êm thấm. Ngay từ lúc tám giờ sáng ngày chủ nhật, một thùng gỗ có sáu người linh canh giữ nghiêm ngặt đã được đặt ở quảng trường. Người ta tự do bỏ phiếu đúng như chính Aurêlianô đã có thể thấy tận mắt khi - anh cùng với bố vợ đứng cả ngày canh chừng không để cho bất kỳ một ai có thể bỏ phiếu hơn một lần. Đến bốn giờ chiều, một hồi trống vang lên trên quảng trường báo hiệu ngày bầu cử đã kết thúc, và đông Apôlina Môscôtê cầm chiếc băng chữ thập có mang chữ ký của ngài dán hòm phiếu lại. Đêm ấy, trong lúc chơi đôminô với Aurêlianô, ngài ra lệnh cho thày quản mở hòm ra đếm phiếu. Số phiếu hồng và số phiếu xanh xấp xỉ bằng nhau, nhưng thày quản chỉ để lại mười phiếu hồng và thay phiếu xanh khác vào cho đủ số. Sau đó thày quản lại niêm phong hòm phiếu lại dưới nhãn mới và sáng ngày hôm sau người ta vội vàng mang nó lên tỉnh. "Phái Tự do sễ nổi dậy làm nội chiến", Aurêlianô nói. Đông Apôlina vẫn không rời mắt khỏi các quân đôminô của mình. "Nếu anh nói vì việc thay đổi lá phiếu, thì họ sẽ không nổi dậy đâu", ngài nói, "một số lá phiếu hồng vẫn được để lại để họ khỏi kêu ca". Aurêlianô hiểu được những điều bất lợi của phe đối phương. "Nếu tôi thuộc phái Tự do", - anh nói, "tôi sẽ nổi dậy chính vì việc thay đổi lá phiếu này". Bố vợ anh ngước mắt qua gọng kính nhìn anh:.
- Ôi Aurêlianô, - ngài nói, - nếu anh là người thuộc phái Tự do, dù anh có là con rể ta, anh không thể nào được nhìn thấy việc thay đổi lá phiếu ở đây đâu.
Trên thực tế, điều gây nên nỗi bất bình trong dân chúng không phải là kết quả cuộc bầu cử mà là việc bọn lính không trả lại vũ khí. Một nhóm phụ nữ nói chuyện với Aurêlianô để anh xin với bố vợ trả lại những con dao làm bếp. Đông Apôlina Môscôtê, bằng những lời lẽ hết sức thận trọng dã giải thích cho anh rằng bọn lính đã mang theo những vũ khí tịch thu được để làm bằng chứng về việc những người thuộc phái Tự do đang chuẩn bị chiến tranh. Sự trơ trẽn trong lời giải đáp ấy khiến anh kinh người. Anh không bình luận một lời, nhưng vào một đêm nọ, khi Herinênđô Mackêt và Macgơmphicô Visban nói chuyện với một số bạn bè xung quanh chuyện rắc rối về những con dao, họ đã hỏi anh thuộc về phái nào: Tự do hay Bảo hoàng, thì không do dự, anh trả lời:
- Nếu phải lựa chọn giữa hai phái, tôi sẽ đứng về phái Tự do, - anh nói, - bởi vì những người Bảo hoàng là những kẻ bịp bợm.
Ngay ngày hôm sau, thể theo yêu cầu của các bạn mình, anh đã đến thăm bác sĩ Aliriô Nôghêra để ông ta khám bệnh đau gan cho mình. Anh cũng không biết làm như vậy để làm gì. Bác sĩ Alinô Nôghêra đã đến làng Macônđô được mấy năm nay mang theo một tủ thuốc viên không mùi vị và một tấm biển quảng cáo thuốc không thuyết phục được một ai: Dĩ độc trị độc. Thực ra đó là một trò cười. Đằng sau cái vẻ ngoài hiền lành của một thầy thuốc loại xoàng, là bộ mặt của một tên khủng bố đi giày ống đến nửa bẹn để che đi những vết sẹo trên cổ chân, dấu ấn của năm năm ngồi tù. Ngay từ cú mạo hiểm đầu tiên của những người có tư tưởng liên bang y đã bị bắt, y đã trốn đến Curaxao cải trang trong bộ quần áo y vốn thù ghét nhất trần đời: một chiếc áo thụng của cha cố. Sau một thời gian lưu vong dài đằng đẵng, lòng đầy náo nức trước các tin tức do những người lưu vong thuộc khắp vùng Caribê mang đến Curaxao, y lại lẻn lên một chiếc thuyền buôn lậu và sau đó có mặt ở Riôacha mang theo một tủ thuốc viên, thực ra chỉ là những viên đường đã được tinh lọc, và một bằng bác sĩ của trường đại học Lepdich giả mạo do chính y làm ra: Y khóc lóc thảm thiết. Cái nhiệt tình cách mạng của phái liên bang, được chính những người lưu vong định nghĩa là một thứ thuốc nổ sắp bùng nổ, đã nguội tắt dần dẩn trong ảo tưởng tuyển cử viển vông. Cay đắng trước thất bại ấy, thèm khát một địa điểm an toàn để di dưỡng tuổi già viên bác sĩ dĩ bệnh liệu bệnh đã chạy trốn đến làng Macônđô. Trong căn phòng chật hẹp xếp đầy chai không, những chiếc chai được thuê ở bên kia quảng trường, y đã sống vài năm trong căn bệnh không phương chữa chạy từng xác nhận rằng mình có thể tự an ỉn với những viên đường. Cái tâm trạng nổi loạn của y đã lắng đọng lại trong lúc đông Apôlina Môscôtê ngày một trở thành một nhà chức trách bù nhìn hơn. Thời gian cứ trôi đi và y cứ sống trong hồi tưởng và lo điều trị bệnh hen xuyễn. Cuộc tuyển cử sắp đến là đầu mối để y lại tìm được biện pháp hành động nổi loạn. Y đã có quan hệ mật thiết với đám thanh niên trong làng vốn là đám người rất kém cỏi về ý thức chính trị, và lăn xả vào việc bí mật vận động nổi loạn. Số đông phiếu hồng xuất hiện trong hòm phiếu là của đám thanh niên nhiệt tình Đó là một phần trong kế hoạch của y: buộc đồ đệ của mình bỏ phiếu để chứng tỏ cho họ thấy rằng tuyển cử là một trò hề. "Cái điều duy nhất có hiệu lực", y nói, "là bạo lực". Phần lớn cái bạn của Aurêlianô lòng dạ phơi phới với ý nghĩ quét sạch cái thể chế của bọn Bảo hoàng, nhưng không một ai dám cho anh tham gia kế hoạch, không chỉ vì những mối quan hệ của anh với bố vợ mà còn vì tính cách cô đơn và phớt đời của anh. Ngoài ra họ còn được biết anh đã bỏ phiếu xanh theo sự chỉ dẫn của bố vợ. Vậy nó chỉ là một ngẫu nhiên đơn thuần bộc lộ những suy tư chính trị của anh, và nó là một sự thức đẩy hoàn toàn có tính cách tò mò đưa anh tới ý nghĩ viển vông đi thăm viên bác sĩ để ông ta điều trị cho mình cái bệnh vốn không đau. Trong căn phòng chật chội nồng nặc mùi long não rẻ tiền, có một người giống y hệt một con kỳ đà mốc meo đang khò khè thở. Chưa kịp hỏi anh điều gì, viên bác sĩ kéo anh ra cửa sổ vạch mi mắt dưới quan sát. "Không phải ở đấy đâu", Aurêlianô nói theo lời chỉ dẫn của các bạn mình. Lấy ngón tay ấn vào bụng ở chỗ buồng gan, anh nói: "Đây là nơi tôi đau không thể ngủ được". Thế là viên bác sĩ Nôghêra đóng kín của sổ lại với cớ chói nắng quá và bằng từ ngữ mộc mạc ông ta giải thích cho anh vì sao việc tiêu diệt bọn Bảo hoàng là nghĩa vụ của người yêu nước. Trong vài ngày liền, Aurêlianô mang trong túi áo sơmi một tuýp thuốc. Cứ hai giờ một lần, anh lại móc tuýp thuốc ra, dốc ba viên thuốc ra lòng bàn tay rồi vỗ tất cả vào mồm để chúng tan dần dần trên lưỡi. Đông Apôlina Môscôtê chế giễu lòng tin của anh ở phương pháp dĩ bệnh liệu bệnh, nhưng những ai đang âm mưu nổi loạn thì đều nhận ra anh là người của họ. Hầu như gần hết con trai của các bậc sáng nghiệp Macônđô đều ở trong tổ chức bí mật nhưng không một ai biết tường tận hành động do chính họ đang chuẩn bị sẽ xảy ra như thế nào. Tuy nhiên, trong ngày viên bác sĩ tiết lộ bí mật cho Aurêlianô biết, anh đã tình nguyện tham gia cuộc nổi dậy. Mặc dù lúc ấy anh tán thành phải nhanh chóng tiêu diệt chế độ Bảo hoàng song kế hoạch hành động của ông ta lại khiến anh kinh tởm. Bác sĩ Nôghêra là một kẻ rất thích khủng bố cá nhân. Cái cơ chế hành động của ông ta được thu lại trong việc phối hợp hàng loạt hành động cá nhân để rồi trong một vụ bạo động lớn có tầm toàn quốc sẽ tiêu diệt các quan chức của chế độ Bảo hoàng cùng với toàn bộ gia quyến họ, nhất là các con cái, nhằm triệt tận gốc cái nòi Bảo hoàng. Dĩ nhiên đông Apôlina Môscôtê, bà vợ, các cô con gái đều ở trong danh sách khủng bố.
