Đời sống, lễ hội, phong tục
tập quán của người Chăm - Phần 2
THÁP CHĂM VÀ ĐIÊU KHẮC CHĂMẢNH HƯỞNG CỦA VĂN MINH ẤN ĐỘ ĐẾN VIỆC HÌNH THÀNH VĂN MINH CHAMPA
1. Ảnh hưởng của chữ viết Ấn Độ đến lịch sử chữ viết Champa.
Ấn Độ là một quốc gia sớm có chữ viết. Nhờ những khám phá về khảo cổ học đã xác định được ngay từ nền văn hóa Harappa chữ viết đã được sử dụng phổ biến trong công việc hành chính cũng như thường ngày.
Đến khoảng thế kỷ V TCN, ở Ấn Độ xuất hiện một loại chữ khác gọi là chữ Kharosthi. Đây là một loại chữ phỏng theo chữ viết vùng Lưỡng Hà. Sau đó lại xuất hiện chữ Brami, một loại chữ được sử dụng rộng rãi. Các văn bia của Asoka đều viết bằng loại này. Trên cơ sở chữ Brami, người Ấn Độ lại đặt ra chữ Davanagari có cách viết đơn giản thuận tiện hơn. Đó là thứ chữ mới để viết tiếng Sanskrit. Đến nay ở Ấn Độ và Nepan vẫn dùng loại chữ này.
Như vậy, nền văn minh Ấn Độ đã sáng tạo ra ít nhất là 4 loại chữ viết khác nhau.
Champa sớm tiếp xúc với nền văn minh Ấn Độ, đã tiếp nhận văn tự Ấn Độ ngay từ ngày lập quốc. Một đặc điểm của chữ viết Champa là ghi chép trên bia đá, nội dung bia ký thường phản ánh việc dâng tế thần linh, tường thuật lại biến cố đã xảy ra đối với vương triều, ca ngợi công đức của thần linh và bậc minh vương tiền nhiệm. Văn bia được khắc chữ từ thế kỷ IV đến thế kỷ XV bằng cả văn tự Chăm cổ và Sanskrit.
Sau thế kỷ XV, người Champa không viết chữ lên bia đá nữa mà viết trên những vật liệu khác như giấy, tre, vải, da…
Nói đến chữ viết Champa là nói đến chữ Akhar Thrah, một loại chữ được dùng phổ biến cho đến ngày này vẫn còn lưu truyền.
Từ chữ Akhar Thrah, người Champa đã biến hóa thêm nét thành nhiều chữ viết khác nhau, có chức năng sử dụng vào những mục đích khác nhau.
Đó là:
Akhar Yok: chữ bí ẩn.
Akhar Atwơr: chữ treo, chữ tắt.
Akhar Kalimưng: chữ con nhện, chữ thấu.
Ngoài ra còn có chữ chỉ thấy trên bia ký là:
Akhar Hayap
Akhar Rik
Tất cả các kiểu chữ và biến thể Akhar (chữ viết) đó điều bắt nguồn từ một trong những chữ viết ở miền Nam Ấn Độ thuộc hệ văn tự Brami. Qua những lần biến thể chữ viết ngày càng phù hợp với âm tiết của tiếng Champa. Sự tiếp nhận văn tự Ấn Độ để tạo nên Akhar Thrah là một bước phát triển mới của lịch sử ngôn ngữ Champa. Bởi vì, người Ấn Độ nếu không có sự hướng dẫn cần thiết sẽ không đọc được Akhar Thrah.
Trên cơ sở chữ phạn và lấy dạng nét cong của chữ phạn, người Chăm đã xây dựng thành một hệ thống văn tự Chăm cổ để ghi chép tiếng nói của mình, gồm 16 nguyên âm, 31 phụ âm, khoảng 32 dấu âm sắc và chính tả...
2. Ảnh hưởng của sử thi Ấn Độ trong văn học Champa.
Ấn Độ có hai bộ sử thi rất đồ sộ là Mahabharata và Ramayana. Hai bộ sử thi này được truyền miệng từ nửa đầu thiên niên kỷ I TCN rồi được chép lại bằng khẩu ngữ, đến các thế kỉ đầu công nguyên thì được dịch ra tiếng Sanskrit...
Người Champa đã đón nhận hai bộ sử thi theo cách tư duy của họ và phù hợp với tâm lý của cộng đồng. Văn học Champa khá phát triển với nhiều thể loại phong phú như: Thần thoại, sử thi, truyện cổ, thơ ca, văn xuôi, văn vần…
Thơ ca Champa rất dồi dào âm điệu, nội dung trữ tình và thường là thơ lục bát gieo vần lục tứ và bát lục. Bên cạnh văn học viết, văn học dân gian của người Chăm cũng khá phát triển dưới nhiều thể loại và phản ánh nhiều nội dung về tâm lý dân tộc và các khía cạnh xã hội. Đặc điểm của văn học thành văn của Champa là phản ánh thời cuộc, khắc họa nhiều mặt của đời sống xã hội, ca ngợi tình yêu lứa đôi, tình yêu gia đình và quê hương. Nhưng các tác phẩm có giá trị cao về nghệ thuật và nội dung thường khuyết danh người sáng tác. Điều này, nói lên các tác phẩm đó là do quá trình sáng tác của cả cộng đồng và qua các thế hệ nối tiếp cùng tham gia sáng tác.
Những bản trường ca anh hùng cũng khá phong phú, được sáng tác liên tục, phổ biến rộng rãi và lưu truyền đến ngày nay. Bên cạnh việc tiếp nhận văn học Ấn Độ trực tiếp vào những thời điểm Hindu giáo ảnh hưởng sâu sắc. Sau này, dòng chảy của văn học Ấn Độ vẫn đến được với Champa qua trung gian là Malaysia, một quốc gia cũng ảnh hưởng văn minh Ấn Độ.
Dĩ nhiên khi đến Champa, những dòng tư tưởng cũng có khác để phù hợp, với cuộc sống và sinh hoạt Champa. Đó là những thể loại văn học dân gian, với những bài hát lễ, hát giao duyên, những kinh văn, bài xướng ca được biểu diễn vào dịp lễ quan trọng liên quan đến Hindu giáo.
3. Ảnh hưởng của tôn giáo Ấn Độ đến Champa.
Ấn Độ là nơi sản sinh ra rất nhiều tôn giáo, trong đó quan trọng nhất là Bàlamôn giáo về sau là Hindu giáo và Phật giáo. Ngoài ra còn có một số tôn giáo khác như đạo Jain, đạo Xích.
Bàlamôn giáo sớm được truyền bá ở Đông Nam Á và một thời kỳ dài độc tôn làm quốc giáo. Ở Ấn Độ Bàlamôn chia hạng người ra thành giai cấp rất chặt chẽ.
- Braman (Bàlamôn) là đẳng cấp của những người làm nghề tôn giáo. - Ksatơrya là đẳng cấp của các chiến sĩ.
- Vaisya là đẳng cấp của những người bình dân làm các nghề như chăn nuôi, làm ruộng, buôn bán, một số nghề thủ công.
- Suđra là đẳng cấp của những người cùng khổ, vốn là con cháu của các bộ lạc bại trận không có tư liệu sản xuất. Thư mục chuyên đề Văn hóa Chăm.
Nguyên nhân dẫn đến sự ra đời của chế độ đẳng cấp là sự phân hóa giai cấp, sự phân công về nghề nghiệp và sự phân biệt về bộ tộc. Nhưng các tăng lữ Bàlamôn thì dùng uy lực của thần linh để giải thích hiện tượng xã hội ấy.
Nếu như Bàlamôn giáo ở Ấn Độ nghiêm khắc bao nhiêu thì ở Champa chế độ đẳng cấp rất mờ nhạt. Vì Bàlamôn giáo không những là quốc giáo mà còn là hệ tư tưởng của giai cấp thống trị, tôn giáo của đẳng cấp trên. Do vậy, Bàlamôn giáo chỉ ảnh hưởng trong cung đình, dòng dõi quý tộc mà thôi.
Champa tiếp nhận tư tưởng Bàlamôn giáo của Ấn Độ kết hợp với tín ngưỡng địa phương làm cho sắc thái của tôn giáo có sự biến sắc rõ ràng.
Trong ba vị thần tối cao của Bàlamôn giáo là Braman, Siva, Visnu, thì thần Siva được coi trọng hơn cả, thể hiện qua vị trí nơi đặt tượng thần, thường là gian điện chính, nơi trung tâm, điều này thấy rõ ở các đền tháp Champa.
Tôn giáo Ấn Độ ảnh hưởng khá mạnh mẽ ở Champa từ niềm tin, tư tưởng, tư duy về kĩ thuật, đến trang phục đời thường. Dĩ nhiên cũng bị dân gian hóa nhiều nên trở thành bản sắc riêng của Champa.
Bên cạnh niềm tin vào các vị thần Ấn Độ, người Champa còn thờ phụng nhiều vị thần khác có nguồn gốc siêu nhiên hay những công thần khai quốc. Việc nhân thần hóa được thờ phượng cùng với các thần linh Ấn Độ là điều hiếm hoi chỉ thấy ở Champa.
Có lẽ ngày từ Ấn Độ, Bàlamôn không có người sáng lập, không hệ thống giáo lí chặt chẽ nên khi đến Champa nó dễ bị xâm nhập vào tín ngưỡng dân gian bản địa. Do vậy, Bàlamôn giáo ở Champa thiên nhiều về nghi thức cúng lễ ở đền tháp và những lễ hội dân gian hơn là chú tâm học tập kinh kệ.
4. Ảnh hưởng của kiến trúc, điêu khắc Ấn Độ đến nghệ thuật xây dựng tháp Champa.
Thời cổ trung đại Ấn Độ đã có một nền nghệ thuật phong phú đặc sắc, bao gồm nhiều mặt, trong đó nổi bật nhất là ngành kiến trúc, điêu khắc. Thời Harappa, nhà cửa chỉ mới xây bằng gạch, đến vương triều Morya nghệ thuật kiến trúc đá mới bắt đầu phát triển mà các công trình tiêu biểu là cung điện, chùa tháp, chùa tháp, trụ đá.
Như vậy, tất cả những công trình công cộng, công trình tôn giáo đều làm bằng vật liệu bền, thể hiện sức mạnh uy quyền của nhà vua và vương triều. Nói chung nghệ thuật tạo hình Ấn Độ phần lớn nhằm vào đề tài tôn giáo, nhưng vì bắt nguồn từ cuộc sống thực tế, nên tính hiện thực vẫn thể hiện rất rõ nét, ví dụ tượng nhiều tay nhiều đầu là phỏng theo tư thế của đội múa trong đền chùa và cung đình.
Khi các tôn giáo Ấn Độ, vượt biên giới qua các eo biển mà truyền qua Tích Lan, Java, Cao Miên, Thailand, Mianmar, Tây Tạng, Khotan, Turkestan, Mông Cổ, Trung Hoa thì nghệ thuật Ấn Độ cũng lan tràn theo vào các xứ đó.
Champa cũng đón nhận dòng chảy của nền văn minh Ấn Độ từ biển đông. Một điều dễ nhận thấy kiến trúc đi cùng Thư mục chuyên đề Văn hóa Chăm với tôn giáo. Hầu hết, các công trình kiến trúc ở Champa đều phục vụ cho nhu cầu tôn giáo, dù cho những tác phẩm điêu khắc, kiến trúc đạt được giá trị mỹ thuật cao so với đương đại cũng đều nói lên đề tài tôn giáo.
Trong suốt chiều dài lịch sử Champa, vương triều nào khi lên nắm quyền đều cho xây dựng hoặc trùng tu công trình tôn giáo để chứng tỏ sự tồn tại của vương triều mình, phô trương sức mạnh quốc gia, nhưng quan trọng hơn cả vẫn nhằm vào mục đích tạ ơn thần linh qua việc dâng lễ vật cúng cho đền tháp. Vì đã phù trợ sức mạnh và chiến thắng cho vương triều.
Như các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á cùng chịu ảnh hưởng văn minh Ấn Độ, vật liệu cơ bản và chủ yếu để xây dựng đền tháp là gạch và đá. Có thể nói, Champa là bậc thầy về kỹ thuật chế tác gạch, trải qua bao thế kỷ, những tháp gạch Champa vẫn còn tươi rói, màu sắc ánh hồng, vàng, kết dính với nhau một cách kì lạ mà nhiều nhà khoa học còn chưa thể giải mã hết.
Trên tổng thể thân tháp bằng gạch, những thợ điêu khắc đã chạm trỗ hoa văn, những con vật thiên liêng của Hindu giáo hay cảnh sinh hoạt trong cung đình, rất sinh động và chân thật.
Đặc điểm của gạch Champa là mềm, xốp nên khi dựng xong hình thể, dáng tháp hoàn chỉnh, sau đó sẽ chạm, khắc, khảm lên tháp những môtip mà nhà vua và quần chúng nhân dân muốn gởi gắm vào.
Tháp Champa thường gồm 3 tầng, tầng trên cùng là đặt các vị thần quốc giáo, tầng giữa thường diễn tả hoạt động sống của cung đình, tầng đề là tầng âm chỉ gia cố nền móng cho vững chắc không có trang trí.
Mỗi một ngôi tháp chỉ có một lối vào chính cũng là vị trí đặt các nhân thần (Vua được thần thành hóa), đồng thời là thực hành các nghi lễ chính thức vào những ngày lễ trong đại của Bàlamôn giáo. Các mặt còn lại đều là cửa giả và đóng kín.
Hình thể của một tháp Champa bao giờ cũng thu nhỏ dần khi càng lên cao. Trên chóp đỉnh thường đặt một Linga. Người Champa đã tiếp thu kĩ thuật xây dựng tháp từ Ấn Độ, nhưng qua bàn tay kỹ sư Champa các khối tháp trở nên hài hòa, cứng rắn, mạnh mẽ, dễ gần gũi nhưng đầy bí hiểm. Quan sát tháp ở bất cứ vị trí đâu và vào lúc nào cũng thấy nét uy nghiêm tráng lệ.
5. Ảnh hưởng của lịch pháp Ấn Độ đến cách tính lịch của Champa.
Từ rất sớm người Ấn Độ đã biết chia một năm làm 12 tháng, mỗi tháng 30 ngày, mỗi ngày 30 giờ, cứ 5 năm thì thêm 1 tháng nhuận. Các nhà thiên văn học Ấn Độ cổ đại đã biết được quả đất và mặt trăng đều hình cầu, biết được quỹ đạo của mặt trăng và tính được các kỳ trăng tròn trăng khuyết. Họ còn phân biệt 5 hành tinh Hỏa Thủy Mộc Kim Thổ, biết được một số chòm sao và sự vận hành của các ngôi sao chính. Tác phẩm thiên văn học cổ nhất của Ấn Độ là quyển Siddhantas ra đời vào khoảng thế kỷ V TCN.
Người Champa đã sớm tiếp thu và biết cách tính lịch pháp. Không những thế các học giả trong triều đình Champa lúc bấy giờ đã nghiên cứu và tính khá thạo vị trí di chuyển theo thời gian của các hành tinh để định thời gian một cách chính xác.
Từ ngày đầu dựng nước Champa đã tiếp thu hệ thống lịch Saka của Ấn Độ một cách chủ động. Trong tiếng Champa lịch gọi là Sakawi hay Takawi. Một năm của người Champa là 12 tháng, một tuần có 7 ngày. Cách tính trên dựa vào sự vận hành của mặt trăng và của các chòm sao.
Lịch pháp được ứng dụng khá rộng rãi trong nông nghiệp để biết sự biến đổi của tiết trời mà gieo trồng và chọn giống vật nuôi cho thích hợp. Đồng thời Champa vốn là cư dân hoạt động mạnh mẽ trên con đường hàng hải quốc tế, nên lịch được ứng dụng để xem ngày, giờ dự đoán bão tố trước khi ra khơi.
Bên cạnh đó, mỗi một mùa tương ứng với một kiểu thời tiết, đều diễn ra những lễ hội có tính chất cộng đồng như lễ Rija Nagar, lễ hội Kate để cầu mưa thuận gió hòa, quốc thái dân an.
Hiện nay, người Champa quần cư theo cộng đồng tôn giáo, nên lịch pháp cũng theo lịch tôn giáo vì thực hành theo lễ thức tôn giáo. Với ba nhóm Chăm cơ bản tương ứng với 3 loại lịch riêng và tất nhiên trong sinh hoạt cũng sử dung Tây lịch.
- Người Chăm Braman có Sakawi Ahier.
- Người Chăm Bani có Sakawi Awar.
- Người Chăm Islam có Sakawi Islam.
Trong vương triều Po Rome, đã có sự kết hợp lịch Ahier và Awar tạo thành một hệ thống lịch mới gọi chung là lịch âm dương.
Như vậy, bên cạnh lịch Tây, người Champa còn có 4 loại cách tính lịch khác trong hoạt động tôn giáo. Chính điều này, mặc nhiên gây khó khăn lớn trong cộng đồng vì thiếu sự thống nhất về ngày tháng hành lễ và kiên cự trong lễ cưới, ma chay. Sự phân bố dân cư theo địa bàn tôn giáo kéo theo sự phân hóa khu vực sử dụng lịch pháp.
Kết luận.
Từ thế kỷ II-XV, văn hóa Champa đậm nét ảnh hưởng
văn minh Ấn Độ. Trong những năm đầu công nguyên văn minh Ấn Độ cũng từng lan tỏa
đến Việt Nam. Điển hình là sự xuất hiện trung tâm Phật giáo Luy Lâu ở Bắc Ninh.
Tuy nhiên, do sự đô hộ của Trung Quốc, người Việt bị nền văn minh Trung Hoa thống
trị sâu sắc.
Sự gặp gỡ của nền văn minh Trung Quốc và nền văn minh Ấn Độ thể hiện
rõ ràng ở Việt Nam và Champa trong tổ chức đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa
xã hội.
Khi Việt Nam, từng bước thoát khỏi sự thống trị của Trung Quốc cũng là
giai đoạn Champa đã đạt được nhiều thành tựu văn minh. Trước nhu cầu phát triển
kinh tế đất nước và khắc phục những gánh nặng do chính sách khai thác thời Bắc
thuộc để lại Việt Nam đã kiến thiết lại đất nước.
Các vương triều Việt Nam đã
thi hành một chính sách thống nhất và liên tục. Đó là chính sách Nam tiến, đã từng
bước đẩy lùi nền văn minh Ấn Độ ở Đông Nam Á mà Champa là một đại diện.
Có thể nói rằng, sự sụp đổ của nền văn minh Champa là sự sụp
đổ của nền văn minh Ấn Độ trước nền văn minh Trung Hoa. Vương quốc Champa không
còn tồn tại nữa, nhưng những giá trị đặc sắc nhất của văn minh Champa vẫn còn bảo
tồn và được các tộc người hậu duệ Champa lưu truyền.
Như các quốc gia cùng ảnh
hưởng văn minh Ấn Độ, các Stupa tức Bimon Kalan (theo tiếng Chăm). Là ngôi đền
thiêng liêng của quốc gia thờ các vị thần có nguồn gốc Ấn Độ như Brahma, Siva,
Visnu, Ganesa, Nandin cùng các nhân thần.
Ảnh hưởng về kỹ thuật xây dựng đền
tháp như việc chọn các vật liệu có tính năng bền vững, các môtip, các hình thể
tháp. Ví dụ: tháp Po Klong Garai ở thành phố Phan Rang. Bên cạnh một tháp
chính còn có hai ngôi tháp phụ là nơi để dâng lễ có mái tháp hình yên ngựa hay
mái thuyền biểu tượng của ngọn núi thiên liêng Meru ở Ấn Độ.
Nét đặc sắc của đền
tháp Champa là ảnh hưởng kiến trúc Ấn Độ nhưng vẫn có nét riêng, độc đáo chỉ thấy
ở Champa. Có giống chăng là các tượng thần được thờ phượng trong các ngôi tháp.
Còn điêu khắc của các đền tháp Champa, ngoài hình tượng ngọn lửa ở các góc tháp
(như hình tượng rồng chầu nguyệt ở các ngôi đình người Việt), có nhiều hình tượng
trang trí rất sinh động, phổ biến hơn cả là những nét chạm khắc trực tiếp lên
thân tháp quan cảnh sinh hoạt, múa hát trong cung đình của các vũ nữ Apsara,
các nhân vật trong sử thi Mahabrata hay các thần hộ pháp.
Về tôn giáo, khi tiếp
nhận Hindu giáo ở từ Ấn Độ và một thời gian lâu dài trở thành quốc giáo thống
trị trong suốt lịch sử Champa. Hindu giáo trở thành hệ tư tưởng chính trị để quản
lí đất nước.
Quá trình tiếp biến Hindu giáo đã làm cho nó khác với chính quốc rất
nhiều điểm. Như Champa không có sự phân chia đẳng cấp nghiêm khắc như Ấn Độ. Mặc
nhiên, ở Champa xuất hiện nhiều bí ẩn, nghi lễ, nghi thức tôn giáo mới mà không
hề tìm thấy ở Ấn Độ. Vì trước khi du nhập tôn giáo ở bên ngoài, Champa là một
nước nông nghiệp. Bởi thế, họ gắn những nghi lễ nông nghiệp gắn vào niềm tin
tôn giáo tạo ra nhiều nghi lễ mới trong quá trình thực hành nghi thức tôn giáo.
Càng đặc sắc, khi dòng tư tưởng Islam giáo mới du nhập đã kết hợp, hòa lẫn với
Bàlamôn tạo nên Bàni giáo. Có lẽ rằng, trên thế giới chẳng có nơi nào mà hai ý
thức hệ tư tưởng hòa lẫn vào nhau được như ở Champa. Các tôn giáo tồn tại song
song với nhau. Đây là sự minh chứng cho tính dung hợp và khả năng tiếp biến những
luồn văn hóa từ bên ngoài.
Về văn học, trước khi tiếp thu văn học Ấn Độ, văn học
dân gian đã khá phát triển ở Champa như thần thoại, cổ tích. Tiếp xúc với văn học
Ấn Độ và sau là Malaysia đã làm cho nền văn học bác học Champa phát triển. Thể
loại văn học này, thể hiện qua các bài minh văn, các bài xướng ca, các câu thần
chú được ghi trên bia đá.
Sự ảnh hưởng của
văn học Ấn Độ rõ nét nhất là bộ sử thi Mahabrarata và Ramayana, sự đứt đoạn, mất
liên hệ qua lại cũng làm phai mờ sức truyền bá văn học Ấn Độ.
Về sau văn học
Champa tiếp xúc qua con đường Mã Lai đã đưa văn học Champa đạt nhiều thành tựu
và để lại nhiều tác phẩm có gia trị như Deva Mano, Ariya Nai Mai Mang Kah. Những
sáng tác văn học Chăm về sau vẫn giữ được nét đặc sắc riêng.
Về văn tự, quá
trình cải biên chữ Brami của Ấn Độ đến Akhar Thrah Champa là cả một thời gian
lâu dài. Vai trò của Akhar Thrah rất quan trọng, là loại chữ viết được dùng phổ
biến và rộng rãi trong quần chúng, ghi chép tất cả các công việc hành chính của
vương triều, chép sử, sáng tác văn chương. Điểm mới của Akhar Thrah là từ mẫu
chữ Brami qua sự cải biến để ghi âm tiết Champa. Và trên thế giới chỉ còn người
Chăm sử dụng hệ thống chữ Akhar Thrah do họ sáng tạo ra. Ngày nay, Akhar thrah
đang được sự quan tâm của nhiều nhà khoa học, bởi sự cải biên làm mất đi tính
trong sáng của ngôn ngữ, chỉ vì mục đích đơn giản hóa để đưa vào giảng dạy
trong học đường, điều này làm cho chữ viết Chăm mất đi tính thống nhất và tạo
ra cách viết khác nhau trong cùng một ngôn ngữ.
Về lịch pháp, rất quan trọng đối
với nghề làm nông nghiệp và đi biển hàng ngày. Nên vấn đề ngày, giờ tốt xấu rất
được chú ý trong đời sống.
Sự tiếp nhận lịch Saka của Ấn Độ được ghi chép rõ
ràng trên các bia ký được tìm thấy. Tuy nhiên cách chuyển lịch Saka để phù hợp
với điều kiện thực tế như thế nào thì ít được biết đến. Bởi những tri thức về
thiên văn học của Champa chưa được nghiên cứu nhiều.
Người Champa đã chuyển lịch
Saka sang Sakawi để phục vụ cho việc tiến hành các lễ hội dân gian, nghi lễ
trong nông nghiệp, đặc biệt là ngày hành lễ tôn giáo.
Tóm lại, nền văn minh Ấn
Độ một thời huy hoàng khắp Đông Nam Á đã để lại nhiều di sản giá trị tuyệt vời
về mặt nghệ thuật. Trên cơ sở văn minh Ấn Độ, người Champa đã tiếp thu có chọn
lọc và sáng tạo thành nét văn hóa riêng, độc đáo cho riêng mình. Nền văn minh
Champa ảnh hưởng sâu sắc văn minh Ấn Độ từ ý thức hệ quản lý thần dân với thuyết
nhân thần.
Sự giao lưu, tiếp biến văn hóa dễ nhận diện nhất là nghệ thuật điêu
khắc và kiến trúc ở các đền tháp cổ nằm khắp miền Trung Việt Nam. Và nét
Bàlamôn giáo còn hiện hữu đến cách thức tổ chức xã hội. Văn minh Ấn Độ đã được
tiếp nhận một cách hòa bình và hài hòa với văn hóa bản địa tạo nên văn minh
Champa rực rỡ trong lịch sử
THÁP CHĂM Ở PHAN RANG
Tỉnh Ninh Thuận còn nhiều di tích kiến
trúc cổ của người Chăm là các tháp, các làng nghề truyền thống. Hiện nay, tỉnh
còn ba tháp cổ là: tháp Pôklông Garai, tháp Hòa Lai, tháp Pôrômê được Bộ Văn
hóa xếp hạng di tích kiến trúc nghệ thuật quốc gia, nơi đây vẫn là điều bí ẩn đối
với nến kiến trúc đương đại.
Tháp PôKlông Garai
Di tích tháp PôKlông Garai được
xây dựng vào khoảng cuối thế kỷ XIII đầu thế kỷ XIV, nằm trên đồi Trầu thuộc
phường Đô Vinh, cách trung tâm thị xã Phan Rang - Tháp Chàm 9 km về hướng tây bắc.
Đây là một công trình độc đáo, được công nhận là di tích kiến trúc nghệ thuật
và điêu khắc Chăm.
Tháp PôKlông Garai gồm nhiều công trình lớn nhỏ khác nhau,
nhưng hiện nay còn lại ba ngôi tháp xây bằng gạch Chăm. Đó là tháp Cổng (cao
8,56m), tháp Lửa (cao 9,31m) và tháp Chính - tháp thờ vua PôKlông Garai (cao
21,59m, mỗi cạnh rộng hơn 10m). Bố cục và cấu trúc của mỗi tháp là cả một công
trình nghệ thuật kiến trúc độc đáo. Mỗi cạnh, mỗi tầng và mỗi mặt của từng tháp
được chạm khắc trang trí bằng các họa tiết gốm, đá với đủ loại hình người, hình
đuôi rồng, hình lá, hình bò thần. Tất cả công trình chạm trổ, điêu khắc đều phản
ánh đầy đủ ý nghĩa về nghệ thuật và tôn giáo của người Chăm.