- Ngài chẳng phải là nhà Tự do cũng chẳng phải là cái đếch gì - Aurêlianô thản nhiên nói, - ngài là một tên sát nhân, không hơn không kém.
- Vậy thì, trong trường hợp này, - viên bác sĩ cũng thản nhiên nói, - anh hãy trả lại tôi cái tuýp thuốc. Anh không cần đến nó nữa.
Sáu tháng sau, Aurêlianô mới biết rằng viên bác sĩ không tin anh là một người hành động, không hy vọng gì ở anh, một con người tình cảm chủ nghĩa, quá ư hiền lành và cô đơn. Họ tìm cách giám sát anh vì sợ anh tiết lộ kế hoạch nổi loạn. Để họ yên lòng, Aurêlianô hứa sẽ không mở miệng. Nhưng cái đêm bọn họ tới để hạ sát gia đình Môscôtê, đã gặp anh đứng bảo vệ ngay ở cửa vào. Anh thể hiện thái độ dứt khoát đến mức kế hoạch hạ sát phải hoãn không biết đến bao giờ. Chính trong những ngày này, Ucsula đã hỏi ý kiến anh về hôn nhân của Piêtrô Crêspi và Amaranta và anh đã trả lời bây giờ không phải là lúc nghĩ đến việc đó. Từ hơn một tuần nay, lúc nào anh cũng giấu khẩu súng lục cổ lỗ dưới áo sơmi, lúc nào cũng cảnh giác đối với các bạn mình. Buổi chiều anh đến uống cà phê với Hôsê Accađiô và Rêbêca, lúc này vợ chồng họ bắt đầu trang hoàng nhà cửa, rồi từ lúc bảy giờ tối anh ngồi chơi đôminô với bố vợ.
Vào giờ ăn trưa, anh nói chuyện với Accađiô, lúc này đã là một thanh niên cường tráng, và nhận thấy chàng trai ngày một bộc lộ rõ nhiệt tình háo hức chờ đón cuộc nội chiến sắp xảy ra đến nơi. Accađiô đã nhen nhóm lòng nhiệt tình hâm mộ tư tưởng tự do trong trường họe, là nơi anh đã tập trung không chỉ những học trò lớn tuổi mà còn cả trẻ nhỏ hầu như chưa biết nói. Chàng trẻ tuổi nói về việc bắn chết cha Nicanô, về việc biến nhà thờ thành trường học, về việc công nhận tự do luyến ái. Aurêlianô lo lắng trước những tư tưởng bạo lực của cháu trai. Anh khuyên cậu cần phải thận trọng và kín đáo. Làm ngơ trước những lý lẽ chín chắn của anh, trước ý nghĩ thực tế của anh, Accađiô công khai phê phán tính nhu nhược của ông chú mình. Aurêlianô chờ đợi chờ đợi. Cuối cùng, vào đầu tháng Chạp, Ucsula bỗng hoảng hốt bước vào xưởng kim hoàn:
- Nội chiến đã bùng nổ!
Quả nhiên nội chiến đã nổ ra được ba tháng. Luật giới nghiêm được thi hành trong toàn quốc. Đông Apôlina Môscôtê là người duy nhất kịp thời biết tin chiến sự đã nổ ra nhưng ngài không để lộ ngay cả với vợ mình, trong khi đó một trung đội lính đã ập tới chiếm làng đóng đồn. Bọn lính lặng lẽ tiến vào làng trước lúc trời rạng sáng, mang theo hai cỗ pháo hạng nhẹ do lừa kéo, và lập đồn ngay tại trường học. Ngay từ sáu giờ chiều chúng đã thổi kèn giới nghiêm. Lần này chúng lục soát nhà từng nhà một khủng khiếp hơn lần trước, tịch thu cả từ cái liềm trở đi. Chúng lôi bác sĩ Nôghêra đi, trói vào một gốc cây rồi bắn không cần xét xử. Cha Nicanô muốn làm cho các nhà cầm quyền quân sự phải rùng rợn trước phép thần bí tự nâng mình lên khỏi mặt đất, nhưng một tên lính đã lấy báng súng nện bốp một cái làm chảy máu đầu cha. Niềm phấn khích của những người Tự do bị dập tắt trong mối lo âu thầm lặng. Aurêlianô, da tái đi lầm lỳ khó hiểu vẫn tiếp tục chơi đôminô với bố vợ. Anh hiểu rằng mặc dù mang danh là nhà lãnh đạo các vấn đề dân sự và quân sự trong làng, một lần nữa đông Apôlina Môscôtê vẫn chỉ là một quan chức bù nhìn. Mọi vấn đề trong làng đều do một đại uý quân đội quyết định. Các buổi sáng, viên đại uý này vẫn đích thân thu thuế ngoại ngạch để chi tiêu cho công việc giữ gìn an ninh chung. Bốn tên lính dưới sự chỉ huy của hắn ta đã cướp phá gia đình một người đàn bà bị chó dại cắn, và đã dùng báng súng đánh chết bà ta ngay giữa đường cái. Sau khi bọn lính chiếm đóng làng được hai tuần, một chủ nhật nọ, Aurêlianô bước vào nhà Hêrinênđô Mackêt, với vẻ đờ đẫn thường có, anh xin một tách cà phê không pha đường. Khi chỉ còn lại hai người với nhau, khác hẳn với mọi ngày thường, Aurêlianô lên giọng quyền thế nói: "Hãy chuẩn bị các chàng trai đi chúng ta sẽ ra quân". Hêrinênđô Mackêt vẫn chưa tin, hỏi:
- Lấy đâu ra vũ khí?
- Lấy của chúng, - Aurêlianô trả lời.
Vào lúc nửa đêm ngày thứ ba, trong một trận đánh trộn trấu, hăm mốt người đàn ông chưa đầy ba mươi tuổi dưới sự chỉ huy của Aurêlianô, tất cả đều được vũ trang bằng dao ăn và các thanh sắt mũi nhọn, đã bất thình lình đánh úp bọn lính gác, chiếm vũ khí và bắn chết ngay ở ngoài sân viên đại uý cùng bốn tên lính đã giết người đàn bà vô tội nọ.
Đêm ấy, trong lúc vang lên lệnh tước vũ khí của đội hành hình, Accađiô được phong làm quan thống lĩnh các vấn đề quân sự và dân sự của làng. Những nghĩa quân có vợ hầu như không kịp chào từ biệt vợ mình đã ra đi để mặc các bà tự xoay xở lấy.
Họ ra đi vào lúc rạng sáng được cả làng, đã thoát khỏi nỗi kinh hoàng, reo hò tiễn biệt để gia nhập các lực lượng vũ trang của tướng Vichtôriô Mêđina, một nhà cách mạng. Theo những tin tức mới nhận được, ông đang hoạt động ở phía Manaurê. Trước lúc ra đi, Aurêlianô đã thả đông Apôlina Môscôtê ra khỏi cũi sắt.
"Xin bố cứ ở yên cho", anh nói với bố vợ, "chính quyền mới, với lời nói danh dự, sẽ bảo đảm an toàn tính mạng cho bố và toàn gia đình". Đông Apôlina Môscôtê khó khăn lắm mới nhận mặt được nhà khởi nghĩa đi ủng cao cổ, đeo súng ngang hông là người vẫn chơi đôminô với ông tới chín giờ đêm.
- Đây là một trò đùa phải không Aurêlianô? - ngài reo lên hỏi.
- Không đùa đâu, - Aurêlianô nói, - đó là chiến tranh thật sự. Xin bố đừng gọi Aurêlianô cộc lốc nữa, vì tôi đã là đại tá Aurêlianô Buênđya rồi.
Chú thích:
(1) Tiếng latinh, nghĩa: Điều đó thật là đơn giản. Con người là con vật bốn chân tạo ra vật chất.