Tháp Hòa Lai Cụm
tháp Hòa Lai còn có tên là Ba Tháp, nằm ven quốc lộ 1A, cách Phan Rang 14km về
phía bắc, được xây dựng từ đầu thế kỷ thứ IX. Cụm tháp được các nhà nghiên cứu
phương Tây đánh giá là kiến trúc tháp cổ và đẹp nhất của dân tộc Champa.
Đáng
tiếc là ngày nay tháp chính đã bị sụp đổ, chỉ còn lại tháp Bắc và tháp Nam,
nhưng cũng trong tình trạng hoang tàn. Một thân tháp hình khối lập phương khỏe
khoắn, nhô lên từ một phần bệ vuông và đỡ cả hệ thống các tầng tháp nhỏ dần.
Các tháp còn lưu lại những hoa văn được điêu khắc rất tỉ mỉ, tinh xảo và tuyệt
đẹp trên vòm cửa, trụ ốp, diềm mái...
Tháp Pôrômê Được coi là phiên bản của
tháp PôKlông Garai. Có thể thấy sự thừa hưởng có tính sáng tạo rất rõ nét ở
công trình nghệ thuật kiến trúc này. Trong đó, Linga tám tay với khuôn mặt của
vua thần hóa Pôrômê là một ví dụ. Hình bà Thu Chí (bà Trinh Nữ), vợ của vua ở
miếu thờ với bộ ngực tròn, đầy đặn, nở nang và đôi mắt vô cùng sống động của một
cô gái Chăm cũng nói lên điều đó.
Kiến trúc tháp Chăm
Nói đến văn hóa Chăm không thể không nói tới các tháp Chăm đứng
sừng sững, uy nghi trước nắng gió của thời gian. Bình Định là nơi còn lại nhiều
tháp và nguyên vẹn nhất trong số những tỉnh có kiến trúc Chăm.
Tháp Chăm được
thừa nhận về độ tinh tế. B. Broslier trong cuốn Indochine Carefour des arts
(Pris 1961) nhận xét "Về cấu trúc, tháp Chăm đẹp hơn tháp Khmer, sở dĩ
như vậy là do họ (người Chăm) giữ được ý thức về chất liệu (gạch) và biết tôn
trọng bản chất của nó, trong khi đó người Khmer có xu hướng dựng lên một khối bằng
bất cứ vật liệu nào rồi chạm khắc lên. Nghệ thuật kiến trúc Chăm cân bằng, có
nhịp điệu và sáng sủa hơn, nó tạo cho tháp Chăm một vẻ đẹp không thể bỏ
qua". Từ thế kỷ V-VI, sử sách Trung Hoa đã phải công nhận người Chăm là bậc
thầy trong nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc gạch.
Việc các tháp Chăm được làm
từ những viên gạch đỏ hồng chồng khít lên nhau không thấy mạch hồ đã tạo nên
huyền thoại. Các chuyên gia Ba Lan cho rằng, người Chăm dùng gạch nung sẵn rồi
gắn với nhau bằng vữa đất sét, sau đó toàn bộ được nung lại. Một số nhà nghiên
cứu thì nêu ra giả thuyết cho rằng người Chăm đã dùng keo chiết từ thực vật
(như cây bàn chải + mật mía hoặc nhựa cây dầu rái) để dán các viên gạch với
nhau. Những nghiên cứu gần đây cho thấy người Chăm đã sử dụng kết hợp một số biện
pháp kỹ thuật khác nhau để xây tháp...
Sự tinh tế của các tháp Chăm còn thể hiện
ở vô số những hình chạm khắc tỉ mỉ trau chuốt do nghệ nhân đục đẽo trực tiếp
lên tường tháp đã được xây sẵn, không thể vì một sai sót mà phá đi xây lại được.
Hoàn toàn có lý khi Parmentier nhận xét: "người Chăm chạm gạch như chạm gỗ,
đẽo đá như đẽo gỗ". Về cấu trúc quần thể, các tháp Chăm có hai loại. Loại
thứ nhất là các quần thể kiến trúc bộ ba gồm ba tháp song song thờ ba vị thần
Brahma, Visnu, Siva (như tháp Dương Long). Loại thứ hai là các quần thể kiến
trúc có mộ tháp trung tâm thờ thần Siva và các tháp phụ vây quanh (tháp Cánh
Tiên, tháp Thủ Thiện, tháp Thốc Lốc). Loại này thường xuất hiện muộn hơn (khoảng
thế kỷ IX trở về sau).
Về hình dáng, phần lớn các tháp Chăm đều có hình ngọn
núi (Sikhara), trên các góc có các tháp nhỏ ứng với đỉnh núi nhỏ. Tuy kiến trúc
núi có nguồn gốc truyền thuyết từ Ấn Độ nhưng với người Chăm, chúng lại biểu tượng
cho thiên nhiên miền Trung trùng điệp núi non và phản ánh đúng chất dương tính
trong tính cách bản địa của văn hóa Chăm (núi = dương). Chất dương tính này còn
bộc lộ rõ ở những tháp mô phỏng hình sinh thực khí nam. Bên cạnh tháp chính
hình ngọn núi, còn có tháp có mái cong hình thuyền (tháp Bánh Ít) - dấu hiệu đặc
thù trong kiến trúc nhà cửa cư dân Đông Nam Á.
Như vậy, từ chỗ vay mượn dạng
Sikhara Ấn Độ, tháp Chăm đã đi đến chỗ hòa quyện và phối kết khá nhiều sáng tạo
mang dấu ấn của tính cách bản địa Chăm và văn hóa nông nghiệp khu vực. Hầu hết
tháp Chăm đều là lăng mộ thờ vua. Ngoài ra, tháp Chăm còn là đền thờ thần bảo
trợ của nhà vua. Do tính chất lăng mộ và đền thờ nên nội thất tháp Chăm rất chật
hẹp, chỉ có chỗ cho các pháp sư hành lễ chứ Tháp Đôi Quy Nhơn Thư mục chuyên đề
Văn hóa Chăm 44 không phải là nơi cho các tín đồ hội tụ và cầu nguyện.
Đinh
Bá Hòa
DẤU ẤN VĂN HÓA CHĂMPA Ở TÂY NGUYÊN
Việc tháp Bang Keng, huyện
Krông Pa (Gia Lai) đang được tiến hành khai quật hy vọng hé lộ thêm nhiều điều
về dấu ấn văn hóa Chăm pa tại Tây Nguyên.
Sau 4 năm kể từ khi ngành văn hóa Gia
Lai phát hiện tháp Bang Keng, việc khai quật cho đến giữa 6.2010 mới được tiến
hành. Đây là một phát hiện khá quan trọng về tháp Chăm ở vùng đất này.
Tháp
Bang Keng được xây dựng trên vùng đất thuộc buôn Jú, xã Krông Năng (Krông Pa)
ngày nay. Tháp có bình diện hình vuông, mặt chính hướng về phía Đông (sông Ba).
Phần trong của tháp trước đó đã có dấu hiệu đào bới nên phần kiến trúc bên
trong bị phá vỡ. Phần tường phía Nam bị phá sập hoàn toàn. Điều rất đáng tiếc
là những kiến trúc bên trong cũng như các đồ vật linh thiêng đi kèm chẳng hạn
như linga, yoni... đều không còn.
Thạc sĩ Nguyễn Quốc Mạnh, người chịu trách
nhiệm chính trong cuộc khai quật tháp cho biết: “Nhiều khả năng đây là một kiến
trúc ảnh hưởng Ấn Độ giáo. Căn cứ trên lượng gạch khai quật và quy mô của công
trình, chúng tôi có thể nhận định đây là một đền thờ hơn là tháp. Công trình được
xây trên gò cao có thể tượng trưng cho núi Nêru, còn mặt chính quay về sông Ba
tượng trưng cho biển sữa như truyền thuyết. Kiến trúc này có diện tích 6,4 x
7,8m, móng sâu 1,8m, được gia cố bằng lớp cát và đá cuội to cỡ nắm tay trước
khi xây gạch lên. Gạch dùng để xây nên công trình kiến trúc này có kích thước
khá lớn là 40 x 20 x 8cm, nặng gần 20kg. Phần trên của kiến trúc đã bị sụp hoàn
toàn... Đây là một công trình được xây dựng hoàn chỉnh. Nhưng hiện chúng tôi vẫn
chưa xác định được lò gạch, nơi cung cấp nguyên liệu cho công trình”.
Trước
đây, một số học giả người Pháp đã có những ghi nhận từ rất sớm các tháp Chăm ở
Kon Tum, Cheo Reo (Ayun Pa ngày nay) và một số địa điểm khác của Tây Nguyên.
Nhưng mọi việc cũng dừng lại tại đó... Ngoài ra, cùng với việc phát hiện một
bia đá có khắc chữ Phạn của người Chăm cổ tại thôn Tư Lương, xã Tân An, huyện
Đăk Pơ, tỉnh Gia Lai (Thanh Niên đã thông tin) gần đây, thì dấu ấn của văn hóa
Chăm vẫn là câu hỏi lớn cần sự giải đáp của những nhà nghiên cứu. Hiện vẫn chưa
có một công trình khoa học chỉn chu nào đề cập toàn bộ đến sự xuất hiện của người
Chăm và những dấu ấn văn hóa của họ ở vùng đất Tây Nguyên.
Thiên Trúc
Nguồn: http://www.thanhnien.com.vn/
TRANG PHỤC -
TRANG SỨC CỦA NGƯỜI CHĂM
CÁC LOẠI TRANG PHỤC
CHĂM Người Chăm là một dân tộc sớm hình thành nước và chịu ảnh hưởng nhiều loại
hình tôn giáo, văn hóa khác nhau. Ngoài tôn giáo Bàlamôn. Hồi giáo người Chăm
còn theo tín ngưỡng dân gian xã hội Chăm còn có nhiều giai cấp: vua chúa, quý tộc,
bình dân. Do đó, mỗi giai cấp, tầng lớp; mỗi chức sắc tu sĩ tôn giáo người đều
có mỗi trang phục riêng.
Trang phục vua chúa Chăm:
Trang phục vua chúa Chăm
ngày xưa rất phong phú và đa dạng. Thế nhưng cho đến nay do biến động của lịch
sử vua chúa Chăm đã mất đi, kéo theo sự biến mất về trang phục của họ. Cho đến
nay, do chất liệu vải bị hủy hoại theo thời gian, trang phục vua chúa Chăm
không còn tìm ra được hiện vật nào còn nguyên vẹn. Hiện nay chúng ta chỉ tìm thấy
trang phục Chăm thông qua tư liệu cổ, bia ký và những tượng thờ, phù điêu trên
các đền tháp Chăm.
Từ nhiều nguồn tư liệu khác nhau, trang phục vua chúa Chăm
được mô tả như sau: “Y phục vua Chúa Chăm gồm có áo bào bằng lụa, có hoa bằng
vàng, trên nền đen hay xanh lá cây. Áo lót bằng vải trắng, nhỏ sợi mịn màng, đôi
khi có thêu dệt hay viền tua bằng vàng; vua chỉ có mặc một áo này không có áo
ngoài gì khác trong những buổi chầu, không phải đại lễ (Tân Đường Thư). Ở ngang
lưng đeo bên ngoài lễ phục một cái đai vàng nạm ngọc và trang trí những vòng
hoa (Nam Tề Thư, LVIII, 66a). Vua đi dép da đỏ (Tống Thư, CCCXXXIX), còn giầy
và ủng thì thêu và nạm ngọc (Chư Phiên Chí), cổ, ngón tay, ngực vua thì mang rất
nhiều đồ trang sức...”
Ngay từ thời nhà Đường, Thông điển cho chép đàn ông đàn
bà Chiêm Thành đều quấn ngang một mảnh vải cổ bối. Đường thư cũng có nói đến
“vua choàng một tấm vải trắng mịn”. Ngoài ra, các loại trang phục của vua (và kể
cả quí tộc cung đình Chăm) như cái sampot hiện còn trong kho... được dệt chen
vào đó các hoa chi tiết bằng lụa trắng và đen có điểm chỉ vàng trên nền chỉ đỏ
thành những hình Gảuda trong các dáng điệu nhảy múa hay cầu nguyện, và những
con vật kỳ dị khác đã làm tăng vẻ đẹp mượt mà, đa sắc của vải lụa Chăm.
Theo
nhiều nguồn tư liệu cổ khác còn nhận xét: “Trang phục Chăm xưa và ngày nay, không
khác trang phục của người Mã Lai”, nó là mảnh vải gọi là “Kama” (trích Lương
thư, LIV, 54a) quấn quanh người từ phải sang trái và che từ ngang lưng đến
chân. Ngoài miếng vải đó ra, cả đàn ông đàn bà không mặc gì thêm nữa, trừ mùa
đông họ mặc áo dài (Tùy thư, LXXXII, 37a). Người thường dân thì đi chân đất (Cưu
đường thư, CXCVII, 32a); và mặc theo một tác giả nói chỉ có vua chúa mới đi giầy
(Durand, truyện Galathee, Befeo, v ,336), hình như những người quyền quý cũng
đi giầy da thuộc (Lương thư, LIV,54, a). Họ bối tóc (Cựu đường thư, LIV, 54a),
đàn bà thì bối thành hình cái búa (Văn hiến thông khảo) và xâu lỗ tai để đeo những
vòng nhỏ bằng kim loại (Lương thư, LIV,54a). Cũng như người Mãlai, họ rất sạch
sẽ; mỗi ngày họ tắm nhiều lần, xoa mình bằng thứ dầu cao làm bằng lông não và xạ
hương. Họ cũng dùng gỗ thơm để ướp quần áo (Tân đường thư, CXVII, 32a).