(2) Tiếng latinh, nghĩa: Tôi phản đối. Sự hiện tồn của Thường đế có hay không còn phải được chứng minh đã.
(3) Cờ vua
CHƯƠNG 6
Đại tá Aurêlianô Buênđya đã phát động ba mươi hai cuộc vũ trang nổi dậy và thất bại hoàn toàn. Chung đụng với mười bảy cô gái ở những làng khác nhau, ngài sinh được mười bảy người con trai và tất cả bọn họ đều lần lượt bị giết hại chỉ trong một đêm trước khi người con cả vừa đúng ba mươi lăm tuổi Ngài đã thoát nạn trước mười bốn vụ mưu sát, bảy mươi ba vụ phục kích và một đội hành hình. Ngài sống sót qua vụ đầu độc bằng bột mã tiền hòa trong cà phê với lượng đủ giết chết một con ngựa. Ngài từ chối Huân chương Công Huân do Tổng thống nước Cộng hoà tặng. Ngài trở thành Tổng Tư lệnh các lực lượng vũ trang cách mạng có uy quyền từ nước này sang nước khác và là người buộc chính phủ phải gờm, nhưng không bao giờ ngài cho phép người ta chụp ảnh mình. Ngài khước từ lương hưu trí dành cho mình sau chiến tranh và sống cho đến tuổi già nhờ những chú cá vàng được sản xuất trong xưởng kim hoàn của mình ở làng Macônđô. Mặc dù lúc nào cũng dẫn đầu quân đội của mình trong trận mạc nhưng vết thương duy nhất trên người lại do chính tay ngài gây nên sau khi ký hiệp định đình chiến Neclanđia, kết thức hai mươi năm nội chiến. Ngài tự bắn một phát súng lục vào ngực mình và - viên đạn chui ra ở phía lưng không hề gây tổn hại cho lực phủ ngũ tạng. Cái duy nhất còn lại trong hai mươi năm nội chiến là con đường ở Macônđô mang tên ngài. Tuy nhiên, theo lời tuyên bố của ngài mấy năm trước khi chết vì già lão, ngay điều đó cũng không hề là điều ngài mong đợi trong buổi sáng ngài cùng với hai mươi mốt chàng trai khoẻ mạnh lên đường gia nhập các lực lượng vũ trang của tướng Vichtôriô Mêđina.
- Chúng ta để lại Macônđô cho cháu đấy, - đó là tất cả những gì chàng nói với Accađiô trước lúc lên đường. - chúng ta hài lòng để nó cho cháu. Vậy cháu hãy cố gắng lo cho nó để khi trở về chúng ta thấy nó tốt đẹp hơn.
Accađiô đã đáp lại lời khuyên nhủ ấy theo cách riêng của mình. Cậu may một bộ quân phục với lon và tua ngù cấp nguyên soái, mô phỏng theo hình vẽ trong cuốn sách của Menkyađêt và đeo vào thắt lưng mình thanh gươm có bao khảm vàng của viên đại uý bị hành hình. Đặt hai cỗ pháo ngay ở cổng làng, cho học trò cũ của mình - những kẻ điên khùng bởi nhũng lời tuyên bố nẩy lửa của cậu - mặc đồng phức và cho chúng ngông nghênh mang vũ khí đi đi lại lại trên khắp nẻo đường làng để gây cho những người lạ mặt có cảm nghĩ đây là một vị trí quân sự bất khả xâm phạm. Đó là một trò chơi giống như con dao hai lưỡi bởi vì nhờ nó chính phủ không dám cho quân tấn công quảng trường liền trong mười tháng trời, nhưng cũng vì nó mà khi chính phủ ra lệnh tấn công quảng trường thì quân đội đã dùng một lực lượng lớn được vũ trang cực mạnh đến mức đã tiêu diệt lực lượng đề kháng chỉ trong vòng nửa giờ đồng hồ.
Ngay từ ngày đầu tiên thực thi quyền lực của mình, Accađiô đã lộ mặt la một kẻ hống hách. Hàng ngày, cậu ta đọc lệnh cho tới bốn giờ chiều để ra lệnh và sắp đặt mọi việc theo ý muốn của mình. Cậu ta thi hành lệnh cưỡng bức quân sự đối với những người từ mười tám tuổi trở lên, tuyên bố trưng dụng những súc vật nào còn lang thang ngoài đường sau sáu giờ chiều và bắt buộc những người đàn ông lớn tuổi phải đeo băng đỏ ở cánh tay.
Giam lỏng cha Nicanô trong tu viện với lời đe doạ sẽ đem bắn và cấm cha làm lễ mixa và kéo chuông nếu không phải là để mừng thắng lợi của phái Tự do. Để không còn một ai nghi ngờ tính chất nghiêm túc ở những chủ trương của mình, cậu ta ra lệnh cho một đội hành hình tập bắn thằng bù nhìn ở ngoài quảng trường ngay trước mắt thiên hạ. Lúc đầu chẳng một ai coi trọng điều đó. Chẳng qua là các cậu học trò chơi trò người lớn thôi. Nhưng có một đêm, khi Accađiô bước vào tiệm ăn của bác Catarinô, nghệ sĩ thổi kèn trômpét đã chào cậu bằng một hồi kèn bông lơn khiến cho đám đông cười rộ lên, thế là cậu ra lệnh bắn chết anh ta vì tội không tôn trọng nhà chức trách. Đối với những ai dám phản đối mình, cậu ra lệnh còng tay nhất vào trại giam vốn là một phòng học và cho họ ăn bánh nhạt với nước lã. "Mày là đứa giết người", Ucsula mắng cậu mỗi khi bà biết được một hành động bạo ngược mới của cháu mình. "Nếu Aurêlianô mà biết thì nó sẽ giết mày và tao sẽ là người đầu tiên trong cái làng này hả lòng hả dạ". Song những lời la mắng ấy của bà đều vô ích. Accađiô vẫn điên khùng xiết chặt các ốc vít của bộ máy kìm kẹp cho đến khi cậu ta trở thành tên khát máu nhất chưa từng có trong số những nhà chức trách ở làng Macônđô. "Giờ đây mới khổ sở với sự tranh giành", đông Apôlina Môscôtê nói ra miệng trong một số dịp: "Đó là Thiên đường của những kẻ Tự do mà". Accađiô biết. Cầm đầu toán quân lùng sục, cậu đột nhập ngôi nhà ở, đập phá bàn ghế giường tủ, đánh đập các cô con gái và lôi xềnh xệch đông Apôlina Môscôtê đi theo. Ngay lúc Accađiô sắp sửa đích thân ra lệnh cho đội hành hình nổ súng vào đông Apôlina Môscôtê thì Ucsula, sau khi đã sượng sùng la thét và giận dữ huơ huơ chiếc roi da sơn hắc ín để rẽ đám đông, làm ồn cả sân trại lính: "Thằng đểu, mày hỗn vừa vừa chứ! " Trước khi Accađiô kịp phản ứng, bà đã quất cho cậu một roi da, "Thằng giết người. Mày hỗn láo quá thể", bà thét. "Mày giết cả tao nữa, đồ mất dạy. Như thế tao đỡ phải khóc vì nhục nhã đã nuôi nấng một tên phản phúc". Bà cứ thế quất lia lịa không thương tiếc, đuổi theo cậu ta đến tận cuối sân mà đánh, làm cho cậu ta phải lăn lộn như một con ốc sên. Đông Apôlina Môscôtê đứng chết khiếp đi, bị trói ghì vào chiếc cột trước đây những thằng hình nộm tan xác pháo do đạn súng của đội hành hình tập.
Các chàng trai của đội hành hình tản mát hết vì sợ Ucsula sẽ đánh chết họ. Nhưng bà không thèm nhìn họ. Để mặc Accađiô với bộ quân phức lôi thôi, lếch thếch, rên ri vì đau đớn và giận dữ, bà đi cởi trói cho đông Apôlina Môscôtê rồi dẫn ngài về nhà. Trước khi đi khỏi trại linh, bà còn thả nốt các chính trị phạm.
Kể từ dạo ấy, bà là người cai quản làng Macônđô. Bà khôi phục lễ mixa ngày chủ nhật, bãi bỏ việc đeo băng đỏ, bãi bỏ các đội tuần tra hung bạo. Nhưng vào lúc nghỉ ngơi bà vẫn khóc than cho số phận hẩm hiu của mình. Bà cảm thấy quá ư cô quạnh đến mức bà phải tìm đến người chồng bị lãng quên dưới bóng cây dẻ. "Mình ơi, mình hãy nhìn cảnh ngộ của chúng ta, có thảm không chứ", bà nói với ông trong lúc những trận mưa rào tháng bảy đe doạ quật đổ túp lều lá cọ. "Mình hãy nhìn ngôi nhà hoang vắng, con cái chúng ta ly tán khắp thế gian, và một lần nữa chỉ có hai chúng ta với nhau như cái thuở ban đầu".