Ngoài
thư tịch cổ, trên bia ký còn miêu tả trang phục vua Chăm như sau: Vua Chăm
Vikrantarman HI điểm trong những miếng vàng
đeo lũng lẳng, có những chuỗi hạt ngọc xanh và ngọc trai lóng lánh như ánh
trăng hôm rằm, vua được che bằng cái lộng trắng nó trùm lên vòng tròn cả bốn
phương trời, Vua đeo vương miệng, đai vòng cổ, hoa tai bằng chuỗi hòn ngọc, bằng
vàng, tỏa ra hào quang giống như những dây leo (Tống Sử, CCCIXXIX, 22a).
Trên
bia ký lai trung ở Huế, nội dung có phần mô tả về cách ăn mặc của Vua Champa
Indravarman III (918) là áo Vua có thêu dính nhiều vàng bạc. Bia ký Pô Nưgar
cũng đề cập đến Vua Chăm Wikratavarman III (854) mặc áo đen và xanh, có đính
hoa văn và chỉ làm bằng vàng. Áo khác cũng làm bằng vải thô thêu chỉ bằng vàng
rất đẹp.
Ngoài bia ký nói trên các nhà khoa học còn tìm thấy nhưng trang phục của
người Chăm trên các phù điêu, trên các tượng thờ ở các đền tháp như các tượng
thần Siva. Vũ nữ Chăm Apxara với những dãi áo mỏng được trang trí bằng những
nét hoa văn thật đẹp mắt, tinh vi. Đi xa hơn nữa là các nhà khoa học còn tìm thấy
các loại quần áo được trang bị cho binh lính Chămpa, chẳng hạn như bức phù điêu
chạm khắc trên tường tháp Angkor wat, mô tả cảnh chiến đấu đội quân Chămpa tiến
vào đánh Angkor vào thế kỷ XIII. Bức phù điêu này cho thấy binh lính Chămpa mặc
quần áo ngắn có đeo dải Bàlamôn; mặc áo ngắn cụt tay có dệt hoa văn, đầu đội
mũ.
Bên cạnh trang phục, người Chăm còn có nhiều loại đồ trang sức quý giá. Vì
là nghề luyện Kim sớm phát triển cho nên, họ đã sản xuất ra nhiều đồ trang sức
đa dạng và độc đáo. Sử Trung Quốc còn chép lại, khi vào Chămpa tướng nhà Lương
- Đàn Hoa Chi đã cướp được tượng vàng Chămpa “Nấu chảy tượng vàng ra mấy ngàn
cân”. Tư liệu trong cuốn Tùy thư còn cho biết: Tướng Lưu Phương “cướp được 18
tượng thần đúc bằng vàng của Champa”. Do nghề luyện kim phát triển sớm cho nên
người Chăm đã chế tạo ra nhiều hàng thủ công, đặc biệt là đồ trang sức khá tinh
xảo. Sản phẩm thủ công đó là những đồ trang sức, vật dụng bằng vàng, bạc, đồng
được họ sử dụng để dâng cúng cho thần thánh, phục vụ vua chúa, giai cấp quý tộc...
trong đời sống hằng ngày. Những cổ vật Chămpa đáng chú ý được biết đến là các loại
vương miện, khuyên tai hai đầu thú, hình vành khăn, bông tai, hạt chuỗi bằng
đá, thủy tinh, vàng, bạc được tìm thấy ở các di chỉ Sa Huỳnh và các nhóm di
tích khác ở dọc dải đất miển Trung Việt Nam. Chẳng hạn như: Đồ trang sức hình cảnh
hoa cở lớn (Đồng Dương- Thăng Bình - Quảng Nam - Đà Nẵng) là một loại vương miện
đẹp ở đầu thế kỷ XII - XIII sau công nguyên. Ngoài ra còn có các loại bình bát,
vòng tay bằng vàng, bạc... có niên đại ở thế kỷ XVII trở về sau đều là những cổ
vật quý giá được trang trí, chạm khắc nhiều dáng vẻ tinh xảo và đẹp mắt, góp phần
làm phong phú nền trang phục của người Chăm.
Như vậy, từ các nguồn tư liệu
trên, tuy còn ít ỏi nhưng cũng giúp chúng ta hình dung được cách ăn mặc của các
vua chúa, các vũ nữ, các tầng lớp trong xã hội Chăm ngày xưa. Với trình độ phát
triển kinh tế xã hội thời đó, cách ăn mặc của người Chăm đã định hình và phát
triển cao mang đặc trưng văn hóa và văn minh của riêng mình. Sau này với sự biến
đổi của lịch sử, tùy theo mỗi thời đại của trang phục Chăm về sau có nhiều biến
đổi và cho đến nay trên nền tảng đó, người Chăm vẫn còn lưu giữ được trang phục
truyền thống của mình. Trang phục nam giới và nữ giới:
Trang phục nữ giới:
Trong bất cứ dân tộc nào, thời đại nào người phụ nữ là người lưu giữ một cách bền
vững bản sắc văn hóa riêng của dân tộc mình. Áo truyền thống của phụ nữ Chăm ngày nay là biểu hiện sắc thái riêng ấy của dân
tộc Chăm mà người ta dễ dàng nhận biết, không lẫn lộn được với bất cứ dân tộc
nào khác.
Áo (aw):
Áo truyền thống của người phụ nữ Chăm là áo dài bít tà, mặc
chui đầu mà họ gọi là “Aw loah” (áo có 3 lỗ). Áo có một lỗ chui đầu và hai ống
tay. Áo này xưa kia được cấu tạo bằng 7 mảnh vải may ghép với nhau, người Chăm
gọi là “aw kauk kaung”. Nhóm áo này ở phần trên thân áo chạy dài từ vai xuống
ngang bụng thì dừng lại. Vì khổ vải của khung dệt ngày xưa không cho phép vải rộng
quá 1m; phần thứ hai từ ngang bụng đến quá đầu gối hoặc đến gót chân phần này
cũng được may ghép hai phần, ở mặt trước và mặt sau: hai cánh tay được nối lại
với hai phần vai và nách áo; và cuối cùng hai mảnh nhỏ đắp vào hai bên hông,
người Chăm gọi bộ phận này là “dwa boong”. Cổ áo thường khoét lỗ hình tròn hoặc
hình trái tim. Nhìn chung từng chiếc áo dài truyền thống Chăm ngày xưa chỉ là
những tấm vải ghép lại mà người may quay tròn thành hình ống để bó thân người mặc.
Áo có nhiều màu khác nhau như màu đỏ, vàng, đen, trắng... Nhưng mỗi cái áo đều
luôn có hai màu (đen đỏ xanh trắng hoặc tím, vàng). Áo chỉ là những tấm vải
thô, trơn không có trang trí hoa văn. Nhưng thay vào đó thì các phụ nữ trẻ khi
mặc áo dài truyền thống đi hội họ thường choàng loại dây thắt lưng có thêu hoa
văn trước ngực và buột xung quanh lưng gọi là “Taley kabak”.
Ngày nay áo dài
truyền thống Chăm đã cải tiến. Do kỷ thuật dệt đã mở rộng được khổ vải cho nên
áo dài Chăm không còn là những mảnh vải nối ghép (kauk kuang) nữa mà áo dài
Chăm được may bằng 4 mảnh vải cùng màu nối nhau. Những phụ nữ Chăm trẻ thường mặc
áo dài đến quá đầu gối phủ lên váy mặc, may hơi bó tay, thân hơi phình rộng, ở
hai bên hông áo “dwa boong” họ cải tiến bằng cách mở một đường ngay eo hông, có
may thêm hàng khuy bấm hoặc nút dính gọi là “aw eo”.
Ngày xưa phụ nữ Chăm,
ngoài mặc áo dài thì bên trong còn có áo lót gọi là áo klăm, giống như yếm của
người Kinh, gồm có mảnh vải nhỏ che ngực, và dãi vải nhỏ buột qua vai và lưng.
Ngày nay áo này không được mặc phổ biến mà thay vào đó là “áo nhỏ” giống như áo
lót bên trong của người Kinh.
Váy, Khăn (Aban, khan):
Váy người Chăm có hai loại:
váy kín và váy mở (aban) là loại váy quấn bằng tấm vải, hai mép vải không may
dính vào nhau, khi mặc cặp váy được xếp vào và lận vào bên trong giữ chặt eo
hông. Còn váy kín (khan) thì hai mép đầu vải được may dính vào nhau hình ống.
Phụ nữ lớn tuổi thường mặc váy mở (aban) còn váy kín dành cho phụ nữ trẻ tuổi.
Chỉ có váy mở (aban) có nhiều hoa văn trang trí và có may cạp váy, còn váy kín
thì không có hoa văn trang trí.
Váy (aban) Chăm là loại sarong, đây là sản phẩm
được mặc phổ biến phụ nữ của Chăm. Váy có kích thước (160cm x 90cm). Váy của
người Chăm được trang trí nhiều loại hoa văn và màu sắc khác nhau. Váy Chăm có
nhiều màu đen, đỏ, xanh... nhưng chủ yếu là nền đen, dệt nhiều hoa văn. Váy
Chăm có nhiều loại, căn cứ vào kỷ thuật dệt, hoa văn trang trí mà họ có tên các
loại váy khác nhau như sau:
- Váy dệt có đường viền (đường sọc đứng)
- Váy Chăm
không có đường viền
- Váy có cạp (loại biyor)
Váy Chăm đa số được phủ kín hoa
văn trên bề mặt. Hoa văn được kết hợp với nhiều
màu sắc khác nhau trên màu nền như đen, đỏ, xanh tạo nên nhiều kiểu dáng hoa
văn phong phú như: hoa văn quả trám (bingu tamun), hoa văn hình con thằn lằn
(kachak), hoa văn 4 cánh (tuk riteh), hình ô vuông (bingu caor)... Váy Chăm thường
may cạp ở rèm chân theo chiều ngang hoặc chiều dài của váy gọi là jih hoặc
biyon. Đàn bà bình dân thường mặc váy có hình quả trám (bingu tamum), hoa văn
hình dây leo (biyon hareh). Còn đàn bà quí tộc mặc váy có nhiều hoa văn mà phổ
biến là hoa văn 4 cánh (bingu riteh) và vua chúa Chăm còn sử dụng việc dệt thêm
những sợi chỉ bằng vàng, bạc vào váy của họ. Còn đàn bà lớn tuổi thì mặc váy có
hoa văn hình hạt lúa nổ (bingu kamang). Loại váy này không phổ biến, người Chăm
kiên cử khi dệt thì phải cúng cho vị tổ nghề Pô Nưgar một cặp gà. Cùng với váy,
phụ nữ Chăm còn mặc một loại “khan” (khăn mặc) có kích thước khoảng (142cm x
77cm). Khăn mặc đàn bà có nền màu trắng, đen, xanh, vàng... Hoa văn thường dệt
phủ kín trên bề mặt như hoa văn quả trám, hoa cà dược, hoa văn mắc lưới, hoa
văn caro (hình vuông). Tuy nhiên loại hoa văn này phụ nữ Chăm không mặc phổ biến
bằng loại váy (aban) Chăm. Cũng như vậy, khăn mặc phụ nữ Chăm còn dùng để
choàng, đắp ngủ trong mùa có thời tiết lạnh.
Khăn đội đầu (tanrak):
Khăn đội của
phụ nữ Chăm thường dệt bằng vải thô màu trắng, xanh, đỏ, vàng... Khăn có kích
thước (129cm x 32cm), có dệt loại hoa văn quả trám, cùng màu phủ kín lên mặt vải,
khăn đội đầu của người Chăm hồi giáo Bà Ni thường màu trắng, có may thêm cạp vải
hoa văn theo dọc đường biên của khăn gọi là “khăn mbram”. Còn phụ nữ Chăm
Bàlamôn bình dân thường thích đội khăn màu trơn, không may cạp vải hoa văn.
Ngoài ra phụ nữ Chăm còn có loại khăn choàng vai, và khăn cầm tay màu đỏ và hộp
túi vải để đựng trầu cau.
Cách đội khăn của người Chăm là quấn lên đầu, vòng từ
sau ra trước, một phần trùm xuống đỉnh đầu, rồi hai mép gặp lại, buông chùng xuống
hai tai. Ngày nay việc đội khăn truyền thống chỉ còn lại ở phụ nữ lớn tuổi, còn
giới trẻ thì đội nón, chỉ còn đội khăn truyền thống trong những dịp lễ hội.
Trang phục nam giới:
Đây là loại áo ngắn (aw lah) truyền thống của người đàn
ông Chăm. Áo được may bởi 6 mảnh vải với nhau: mặt thân sau có hai mảnh vải
tách rời, rồi họ lại may dính vào nhau tạo thành một đường viền chạy dọc theo
sóng lưng (khổ vải khung dệt không cho phép khổ vải quá một mét nên họ phải
dùng hai mảnh để may ghép lại): phía thân trước cũng gồm hai mảnh vải ghép lại;
và hai bộ phận còn lại là hai vải ống tay may dính vào hai phần nách và phần
vai. Áo ngắn chỉ mặt chùng xuống đến mông, xẻ hai bên hông khoảng 20cm. Áo ở
phía trước có đường xẻ, đính khuy và hai bên vạt trước có hai cái túi. Cổ áo
thường là cổ con, tròn đứng, ôm sát cổ. Áo thường có nhiều màu trắng: trắng, đỏ,
xanh, vàng... nhưng không có trang trí hoa văn.
Áo nam giới Chăm còn có một loại
áo khác gọi là “aw tah” (áo dài). Áo được dệt bằng vải thô màu trắng, được may
ghép bằng nhiều mảnh vải. Áo tah không xẻ thân phía trước, không có hàng khuy
mà chỉ xẻ một đường xiên trước ngực, dùng dây để buột thay nút. Áo mặt chui đầu
(aw loah) và phủ dài đến đầu gối. Áo này hiện nay không được mặc phổ biến chỉ
được mặc trong các nghi lễ.
Váy, khăn (aban, khan):
Theo truyền thống từ xa xưa, tất cả người Chăm đàn bà đàn ông đều mặc
váy (sarông). Thông thường ngày nay thì người đàn ông mặc khăn. Khăn mặc của
người đàn ông Chăm có nhiều loại. Khăn mặc của đàn ông bình dân được dệt bằng vải
thô màu trắng; khăn mặc không có hoa văn trang trí. Còn đàn ông quí tộc là mặc
khăn cũng màu trắng nhưng dệt bằng tơ, có hoa văn quả trám phủ kín bề mặt khăn.
Cách mặc váy, khăn mặc của đàn ông cũng giống như cách mặc váy của phụ nữ Chăm.
Dây thắt lưng (taley ka-in)
Ngoài việc mặc váy đàn ông Chăm còn buột dây lưng:
là loại dây thắt lưng có khổ vải rộng khoảng 10cm-25cm dài khoảng 180cm-250cm.
Nó thường dùng cho người đàn ông và người đàn bà mặc váy, có ba loại:
- Loại
thường: đây là loại dây thắt lưng trơn dệt bằng vải thô (cotton) màu trắng
không có dệt hoa văn, loại dây thắt lưng này có khổ hẹp, thường dùng cho người
đàn ông bình dân.
- Loại dây lưng dệt bằng tơ, có thêu nhiều hoa văn màu sắc sặc
sỡ, có khổ rộng như loại hoa văn quả trám, hoa văn mắt gà, hoa văn hình neo
thuyền... Những loại hoa văn này thường dùng cho giai cấp quí tộc.
- Loại dây
thắt lưng có khổ rộng khoảng 10cm, được dệt hai mặt hoa văn nổi. Hoa văn thường
bố trí thành một dải nhiều hình xen kẻ nhau với màu sắc sặc sỡ như hoa văn quả
trám, hoa văn chân chó, hoa văn hình móc mỏ neo... Ngoài ra loại này còn có hoa
văn hình rồng, hình người... Loại dây lưng này chỉ dùng cho vua chúa và chức sắc
tôn giáo.
Cách buột dây thắt lưng của người Chăm là quấn một vòng qua lưng rồi
buột gút lại, thả chùn hai đầu dây có tua ra phía trước.
Đồ đội đầu (tanrak):
Đồ
đội đầu của đàn ông Chăm chủ yếu là khăn. Người đàn ông bình dân thì sử dụng
khăn dệt trơn bằng vải thô trắng và đàn ông quí tộc thì đội khăn có dệt hoa văn
hình quả trám cùng màu trắng phủ kín lên mặt vải. Ngoài khăn đội đầu người đàn
ông Chăm còn có khăn vắt vai, túi nhỏ đeo vai và túi đựng thuốc hút.
Cách đội
khăn của Chăm là quấn vòng lên đầu từ phía sau ra phía trước, rồi thả hai mép gập
lại, buông chùn xuống ở gần hai tai. Đối với người đàn ông trẻ tuổi thì không đội
khăn mà chỉ vắt khăn chéo qua vai. Cũng như phụ nữ Chăm, ngày nay việc đội khăn
truyền thống chỉ có ở người đàn ông lớn tuổi, còn giới trẻ thì đội nón, chỉ còn
đội khăn truyền thống trong những dịp lễ hội.
Trang phục chức sắc tôn giáo, tín
ngưỡng Chăm:
Trang phục tu sĩ Bàlamôn Chăm:
Tu sĩ Chăm Bàlamôn gọi là paseh, họ
chuyên phục vụ các lễ nghi cúng tế cho tín đồ Chăm theo Bàlamôn như các lễ nghi
đền tháp, đám tang, lễ nhập kút... Hàng ngũ tu sĩ paseh có nhiều thứ bậc khác
nhau như paseh đung akuak (tu sĩ mới tập sự), paseh lyah (cấp thứ hai), paseh
luah (cấp thứ ba), pô bac (phó cả sư) và cuối cùng là pô Adhia (chức cả sư) -
người giữ chức vụ cao nhất trong hàng ngũ paseh. Tầng lớp paseh này có sắc phục
riêng và mỗi cấp bậc của tu sĩ paseh đều thể hiện những chi tiết khác nhau trên
bộ phận của trang phục. Pô Adhia (cả sư) mặc áo trắng, mặt váy, buột dây lưng
và khăn đội đầu. Áo Pô Adhia là loại vải màu trắng, mặc dài qua đầu gối, dệt bằng
vải thô không có hoa văn, vải may thụng được ghép lại bởi 6 mảnh vải (hai mảnh
vải thân trước, hai mảnh vải thân sau, hai mảnh vải ống tay): áo không xẻ tà, không mặc chui đầu mà khi mặc hai phần thân được
xếp chồng lên nhau, rồi buột dây vải ở hông và gần phía ngực trái. Áo này người
Chăm gọi là áo “Aw tikuak”.
Tu sĩ Adhia mặc áo váy hở màu trắng. Khăn mặc có
may cạp váy là loại hoa văn hình rồng. Pô Adhia (cả sư) còn buộc dây thắt lưng
dệt hoa văn hai mặt, như các loại hoa văn hình quả trám, hoa văn chân chó, hoa
văn neo thuyền. Loại cạp váy dây lưng này để dành cho chức sắc Pô Adhia, vua
chúa tu sĩ cấp dưới và dân thường.
Pô Adhia đội đầu bằng khăn hai loại khăn:
khăn “puah” và “khan mưham taibi”. Đây là loại khăn dài màu trắng có hai tua vải
đỏ, có cạp vải, may viền ở hai đầu và dệt hoa văn. Đây là loại khăn chỉ dành
riêng cho giới chức sắc và tu sĩ.
Cùng với áo, khăn đội đầu, váy, dây lưng, còn
có đeo khăn đỏ, và bốn túi nhỏ hình âm vật trước ngực (tượng trưng cho âm) để đựng
trầu cau, thuốc hút.
Cách mặc áo, váy buột lưng, quấn khăn của tu sĩ Bàlamôn
cũng tương tự như cách mặc áo váy của người đàn ông bình dân đã trình bày trên.
Nói chung trang phục của Pô Adhia (cả sư) là tiêu biểu cho tu sĩ đạo Bàlamôn.
Các trang phục của tu sĩ cấp dưới Paseh cơ bản đều giống trang phục của Pô
Adhia nhưng chỉ khác và phân biệt được với nhau ở chỗ là áo của Pô Adhia, ống
tay được may hai lớp vải, còn tu sĩ bình thường chỉ được may một lớp vải. Pô
Adhia thì mặc váy có cạp váy hình rồng, thắt dây lưng có hoa văn hai mặt nhiều
hoa văn. Còn tu sĩ cấp bình thường, mặc váy trơn, không có cạp váy và thắt dây
lưng có hoa văn thường như hoa văn quả trám, hoa văn con thằn lằn...
Trang phục
tu sĩ chăm Hồi giáo Bà Ni:
Tu sĩ Chăm Hồi giáo Bà Ni gọi là Pô Achar, họ chuyên
phục vụ các lễ nghi cúng tế cho tín đồ theo đạo Hồi giáo - Bà Ni như các lễ
nghi ở thánh đường, đám tang, lễ cưới... Cũng giống như tu sĩ Bà La Môn, hàng
ngũ tu sĩ Achar có nhiều thứ bậc khác nhau như: cấp Achar-jăm ak (tu sĩ mới tập
sự), khotip (cấp thứ hai), Imưm (phó cả sư) và cuối cùng là Pô Gru (cả sư) -
người giữ chức vụ cao nhất trong hàng ngũ Achar.
Tầng lớp Achar này có sắc phục
riêng và mỗi cấp bậc của tu sĩ Achar đều thể hiện những chi tiết khác nhau trên
bộ phận của trang phục. Pô gru Achar mặc áo dài phình rộng gọi là - Aw tah, được
ghép lại bằng sáu miếng vải với nhau. Áo Pô Gru có xẻ ở trước thân áo, có may
khuy cài trước ngực một đường ngắn khoảng 15cm, còn từ dưới ngực đến chân thì để
hở. Áo Pô char có may ghép một mảnh vải màu trắng ở trước ngực và phần trên của
thân sau một loại hoa văn bốn cánh hình cung nhọn, gợi nét hình vòm mái nhọn của
thánh đường Hồi giáo.
Pô char cũng mặc váy, buột thắt lưng như cả sư Bà La Môn
nhưng lại đội khăn loại khác. Pô Achar còn đeo một chùm khăn đỏ ở trước ngực
(tượng trưng cho dương vật - yếu tố dương) và 4 túi nhỏ ở phía sau. Còn trang
phục của các cấp bậc trong hàng ngũ tu sĩ Hồi giáo Bà Ni thì cơ bản giống nhau,
chỉ có một số chi tiết khác nhau trên cạp váy, trên thắt lưng. Cách phân biệt
các cấp bậc trong hàng ngũ tu sĩ Hồi giáo Bà Ni thì cơ bản giống nhau chỉ có một
số chi tiết khác nhau trên cạp váy, trên dây lưng. Cách phân biệt các cấp bậc
trong hàng ngũ tu sĩ Hồi giáo Bà Ni cũng tương tự như cách phân biệt trên trang
phục của tu sĩ Bàlamôn.
Nói chung trang phục
của tu sĩ Hồi giáo Bà Ni và tu sĩ Bàlamôn ngoài những nét cơ bản giống ở váy,
khăn đội đầu, dây thắt lưng nó còn có một số chi tiết khác nhau mà dễ nhận thấy
nhất là: trang phục tu sĩ Hồi giáo Bà Ni có may ghép hoa văn 4 cánh hình cung
nhọn ở trước ngực, còn áo tu sĩ Bàlamôn không có hoa văn. Tu sĩ Pô Char Hồi
giáo có đeo chùm khăn dài trước tượng trưng cho dương vật và tu sĩ Bàlamôn thì
trước ngực có đeo cái túi nhỏ tượng trưng âm vật. Có thể nói trang phục của tu
sĩ Hồi giáo Bà Ni là nữa phần của trang phục tu sĩ Chăm Bàlamôn và ngược lại.
Và ngay trong bản thân trang phục của tu sĩ cũng có hai phần: Phần âm và phần
dương. Trang phục của tu sĩ Hồi giáo Bà Ni là tượng trưng cho nữ, nhưng trước
ngực lại có đeo chùm vải đỏ hình dương vật và đầu không để tóc tượng trưng cho
nam. Còn ngược lại, trang phục tu sĩ Chăm Bàlamôn là tượng trưng cho nam, nhưng
ở phía sau lại đeo túi hình âm vật và đầu búi tóc tượng trưng cho nữ. Điều này
biểu hiện yếu tố lưỡng nghi trong trang phục Chăm là: trong âm có dương và
trong dương có âm. Giữa Chăm Bàlamôn và Chăm Hồi giáo Bà Ni vừa là âm, vừa là
dương, hội nhập chuyển hoá lẫn nhau. Vì vậy giữa Chăm Hồi giáo Bà Ni và Chăm
Bàlamôn tuy hai nhưng vẫn là một.
Trang phục chức sắc tín ngưỡng Chăm:
Y phục
Ong Kadhar (thầy kéo đàn Kanhi):
Thầy Kadhar là thầy kéo đàn kanhi (đàn dây giống
như đàn nhị) hát những bài thánh ca để cúng lễ ở các đền tháp và lễ nghi tín
ngưỡng khác của người Chăm như lễ cúng ruộng, lễ nhập kút... của người Chăm. Thầy
kadhar có sắc phục tương tự như cả sư Chăm Bàlamôn. Thầy kadhar mặc áo dài trắng,
mặc váy trắng viền hoa văn rồng, đầu đội khăn có tua đỏ, vai vắt khăn đỏ và đeo
túi.
Trang phục On-Ka-In (thầy bóng)
Ong ka in là thầy cúng tín ngưỡng dân gian
Chăm, thường múa phục vụ trong lễ cúng đầu năm Chăm... Trang phục ong ka in
cũng tương tự như trang phục đàn ông bình dân Chăm là mặc áo “aw lah”, mặc khăn
không có cạp váy và dây thắt lưng bằng vải trắng thô không có hoa văn, chỉ khác
ở chỗ là ong ka in đội loại khăn có tua đỏ. Loại khăn đội giống chức sắc tu sĩ
tôn giáo Bàlamôn và Hồi giáo.
Trang phục muk Pajau (bà bóng):
Muk pajau là thường
đi đôi với ông Kadhar chuyên phục vụ lễ nghi tín ngưỡng Chăm. Muk pajau mặc loại
“aw sah kamey” tương tự như áo Kadhar như áo Pajau chỉ mặc ngắn đến đầu gối. Áo
được may bằng loại vải thô màu trắng có xẻ một đường dài tư dưới nách phải dọc
xuống theo thân áo và một đường xẻ khác nằm xiên chồng lên phần thân áo trước
ngực tiếp giáp với phần cổ áo, tạo cho cổ áo thành hình trái tim. Khi mặc áo,
đường xẻ được kết dính lại với nhau bằng dây vải buột chặt dưới nách và hông.
Mu pajau còn thường mặc áo dài phụ nữ Chăm trong nghi lễ nhưng áo đó phải là màu
trắng, hoặc mặc váy trắng có cạp váy dệt hoa văn ở hai đầu váy gọi là “Biyor”,
đầu đội khăn màu trắng có viền hoa văn gọi là khăn “khan puah” và hai bên tai
có đeo hoa tai có đính tua vải màu đỏ gọi là “bruei”.