Hôsê Accađiô Buênđya triền miên trong bể thẳm vô thức, cứ trơ như đá trước những lời thở than của bà. Vào lúc mới điên rồ, ông thường dùng những câu latinh khó hiểu để thông báo cho mọi người biết những nhu cầu tối cần thiết hàng ngày của mình. Trong những lúc tỉnh táo ngắn ngù, khi Amaranta mang cơm cho ông, ông đã báo cho cô biết những phiền toái nhất của mình, và ông ngoan ngoãn uống thuốc cao hạt cải và để cho cô giác máu. Nhưng ở thời kỳ Ucsula thở than bên ông thì ông hoàn toàn mất khả năng tiếp xúc với đời thực. Ông ngồi trên ghế để bà tắm từng bộ phận một cho mình. Trong lúc tắm bà kể cho ông nghe chuyện nhà chuyện cửa. "Đã bốn tháng nay, Aurêlianô đi trận, và chúng ta vẫn chưa nhận được tin tức gì về hắn", bà nói trong lúc kỳ cọ xà phòng cho ông. "Hôsê Accađiô dã trở về, đó là một người đàn ông thực thụ, cao hơn cả ông ấy, và săm khắp người. Hắn trở về chỉ để mang nỗi nhục cho gia đình mình". Tuy nhiên, bà quan sát thấy hình như chồng mình buồn trước những tin dữ ấy. Thế là bà đổi giọng khuyển sang nói dối ông "Mình đừng tin những điều tôi vừa nói nhé", bà nói, trong lúc rắc gio xuống những bãi phân của ông để lấy mo hót đi. "Thượng đế muốn Hôsê Accađiô và Rêbêca lấy nhau và giờ đây chúng nó sống rất hạnh phúc". Rồi bà trở nên quá thành tâm trong khi nói dối đến nỗi ngay bản thân bà cũng cảm thấy dược an ủi bằng chính những lời mình phỉnh phờ. "Accađiô đã trở thành một chàng trai đứng đắn - bà nói - rất dũng cảm và rất bảnh bao diện bộ đồng phục và đeo kiếm bên hông". Tất cả những lời ấy được nói ra như thể nói với người chết, bởi Hôsê Accađiô Buênđya thanh thản, rất thanh thản ở ngoài mọi băn khoăn lo lắng. Những bà vẫn không thôi. Bà thấy ông hiền lành quá giống với mọi người quá, đến mức bà cởi trói cho ông. Ông vẫn nằm trên chiếc ghế, như thể những chiếc chạc không còn cần thiết nữa, bởi vì dường như đã có một sức mạnh còn mạnh hơn cả những nút trói buộc mà mắt thịt có thể nhìn thấy đã trói ghì ông vào gốc cây dẻ. Vào khoảng tháng tám, khi mùa đông bắt đầu dài lê thê, Ucsula đã có thể báo cho ông biết một tin:
- Này ông, vận may vẫn đến với chúng ta đấy, - bà bảo ông, - Amaranta và anh người Ý chữa cây đàn pianô tự động ấy sẽ cưới nhau đấy.
Quả thật, Amaranta và Piêtrô Crêspi đã có một tình bạn sâu sắc. Cả hai đều được Ucsula đùm bọc yêu thương. Lần này bà thấy không cần thiết phải ngồi canh chừng đôi trai gái chuyện trò. Đó là một mối tình trong buổi hoàng hôn. Anh người Ý với bông hoa dành dành trắng ngà nổi bật trên ve áo đến nhà vào buổi chiều, và dịch ra tiếng Tây Ban Nha cho Amaranta nghe những bài thơ sônê của Petrăcca(1). Hai người ngồi ở hành lang nồng nặc mùi hoa hồng và hoa thu hải đường. Chàng đọc thơ, nàng dệt những tấm đăng ten, không hề biết những sự kiện kinh người và những tin dữ ngoài mặt trận, cho tới khi muỗi đốt dữ dội họ mới chạy vào phòng khách. Tình cảm dịu dàng của Amaranta với những lời âu yếm đầy ý nhị giống như một tấn mạng nhện vô hình ngày một bọc chặt lấy người yêu mến đến mức vào lúc tám giờ tối buộc anh phải lấy những ngón tay mai mái xanh đeo nhẫn gỡ nó ra để về nhà mình. Hai người đã làm một cuốn albom tuyệt vời với những tấm bưu thiếp từ Ý gửi đến cho Piêtrô Crêspi. Đó là những bức ảnh chụp những người yêu nhau trong những vườn hoa vắng vẻ, với hình vẽ trang trí trái tin bị mũi tên xuyên ngang và những dải vàng vương cánh những đôi bồ câu. "Anh biết công viên này ở Phlôrênxi", anh nói, trong lúc lần giở các tấm bưu thiếp. "người ta vừa chìa bàn tay ra, lập tức chim đã sà xuống để ăn". Đôi lúc, trước một nhà cây cảnh, nỗi nhớ nhung đã biến mùi bùn và mùi cá thối trong các kênh mương thành phố Vênêxi thành một mùi hoa thơm dìu dịu. Amaranta thở dài, cười, mơ mộng đến một tổ quốc thứ hai gồm những chàng trai và những cô gái đẹp lộng lẫy nói thứ tiếng nói của trẻ thơ, trên những thành phố cổ kính mà thời huy hoàng oanh liệt xưa của chúng giờ chỉ còn lại những chú mèo lẩn quất bên những đống gạch vữa đổ nát. Sau khi vượt qua trùng dương mênh mông trong sự tìm kiếm của mình, sau khi đã nhầm lẫn nó với nỗi đam mê trong những lúc âu yếm mãnh liệt của Rêbêca, giờ đây Piêtrô Crêspi đã gặp được tình yêu. Niềm vui mang theo cả sự giàu có, lúc này cửa hàng của anh chiếm gần hết một ô phố. Đó là một tủ kính khổng lồ kỳ ảo nhận phục chế những chiếc đồng hồ báo thức xứ Phlorênxi mà mỗi bận điểm giờ chúng làm vang lên một bản hợp xướng những tiếng chuông, bày bán những hộp phấn Tàu khiến năm ngón tay thích thú khi mở nắp, và đủ loại nhạc cụ có thể tưởng tượng ra, đủ loại đồ chơi dây cót có thể mơ ước thấy.
Brunô Crêspi, em út của anh, ngồi trông coi cửa hàng, bởi vì cậu chưa đủ khả năng đảm đương lớp học nhạc. Nhờ có Piêtrô Crêspi đường Thổ Nhĩ Kỳ vội sự trưng bày lộng lẫy các thứ hàng quý giá đã trở thành một nơi yên tĩnh du dương để quên đi nhũng hành động tàn bạo của Accađiô và không khí ảm đạm muôn thuở của chiến tranh. Khi Ucsula quyết định phục hồi các buổi lễ mixa ngày chủ nhật, Piêtrô Crêspi đã hiến nhà thờ một cây đàn thiếu nhi, chuẩn bị một bài hát sẽ làm cho buổi lễ mixa trầm buồn của cha xứ Nicanô vui hẳn lên. Không một ai còn nghi ngờ Amaranta sẽ là một người vợ hạnh phức. Cứ để cho tình cảm lứa đôi mặc nhiên nẩy nở từ trái tim của hai người, không cần phải thôi thúc, bọn họ đã đi đến đỉnh điểm của tình yêu chỉ còn thiếu việc định ngày làm lễ cưới. Bọn họ không gặp một trở ngại nào. Ucsula thầm trách mình với việc trì hoãn không thời hạn ngày cưới đã làm thay đổi số phận của Rêbêca. Cho đến bây giờ bà vẫn chưa nguôi nỗi tủi hổ. Việc để tang Rêmêđiôt thật nghiêm túc đã phải lui xuống hàng thử, bởi sự chết chóc do chiến tranh gây nên, bởi sự vắng mặt của Aurêlianô, bởi hành động tàn bạo của Accađiô, bởi việc tống khứ Hôsê Accađiô và Rêbêca ra khỏi nhà. Trước đám cưới sắp đến, chính Piêtrô Crêspi đã khẩn khoản xin được coi Aurêlianô Hôsê vốn được anh quý như con đẻ, là đứa con đầu lòng của mình. Tất cả đều khiến cho mọi người nghĩ rằng Amaranta đang đi tới một hạnh phúc dễ dàng. Nhưng, khác hẳn với Rêbêca, cô không hề để lộ sự thèm khát của lòng mình. Với chính cái tình cảm khi ngồi dệt những tấm khăn trải bàn, những diềm đăng ten kết những con công đính trên cây thánh giá chờ đợi cho Piêtrô Crêspi không thể ghìm được những đòi hỏi khẩn cấp của trái tim anh. Giờ tận số của anh đã đến vào những ngày mưa bất hạnh trong tháng mười. Piêtrô Crêspi gỡ tay cô khỏi khung thêu và hai tay anh cầm thật lâu bàn tay cô. "Anh không thể đợi hơn được nữa", anh nói với cô. "Chúng ta sẽ cưới nhau vào tháng tới nhé". Amaranta không run rẩy khi tay cô chạm phải bàn tay lạnh buốt của anh. Cô từ từ rút tay mình ra khỏi hai tay anh. Giống như một con vật lẩn tránh, cô lại tiếp tục công việc.