Trang phục On Mưduôn (thầy
vỗ trống Paranưng):
Ong Mưduôn thầy vỗ trống Paranưng hát bài thánh ca và điều
khiển lễ Rija (lễ múa) của người Chăm. Ong Mưduôn có sắc phục riêng. Mưduôn mặc
áo dài màu trắng, cổ con, có xẻ vạy dọc từ dưới
nách bên phải chạy đến phần chân người mặc. Từ nách áo bên phải lại xẻ một đường
xiên ở ngực đến chính giữa cổ áo. Những đường xẻ này khi mặc áo vào được kết
dính lại bằng hàng nút kết dính. Mưduôn mặc loại váy thường và buộc dây lưng
như đàn ông Chăm bình dân. Khăn đội đầu là loại khăn trắng, có tua màu đỏ tương
tự như khăn các tu sĩ Chăm và một loại nữa là khăn trắng tua trắng gọi là khăn
“siep kabuak”.
Trang phục muk Rija (vũ sư):
Mu Rija là thường đi đôi với Ong
Mưduôn chuyên phục vụ lễ múa người Chăm gọi là lễ Rija. Mu Rija mặc loại “aw
tuak patih” được may bằng loại vải màu trắng tương tự như áo dài truyền thống của
phụ nữ Chăm. Muk Rija mặc váy “ khan mbar jih”. Đây là loại váy màu đen, có cạp
váy dệt hoa văn viền ở xung quanh bìa váy, đầu đội khăn màu trắng, không có hoa
văn và hai bên có đeo hoa tai có đính tua màu đỏ. Trang phục chức sắc tín ngưỡng
Chăm, ngoài ông kadhar, On Mưduôn, thầy Ka in, Muk pajau, Muk Rija... thì còn
có trang phục của thầy cúng (Gru tiap bhut, tiap kalơn) và trang phục của Muk
buh (bà đơm cơm phục vụ lễ). Tuy nhiên trang của thầy cúng là giống như trang
phục của đàn ông bình dân Chăm, nhưng chỉ khác là trang phục thầy cúng mặc màu
trắng không được mặc áo màu. Tương tự như vậy trang phục của Muk buk cũng giống
như Muk Payau bà bóng không khác nhau mấy, cũng là mặc áo Sah kamey hoặc áo dài
Chăm màu trắng, mặc áo váy có cạp hoa văn Biyon, đội khăn tuak. Chỉ có Muk Buk
đạo Hồi giáo Bà Ni thì trang phục giống như trang phục của phụ nữ bình dân Chăm
nhưng chỉ được mặc một màu trắng và đội khăn “mbram” giống như phụ nữ Hồi giáo
Bà Ni.
Các bộ phận khác của trang phục:
Trang sức:
Cùng với y phục, người Chăm
kể cả đàn ông, đàn bà; giai cấp quý tộc, tầng lớp bình dân: Chức sắc tôn giáo,
tín ngưỡng đều sử dụng đồ trang sức. Ngày xưa, đàn bà, đàn ông Chăm đều để tóc
dài búi tóc. Ngày nay, đàn ông Chăm chỉ có tu sĩ Bàlamôn và vị chức sắc tín ngưỡng
dân gian thì để tóc dài còn đàn ông bình thường thì cắt tóc ngắn. Tu sĩ Hồi
giáo Bà Ni thì không để tóc. Khi để tóc dài thì các cụ già thường hay búi tóc
và dùng dây vải để cột tóc và đội khăn. Còn phụ nữ trẻ thường búi tóc và dùng
trâm cài.
Người phụ nữ Chăm thường đeo hoa tai có đính tua vải màu đỏ hình nấm,
hình tròn, hình vành khăn làm bằng vàng, đồng thau và có đính tua vải đỏ; cổ có
đeo xâu chuỗi hột tròn hình bầu dục làm bằng vàng hoặc đồng thau, mặt nhẫn có
đính hột đen được bao quanh bằng hoa 4 cánh. Người đàn ông Chăm thì dùng trang
sức đơn giản hơn, họ chỉ đeo đơn giản chiếc nhẫn tròn, mặt nhẫn có đính hột đen
và được bao quanh bằng hình hoa 8 cánh mà họ thường gọi là chiếc nhẫn Mưta. Chiếc
nhẫn Mưta chính là biểu trưng là dấu hiệu để nhận biết đồng tộc Chăm. Vì vậy
khi người Chăm chết đi, ngoài trừ y phục, họ còn mang theo chiếc nhẫn Mưta. Họ
còn dùng chiếc nhẫn Mưta để thực hiện nghi lễ quan trọng trong đám tang để tiễn
đưa linh hồn cho người chết về giới khác.
Đồ mang (guốc, dép):
Ngoài trang sức,
người Chăm còn sử dụng guốc dép để mang. Theo tư liệu cổ ghi lại, ngay từ thời
xa xưa vua chúa Chăm đã biết đi giầy, mang dép, bằng gỗ da. Cách đây không lâu,
các cụ già Chăm vẫn thường mang guốc gỗ, da làm bằng vải hoặc da trâu để mang.
Nhưng đó chỉ là một số, còn hầu hết người dân Chăm kể cả đàn ông, đàn bà đều đi
chân đất. Ngày nay cũng giống như các dân tộc
khác, người Chăm thường mang giầy dép công nghiệp.
Trang phục Chăm trong sinh
hoạt lễ hội:
Những bộ trang phục vừa liệt kê, mô tả trên là những bộ trang phục
cơ bản thường gặp trong đời sống bình thường và đời sống tôn giáo tín ngưỡng
Chăm. Tuy nhiên, trang phục Chăm không phải lúc nào cũng thế mà tùy nơi, tùy lúc họ còn mặc những kiểu trang phục khác nhau nhưng không khác xa với nét
trang phục truyền thống.
Trang phục lao động: trong điều kiện lao động trên ruộng
nước, đất rẫy khô, người đàn ông, đàn bà Chăm vẫn mặc trang phục truyền thống của
mình. Người đàn ông Chăm khi làm ruộng nước thì hay mặc quần ngắn hai ống tới đầu
gối, không mặc váy. Họ không mặc trang phục màu trắng trong lao động mà chủ yếu
là sử dụng vải màu, loại vải cũ trơn, không có thêu hoa văn.
- Trang phục trong
tang lễ: Trong tang lễ, cũng như trang phục liệm cho người chết, người Chăm thường
sử dụng màu trắng. Trang phục đem theo cho người chết thường được phân chia
theo tuổi tác và giai cấp. Nếu người chết thuộc giai cấp quý tộc khi chết đi
thì được làm đám tang “4 thầy paseh” thì quần áo được đem theo là 5 bộ hay 9 bộ.
Nếu người chết thuộc tầng lớp bình dân thì chỉ được cử hành đám tang “2 thầy
paseh” thì quần áo đem theo là 4 bộ. Mỗi bộ quần áo Chăm được quy định theo
trang phục đàn ông và đàn bà. Một bộ trang phục đàn bà bao gồm: khăn đắp màu âm
và khăn đắp màu dương: loại khăn khác mang màu âm và khăn đắp mang màu dương,
khăn đội, áo dài Chăm, áo sah kamay; váy, khăn mặc có may cạp váy biyon: dây quấn
người chết. Còn bộ trang phục cho đàn ông khi chết là áo sah likey: váy, chăn mặc
là loại chăn “khan bar jih” hoặc “khan marang”; khăn đội đầu người chết đàn ông
là khăn có may cạp vải đính tua đỏ hoặc loại khăn thường, dây thắt lưng và dây
quấn người chết.
Trang phục trong ngày cưới: Trong ngày cưới kể cả cô dâu chú rể
đều mặc trang phục truyền thống trong nghi lễ. Nữ mặc áo dài, mặc váy đội khăn.
Nam cũng vậy, mặc váy áo lah đàn ông, đội khăn che mặt. Áo váy cưới có dệt hoa
văn đẹp. Áo cưới có nhiều màu khác nhau như trắng, xanh, đỏ, vàng... nhưng
trong nghi lễ phải mặc áo trắng. Trong ngày cưới, cô dâu chú rể đeo nhiều đồ
trang sức như nhẫn, vòng tay, xâu chuỗi.
Trang phục trong ngày hội: So như ngày
cưới, trong ngày hội thì trang phục Chăm đa dạng và lộng lẫy hơn. Ngoài trang
phục chức sắc, tu sĩ tín ngưỡng, tôn giáo với màu áo trắng khăn đỏ truyền thống
không được thay đổi thì các chàng trai, cô gái Chăm lại mặc áo truyền thống với
nhiều màu sặc sỡ, tinh nguyên (màu trắng, đỏ, xanh, vàng...) Trong ngày hội để
tăng thêm nét đẹp cho bộ đồ truyền thống của mình, những thiếu nữ Chăm ngoài
đeo hoa tai có đính tua vải màu đỏ, đeo nhiều còng tay, nhẫn vàng, họ còn
choàng lên vai, vắt chéo qua ngang ngực và lưng một dãi băng ngang, trên đó có
dệt hoa văn đẹp mắt góp phần tăng thêm vẻ đẹp độc đáo của áo dài Chăm. Ngày hội
chính nơi hội tụ, là dịp để cho người Chăm phô ra tất cả những kiểu dáng và màu
sắc của trang phục. Trang phục Chăm đến lượt mình cùng với nghệ thuật khác góp
phần tô thêm cho ngày hội Chăm một sắc màu độc đáo, có bản sắc riêng.
Tóm lại:
Ngày nay trang phục Chăm có nhiều biến đổi, trang phục truyền thống của vua
chúa Chăm, giai cấp quý tộc đã biến mất, chỉ còn một số ít được sử dụng trong
các lễ tục cúng tế nhưng nó đã lai căng nhiều kiểu trang phục của vua chúa
phong kiến Trung Hoa và Việt Nam.
Ngày nay
trang phục truyền thống của người Chăm chỉ còn sử dụng ở các cụ già và các vị
chức sắc tôn giáo, tín ngưỡng. Trang phục giới trẻ người Chăm hiện nay đang hướng
dần ảnh hưởng trang phục phương Tây. Thanh niên Chăm thường mặc quần tây, áo sơ
mi: ngoài phần lớn phụ nữ Chăm còn giữ được trang phục truyền thống còn lại một
số phụ nữ trẻ Chăm đã bắt đầu thay dần cái váy bằng cái quần tây, quần jean và
áo sơ mi. Họ chỉ sử dụng trang phục truyền thống trong các dịp lễ hội.
Trang phục
truyền thống Chăm đa dạng trong sắc thái biểu hiện. Nó đã trải qua nhiều thời đại
lịch sử khác nhau, cùng ảnh hưởng nhiều yếu tố văn hóa khác nhau. Cho đến nay,
mặc dù có nhiều sự biến đổi, lai căng và có nhiều sự tác động, ảnh hưởng từ yếu
tố bên ngoài nhưng trang phục Chăm vẫn còn lưu giữ một phong cách riêng, phong
cách ấy đã góp phần quan trọng hình thành nên bản sắc văn hoá Chăm mà không lẫn
lộn được với các dân tộc khác.
Đặc trưng của trang phục Chăm:
Trang phục Chăm rất
phong phú đa dạng, mà ở đây không thể giới thiệu một cách đầy đủ. Tuy nhiên,
qua một vài trang phục tiêu biểu của người Chăm đã trình bày trên cho thấy,
trang phục Chăm phong phú về kiểu dáng, hoa văn, màu sắc. Trang phục Chăm mang
những đặc trưng như sau:
Trang phục Chăm chủ yếu là dùng chất liệu sẵn có trong
thiên nhiên như bông, tơ tằm... dùng để dệt vải hầu như không dùng nguyên liệu
từ da, lông của súc vật. Những nguyên liệu vừa sẵn có vừa nhẹ, mỏng mặc thoáng.
Phù hợp với khí hậu nóng ẩm ở miền Trung Việt Nam. Trong cách may cắt quần áo,
thường là may áo xẻ ngực, không có cổ, váy áo may rộng, không bó sát người. Về
loại hình y phục, các kiểu may, mặc của người Chăm cũng theo lối quấn, choàng
là phổ biến hơn cả. Đó là cái váy mảnh, sà rông, tấm choàng, tấm trùm... thực
chất đó là những mảnh vải có kích thước khác nhau, khi mặc có chung một cách là
choàng, quấn quanh cơ thể, kể cả áo dài Chăm thực chất cũng là tấm vải may quay
tròn thành hình ống bao quanh cơ thể con người. Kỹ thuật may mặc này không chỉ
riêng có ở người Chăm mà nó còn phổ biến ở các cư dân ở vùng phía Nam Trường
Sơn Tây Nguyên nước ta và mang cả đặc trưng chung của loại hình cư dân nông
nghiệp làm nghề trồng trọt trong vùng nhiệt đới gió mùa Châu Á.
Đặc trưng trang
phục truyền thống Chăm mà chúng ta dễ nhận thấy nhất là loại áo bít tà, kéo dài
quá đầu gối, khoét cổ tròn, hình trái tim, được lắp ghép bằng nhiều mảnh vải
mang nhiều màu sắc khác nhau. Do có đặc điểm như vậy nên người Chăm gọi áo dài
truyền thống của họ là “Kuak kuang” (áo may ghép nhiều mảnh vải), hay “Aw dwa
boong” (áo may ghép hai mảnh vải nhỏ ở eo hông) hoặc gọi là “Aw loah” (áo 3 lỗ
mặc chui đầu). Loại áo này của người Chăm vừa có nét riêng, vừa có nét chung gần
gũi với áo dài truyền thống của cư dân Nam Đảo như Êđê, Churu, Jarai, Raglai và
các dân tộc người Mã Lai... mà các nhà nghiên cứu thường gọi chung kiểu áo này
là áo “Phôncho”.
Đặc trưng của trang phục Chăm là không trang trí hoa văn trên
nền vải áo. Hoa văn trên trang phục Chăm chủ yếu là được trang trí từng mảnh vải
rồi may ghép vào các bộ phận của trang phục như loại cạp váy, dây thắt lưng. Loại
này dùng để may dính vào cạp váy, vào khăn trùm đầu, khăn mặt, chỉ có váy phụ nữ
Chăm, hoa văn được trang trí cả trên cạp váy và trên nền vải. Hoa văn trên
trang phục Chăm chủ yếu là hoa văn quả trám, hột đậu ván, hạt lúa nổ, mắt gà, hoa văn neo thuyền, hoa văn mắc lưới, hoa văn
nưgarit, Makala...
Trang phục Chăm có màu sắc phong phú. Trong trang trí người
Chăm không pha trộn bất cứ màu nào khác với nhau nhưng họ có nghệ thuật phối
màu riêng trên nền vải. Vì vậy màu thổ cẩm, cũng như màu trang phục Chăm, mặc
dù sử dụng màu nguyên nhưng không chói chang như các màu áo dân tộc Tây Nguyên
và một số dân tộc phía Bắc nước ta, màu sắc Chăm vừa hài hoà, vừa sâu lắng.
Trang phục Chăm, chủ yếu là áo mặc thường ngày cũng như trong lễ hội họ thường
mặc áo với gam màu nóng như màu đỏ, xanh, vàng... Còn trang phục của các chức sắc
tôn giáo, thầy cúng, các cụ già thường là mặc áo trắng. Màu trắng còn tham gia
vào trong tang lễ, kể cả trang phục người bị tang và đồ liệm cho người chết đều
có mặc màu trắng. Nếu so sánh với màu khác tỷ lệ sử dụng trang phục màu trắng của
người Chăm trong tôn giáo, tín ngưỡng, nghi lễ hội hè, đám tang... có yếu tố trội
hơn. Điều đó cho thấy người Chăm là dân tộc thuộc ngữ hệ Malayo-polinesien có
nguồn gốc từ biển cả “màu trắng” nền trắng lại liên quan đến biển, trong chừng
mực con người sống ở đấy phải đối phó, trong lao động hằng ngày, với nắng gắt
trên cát, và khi cần thiết phải lẫn vào nền sáng của cát và sóng biển.
Màu sắc
của trang phục Chăm, ngoài mục đích trang trí để diễn đạt cái đẹp của thiên
nhiên, con người, thì màu sắc trên trang phục của người Chăm còn thể hiện tính
phồn thực. Sự phồn thực ấy chính là hai mảng màu đối lập, trái ngược nhau giữa
màu lạnh và màu nóng. Trang phục Chăm không chỉ có nhu cầu để cho đẹp mà nó gắn
liền với tín ngưỡng, những điều kiêng cữ và cấm kỵ. Ngoài việc cúng tổ vị tổ sư
nghề dệt vải người Chăm còn có một số kiêng kỵ trong nghề dệt vải may mặc. Khi
dệt “taley ssang”(dây buột liệm người chết), thì kiêng kỵ người đàn bà có kinh
hoặc đang trong tuổi sinh đẻ không được dệt mà chỉ có thiếu nữ và phụ nữ lớn tuổi
qua thời kỳ kinh nguyệt mới được dệt. Họ quan niệm chỉ có phụ nữ như vậy thì mới
được tinh khiết, không ô uế, đem lại sự bình yên thanh thản cho người chết được
siêu thoát nơi chốn thiên đường. Khi dệt các hoa văn phục vụ các chức sắc, tôn
giáo như dalah bingun trun (hoa văn rồng cách điệu), talay ka in mankăm (dây
lưng có dệt hoa văn nổi hai mặt) thì cũng kiêng cữ như trên. Riêng áo của các
chức sắc kiêng kỵ không cho người thường chạm tay vào hoặc may cắt, chỉ có các
chức sắc, tu sĩ và chính vợ ông ấy tự may cắt. Người Chăm có phong tục là thường
may sẵn các loại quần áo chuẩn bị cho người chết để sẵn trong nhà. Loại trang
phục này có nhiều kiêng cữ, không phải ngày nào cũng lấy ra được mà chỉ được lấy
ra khỏi nhà vào ngày thứ bảy, hoặc trong gia đình có dịp cúng lễ. Nếu lấy ra tùy tiện không đúng ngày lành tháng tốt đó là dấu hiệu báo điềm xấu, trong gia đình
sẽ có người chết hoặc của cải trong nhà sẽ ra đi.
Ngoài y phục, phải kể đến
trang sức Chăm. Hầu hết các di chỉ nằm trên địa bàn cư trú người Chăm như văn
hóa Sa Huỳnh đều tìm thấy nhiều đồ trang sức mà phổ biến là khuyên tai, xâu chuỗi,
còng tay và nhẫn... Ngày nay một số đồ trang sức ấy đã biến mất, một số còn lại
không khác xa mấy nhưng đơn giản hơn. Người Chăm ngày nay vẫn còn thích đeo
khuyên tai có đính tua vải màu đỏ, cổ đeo xâu chuỗi, vòng tay và ngón tay đeo
nhẫn, đặc biệt là chiếc nhẫn Mưta đã trở thành biểu tượng mang đặc trưng riêng
của cộng đồng, phản ánh linh hồn và bản sắc của dân tộc Chăm. Như vậy, trang sức
người Chăm hiện nay tuy đơn giản nhưng cùng với y phục, đến lượt mình trang sức
góp phần đáng kể trong việc hình thành trang
phục Chăm phong phú đa dạng.
Là dạng thức văn hóa vật chất, trang phục Chăm
không chỉ là đáp ứng nhu cầu che thân, mặc đẹp và biểu hiện cảm xúc thẩm mỹ, mà
trang phục Chăm còn chứa đựng nhiều yếu tố văn hóa tinh thần và văn hóa xã hội.
Thông qua trang phục của người Chăm, có thể phân biệt tầng lớp xã hội, đẳng cấp
của các chức sắc tôn giáo, phân biệt người giàu sang, kẻ nghèo hèn, đàn ông và
đàn bà. Chẳng hạn, chức sắc tu sĩ mới được mặc váy, trùm khăn bằng loại hoa văn
hình rồng và buộc dây lưng có dệt hoa văn hai mặt, còn tu sĩ bình thường chỉ mặc
váy, khăn không dệt hoa văn. Đàn ông quý tộc thì mặc khăn, dây lưng, khăn trùm
đầu có dệt hoa văn hình quả trám, chân chó, đeo nhẫn vàng... Còn đàn ông bình
dân chỉ mặc váy bình thường, vắt khăn chéo không trang trí hoa văn, đeo nhẫn bằng
đồng. Phụ nữ quý tộc mặc váy dệt hoa văn hình rồng cách điệu, váy của họ có dệt
những sợi chỉ tơ và thêu những sợi chỉ bằng vàng. Còn phụ nữ bình thường thì mặc
váy có hoa văn dây leo, đeo đồ trang sức bằng đồng... Các loại hoa văn và cách
thức thể hiện hoa văn trên trang phục của người Chăm đều theo quy tắc nhất định,
thể hiện được thẩm mỹ, phong tục tập quán, giới tính, tín ngưỡng, tôn giáo
trong xã hội Chăm.
Không chỉ dừng lại ở đó, trang phục Chăm còn hàm chứa trong
đó một số nội dung, giá trị phong phú. Nội dung ấy, ghi nhiều dấu ấn văn hóa trên nhiều bình diện khác nhau. Đó là dấu ấn của người Chăm - chủ nhân của nền
văn hóa sinh sống ở dãy đất miền Trung có khí hậu nóng, ẩm, với địa hình môi
sinh giữa núi, đồng bằng, biển cả. Qua trang phục, từ cách may mặc, cho đến hoa
văn là một bộ phận cấu thành, mang tín hiệu đặc trưng của trang phục cho thấy,
người Chăm sinh sống bằng nghề trồng lúa nước được biểu hiện bằng những hoa văn
trên trang phục như hoa văn quả trám, hoa văn hạt lúa, hoa văn hình dích dắt,
răng cưa tượng trưng cho núi, cho sông nước và nghề đi biển như trang phục màu
trắng có hoa văn mỏ neo, hoa văn mắc lưới. Họ là cư dân nông nghiệp với tín ngưỡng
đa thần, thờ thần mặt trời (hoa văn 8 cánh trên trang phục, chiếc nhẫn Mưta là
hình mặt trời), thần núi, thần sông. Hoa văn trên trang phục còn in dấu ấn chủ
nhân của nền văn hóa này theo tôn giáo Bàlamôn thờ những con vật linh như các
loại chim thần Garuđa, Makala có nguồn gốc Ấn Độ. Chủ nhân của nền văn hóa này
không những đã sớm bước vào một xã hội phân chia giai cấp (qua các trang phục của
các tầng lớp bình dân, quí tộc, vua chúa) mà đã sớm hình thành một đất nước.
Nói chung trang phục Chăm phong phú về kiểu dáng và đa dạng về sắc thái biểu hiện.
Nó không chỉ đáp ứng được nhu cầu thiết yếu của con người (ăn, mặc, ở...), thể
hiện được thẩm mỹ, phong tục tập quán, giới tính, giai cấp, tín ngưỡng, tôn
giáo trong xã hội Chăm mà nó còn in dấu ấn văn hóa, phản ánh đầy đủ về sắc
thái, diện mạo một nền văn hóa Chăm. Trang phục Chăm chính là kho tàng tư liệu
phong phú, kho tàng ấy không chỉ dừng lại ở giá trị vật chất đơn thuần mà nó
còn mang một giá trị văn hóa, lịch sử, nghệ thuật... của người Chăm-một dân tộc
đã có một thời phát triển rực rỡ ở khu vực Đông Nam Á.
Nguồn: vietnamtourism.edu.vn/
GIỚI THIỆU TÁC PHẨM:
NGHỀ DỆT CỔ TRUYỀN CỦA NGƯỜI CHĂM
Người Chăm là một dân tộc thiểu số trong khối
cộng đồng dân tộc Việt Nam, có một kho tàng văn hóa đồ sộ và đặc sắc. Kho tàng ấy
không những chỉ có những đền tháp lộng lẫy, nguy nga, đứng sừng sững trên những
đồi cao suốt dọc dải đất miền Trung mà còn có một di sản nghệ thuật múa hát, lễ
hội và nghề thủ công truyền thống độc đáo như nghề gốm và nghề dệt vải. Hiện
nay, người Chăm ở Ninh Thuận vẫn còn bảo lưu nghề dệt cổ truyền có hàng ngàn
năm lịch sử, gắn liền với thời kỳ hưng thịnh của nền kinh tế Chămpa một thời
phát triển rực rỡ ở vùng Đông Nam Á.
Xin giới thiệu đến các bạn cuốn sách: “Nghề
dệt cổ truyền của người Chăm” của tác giả Sakaya, do nhà xuất bản Văn hóa Dân tộc
phát hành năm 2003. Sách dày 236 trang, khổ sách 13x19cm.
Nội dung cuốn sách
“Nghề dệt cổ truyền của người Chăm” được trình bày thành ba phần chính như sau:
Phần thứ nhất: Làng dệt người Chăm Mỹ Nghiệp. Phần này giới thiệu tên gọi, địa
danh; điều kiện tự nhiên - xã hội và lịch sử hình thành của làng dệt Mỹ Nghiệp.
Làng Mỹ Nghiệp cũng như bao làng Chăm khác có tên gọi chính thức trong giấy tờ
hành chính bắt đầu từ thời Minh Mạng. Từ đó đến nay, làng Mỹ Nghiệp có nhiều biến
đổi trong việc phân chia trực thuộc địa giới hành chính, có lúc thuộc phủ, đạo,
huyện, thị trấn…
Từ thời Minh Mạng đến năm
1954 thì thôn Mỹ Nghiệp có lúc thuộc phủ Bình Thuận, phủ Ninh Thuận, đạo Phan
Rang… Từ năm 1954 - 1975, thời Mỹ Ngụy thì thôn Mỹ Nghiệp lại thuộc xã Phước Hải,
quận An Phước, tỉnh Ninh Thuận. Sau khi thống nhất đất nước năm 1975 theo chủ
trương của Đảng - Nhà nước vào năm 1976 hai tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận sáp
nhập vào thành tỉnh Thuận Hải thì Mỹ Nghiệp vẫn giữ nguyên tên gọi hành chính
là thôn Mỹ Nghiệp, xã Phước Hải nhưng lại thuộc huyện An Sơn. Đến năm 1992 tỉnh
Thuận Hải lại được chia tách thành hai tỉnh như cũ là Ninh Thuận và Bình Thuận.
Từ đó đến năm 2002 địa danh hành chính thôn Mỹ Nghiệp được đổi thành “Khu phố
11” thị trấn Phước Dân, huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận. Điều kiện tự nhiên
và xã hội của làng dệt Mỹ Nghiệp rất khó khăn trong việc phát triển nông nghiệp.
Đất đai ở đây khô cằn, bạc màu, khí hậu khô nóng, không thuận lợi cho việc phát
triển cây lúa nhưng rất thuận lợi cho việc trồng bông dệt vải. Hoạt động kinh tế
của làng Chăm Mỹ Nghiệp chủ yếu làm nghề nông và nghề dệt vải. Quy trình dệt vải
Chăm Mỹ Nghiệp bắt đầu từ khâu kéo sợi, quay tơ đến dệt vải đều do phụ nữ làm
là chính. Nghề nông do đàn ông đảm nhiệm.
Hiện nay làng dệt Mỹ Nghiệp vẫn còn bảo
lưu được những giá trị văn hóa, không chỉ giữ nguyên vẹn cấu trúc của một làng
nghề, từ hình thái xã hội, quan hệ tộc người, tổ chức lao động sản xuất, hoạt động
kinh tế, trao đổi sản phẩm cho đến tôn giáo, tín ngưỡng… đều mang đậm nét cơ chế
của xã hội mẫu quyền gắn với nghề thủ công truyền thống xa xưa. Trong gia đình
người Chăm, đàn bà đóng vai trò quan trọng, làm chủ thể gia đình và họ tộc.
Làng Chăm Mỹ Nghiệp là một trong những làng Chăm theo Bàlamôn giáo. Người Chăm
Mỹ Nghiệp có một hệ thống nghi lễ và tục thờ cúng phong phú, đa dạng.