- Thôi đi đừng có mà ngây ngô quá thế đi Crêspi, - cô cười. - Dù có chết tôi cũng không lấy anh đâu.
Piêtrô Crêspi không tự chủ được bản thân. Anh khóc nức nở không còn biết xấu hổ, gần như bóp nát các ngón tay vì thất vọng. Nhưng anh vẫn không lay chuyển được cô. "Đừng chần chừ mất thời gian nữa", đó là tất cả những gì mà Amaranta có thể nói. "Nếu quả tình anh yêu tôi tha thiết thì xin đừng bước tới nhà này nữa". Ucsula tưởng như mình phát điên lên vì xấu hổ. Piêtrô Crêspi trổ hết tài van xin, tự hạ mình tới mức không thể tưởng tượng được. Suốt một đêm anh khóc như một đứa bé trên ngực Ucsula, người có lẽ phải bán cả linh hồn để an ủi anh.
Trong những đêm mưa người ta bắt gặp anh đội chiếc ô lụa lảng vảng quanh nhà cố lòng bắt gặp ánh sáng trong phòng Amaranta. Chưa bao giờ anh mặc diện như lúc ấy. Mái đầu đẹp lộng lẫy như của một vị hoàng đế qua cơn sóng lòng đã mang vẻ lạ lẫm hẳn đi. Anh đón đường các bạn gái của Amaranta, những cô gái vẫn thường đến thêu ở hành lang, để nhờ họ khuyên giải Amaranta. Anh không còn lòng dạ nào chăm lo tiệm buôn. Suốt ngày anh ở nhà trong viết những bức thư nhàm chán để gửi đến Amaranta cùng với những cánh hoa và những con bướm ướp khô. Nhưng cô vẫn để nguyên gửi trả anh. Đóng cửa phòng, anh ngồi lỳ ngày nọ qua ngày kia để chơi đàn lục huyền. Có một đêm anh hát. Macônđô thức dậy trong nỗi thảng thốt đặc biệt mà tự cảm thấy mình được thần thánh lựa bởi tiếng đàn lục huyền vang lên rền rĩ không phải từ thế gian này mà bởi một giọng hát nỉ non chan chứa tình yêu thương dường như không thể có trên mặt đất này. Thế là lúc đó Piêtrô Crêspi nhìn thấy ánh sáng ló ra từ cửa sổ khắp các nhà trong làng chỉ trừ cửa sổ phòng Amaranta. Ngày mồng hai tháng mười một, ngày lễ của tất cả các vong linh, em trai anh mở cửa hàng và bắt gặp tất cả các ngọn đèn đều thắp sáng, tất cả các hộp nhạc đều mở, tất cả đồng hồ đều dừng lại ở một giờ vô tận, và trong quang cảnh ngổn ngang ấy cậu thấy Piêtrô Crêspi ngồi bên bàn viết ở nhà trong với bàn tay các ngón đều bị dao cắt ngâm trong chậu cánh kiến.
Ucsula quyết định sẽ quàn thi hài anh trong nhà mình để làm lễ viếng. cha Nicanô khước từ làm lễ rửa tội cho anh và mai táng anh ở đất thánh. Bà Ucsula đương mặt với cha. "Cả cha cả con, chúng ta không thể hiểu được rằng con người ấy là một vị thánh", bà nói. "Trái với ý nguyện của cha, con sẽ chôn anh ta ở ngay cạnh ngôi mộ của Menkyađêt". Bà làm đúng những điều mình nói. Được cả làng ủng hộ, bà tổ chức lễ tang thật trọng thể cho anh. Amaranta không bước ra ngoài phòng mình. Nằm trên giường cô nghe rõ tiếng khóc của Ucsula, tiếng chân đi lại và lời than thở sụt sùi của đám đông và tiếng rú rùng rợn của những người đàn bà khóc mướn vọng vào nhà và sau đó là khung cảnh yên tĩnh trầm mặc vương mùi hoa bị chà đạp. Ucsula từ bỏ cô. Ngay cái buổi chiều Amaranta vào bếp thọc tay vào bếp than đỏ rực để nguyên cho tới khi cô không còn biết đau đớn mà chỉ cảm thấy mùi khét lẹt của chính da thịt mình đang xèo xêo cháy, bà cũng chẳng thèm ngước mắt nhìn để thương xót con gái. Đó là rách chữa hiệu nghiệm những nỗi ăn năn dằn vặt. Trong vài ngày liền, với bàn tay bỏng ngâm trong một bát lòng trắng trứng gà, cô đi đi lại lại trong nhà và khi chữa khối những vết cháy bỏng thì dường như lòng trắng trứng gà cũng chữa lành những vết cháy bỏng trong trái tim cô. Dấu vết bên ngoài duy nhất còn lại của tấn bi kịch là tấm băng đen băng trên bàn tay bị bỏng và cô đã phải mang nó cho đến khi chết.
Qua việc ra lệnh chính thức để tang Piêtrô Crêspi, Accađiô đặc biệt tỏ ra là người cao thượng. Ucsula giải thích hiện tượng đó như là sự trở về của một con chiên lầm đường. Song bà nhầm to. Bà đã để mất Accađiô không chỉ từ khi cậu ta mặc bộ quân phục mà đã từ lâu rồi. Bà những tưởng mình nuôi dưỡng nó như nuôi dưỡng một đứa con trai, như nuôi dưỡng Rêbêca, không quá chiều chuộng cũng không quá tệ bạc. Tuy vậy, Accađiô vốn là một đứa trẻ đơn độc và hoảng sợ trong suốt thời kỳ dịch mất ngủ hoành hành, trong hoàn cảnh Ucsula mải mê làm giàu, Hôsê Accađiô Buênđya điên rồ, Aurêlianô lầm lỳ ít nói, Amaranta và Rêbêca thù nhau. Aurêlianô dạy nó học đọc và học viết, mà tâm tưởng anh cứ để ở tận đâu đâu ấy, cứ như thể anh biến nó thành một kẻ lạ lẫm. Anh cho nó quần áo sắp rách để Visitaxiôn chữa lại cho vừa. Accađiô khổ sở với những đôi giày quá rộng, với những chiếc quần chữa lại, với bộ mông đàn bà của mình. Chẳng bao giờ nó giãi bày tâm sự với ai ngoại trừ với Visitaxiôn và Cataurê qua ngôn ngữ của họ. Trên thực tế Menkyađêt là người duy nhất bận tâm tới nó. Cụ ngâm cho nó nghe những bài nhã ca khó hiểu cũng như giảng giải cho nó về nghề ảnh. Không ai biết nó đã khóc thầm trước cái chết của cụ như thế nào và nó đã cố lòng làm sống lại cụ qua việc nghiền ngẫm những trang viết của cụ mà không kết quả. Trường học, nơi cậu ta dốc lòng dốc sức làm việc và được mọi người kính trọng, sau đó là chức quyền được giao với những mệnh lệnh dứt khoát và bộ quân phục vinh quang, những thứ đó đã giải thoát cậu ta khỏi nỗi đắng cay trước đấy. Có một đêm nọ, ngay trong tiệm bác Catarinô, một ai đó đã dám nói thẳng với cậu ta: "Anh không xứng với tên họ của mình!". Trái với điều mọi người mong đợi Accađiô đã không ra lệnh bắn người đó:
- Rất hân hạnh, - cậu ta nói. - May quá, tôi lại không phải là một Buênđya.
Những ai biết gốc gác của cậu ta qua cuộc đấu khẩu này thảy đều nghĩ rằng cậu ta đã hiểu. Thực ra cậu ta vẫn không hay biết gì về gốc gác của mình. Pila Tecnêra, bà mẹ cậu ta, người từng làm cho cậu ta nổi máu dê ở trong phòng làm ảnh, là một sự thèm khát không thể cưỡng lại nổi đối với cậu ta, cũng như thuở ban đầu đối với Hôsê Accađiô và sau đó đối với Aurêlianô. Mặc dù thị đã để mất đi vẻ duyên dáng và tiếng cười phấn kích trước đây, cậu ta vẫn tìm kiếm thị và đã gặp thị trong mùi khói khen khét phả ra từ thân xác thị. Nhưng trước ngày nổ ra chiến sự, có một buổi trưa thị đến trường muộn hơn cả để tìm thằng con út của mình thì Accađiô đang đợi thị tại phòng nghỉ và sau này là phòng giam. Trong lúc đứa trẻ đang nô đùa ở ngoài sân, cậu ta nằm trên võng chờ đợi thị mà người cứ run bắn lên vì thêm khát và biết rằng thị sẽ qua đây. Thị đến thật. Accađiô cầm lấy cổ tay thị định lôi lên võng với mình.
"Chịu thôi! Chịu thôi!", Pila Tecnêra run rẩy sợ hãi nói. "Cậu không biết rằng tôi cũng muốn chiều cậu lắm chứ. Nhưng có Thượng đế làm chứng cho: tôi không thể thỏa mãn cậu được".
Với sức mạnh cha truyền, Accađiô đã quàng tay ôm lấy thắt lưng thị và cảm thấy trời đất ngả nghiêng khi chạm phải da thịt thị. "Thôi đi, đừng có mà làm bộ ta đây...", cậu ta nói. "Cuối cùng cả bàn dân thiên hạ ai cũng biết tỏng mình làm điếm rồi".
Pila Tecnêra cố quất nỗi nhục nhã mà số phận bi thảm đã dành cho mình.
- Bọn trẻ con sẽ biết mất, - thị nói. - Tốt hơn hết là đêm nay cậu hãy để ngỏ cửa.
Đêm ấy, nằm trên võng người cứ nóng ran như có lửa tràm, Accađiô đợi thị. Cậu ta không ngủ để chờ đợi mà dõi theo tiếng trong đêm khuya và tiếng vạc ăn đêm. Càng đợi cậu ta càng vô vọng và nghĩ rằng mình đã bị "một quả lừa". Đương lúc sự thèm khát ngày một nguội dần và lúc cơn giận dữ ngày một bốc lửa, thì bỗng nhiên cửa mở. Sau đó mấy tháng, đứng trước họng súng của đội hành hình, Accađiô đã làm sống lại trong ký ức mình những bước chân chệnh choạng đi trong phòng học, những cú va chạm ghế băng, rồi cuối cùng một bóng hình nổi đậm trong phòng mờ tối và tiếng đập thình thình của một con tim vốn không phải là của mình. Cậu ta chìa tay ra và bắt gặp một bàn tay khác đeo hai chiếc nhẫn trên cùng một ngón tay của một người sắp chết chìm trong bóng tối. Cậu ta cảm thấy máu mình chảy giần giật trên các huyết quản, nỗi bất hạnh của mình đang đập rối loạn và cảm thấy bàn tay mình, với đường đời bị thần chết chém ngang trên gò ngón tay cái, sâm sấp ướt mồ hôi. Vậy là cậu ta hiểu ngay rằng người đàn bà ấy không phải là người mình đợi chờ, bởi vì người đàn bà ấy không phả ra mùi khen khét mà phả ra mùi brigiăngtin, bởi vì người đàn bà ấy có bộ vú chũm cau, có cái mòng đóc cứng và tròn như hạt bồ đào và thân thể người ấy run run vẻ hoảng loạn của người chưa từng trải mùi đời. Người ấy là một cô gái trinh và có cái tên đến là khó tin: Santa Sôphia đê la Piêđat(2). Pila Tecnêra trả cho cô năm mươi đồng pêsô, một nửa số tiền thị đã ki cóp trong cả cuộc đời, để cô làm cái việc đang làm. Accađiô từng nhìn thấy cô nhiều lần trong lúc trông nom cửa hiệu thực phẩm của cha mẹ, và chưa bao giờ cậu để mắt tới cô bởi vì cô chưa thực sự ở tuổi thanh xuân. Song kể từ ngày đó trở đi, cậu ta như một con mèo cứ rúc vào nách cô gái. Cô đến trường vào giờ nghỉ trưa trong sự đồng lõa của cha mẹ mình vốn là những người đã được Pila Tecnêra cho nốt số tiền ki cóp được. Về sau này, khi quân chính phủ tống khứ bọn họ ra khỏi trường học, thì hai người làm tình với nhau giữa những thùng bơ và những tải ngô trong kho hàng. Trong thời kỳ Accađiô được phong làm Quan Tổng trấn coi các vấn đề quân sự và dân sự ở làng Macônđô, họ đã có chung một đứa con gái.
Những người thân duy nhất biết chuyện là Hôsê Accađiô và Rêbêca. Họ là những người mà Accađiô lúc đó giữ được các quan hệ mật thiết không chỉ dựa trên tình ruột thịt mà cả trên sự đồng lõa. Cái ách vợ chồng buộc Hôsê Accađiô hoàn toàn phải quy phục. Tính cách cứng rắn của Rêbêca, cái bụng háo ăn của cô sự tham lam vô độ của cô, đã hút cạn sức lực cường tráng của người chồng, buộc anh vốn là kẻ lười nhác và trai lơ phải trở thành một con vật khổng lồ chịu thương chịu khó làm lụng.
Anh có một ngôi nhà sạch sẽ và gọn gàng ngăn nắp. Cứ mỗi bận sáng dậy, Rêbêca mở toang cửa và gió từ nghĩa địa qua các cửa sổ ùa vào rồi lại cuốn ra ngoài theo cửa canh để lại hơi diêm sinh của người chết làm cho những bức tường bệch bạc ra và khiến cho những bàn, tủ, giường xám đen lại. Cơn đói đất, tiếng kêu lộc cộc, lộc cộc, lộc cộc của hai bộ hài cốt của cha mẹ cô, sự nôn nóng của cô trước thái độ quá ư điềm tĩnh của Piêtrô Crêspi đã lùi vào dĩ vãng. Cả ngày cô ngồi thêu bên cửa sổ, xa lạ trước mọi dư âm của chiến tranh. Cho tới khi các nồi sành bắt đầu rung lên trong chạn, cô mới đứng dậy đi hâm lại thức ăn. Cô làm việc ấy trước lúc xuất hiện những con chó bê bết lấm bùn hay khịt mũi đánh hơi và người đàn ông vâm váp đi ủng có đinh thúc ngựa, khoác khẩu súng hỏa mai hai nòng: "Người này có lúc vai vác một chú nai, còn hầu như lúc nào cũng mang về một xâu thỏ hoặc vịt trời... Có một buổi chiều nọ, đúng vào dịp nắm quyền, Accađiô bỗng dưng đến thăm họ. Tất khi ra khỏi nhà, bọn họ không nhìn thấy cậu nhưng cậu đã biểu lộ một tình cảm nồng nhiệt và thân thiết đến mức vợ chồng họ đã mời cậu ở lại cùng nếm món thịt thú rừng vừa được xào nấu.
Chỉ đến khi uống cà phê Accađiô mới nói rõ mục đích mình đến chơi: cậu đã nhận được một lá đơn tố cáo Hôsê Accađiô. Lá đơn nói rằng Hôsê Accađiô cày sân mình và cày lấn sang đất đai lân cận, phá đổ rào và lùa bò của mình vào chuồng người khác, dùng sức mạnh chiếm đoạt những trang trại trù mật nhất ở xung quanh. Đối với những người nông dân không bị tước đoạt vì ruộng đất của họ xấu, y buộc họ phải đóng thuế. Vào thứ bảy hàng tuần y dùng chó săn và khẩu súng hỏa mai hai nòng để thu thuế. Y không phản đối những lời ấy. Y khẳng định quyền lợi của mình trên những đất đai chiếm đoạt được từng bị Hôsê Accađiô Buênđya phân chia từ thời lập làng và tin tưởng có thể chứng minh rằng cha mình đã điên rồ từ thời ấy, bởi vì cụ đã đem phân phát của cải trên thực tế thuộc về gia đình mình. Đó là một lý lẽ không cần thiết bởi vì Accađiô đến đây không phải để phân xử đúng sai mà chỉ đơn thuần mặc cả thôi.
Về phần mình, cậu lập ra một văn phòng luật sư trông coi của cải tư hữu sẽ cấp cho Hôsê Accađiô các văn tự để y hợp pháp hoá những đất đai chiếm đoạt được và ngược lại y phải để cho chính quyền địa phương được quyền thu thuế. Hai người thỏa thuận với nhau. Những năm sau này khi đại tá Aurêlianô Buênđya kiểm tra các văn tự ruộng đất, chàng đã thấy rằng tất cả đất đai kể từ sân nhà Hôsê Accađiô cho tới tận chân trời kể cả nghĩa địa của làng đều thuộc quyền sở hữu của ông anh mình; và rằng trong mười một tháng nắm quyền bính, Accađiô đã thu không chỉ tiền thuế mà còn cả tiền của nhân dân muốn được chôn cất người thân của mình trên điền sản của Hôsê Accađiô.
Vài tháng sau Ucsula mới biết cái việc đã trở thành quyền lực công khai, bởi vì dân chúng giấu không cho bà biết để khỏi khiến bà đau khổ thêm. Bà bắt đầu nghi ngờ cậu ta. "Accađiô đang xây một ngôi nhà", bà tự hào khẳng định với chồng mình trong lúc cố nhét vào miệng ông một thìa canh bí. Tuy nhiên, bất giác bà lại thở dài: "Không hiểu vì sao tôi cảm thấy không yên lòng đối với tất cả những việc như thế". Và sau này khi bà biết rằng Accađiô không những đã xây xong nhà mà còn mua sắm giường tủ bàn ghế sản xuất ở Viên thì bà càng khẳng định cậu ta đang biển thủ công quỹ, điều trước đây bà đã hồ nghi.
"Mày là nỗi nhục của dòng họ nhà tao", bà chửi cậu ta như thế vào lúc kết thúc lễ mixa một ngày chủ nhật, khi bà thấy cậu đang chơi bài trong ngôi nhà mới. Accađiô không đếm xỉa tới lời bà. Chỉ đến lúc ấy Ucsula mới biết cậu ta đã có một đứa con gái sáu tháng và rằng Santa Sôphia đê la Piêđat, người cậu ta cùng chung sống không làm lễ cưới, lại một lần nữa đang có thai.
Ucsula định bụng viết thư cho đại tá Aurêlianô Buênđya, dù chàng ở đâu đi nữa, để chàng tỏ tường mọi chuyện trong nhà ngoài ngõ. Nhưng các sự kiện ồn ào lúc đó không chỉ cản trở mọi ý định của bà mà còn khiến cho bà ân hận vì đã lượm lặt được chúng. Chiến tranh, cho đến lúc ấy vẫn chỉ là một từ để chỉ một hoàn cảnh trống trải và trì đọng, đã được cụ thể hóa trong một thực tại bi thương. Vào cuối tháng hai có một bà già tóc bạc cưỡi trên lưng một chú ngựa thồ chổi đã đến làng Macônđô. Nom bà quá ư hiền lành đến mức các đội tuần tra đã để bà vào làng mà không xét hỏi, như đã từng không xét hỏi những người bán hàng rong thường vẫn qua lại các làng quanh vùng đồng lầy. Bà đi thẳng đến trại lính, Accađiô tiếp bà ngay ở nơi trước đây là lớp học và hiện nay là lán nghỉ của quân lính trong đó những chiếc võng được cuộn lại và treo trên những chiếc móc, những ba lô chồng chất lên nhau ở các xó, và súng trường, súng cacbin, súng săn ngổn ngang khắp sàn nhà. Bà già giơ tay chào theo kiểu nhà binh trước khi tự giới thiệu mình:
- Tôi là đại tá Grêgori Stêvensơn.
Ngài mang tới các tin dữ. Những ổ đề kháng cuối cùng của phe Tự do, theo như lời ngài nói, đang bị tiêu diệt. Đại tá Aurêlianô Buênđya người đang bị quân đội Bảo hoàng truy kích ở ngoại vi thành phố Riôacha, đã giao cho ngài sứ mạng đến nói chuyện với Accađiô, khuyên cậu cần phải nộp lại quảng trường cho quân chính phủ bằng cách đặt điều kiện họ phải hứa danh dự đảm bảo tính mạng và tài sản cho những người Tự do.
Accađiô với đôi mắt nghi ngờ dò xét vị sứ giả kỳ dị ấy, người có thể nhầm lẫn với một bà già hoảng sợ đang chạy trốn.
- Vậy xin hỏi chẳng hay ngài có mang theo giấy tờ không? - cậu hỏi.
- Rất tiếc, - vị sứ giả trả lời, - tôi không mang theo. Dễ hiểu rằng trong điều kiện hiện nay thật khó mang theo trong người bất kỳ một thứ gì khiến người ta khả nghi.
Trong khi nói, ngài rút trong yếm ngực ra một con cá vàng và đặt nó lên bàn. "Tôi tin rằng với thứ này đã đủ lắm rồi", ngài nói. Accađiô xác nhận rằng đó là một trong những con cá vàng được đại tá Aurêlianô Buênđya làm ra. Nhưng một người nào đó đã mua nó trước lúc nổ ra chiến tranh hoặc đã ăn cắp được và thế là nó không còn giá trị của tờ giấy thông thành. Lúc này, vị sứ giả buộc lòng phải vi phạm bí mật quân sự để lộ chân tướng của mình. Ngài kể rằng mình có nhiệm vụ đi về Curaxao để chiêu mộ tất cả những người bị lưu đày của toàn bộ vùng Caribê, tìm mua cho đủ vũ khí và quân trang quân dụng để mưu tính một cuộc đổ bộ vào cuối năm nay. Mặc dù tin tưởng kế hoạch ấy nhưng đại tá Aurêlianô Buênđya không đồng ý cho rằng trong thời điểm ấy nên tiến hành những hoạt động xả thân vô ích. Nhưng Accađiô là kẻ nhẫn tâm. Cậu đã bỏ tù vị sứ giả để tiến hành công việc xác nhận gốc gác của ngài và quyết định sẽ bảo vệ quảng trường đến hơi thở cuối cùng.
Không cần phải đợi chờ lâu. Những tin tức về sự thất bại của phái Tự do ngày một xác thực hơn. Trong một buổi nửa đêm về sáng vào cuối tháng ba trời đổ những trận mưa sớm, không khí yên tĩnh nặng nề của những tuần trước đây bỗng nhiên tan biến cùng với tiếng kèn cornêt rùng rợn và tiếng nổ dữ dội của một quả pháo đã làm sập đổ tháp chuông nhà thờ. Trên thực tế, ý nguyện kháng cự của Accađiô là một ý nghĩ điên rồ. Cậu chỉ có trong tay không quá năm mươi người vũ trang kém cỏi với cơ số đạn không quá hai mươi viên mỗi cây súng. Nhưng trong số những người kháng chiến, những học trò cũ của cậu từng náo nức trước những lời tuyên bố hoa mỹ đang quyết chí chiến đấu đến phút cuối cùng vì một sự nghiệp đã phá sản. Trong khung cảnh những tiếng ủng chạy nháo nhác, những mệnh lệnh mâu thuẫn trái ngược nhau, những tiếng đại bác làm rung chuyển mặt đất, những tiếng súng nổ loạn xạ, và những hồi kèn cornêt không có ý nghĩa, ngài đại tá bị giam Stêvensơn xin được nói chuyện với Accađiô. "Hãy tránh cho ta nỗi nhục phải chết trong nhà tù mặc nguyên quần áo đàn bà đi", ngài nói với cậu. "Nếu ta phải chết thì ta sẽ chết trong chiến đấu". Accađiô ra lệnh phát cho ngài một cây súng với hai mươi viên đạn, và để cho ngài cùng năm người nữa bảo vệ trại lính, trong khi đó, cùng với bộ chỉ huy của mình cậu ta đi lên tuyến đầu của trận đề kháng. Những chướng ngại vật bị phá vỡ và những người chiến đấu bảo vệ làng phải chiến đấu trong một cuộc đọ súng không cân sức trên các đường phố. Đầu tiên họ dùng súng trường chiến đấu cho tới khi hết đạn, sau đó dùng súng lục chống lại súng trường và cuối cùng đánh giáp lá cà. Trước sự thất bại sắp xảy ra, một số chị em phụ nữ, người cầm gậy kẻ cầm dao thái thịt, cùng đổ ra đường. Trong khung cảnh hỗn độn ấy, Accađiô bắt gặp Amaranta mặc áo ngủ, tay cầm hai khẩu súng lục cũ kỹ của Hôsê Accađiô Buênđya, đang hoảng hốt tìm cậu. Accađiô liền đưa khẩu súng của mình cho một viên sĩ quan vừa bị mất súng trong trận chiến đấu, rồi cùng với Amaranta lẩn vào một con đường cạnh đó để đưa cô về nhà. Ucsula đứng ở cửa ra vào, đang đợi chờ, bất chấp những tiếng súng nổ đì đùng và một viên đạn lạc khoét một cái lỗ trên bức tường mặt tiền của ngôi nhà ngay cạnh. Mưa tạnh hẳn nhưng đường cái ngầu bùn như bọt xà phòng và người ta phải dò tìm khoảng cách trong bóng tối Accađiô để Amaranta ở lại với Ucsula, và định bụng chiến đấu mặt đối mặt với hai lính chính phủ từ một góc phố đang đi vào lùng sục. Những khẩu súng lục để quá lâu trong ngăn kéo khô dầu không nổ đạn được. Lấy thân mình che cho Accađiô, Ucsula định kéo cậu về tận nhà mình.
- Về ngay! Vì Thượng đế hãy về nhà ngay - bà thét cậu ta. - Hãy bỏ thói điên khùng đi nào.
Bọn lính nhả đạn về phía họ.
- Bà già hãy buông người kia ra, - một tên lính thét, - nếu không chúng tôi sẽ không chịu trách nhiệm trước cái chết của bà.
Accađiô đẩy Ucsula về phía nhà, còn mình giơ tay đầu hàng.
Sau đó ít lâu, tiếng súng ngừng bặt và chuông nhà thờ bắt đầu đổ hồi. Cuộc đề kháng đã bị đè bẹp trong không đầy nửa giờ.
Không một người nào của Accađiô sống sót sau trận tấn công, nhưng trước khi chết bọn họ đều bị dẫn diễu qua trước mặt ba trăm lính chính phủ. Pháo đài bị tiêu diệt sau cùng là trại lính.
Trước khi nó bị tấn công, đại tá bị giam Grêgôriô Stêvensơn, đã thả hết các tù nhân, ra lệnh cho những người dưới quyền ra ngoài đường chiến đấu. Sự thay đổi vị trí chiến đấu đến là linh hoạt của ngài, cũng như đường đạn chính xác của hai mươi viên đạn được ngài bắn đi từ các cửa sổ khác nhau đã đem lại cái cảm giác trại lính được phòng thủ rất tốt, và những kẻ tấn công đã phải dùng đại bác để câu vào phá sập nó. Viên đại uý chỉ huy cuộc chiến đấu phải ngạc nhiên trước quang cảnh những mảng tường nhà rơi đổ ngổn ngang, chỉ có một người đàn òng mặc độc một chiếc quần đùi đã chết và một khẩu súng hết đạn được một cánh tay bị chặt lìa khỏi thân xác ôm lấy. Người ấy có bộ tóc dầy cộm uốn súng ôm lấy vai và trên cổ đeo một sợi dây mang con cá vàng. Vào lúc lấy mũi ủng lật ngửa để nhìn cho rõ mặt người ấy, viên đại uý giật mình hoảng sợ: "Đồ cứt đái", ông ta thốt lên. Một số sĩ quan khác cũng ào tới.
- Các vị hãy nhìn xem, cái con người này đến từ đâu vậy? - viên đại uý nói với họ. - Đó là Grêgôriô Stêvensơn.
Vào lúc rạng sáng, Accađiô bị bắn ở trước bức tường nghĩa địa sau khi hội đồng quân sự họp khẩn cấp. Trong hai giờ cuối cùng của đời mình, cậu vẫn chưa hiểu nổi vì sao cái nỗi sợ chết từng dằn vặt mình ngay từ thuở thơ ấu đã biến mất. Với vẻ bình thản lạnh lùng, không hề bận tâm tới việc chứng tỏ lòng dũng cảm mới nảy sinh, cậu nghe những lời luận tội dài dòng.
Cậu nghĩ tới Ucsula mà giờ này có lẽ bà đang cùng uống cà phê với Hôsê Accađiô Buênđya dưới bóng cây dẻ. Cậu nghĩ tới đứa con gái tám tháng vẫn chưa được đặt tên và tới đứa trẻ sẽ ra đời vào tháng tám tới. cậu nghĩ tới Santa Sôphia đê la Piêđat đêm qua đã ướp thịt một con hươu cho bữa cơm trưa ngày thứ bảy, nhớ mái tóc dài buông xõa xuống hai vai cô, nhớ những hàng mi dài của cô giống như những bờ mi được làm giả. Cậu nghĩ tới những người của mình không mảy may thương tiếc. Trong lẽ công bằng cần phải trang trải với cuộc đời, cậu bắt đầu hiểu được trên thực tế cậu yêu biết nhường nào những người cậu từng căm ghét. Ngài chủ tịch hội đồng quân sự bắt đầu bài phát biểu cuối cùng của mình trước lúc Accađiô chợt nhớ rằng đã qua đi hai giờ đồng hồ rồi. "Mặc dù các chức vụ được giao cho y không có gì đáng kể, - ngài chủ tịch nói, - nhưng với thái độ hung hăng vô trách nhiệm và độc ác y đã đẩy những người dưới quyền của mình tới những cái chết vô ích thì điều đó cũng đủ để khép y vào tội tử hình"... Tại trường học rạn nứt vốn là nơi lần đầu tiên cảm nhận sự chắc chắn của quyền lực, cách mấy mét thì tới phòng học mà lần đầu tiên biết đến thứ tình yêu ngỡ ngàng, Accađiô bắt gặp hình thức nực cười của thẩn chết. Trên thực tế, đối với cậu lúc này, cái có tầm quan trọng không phải là cái chết mà là sự sống và bởi thế, cái cảm giác mà cậu cảm nhận khi người ta tuyên án tử hình mình không phải là cái cảm giác sợ hãi mà là cái cảm giác nhớ nhung. Cậu vẫn im lặng cho tới khi được hỏi nguyện vọng cuối cùng của mình là gì.
- Hãy nói với vợ tôi, - cậu trả lời với giọng nói sang sảng, - rằng đặt tên cho con gái tôi là Ucsula, - cậu nghĩ rồi khẳng định: đúng là Ucsula tên của bà nội. Và hãy nói với vợ tôi rằng nếu đứa trẻ sắp ra đời là con trai thì đặt tên là Hôsê Accađiô nhưng không phải lấy tên của ông bác mà là tên của ông nội nó.
Trước lúc người ta mang cậu tới bức tường ở nghĩa địa, cha xứ Nicanô định rửa tội cho cậu. "Tôi không có gì phải ân hận cả", Accađiô nói, và làm theo lệnh của đội hành hình sau khi uống hết tách cà phê đen. Người chỉ huy đội hành hình, một người chuyên thi hành các bản án tử hình, có tên rất đúng với nghề của mình: đại uý Rôkê Cacnixêrô(3). Trên con đường đi tới nghĩa địa, dưới trời mưa lất phất, Accađiô nhận thấy rằng một ngày thứ tư rạng sáng đang loé lên ở chân trời. Nỗi nhớ nhụng hoà tan trong sương mờ và để lại một sự tò mò khủng khiếp.
Chỉ đến khi người ta ra lệnh cho cậu dựa lưng vào tường, Accađiô mới nhìn thấy Rêbêca với mái tóc ướt, mặc bộ váy áo hoa màu hồng đang mở toang cửa nhà. Cậu cố lòng thầm khấn để Rêbêca nhận ra mình. Quả nhiên, vừa lúc ấy Rêbêca nhìn ra bức tường nghĩa địa và bỗng đứng đần ra vẻ hoảng hốt. Hầu như cô mới chỉ kịp ra hiệu để chào từ biệt Accađiô. Accađiô đã đáp lại cũng bằng điệu bộ tương tự. Giữa lúc ấy những họng súng bốc khói nhả đạn vào Accađiô và cậu nghe rõ ràng từng lời từng lời một bản nhã ca được cụ Menkyađêt ngâm và cảm thấy những bước chân chệnh choạng của Santa Sôphia đê la Piêđat, cô thiếu nữ trinh tiết, vang trong phòng học và cảm thấy trên mũi mình có cái lạnh cứng của nước đá, cái mà cậu đã chú ý tới khi thấy nó trong hốc mũi của tử thi Rêmêđiôt. "À, con c... - cậu vừa kịp nghĩ ra, - ta quên mất không nói rằng nếu sinh con gái hãy đặt tên là Rêmêđiôt". Vậy là lúc ấy, cậu đã cảm thấy nỗi sợ hãi từng tra tấn mình suốt cả cuộc đời. Viên đại úy ra lệnh nổ súng. Hầu như Accađiô vừa kịp ưỡn ngực và ngẩng đầu lên mà không hiểu từ đâu chảy ra một dòng nước đằng đặc nóng bỏng đang thiêu đốt các cơ bắp mình:
- Đồ dê cụ, - cậu thét - Đảng Tự do muôn năm!
Chú thích:
(1) Francisco Petrarca (1304-1374) nhà thơ Ý, một trong những nhà nhân văn vĩ đại.
(2) Nghĩa là: bà Thánh Sôphia của lòng hiếu thảo.
(3) Nghĩa là Rô kê - Tên đồ tể.
 18/4/2014
Gabriel Garcia Marquez
Nguyễn Trung Đức dịch
Theo https://www.truyenngan.com.vn/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Tình yêu của biển

Tình yêu của biển Thì ra biển cũng bạc lòng say đắm/ nhuộm đen khuôn hình, trắng tấm sắt son/ một vũng gió buộc vào sâu mắt bão/ buồm căng...