Phần thứ
hai: Nghề dệt người Chăm Mỹ Nghiệp. Phần này giới thiệu về nghề dệt Chăm trong
quá khứ lịch sử và hiện nay. Mô tả chi tiết về các loại khung dệt, qui trình dệt
vải, từ trồng bông, kéo sợi, nhuộm màu, dệt vải, váy, áo cho đến bố cục, đường
nét và màu sắc trong nghệ thuật trang trí hoa văn. Ngoài ra còn trình bày cách
tổ chức sản xuất và những nghi lễ, kiêng kị trong nghề dệt vải Chăm.
Người Chăm
có một nền thủ công truyền thống rất phong phú như nghề làm gạch, xây tháp, nghề
đóng thuyền, đóng xe trâu, làm gốm và dệt vải… Tuy nhiên trong quá trình biến đổi
lịch sử thì một số nghề thủ công của người Chăm đã thất truyền. Hiện nay chỉ
còn lưu giữ được một số nghề tiêu biểu như nghề gốm và nghề dệt. Nghề dệt cổ
truyền của người Chăm Mỹ Nghiệp là một trong những nghề thủ công truyền thống
còn tồn tại đến ngày nay trong di sản văn hoá của người Chăm Ninh Thuận.
Làng dệt Mỹ Nghiệp là làng dệt truyền thống nổi tiếng từ lâu
đời. Ở làng này, những kỹ năng, kỹ xảo của nghề dệt được trao truyền cho nhau “
mẹ truyền con nối” từ thế hệ này đến thế hệ khác. Hoa văn thổ cẩm Chăm chứa nhiều
yếu tố nghệ thuật trong kho tàng văn hóa Chăm. Những nét cơ bản của hoa văn đám
tang, trên gốm Chăm, trên những bệ thờ, đền
tháp đều có những mô típ, đường nét tương đồng với hoa văn trên vải Chăm. Có thể
nói thổ cẩm Chăm là nơi hội tụ những đường nét, gam màu, hình khối, cả về nghệ
thuật dân gian và bác học trong kho tàng nghệ thuật Chăm muôn màu, muôn vẻ. Nghề
dệt Chăm từ khung dệt, đến sản phẩm dệt, môtíp hoa văn và nghệ thuật trang trí,
người Chăm mặc dù có phong cách riêng của mình nhưng vẫn mang nét chung của nghề
dệt cổ truyền Đông Nam Á. Đặc trưng chung ấy chính là kết quả của một quá trình
truyền bá, tiếp thu kiến thức nghề nghiệp, quá trình giao lưu, trao đổi kinh tế
- văn hóa giữa người Chăm và các tộc người khác ở nước ta và Đông Nam Á. Sản phẩm
dệt không chỉ phục vụ cho đời sống phong tục người Chăm mà còn có cả cho các
dân tộc khác như Eđê, Churu, Kơho, Raglai… Ngày nay, sản phẩm dệt của người Chăm
được du khách ưa chuộng trên thị trường du lịch ở các nước. Vì vậy, hiện nay
nghề dệt đang trở thành nguồn lợi kinh tế quan trọng đối với người Chăm ở Mỹ
Nghiệp, tỉnh Ninh Thuận.
Phần thứ ba: Nhận xét, so sánh, kiến nghị và giải
pháp. Căn cứ trên những cứ liệu khoa học ở các phần nêu trên, phần này đưa ra
nhận xét chung về nghề dệt cổ truyền của người Chăm Mỹ Nghiệp. Qua đó, còn so
sánh nghề dệt Chăm với nghề dệt của một số dân tộc khác ở nước ta và khu vực
Đông Nam Á.
Cuốn sách còn đưa ra những giải pháp, kiến nghị cho nghề dệt người
Chăm Mỹ Nghiệp trong cơ chế thị trường, cũng như trong sự nghiệp bảo tồn di sản
văn hóa dân tộc ngày nay.
Mặc dù trải qua nhiều biến thiên của lịch sử, người
Chăm vẫn còn bảo lưu được nghề dệt cổ truyền của riêng mình. Nghề dệt ấy mặc dù
là tiêu biểu cho trình độ sản xuất cổ xưa nhưng đến nay vẫn còn nguyên giá trị.
Nghề dệt Chăm đã và đang góp phần đáng kể trong việc tăng trưởng kinh tế, nâng
cao đời sống hàng ngày và làm phong phú thêm bản sắc văn hóa Chăm.
Cuốn sách “Nghề dệt cổ truyền của người Chăm” giới thiệu đến các bạn một bức tranh chung
nhất về làng nghề, một di sản văn hóa quý giá của người Chăm trong kho tàng văn
hóa của đại gia đình các dân tộc Việt Nam phong phú, đa dạng và đặc sắc. Là một
dạng văn hóa vật chất, một bộ phận cấu thành nền văn minh Chămpa, nghề dệt Chăm
không chỉ là một nhu cầu thiết yếu để phục vụ cuộc sống như ăn, ở, mặc… mà nó
còn gắn với nhu cầu thẩm mỹ, phong tục tập quán, tôn giáo, tín ngưỡng. Nghề dệt
Chăm với sản phẩm đa dạng, còn tạo nên y phục Chăm, một y phục có sắc thái
riêng góp phần quan trọng trong việc hình thành nên một bản sắc văn hóa Chăm mà
không lẫn lộn được với dân tộc khác.
Nguyễn Thị Hòa - Thư viện tỉnh Ninh Thuận.
ĐẾN THÁP CHĂMPA BÍ ẨN XÂY DỰNGTrong kho tàng
di sản kiến trúc của dân tộc, nghệ thuật kiến trúc Chămpa có vị trí đặc biệt
quan trọng. Gần 900 năm từ cuối thế kỷ thứ VII đến nửa đầu thế kỷ XVII, bằng sự
lao động không mệt mỏi và tài năng sáng tạo tuyệt vời, người Chăm đã xây dựng
nên một nền kiến trúc điêu khắc độc đáo với hàng trăm đền tháp trải dài suốt từ
miền Trung đầy nắng và gió, đến vùng đất phía Nam trù phú của Tổ quốc. Trải bao
thăng trầm của lịch sử và thiên tai khắc nghiệt, ngày nay số lượng đền tháp
Chămpa còn lại không nhiều, lại trong tình trạng hư hỏng, xuống cấp nghiêm trọng,
nhưng đó là những di sản kiến trúc vô giá không chỉ của quốc gia mà còn của
nhân loại, là nhân chứng về một nền văn hóa Chămpa cổ rực rỡ, rất cần được giữ
gìn, tôn tạo và bảo tồn.
Khám phá nghệ thuật xây dựng đền tháp Chămpa là vấn đề
hấp dẫn được người Pháp tìm tòi từ những năm đầu thế kỷ thứ XX cho đến các nhà
khoa học Việt Nam hôm nay.
Xin trân trọng giới thiệu đến các bạn cuốn sách: “Đền
tháp Chămpa - Bí ẩn xây dựng” do nhà xuất bản Xây dựng phát hành năm 2007. Sách
dày 334 trang. Khổ sách 11x20cm.
Cuốn sách “ Đền tháp Chămpa - Bí ẩn xây dựng”
là kết quả của đề tài khoa học được nghiên cứu công phu do Viện Khoa học - Công
nghệ Xây dựng - Bộ Xây dựng chủ trì, với sự tham gia của một tập thể gồm các
nhà khoa học có uy tín trong các lĩnh vực: Kiến trúc, Xây dựng, Lịch sử, Khảo cổ,
Mỹ thuật. Đề tài không chỉ dừng lại ở việc giới thiệu lịch sử, kiến trúc
Chămpa, đánh giá hiện trạng của các di tích kiến trúc, mà còn dành nhiều công sức
nghiên cứu kỹ càng về kỹ thuật xây dựng từ việc xử lý nền móng, kỹ thuật kiến
trúc, kỹ thuật điêu khắc, lực liên kết, cường độ chịu nén, khả năng chịu lực của
khối xây tháp đến việc sử dụng các phương pháp khoa học, công nghệ hiện đại để
xác định thành phần pha và thành phần khoáng của gạch, của chất kết dính giữa
các viên gạch, nhằm đưa tới cho các bạn những khám phá khoa học mới về kỹ thuật
xây dựng các đền tháp Chămpa, một kỹ thuật rất đặc biệt đã bị thất truyền.
Sách
gồm 5 chương:
Chương 1: Lược sử, khảo cổ, kiến trúc Chămpa
Chương 2: Thực trạng
các di tích, phế tích kiến trúc đền tháp Chămpa Chương 3: Kỹ thuật xây dựng các
đền tháp Chămpa
Chương 4: Phục chế khối xây mài chập đền tháp Chămpa
Chương 5:
Định hướng bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị các đền tháp Chămpa
Kế thừa các
thành tựu nghiên cứu đã có, kể từ khi nước nhà được thống nhất, các di tích văn
hóa của dân tộc Chăm đã được nhà nước quan tâm nghiên cứu nhiều hơn và hầu hết các di tích kiến trúc đền tháp Chămpa hiện
còn đều đã được Nhà nước ta công nhận xếp hạng di tích lịch sử - kiến trúc -
nghệ thuật.
Các nghiên cứu mới chủ yếu tập trung vào kiến trúc, nghệ thuật, lịch
sử, khảo cổ và cũng chỉ bước đầu, những vấn đề phân tích khoa học công nghệ về
nền móng, vật liệu, kỹ thuật xây dựng, kỹ thuật điêu khắc có đặt ra, song chưa
thể tập trung đi sâu nhằm giải đáp dứt điểm những vấn đề còn được coi là bí ẩn,
để trên cơ sở đó có thể đưa ra các giải pháp tu bổ toàn diện và hữu hiệu. Cuốn
sách: “Đền tháp Chămpa - Bí ẩn xây dựng” đã giới thiệu những kết quả nghiên cứu
về kỹ thuật xây dựng và phát huy giá trị các đền tháp Chămpa. Các đền tháp
Chămpa được xây dựng bằng kỹ thuật xây mài chập có lớp vỏ ngoài, vỏ trong và lớp
ruột. Tháp được xây theo trình tự như sau: lựa chọn vị trí, quy hoạch mặt bằng,
chọn hướng tháp. Sau đó tiến hành các bước như: gia cố nền, xây móng, xây thân
tháp, ngọn tháp và đỉnh tháp. Sau khi xây xong tháp, người ta tiến hành điêu khắc
trên bề mặt gạch của tháp. Các chi tiết điêu khắc trang trí bằng sa thạch hoặc
đất nung được chuẩn bị trước rồi lắp đặt vào vị trí dự kiến trong quá trình xây
tháp.
Kỹ thuật xây vòm giả hai phương tạo ra các vòm cửa trên thân tháp có chiều
cao lớn hơn chiều ngang vòm tháp. Với sự phát triển kỹ thuật này thành kỹ thuật
xây vòm giả ba phương, có thể tạo nên ba kiểu ngọn tháp khác nhau. Hay nói cách
khác kiến trúc tháp là biểu hiện bên ngoài của kết cấu khối xây các vòm giả. Với
kỹ thuật vòm giả có thể làm triệt tiêu lực đẩy ngang ở chân vòm, làm ổn định
các vòm cửa, nóc tháp. Đồng thời với kỹ thuật này, tải trọng của tháp được phân
tải đều lên toàn bộ tường tháp và móng tháp, làm cho tháp có khả năng chịu lực
cao, cùng với kỹ thuật xây mài chập làm cho tháp có tuổi thọ cao.
Vật liệu xây
tháp chủ yếu là gạch đất sét nung, được chế tạo theo công nghệ riêng biệt, có độ
xốp lớn, độ dẻo dai cao, cho phép gia công bằng cách cưa, cắt, mài, đục, chạm.
Chất kết dính được sử dụng trong xây dựng tháp là nhớt cây có thể tan trong nước
như nhớt Ô dước, Bời lời. Các loại nhớt này giúp cho khối xây có cường độ ban đầu
cũng như sự phát triển cường độ về lâu dài, đảm bảo cho khối xây có khả năng chịu
kéo và nhất là khả năng chịu nén.
Điêu khắc các chi tiết được thực hiện trực tiếp
trên mặt khối xây của tháp. Việc thực hiện được tiến hành bởi các nghệ nhân với
các công cụ và thao tác chuyên biệt qua ba công đoạn: tạo hình khối, chạm thô,
chạm tinh. Các chi tiết điêu khắc kiến trúc cũng có thể được chế tạo trước từ
đá sa thạch hoặc đất nung rồi được lắp ghép vào trong quá trình xây tháp.
Đối với
các đền tháp Chămpa, kỹ thuật xây dựng tháp thực chất là sự kết hợp hài hòa, chặt
chẽ của kỹ thuật vật liệu gạch, kỹ thuật chất kết dính, công nghệ xây dựng và kỹ
thuật điêu khắc. Mà biểu hiện vật chất của nó chính là kiến trúc, tỷ lệ kiến
trúc các dạng điêu khắc trang trí. Qua đó nó thể hiện giá trị phi vật thể là nội
dung thờ tự, tâm linh và cao hơn là ý nghĩa triết học của các đền tháp Chămpa.
Hiểu biết về lịch sử, văn hóa, kỹ thuật xây dựng các đền tháp Chămpa là điều kiện
tiên quyết để bảo tồn trùng tu và phát huy giá trị di tích một cách tốt nhất.
Cuốn sách: “Đền tháp Chămpa - Bí ẩn xây dựng” sẽ giúp cho những người làm công
tác bảo tồn, trùng tu, quản lý di sản và du lịch văn hóa sẽ rút ra được nhiều
bài học bổ ích mang tính thực tiễn và ứng dụng. Sách có tại thư viện tỉnh Ninh
Thuận, mời các bạn đón đọc.
Nguyễn Thị Hòa. Thư viện tỉnh Ninh Thuận.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét