Thứ Hai, 22 tháng 3, 2021

Trăm năm cô đơn 2

Trăm năm cô đơn 2

CHƯƠNG 7
Chiến tranh kết thúc vào tháng năm. Hai tuần trước khi chính phủ ra thông cáo chính thức và trong một lời tuyên bố huênh hoang, họ đã hứa, sẽ trừng trị không thương tiếc đối với những người cầm đầu cuộc khởi nghĩa. Chính lúc ấy đại tá Aurêlianô Buênđya bị bắt làm tù binh ngay trong lúc chàng đóng giả thày mo Anhđiêng sắp vượt qua được biên giới phía tây đất nước. Trong số hai mươi mốt người theo chàng trong chiến tranh có mười bốn người chết trận, sáu người bị thương và chỉ còn lại độc một người ở bên chàng trong thất bại cuối cùng. Người đó là đại tá Hêrinênđô Mackêt. Qua một sắc lệnh đặc biệt, tin chàng bị bắt được công bố ở làng Macônđô.
"Nó còn sống... - Ucsula báo tin cho chồng mình. "Chúng ta cầu mong rằng kẻ thù của nó có lòng độ lượng". Sau ba ngày khóc lóc một buổi chiều nọ đang khuấy nồi kẹo sữa trên bếp lửa, bà nghe rõ mồn một tiếng con trai mình ngay ở bên tai. "Đó là thằng Aurêlianô", bà gào toáng lên trong lúc chạy ra gốc cây đẻ để báo tin cho chồng: "Tôi không biết điềm báo như thế nào nhưng nó sống và chúng ta được thấy nó ngay thôi mà". Bà cho điềm báo ấy là sự thật. Bà sai lau sàn nhà và xếp đặt lại giường tủ bàn ghế. Một tuần sau, một nguồn tin không xuất xứ, không dựa vào sắc lệnh, đã đau lòng khẳng định điềm báo ấy. Đại tá Aurêlianô Buênđya bị kết án tử hình, và bản án sẽ được thi hành ở làng Macônđô để uy hiếp dân chúng. Vào lúc bảy giờ hai mươi phút sáng một ngày thứ hai nọ, Amaranta đang mặc quần áo cho Aurêlianô Hôsê thì nghe từ xa vẳng đến tiếng ồn ào và một hồi kèn cornêt lanh lảnh rợn người, và sau đó một phút Ucsula đẩy cửa phòng bước vào. "Người ta giải nó về" bà bảo thế. Quân lính cứ phải vất vả dùng báng súng nện vào đám đông lộn xộn. Ucsula và Amaranta chạy tới đầu phố, rẽ đám đông và thế là nhìn thấy Aurêlianô Buênđya. Chàng giống như một gã ăn mày: quần áo rách tả tơi, râu tóc rối bù, đi chân đất, hai tay bị trói giật cánh khuỷu với chiếc thừng cột vào đầu yên con ngựa do viên sĩ quan đang cưỡi. Cùng với chàng, bọn lính còn giải theo đại tá Hêrinênđô Mackêt, cũng lôi thôi rách rưới và thảm hại như chàng. Hai người không hề buồn. Nom họ dường như đang hồi hộp trước công chúng gào thét chửi bới đám lính đồi bại nhất hạng.
- Ối con ơi! - trong khung cảnh ồn ào tiếng gào thét, Ucsula gọi con mình và bà tát vào mặt tên lính định ngăn mình lại.
Con ngựa của viên sĩ quan nhẩy cẫng lên. Lúc này, đại tá Aurêlianô Buênđya mới dừng chân, run rẩy và tránh hai cánh tay mẹ dang ra định ôm mình và dõi vào mắt bà một cái nhìn nghiêm khắc:
- Xin mẹ hãy về nhà đi, - chàng nói. - Mẹ hãy xin phép nhà chức trách mà đến thăm con ở trại giam.
Chàng nhìn Amaranta đang đứng cách chàng hai bước chân ở sau lưng Ucsula, mỉm cười với cô, hỏi: "Tay em làm sao thế kia". Amaranta giơ bàn tay cuốn băng đen lên. "Bị bỏng", cô trả lời và kéo Ucsula về phía sau để khỏi bị ngựa giẫm phải. Bọn lính bắn súng chỉ thiên. Đội quân canh gác đặc nhiệm vây lấy hai tù nhân và phi ngựa kéo họ về trại lính.
Buổi chiều ngày hôm ấy, Ucsula đến trại giam thăm đại tá Aurêlianô Buênđya. Bà đã định thông qua đông Apôlina Môscôtê để xin phép vào thăm nhưng ngài đã bị những quân nhân độc tài tướt hết quyền lực. Cha xứ Nicanô đang bị cơn sốt đau gan đánh gục. Cha mẹ của đại tá Hênnêncô Mackêt, người không bị kết án tử hình, cố tình đến thăm con trai nhưng họ đã bị bọn lính lấy báng súng nện cho rồi đuổi đi. Trước nỗi vô vọng tìm kiếm những người trung gian giúp mình, hơn nữa lại tự nhủ lòng rằng đằng nào con trai mình cũng sẽ bị bắn vào sáng sớm hôm sau, cho nên Ucsula gói một gói đồ dùng định mang cho chàng, rồi một mình bà đi thẳng đến trại lính.
- Tôi là mẹ của đại tá Aurêlianô Buênđya, - bà tự giới thiệu.
Bọn lính gác chặn bà lại. "Muốn thế nào thì thế, tôi cứ vào", Ucsula bảo bọn chúng. "Nếu như các người được lệnh bắn, hãy bắt đầu cùng một thể đi". Bà ẩy một tên lính sang bên, bước vào lớp học cũ nơi một tốp lính để trần đang hì hục lau súng. Một viên sĩ quan mặc quân phục dã chiến, da hồng hào đeo một đôi kính mắt dày như đít chai, cử chỉ khoan thai, đã ra lệnh cho bọn lính gác rút đi.
- Tôi là mẹ của đại tá Aurêlianô Buênđya, - Ucsula nhắc lại.
- Bà muốn nói rằng, - viên sĩ quan, với nụ cười đáng yêu sửa lại bà, - bà là bà mẹ đẻ ra ngài Aurêlianô Buênđya.
Trong cách nói nhỏ nhẹ của viên sĩ quan, Ucsula nhận ra ngữ điệu mềm mại của dân vùng cao nguyên, những người đỏm đáng.
- Thưa ngài, đúng như ngài nói. - Bà thành thực thú nhận. - Ngài sẵn lòng cho tôi vào thăm nó chứ.
Đã có lệnh cấp trên không cho phép bất kỳ một ai đến thăm các tù nhân bị án tử hình. Nhưng viên sĩ quan này đã dám chịu trách nhiệm về việc cho bà vào thăm con trai trong vòng mười lăm phút. Ucsula giở cho viên sĩ quan xem các thứ bà đựng trong gói: một bộ quần áo sạch để thay, đôi ủng con trai bà đi trong ngày làm lễ cưới, và kẹo sữa được để đành ngay từ cái hôm bà nhận điềm báo. Bà gặp đại tá Aurêlianô Buênđya trong phòng giam, nằm dài trên chiếc giường một, dang rộng hai cánh tay vì nách chàng sưng vù lên. Người ta đã cho phép chàng cạo râu. Bộ ria rậm vểnh lên xoăn lại càng tô đậm hơn đôi gò má cao của chàng. Dường như Ucsula thấy rằng con trai mình da xanh hơn lúc ra đi, cao hơn và cô đơn hơn bao giờ hết. Chàng đã biết tường tận mọi chuyện xảy ra ở nhà mình: Piêtrô Crêspi tự tử, Accađiô hống hách và bị hành hình, Hôsê Accađiô Buênđya ngày một yếu đi dưới bóng cây dẻ. Chàng biết rằng Amaranta đã quyết định suốt đời ở vậy để nuôi dạy Aurêlianô Hôsê và biết rằng đứa bé này rất ngoan, hơn nữa lại thông minh, học đọc và viết vào ngay lúc nó học nói. Kể từ lúc bước vào phòng giam, Ucsula cảm thấy mình bị khống chế bởi sự trưởng thành của con trai, bởi vẻ làm chủ của nó, bởi ánh hào quang quyền thế toả sáng trên làn da nó. Bà ngạc nhiên thấy chàng rõ mọi chuyện. "Mẹ đã biết rồi đấy, con đoán rất tài mà", chàng nói đùa. Rồi với vẻ nghiêm trang chàng nói thêm: "Sáng nay, khi họ giải con đi, con có cảm giác tất cả mọi chuyện này đã xảy ra".
Quả có thế, trong lúc dân chúng gào thét giận dữ bên mình, chàng đã tập trung suy nghĩ và ngạc nhiên trước vẻ già cỗi của làng trong vòng một năm qua. Những cây hạnh đào xoè những tàu lá rách mướp. Các ngôi nhà, đã quét vôi xanh, rồi quét vôi đỏ sau đó lại quét vôi xanh, bắt đầu mang một màu sắc khó gọi được tên.
- Con đang đợi gì nào? - Ucsula thở dài. - Thời gian đang trôi đi.
- Đúng thế, - Aurêlianô thừa nhận, - nhưng không nhiều đâu mẹ ạ.
Dưới hình thức này, chuyến thăm viếng từng chờ đợi khá lâu, từng được cả hai chuẩn bị những câu hỏi và dự kiến cả những câu trả lời, lại một lần nữa trở thành cuộc nói chuyện thường ngày. Khi người lính gác báo buổi nói chuyện đã hết giờ được phép, Aurêlianô lật chiếu lấy ra một cuốn giấy nhờn mồ hôi. Đó là những vần thơ của chàng. Một số là những bài thơ chàng viết lúc yêu Rêmêđiôt và đã mang theo khi ra đi và một số là những bài thơ chàng viết trong những lúc nghỉ ngơi sau trận đánh lòng đầy hoang mang. "Mẹ hãy hứa với con là không để cho ai đọc chúng đi", chàng nói, "ngay đêm nay mẹ hãy đốt chúng trong lò nướng bánh nhé". Ucsula hứa với chàng, rồi bà sửa soạn hôn tạm biệt chàng.
- Mẹ mang cho con một khẩu súng lục đấy, - bà nói thầm.
Đại tá Aurêlianô Buênđya ngó quanh thấy tên lính gác không ở đấy. "Chẳng ích gì cho con đâu mẹ ạ", chàng nói khẽ. "Thôi được, mẹ cứ để lại đấy, kẻo chúng lại khám mẹ lúc đi ra".
Ucsula rút từ trong yếm ngực ra một khẩu súng lục và chàng giấu nó dưới chiếu. "Bây giờ thì không cần phải tiễn biệt", chàng bình thản nói. "Mẹ chẳng cần phải van xin ai và cũng chẳng cần phải hạ mình trước ai. Mẹ cứ coi như là chúng đã bắn chết con từ lâu rồi". Ucsula bậm môi lại để khỏi bật ra tiếng khóc.
- Con hãy chườm gạch nóng vào những vết tấy sưng trong nách đi, - bà nói.
Bà quay nửa vòng rồi ra khỏi xà lim. Đại tá Aurêlianô Buênđya đứng yên vẻ suy tư cho đến khi cửa đóng lại. Sau đó chàng nằm xuống giường dang rộng hai cánh tay: Ngay từ lúc bước vào tuổi thiếu niên, khi bắt đầu nhận thức được những điềm báo của mình, chàng đã nghĩ rằng cái chết phải được báo trước trong một dấu hiệu dứt khoát, không thể nhầm lẫn, và cũng không thể thay đổi được nhưng chẳng còn mấy giờ nữa chàng sẽ phải chết mà chưa có một dấu hiệu nào đến với mình.
Một lần nọ có một người đàn bà đẹp lộng lẫy bước vào doanh trại Tucurinca, xin phép những người lính gác cho phép mình vào thăm chàng. Bọn họ để cho cô gái đi vào bởi họ đã quen thói cuồng tín của một số bà mẹ vẫn thường cho con gái mình đến phòng ngủ của các chiến binh nổi tiếng nhất, theo đúng như lời những người này nói ra, để cải tạo nòi giống. Đêm ấy đại tá Aurêlianô Buênđya vừa làm xong bài thơ nói về người đàn ông lạc lối trong mưa thì cũng là lúc cô gái bước vào phòng. Chàng quay lưng lại phía cô ta để đặt tờ giấy ấy vào ngăn kéo có khoá, là nơi chàng vẫn cất giữ các bài thơ của mình. Thế là chàng cảm thấy thần chết. Chàng vớ lấy khẩu súng trong ngăn kéo mà không hề quay mặt lại.
- Làm ơn, chớ có mà bắn! - Chàng nói.
Khi chàng quay lại, với bàn tay lăm lăm khẩu súng sắp nhả đạn, thì cô gái đã hạ súng xuống, luống cuống không biết làm gì. Bằng cách này chàng đã thoát được bốn trong số mười một trận phục kích. Trái lại có một kẻ không bao giờ lùng bắt được đã đột nhập vào doanh trại quân cách mạng đâm chết đại tá Măcgơriphicô Visban, người bạn chí cốt của chàng, lúc đó đang nằm run trên giường đợi ra mồ hôi hạ cơn sốt. Chỉ cách mấy mét thôi, trong lúc ngủ trên chiếc võng mắc cùng phòng, chàng không hay biết gì. Những cố gắng của chàng nhằm hệ thống hoá lại các điềm báo đều trở nên vô ích. Bỗng nhiên, những điềm báo cùng hiển hiện một lúc trong ánh chớp rực sáng trì thông minh siêu việt, nhưng không thể nắm bắt được vì chúng giống như một niềm tin tuyệt đối nhưng thoáng qua. Có những lúc chúng rất hiển nhiên đến mức khi chúng đã ứng nghiệm rồi chàng mới coi là những điềm báo. Một vài lần khác chúng hiện ra rõ ràng nhưng lại không được ứng nghiệm. Thường thì chúng chỉ là những cú đấm bất chợt, thô thiển của sự mê tín. Nhưng khi người ta tuyên án tử hình và khi người ta yêu cầu chàng bày tỏ những nguyện vọng cuối cùng của mình thì chàng không gặp một trở ngại nhỏ nào để khẳng định điềm báo mà chàng nhận ra trong câu trả lời của mình:
- Tôi yêu cầu bản án được thi hành ở Macônđô, - chàng nói.
Viên chánh án khó chịu.
- Buênđya, anh chớ mong thoát chết, - ngài nói với chàng, - đó chẳng qua là một thủ đoạn kéo dài thời gian thôi.
- Hình như các ngài không muốn thi hành bản án này ở Macônđô, - ngài đại tá nói - nhưng đó là nguyện vọng cuối cùng của tôi.
Kể từ đó chàng không nhận được điềm báo nữa. Hôm Ucsula đến thăm chàng trong nhà tù, sau khi suy nghĩ lao lung, chàng đã đi đến kết luận: có thể lần này cái chết sẽ không được báo trước vì nó không phụ thuộc vào số phận mà phụ thuộc vào ý nguyện của những tên đao phủ. Đêm ấy chàng thức trắng vật vã với hai nách tấy mủ đau nhức nhối. Nhưng trước lúc trời rạng sáng, chàng nghe rõ những bước chân ngoài hành lang.
"Chúng đến", chàng nói với chính mình và bỗng nhiên chàng nghĩ tới Hôsê Accađiô Buênđya, người lúc đó trong buổi sáng sớm buồn thảm ngồi dưới gốc cây dẻ cũng đang nghĩ tới chàng.
Không cảm thấy sợ, cũng không thấy nhớ nhung, chàng chỉ cảm thấy điên ruột rằng cải chết nhân tạo này đã không để cho mình tận mắt nhìn thấy kết quả cuối cùng của biết bao công việc còn bỏ dở. Cánh cửa mở, một tên lính gác bước vào phòng mang cho chàng một tách cà phê. Ngày hôm sau vào đúng giờ này, chàng vẫn sống trong cảm giác ấy, cáu tiết vì hai nách đau, và mọi chuyện lại xảy ra đúng như thế. Ngày thứ năm, chàng cũng chia sẻ niềm vui ăn kẹo sữa với những tên lính gác, chàng mặc bộ quần áo sạch hơi chật so với người chàng, và đi đôi ủng màu vécni. Ngày thứ sáu bọn họ vẫn chưa bắn chàng.
Thực ra bọn họ không dám thi hành bản án. Lòng bất phục tùng của dân chúng đã buộc các nhà chức trách quân sự phải nghĩ rằng việc bắn đại tá Aurêlianô Buênđya sẽ gây ra những hậu quả chính trị nghiêm trọng không chỉ ở Macônđô mà còn ở toàn vùng đầm lầy, do đó bọn họ phải xin ý kiến các nhà chức trách trên tỉnh. Đêm thứ bảy, đại uý Rôkê Cacnixêrô cùng một số sĩ quan đến quán bác Catarinô. Chỉ có một người đàn bà, hầu như bị bắt buộc, đã dám đón ngài về phòng mình. "Các chị em không ai dám ngủ với người đàn ông mà họ biết là sẽ chết", cô gái thú nhận với ngài. "Không ai biết sự thể sẽ như thế nào nhưng cả dân làng đi đến đâu cũng nói rằng viên sĩ quan bắn đại tá Aurêlianô Buênđya cũng như tất cả binh lính trong đội hành hình ấy sớm hay muộn từng người từng người một đều sẽ bị giết chết, dù cho họ trốn chạy tới tận cùng trời cuối đất". Đại uý Rôkê Cacnixêrô đem chuyện đó nói với một số sĩ quan, và những người này lại thưa lên cấp trên. Ngày chủ nhật, mặc dù không một ai đã chứng minh được thực rõ ràng, mặc dù không một hành động quân sự nào có thể làm đảo lộn không khí trầm mặc đến nặng nề trong những ngày ấy, cả làng đều biết rõ rằng các sĩ quan tìm mọi cách để thoái thác nhiệm vụ thi hành bản án. Ngày thứ hai trong một bức điện tín ghi rõ lệnh chính thức: "Vụ hành hình cần phải được thi hành trong hai mươi bốn giờ kể từ khi nhận điện". Đêm ấy các sĩ quan nhét bảy lá phiếu ghi tên mình vào một chiếc mũ kê pi, và số phận hẩm hiu của đại uý Rôkê Cacnixêrô đã run rủi ngài bốc trúng lá phiếu của người phải thi hành bản án: "Đã là vận rủi thì không tránh được", với nỗi cay đắng chết lặng trong lòng ngài nói. "Đã sinh ra đời làm con một con điếm thì ta sẽ chết như con một con điếm...". Vào lúc năm giờ sáng, bằng hình thức bốc thăm ngài thành lập đội hành hình, rồi tập hợp bọn họ lại ở trong sân trại, và đánh thức kẻ từ tù dậy bằng câu nói có tính cách tiền định:
- Đi thôi, Buênđya, - ngài giục chàng, - giờ của chúng ta đã điểm.
- À, ra là thế đấy, - ngài đại tá nói, - ta đang mơ thấy mình bị những vết tấy làm nổ tung ra.
Rêbêca Buênđya, kể từ khi biết tin Aurêlianô sẽ bị bắn, thường xuyên thức dậy từ lúc ba giờ sáng. Bà ngồi im trong phòng tối mà dõi nhìn bức tường nghĩa địa qua cửa sổ hé mở, trong lúc đó cái giường bà ngồi cứ rung lên theo nhịp tiếng ngáy của Hôsê Accađiô. Cả tuần bà kiên nhẫn ngồi đợi như trước đây đợi thư Piêtrô Crêspi. "Chúng sẽ không bắn chú ấy ở đây đâu", Hôsê Accađiô nói với bà. "Chúng sẽ bắn chú ấy ở ngay trong trại giam vào lúc nửa đêm để không ai biết ai là kẻ chỉ huy đội hành hình và rồi chúng sẽ chôn chú ấy ở ngay đấy". Tuy vậy, Rêbêca vẫn tiếp tục chờ đợi. "Bọn chúng ngu muội đến mức nhất định chúng sẽ bắn chú ấy ở đây", bà nói. Bà quá tin mình đến mức bà đã chuẩn bị sẵn cách mở cửa và cách giơ tay chào vĩnh biệt chàng. "Chúng sẽ không dẫn chú ấy đi theo đường cái đâu, - ông vẫn một mực khuyên, - bởi vì chúng chỉ có sáu tên lính yếu bóng vía trong khi thừa biết rằng dân chúng đã sẵn sàng làm bất cứ điều gì". Không nghe cái lôgich của chồng mình, bà vẫn ngồi bên cửa sổ nhìn ra bức tường nghĩa địa.
- Rồi mình sẽ thấy chúng là những kẻ ngu dại như thế đấy, - bà nói.
Vào lúc năm giờ sáng ngày thứ ba, Hôsê Accađiô đã uống xong cà phê và thả đàn chó săn ra thì cũng là lúc Rêbêca đóng cửa lại và cố sức vịn thành một đầu giường để khỏi ngã. "Chúng đã dẫn chú ấy ra đấy rồi", bà thở dài. "Ôi chú ấy đẹp làm sao".
Hôsê Accađiô thò đầu qua cửa sổ, nhìn thảy chàng run rẩy trong ánh bình minh, mặc bộ quần áo vốn là quần áo của ông khi còn trẻ. Chàng đã đứng quay lưng vào tường, hai tay chống nạnh vì hai nách sưng tấy không để cho chàng buông thõng tay xuống. "Rõ thật là nực cười", đại tá Aurêlianô Buênđya lẩm bẩm. "Rõ thật là nực cười đến mức phải dùng tới sáu thằng đàn ông bệnh hoạn để giết một người tay không vũ khí". Chàng cứ nhắc đi nhắc lại mãi với biết bao nỗi giận dữ đến mức dường như chàng đang sôi tiết, và đại uý Rôkê Cacnixêrô cũng thấy mủi lòng vì ngài nghĩ rằng đại tá đang cầu Chúa. Khi đội hành hình chĩa súng vào chàng thì nỗi giận dữ của chàng đã vật chất hoá thành một chất nhầy có vị đắng đọng lại ở lưỡi ru chàng ngủ và buộc chàng nhắm mắt lại. Thế là lúc ấy ánh sáng huy hoàng của buổi bình minh biến mất, và chàng lại nhìn thấy chính mình còn rất nhóc con mặc quần cũn cỡn với chiếc nơ thắt nơi cổ, và chàng nhìn thấy tha mình trong một buổi chiều rực rỡ dẫn mình vào trong rạp và chàng nhìn tảng nước đá. Khi nghe thấy tiếng thét, chàng nghĩ ngay rằng đó là mệnh lệnh cuối cùng cho đội hành hình. Chàng mở choàng mắt. Với sự tò mò lạnh gáy, chàng đợi những viên đạn cắm phập vào mình nhưng chỉ thấy đại uý Rôkê Cacnixêrô đang giơ hai tay lên, và thấy Hôsê Accađiô đang vượt qua đường cái lăm lăm khẩu súng săn sẵn sàng nhả đạn.
- Xin đừng bắn, - viên đại uý nói với Hôsê Accađiô - ngài đã tới theo lệnh phán truyền của đấng Toàn năng.
Từ đó, bắt đầu một cuộc chiến tranh mới. Viên đại uý Rôkê Cacnixêrô cùng với sáu người dưới quyền mình đã theo đại tá Aurêlianô Buênđya đi giải thoát cho các nhà cách mạng, tướng Victôriô Mêđina, hiện đã bị kết án tử hình ở Riôacha. Họ nghĩ phải cướp lấy thời gian bằng cách nhanh chóng vượt qua dãy núi men theo con đường Hôsê Accađiô Buênđya đã đi để lập ra làng Macônđô nhưng chưa đầy một tuần họ thống nhất nhận định rằng đó là con dường không thể đi theo được. Thế là họ phải thực hiện một lộ trình đầy nguy hiểm men theo sườn các dãy núi với số đạn dược quá ít ỏi của những người lính trong đội hành hình. Bọn họ nghỉ lại ở ngoài bìa các làng. Một người trong bọn họ cải trang cầm con cá vàng, giữa ban ngày vào làng để tìm gặp những người thuộc phái Tự do hiện đang nằm chờ.
Sáng hôm sau những người này đi săn và sẽ chẳng bao giờ thấy họ trở về. Khi từ một khuỷu núi bọn họ nhìn thấy thành phố Rioacha thì tướng Victôriô Mêđina đã bị hành hình. Những người dưới quyền đại tá Aurêlianô Buênđya liền suy tôn chàng là Tư lệnh các lực lượng vũ trang cách mạng miền duyên hải Caribê với quân hàm cấp tướng. Chàng nhận chức nhưng từ chối quân hàm và tự đặt cho mình một điều kiện là chưa nhận quân hàm chừng nào quân đội của mình chưa đánh đổ được chế độ Bảo hoàng. Đúng ba tháng sau chàng đã tập hợp được hơn một nghìn quân nhưng lại bị quân chính phủ đánh cho tan tác.
Những người sống sót tháo chạy về biên giới phía đông đất nước. Một lần khác người ta được biết rằng bọn họ đã đổ bộ lên Cabô đê la Vêla từ phía quần đảo Antidat thế mà một thông cáo của chính phủ được truyền đi qua đường bưu điện và được in lại dưới hình thức những tờ thông báo vui mắt tung đi khắp đất nước loan tin về cái chết của đại tá Aurêlianô Buênđya. Nhưng sau đó hai ngày một bức điện rắc rối khác gần như cùng một lúc với bức điện trước, đã báo tin một cuộc khởi nghĩa mới ở vùng đồng bằng phía Nam. Huyền thoại về tài xuất quỉ nhập thần của đại tá Aurêlianô Buênđya bắt đầu như thế đấy. Những tin tức giống nhau và khác nhau loan tin chàng thắng lợi ở Vidanuêva, tin chàng thất bại ở Goacamadan, chàng đã bị những người Anhđiêng ở Côlômbia và Vênêxuêla làm thịt, chàng chết ở một làng nào đó thuộc vùng đầm lầy, và một lần nữa chàng lại nổi dậy ở Urumita. Những nhà lãnh đạo của đảng Tự do trong lúc ấy đang thương lượng để có sự tham gia của mình trong quốc hội, đã coi chàng như một kẻ phiêu lưu mạo hiểm không đại diện cho đảng. Chính phủ quốc gia liệt chàng vào hạng tướng cướp, và trao giải năm ngàn pêsô cho ai bắt được chàng. Sau mười sáu cuộc vũ trang nổi dậy thất bại, đại tá Aurêlianô Buênđya với hai nghìn quân vốn là người Anhđiêng được vũ trang tất từ vùng Goahira, đã xuất quân và đội cấm vệ Bảo hoàng bị đánh bất ngờ trong lúc ngủ, phải bỏ thành phố Riôacha tháo chạy. Tại đây chàng thiết lập sở Tổng chỉ huy của mình và tuyên bố cuộc chiến đấu toàn diện chống chế độ. Phản ứng đầu tiên của chính phủ mà chàng nhận được là sự đe doạ sẽ bắn đại tá Hêrinênđô Mackêt trong vòng bốn mười tám tiếng đồng hồ nếu chàng không rút hết lực lượng vũ trang của mình về biên giới phía đông. Đại tá Rôkê Cacnixêrô, lúc này đã làm tham mưu trưởng của chàng, trình trọng đưa cho chàng bức điện. Nhưng chàng đã để lộ niềm vui khi đọc bức điện.
- Tốt lắm, - chàng reo lên, - Macônđô đã có trạm điện tín rồi.
Sự trả lời của chàng là dứt khoát. Trong ba tháng chàng đợi thành lập sở Tổng chỉ huy của mình ở Macônđô. Nếu lúc đó chàng không được thấy đại tá Hêrinênđô Mackêt còn sống thì chàng sẽ bắn không cần xét hỏi toàn bộ số sĩ quan đã bị bắt làm tù binh, bắt đầu từ các sĩ quan cấp tướng và đồng thời chàng sẽ ra lệnh cho những người dưới quyền để họ cũng theo chính cái cách thức ấy tiến hành bắn giết sĩ quan Bảo hoàng cho đến khi kết thúc chiến tranh. Ba tháng sau, khi chàng chiến thắng tiến quân vào Macônđô thì cú ôm hôn đầu tiên mà chàng nhận được trên con đường từ đầm lầy vào làng là cú ôm hôn của đại tá Hêrinênđô Mackêt.
Ngôi nhà đông đúc trẻ nhỏ. Ucsula đã đón Santa Sôphia đê la Piêđat cùng với đứa con gái đầu lòng và hai đứa trẻ sinh đôi chào đời năm tháng sau vụ hành hình Accađiô về nhà mình.
Trái với nguyện vọng cuối cùng của người bị tử hình, cụ đã đặt cho đứa con gái đầu lòng của anh cái tên Rêmêđiôt. "Ta tin rằng đó là điều Accađiô muốn nói", cụ bảo. "Chúng ta sẽ không gọi nó là Ucsula bởi vì với cái tên này nó sẽ khổ cả một đời".
Còn hai đứa trẻ sinh đôi, cụ đặt một đứa tên là Accađiô Sêgunđô và đứa kia là Aurêlianô Sêgunđô. Amaranta nhận trách nhiệm trông nom cả bọn trẻ này. Cô kê những chiếc ghế nhỏ ở trong phòng khách rồi nhận thêm một số trẻ hàng xóm thành lập một lớp vỡ lòng. Khi đại tá Aurêlianô Buênđya trở về làng, giữa tiếng pháo rền vang nổ và tiếng chuông nhà thờ gióng giả đổ hồi, có đội đồng ca trẻ nhỏ đến hát đón chào chàng ngay tại nhà mình. Aurêlianô Hôsê, cao kều như ông nội, mặc bộ đồng phục sĩ quan cách mạng, đã giơ tay theo nghi thức quân sự chào chàng.
Trong lúc hàn huyên, chuyện vui xen lẫn chuyện buồn. Một năm sau khi đại tá Aurêlianô trốn thoát, Hôsê Accađiô và Rêbêca dọn về ở trong ngôi nhà do Accađiô xây dựng. Không một ai biết chuyện ông đã phá đám vụ hành hình. Vợ chồng họ xây dựng một tổ ấm gia đình mến khách trong ngôi nhà mới nằm ở một góc đẹp nhất của quảng trường lớn, nép dưới bóng một cây hạnh đào cổ thụ có ba tổ chim cổ đỏ. Ngôi nhà có một cửa chính đón khách và bốn cửa sổ đón ánh sáng. Những bạn gái của Rêbêca trong đó có bốn chị em nhà Môscôtê hiện vẫn ở vậy đã nối lại các buổi họp mặt để thêu thùa mà những năm trước đây không bao giờ bị đứt quãng ở hành lang bầy những chậu thu hải đường. Hôsê Accađiô tiếp tục hưởng quyền lợi trên những đất đai chiếm đoạt với những văn tự đã được chính phủ Bảo hoàng thừa nhận. Buổi chiều nào người ta cũng thấy ông vai mang khẩu súng săn hai nòng cưỡi ngựa trở về, theo sau là nhũng con chó săn dữ tợn, trên yên ngựa lủng lắng một xâu thỏ rừng. Một buổi chiều tháng chín trước trận cuồng phong đe doạ đổ xuống, ông trở về nhà sớm hơn thường lệ. Ông chào Rêbêca đang ở trong phòng ăn, buộc đàn chó ở ngoài sân, treo xâu thỏ vào nhà bếp để sau đó mổ và ướp thịt, rồi trước vào phòng nghỉ thay quần áo. Sau này Rêbêca trình bày rằng khi chồng bà bước vào phòng ngủ thì bà đã ở trong nhà tắm và không hay biết gì hết. Đó là một lời giải thích khó tin được nhưng không có lời giải thích nào sáng tỏ hơn và không một ai có thể nghĩ tới một nguyên cớ nào khác để mà Rêbêca đi giết người đàn ông đã mang lại hạnh phúc cho mình. Việc ấy có thể là một chuyện bí hiểm duy nhất không bao giờ được làm sáng tỏ ở làng Macônđô.
Hôsê Accađiô vừa đóng cửa buồng lại thì lập tức một phát súng lục nổ vang làm rung chuyển cả căn nhà. Một dòng máu chảy ra từ dưới cánh cửa, bò qua phòng khách, đi ra đường, tiếp tục chảy dọc theo những con đường gập ghềnh, trèo lên những bậc đa và những vật cản, bò một mạch theo đường Thổ Nhĩ Kỳ, rẽ ngoặt sang trái vào một phố rồi lại ngoặt phải sang phố khác trước khi nó quay một góc vuông thước thợ ngay trước nhà Buênđya rồi chui dưới cửa đóng kín vào nhà, cứ bám lấy tường mà vượt qua phòng khách để khỏi vấy bẩn những tấm thảm trải nhà, tiếp tục bò qua một phòng khác, lượn một vòng rõ rộng để tránh bàn ăn, bò theo dọc hành lang những chậu thu hồi đường và chui qua chiếc ghế Amaranta ngồi dạy toán cho Aurêlianô Hôsê mà không bị nhìn thấy, rồi biến mất khi chui vào kho ngô, rồi xuất hiện ở nhà bếp nơi Ucsula dang đập ba mươi sáu quả trứng để làm bánh.
- Lạy đức mẹ Đồng trinh Maria, - Ucsula gào toáng lên.
Dòng máu chảy ngược lại, và để đi tìm nguồn của nó, bà chui qua kho ngô, đi theo dọc hành lang những chấu thu hải đường nơi cậu bé Aurêlianô Hôsê đang đọc to ba với ba là sáu với ba là chín, vượt qua các phòng ăn và hai phòng khách, rồi bà đi một mạch ra đường cái, rồi rẽ trái ngoặt phải để đổ vào đường Thổ Nhĩ Kỳ, mà không nhớ rằng mình vẫn mang theo chiếc tạp dề mặc khi làm bếp và hai chiếc dép lê đi trong nhà, rồi bà đi ra quảng trường chui qua cửa vào một ngôi nhà chưa bao giờ bà ở, rồi bà đẩy cánh cửa phòng ngủ và hầu như bà ngợp trong mìn thuốc súng, và bà gặp Hôsê Accađiô nằm sấp mặt xuống sàn nhà người đè lên đôi ủng vừa được tháo ra, và thấy dòng máu vừa rỉ ra từ lỗ tai phải của ông. Người ta không thấy một vết thương nào trên thân thể ông cũng như không thể tìm được khẩu súng đã bắn. Cũng không tài nào tẩy rửa được mùi khói súng khét lẹt trên thi thể. Đầu tiên người ta lấy xà phòng và bã cọ để tắm rửa, sau đó ngâm nó trong nước giấm và muối, sau nữa dùng tro và nước chanh, sau cùng ngươi ta đặt nỏ vào trong một thùng nước tẩy quắn áo ngâm suốt sáu giờ liền. Người ta kỳ cọ quá nhiều cho ông đến mức những hình săm bắt đầu phai mực. Khi người ta dùng tới biện pháp ướp xác ông với muối tiêu, rau thìa là, lá nguyệt quế và ninh tử thi trên bếp lửa âm ỉ trong một ngày ròng, thì tử thi bắt đầu bung ra và buộc mọi người phải mai táng ngay tức khắc. Người ta liệm tử thi vào một cỗ áo quan ngoại cỡ dài hai mét rưỡi và rộng một mét mất, bên trong giát sắt lá và được vít chặt lại bằng những chiếc ốc thép. Mặc dù được tắm rửa và khâm liệm kỹ như như vậy, tử thi vẫn phả ra mùi khét lẹt dọc đường khi đám tang đi qua.
Cha Nicanô, với cái bụng đau gan tròn vo như cái trống, đứng trên giường rẩy nước thánh cho ông. Mặc dù mấy tháng sau này người ta xây mộ với những tấm bê tông đặt ở trên và rắc tro, mùn cưa và vôi bột, nghĩa địa vẫn tiếp tục nồng nặc mùi khét thuốc súng, đến nỗi những năm sau này, những kỹ sư thuộc Công ty chuối đã phải đổ một chiếc áo bê tông để úp lên ngôi mộ. Ngay sau khi người ta lôi cỗ quan tài đi, lập tức Rêbêca đóng cửa lại và bà đã tự chôn sống mình trong ngôi nhà, mặc một bộ quần áo vải thô nhàu nát mà không một ý muốn thế tục nào có thể làm rách nó. Trong thời kỳ xuất hiện quỉ dữ Juđiô Erăngtê, ở Macônđô xảy ra đợt oi nóng khủng khiếp khiến chim chóc cứ lao đầu qua lưới sắt để rúc vào phòng ngủ mà chết, bà có đi ra đường một lần, đã già lắm rồi, đi đôi ủng màu trắng bạc cũ kỹ và đội một chiếc mũ có gài những bông hoa nhỏ li ti. Lần cuối cùng có người đã nhìn thấy bà còn sống là dịp bà đã bắn chết tươi gã kẻ trộm định phá cửa nhà mình. Kể từ đó, không một ai ngoài Arhêmđa, người ở và người bạn tâm phúc của bà, tiếp xúc trực tiếp với bà. Có thời kỳ người ta được biết rằng bà đã viết thư cho đức Giám mục, người bà gọi là anh họ mình, nhưng người ta cũng đồn rằng bà không bao giờ nhận được thư trả lời. Dân làng đã quên bà.
Mặc dầu thắng lợi trở về, đại tá Aurêlianô Buênđya vẫn không vui lòng với những kết quả trông thấy. Quân chính phủ rút khỏi các thị trấn không hề kháng cự và điều đó đã gieo trong đám dân chúng vừa được giải phóng một ảo tưởng về thắng lợi không thể đảo ngược được. Nhưng những người cách mạng, nhất là đại tá Aurêlianô Buênđya đã hiểu đúng sự thật hơn. Mặc dù trong lúc ấy chàng duy trì được năm ngàn người dưới quyền mình, và giữ vững hai tỉnh thuộc miền duyên hải nhưng chàng ý thức rõ ràng rằng lực lượng của mình đang bị ép về phía biển và đang ở trong hoàn cảnh chính trị quá rắc rối đến mức khi chàng ra lệnh dựng lại tháp chuông nhà thờ bị đạn pháo phá đổ thì cha Nicanô nằm trên giường bệnh phải thốt lên: "Đây là một trò cười: những người bảo vệ đức tin Kitô giáo đã nã pháo phá nhà thờ còn những kẻ Tam điểm lại ra lệnh xây dựng nó". Hàng giờ và hàng giờ chàng ở lỳ trong phòng điện tín nói chuyện với tư lệnh các thị trấn khác, để tìm một lối thoát.
Nhưng mỗi bận ra khỏi phòng, chàng càng khẳng định cảm nghĩ cuộc chiến đang kết thúc. Khi những tin chiến thắng mới của những người Tự do được chuyển đến và được loan báo ầm ĩ thì chàng suy tính những kết quả đã giành được trên các bản đồ và chàng hiểu rằng quân đội của mình đang ngày một rút sâu vào rừng để chống chọi với ho lao và muỗi rừng, đang rút ngày một xa thành phối "Chúng ta đang để mất thời gian", chàng than thở trước các sĩ quan. "Chúng ta sẽ còn mất thời gian nữa trong lúc những tên chó má trong đảng Tự do đang xin xỏ một chỗ ngồi trên nghị trường". Trong những đêm mất ngủ nằm ngửa trên chiếc võng mắc trong chính căn phòng từng là xà lim tử tù, chàng nhớ lại hình ảnh những vị luật sư mặc đồ đen cổ áo khoác dựng lên che kín tai và ống tay áo buông chùng che kín bàn tay từ trong dinh Tổng thống bước ra vào lúc giá buốt của buổi đêm về sáng, mà rét run cầm cập, mà lẩn nhanh vào những vườn cà phê ảo não lúc hừng đông để đắn đo cân nhắc điều ngài Tổng thống muốn nói khi ngài bảo rằng được, hoặc giả điều ngài muốn nói khi ngài bảo rằng không và để dò tìm điều ngài Tổng thống đang suy nghĩ khi ngài nói một chuyện hoàn toàn khác hẳn. Trong khi đó chàng đuổi muỗi, cố chịu đựng không khí oi nóng tới ba mươi nhăm độ, và cảm thấy ngày càng xích gần cái buổi mai đáng sợ khi chàng buộc phải ra lệnh cho quân sĩ của mình nhảy ào xuống biển.
Một đêm nôn nao nọ, Pila Tecnêra hát cùng với đám lính ở trong sân. Chàng nhờ thị đoán tương lai cho mình qua những quân bài. "Hãy giữ mồm giữ miệng", đó là tất cả những gì Pila Tecnêra thấy rõ sau khi sắp xếp các quân bài và thu chúng lại.
"Tôi không biết điều đó có nghĩa gì, nhưng điềm báo hiện rất rõ: hãy giữ mồm giữ miệng"... Hai ngày sau, có một ai đó thay chàng ra lệnh cho một người cần vụ chuẩn bị một tách cà phê không pha đường, rồi người cần vụ này chuyển lệnh cho người khác, người này lại chuyển cho người khác cho tới khi tách cà phê không pha đường qua tay nhiều người được mang đến chỗ ở của đại tá Aurêlianô Buênđya. Không hề gọi cà phê nhưng vì đã có sẵn ở đấy rồi nên đại tá uống luôn. Tách cà phê ấy có một lượng bột mã tiền đủ giết một con ngựa đực. Khi người ta mang chàng về nhà, chàng đã cứng đơ, co rúm, lưỡi thè ra giữa hai hàm răng. Ucsula chiến đấu với tử thần để cứu chàng. Sau khi làm cho chàng nôn oẹ hết để rửa ruột, bà dùng khăn trải giường hơ nóng đắp kín cho chàng và cho chàng uống lòng trắng trứng gà trong hai ngày liền, cho tới khi cái cơ thể yếu ớt lấy lại được nhiệt độ bình thường. Đến ngày thứ tư chàng thoát khỏi nguy hiểm. Trái với ý nguyện của mình, do bị Ucsula và các sĩ quan của mình ngăn cản, chàng nằm yên trên giường thêm một tuần nữa. Chỉ đến lúc này chàng mới biết các bài thơ của mình vẫn chùa được đốt. "Đêm ấy mẹ không muốn vội vàng", Ucsula thanh minh với chàng. "Đêm ấy, khi đi nhóm bếp, mẹ nghĩ tốt hơn hết là hãy đợi cho tới khi tử thi con được mang về nhà".
Sống giữa những con búp bê của Rêmêđiôt vây quanh, trong điều kiện sức khoẻ dần dần bình phục, đại tá Aurêlianô Buênđya, qua các bài thơ của mình, đã hồi tưởng lại những thời kỳ sôi nổi nhất của đời mình. Chàng lại làm thơ. Trong nhiều giờ liền, bên lề những sự kiện nổi bật của một cuộc chiến tranh không tương lai, chàng khẳng định những kinh nghiệm của mình ngay bên bờ vực của cái chết. Vậy là trí não của chàng ngày một sáng tỏ hơn đến mức có thể lật trái lật phải để xem xét nó. Có một đêm nọ, chàng hỏi đại tá Hêrinênđô Mackêt:
- Hãy nói với tôi đi, vì sao anh bạn chiến đấu?
- Vì sao anh lại hỏi tôi thế nhỉ, - đại tá Hêrinênđô Mackêt trả lời. - Vì đảng Tự do vĩ đại.
- Anh thật hạnh phúc vì đã biết mục tiêu chiến đấu của mình, - chàng trả lời. - Còn về phần mình, cho đến bây giờ hầu như tôi mới biết rằng mình chiến đấu vì lòng kiêu hãnh.
- Thế thì tồi quá, - đại tá Hêrinênđô Mackêt trả lời.
Sự cảnh cáo của Hêrinênđô Mackêt khiến đại tá Aurêlianô Buênđya vui thích. "Dĩ nhiên rồi", chàng nói. "Nhưng trong mọi trường hợp, tốt hơn hết là chẳng nên biết vì sao mình chiến đấu" Chàng nhìn vào mắt bạn mỉm lời và nói rõ hơn:
- Hoặc là như anh đã chiến đấu vì một cái gì đó chẳng có nghĩa gì với ai cả.
Chính niềm kiêu hãnh ấy đã ngăn cản chàng liên hệ với các nhóm vũ trang trong vùng nội địa, trong khi đó các nhà lãnh đạo của đảng Tự do lại không công khai đưa ra những tuyên bố nhằm đánh tan luận điệu cho chàng là một tên tướng cướp. Tuy nhiên, chàng biết rằng nếu gạt bỏ những trở ngại ấy thì ngay lập tức sẽ phá tan vòng vây chiến tranh nguy hiểm. Sức khoẻ bình phục đã cho phép chàng suy nghĩ. Vậy là chàng xin được của Ucsula không chỉ số vàng còn lại mà cả số vốn liếng nhiều vô kể do bà tích luỹ được, chàng phong cho đại tá Hêrinênđô Mackêt làm Quan tổng trấn trông coi các vấn đề quân sự và dân sự ở Macônđô, rồi chàng lên đường để thiết lập quan hệ với các nhóm khởi nghĩa ở vùng nội địa.
Đại tá Hêrinênđô Mackêt không chỉ là người thân tín nhất của đại tá Aurêlianô Buênđya mà còn là người được Ucsula coi là người trong nhà. Dù là người thanh lịch, e lệ, ngoan nết chàng vẫn là người được rèn luyện để thích hợp với trận mạc hơn là với công việc lãnh đạo. Những cố vấn chính trị của chàng dễ dàng lái chàng vào những mê cung lý thuyết. Nhưng chàng cũng đã ổn định được một không khí thanh bình kiểu thôn dã ở Macônđô vốn là điều đại tá Aurêlianô Buênđya mơ ước cho tuổi già chuyên sống bằng cách sản xuất những con cá vàng. Tuy sống chung với cha mẹ mình, nhưng chàng ăn cơm trưa ở nhà Ucsula một tuần tới hai hoặc ba bữa. Chàng dạy Aurêlianô Hôsê học sử dụng vũ khí, dạy bảo những kiến thức quân sự cơ bản và với sự đồng tình của Ucsula chàng mang nó đến sống trong doanh trại để rèn cặp nó thành người. Nhiều năm về trước dù hãy còn trẻ con, đã có lần Hêrinênđô Mackêt ngỏ tình với Amaranta. Lúc ấy Amaranta còn đang thầm yêu trộm nhớ Piêtrô Crêspi do đó đã giễu cợt chàng. Hêrinênđô Mackêt vẫn chờ đợi. Có lần từ trong nhà tù chàng gửi cho Amaranta một bức thư nhờ cô thêu chữ cái mở đầu tên và họ của cha mình lên một tá khăn mùi soa. Chàng còn gửi tiền cho cô nữa. Trong vòng một tuần lễ Amaranta mang đến nhà tù cho chàng một tá khăn mùi soa đã thêu cùng với số tiền ấy, và cô đã ở lại vài giờ liền để nói chuyện về quá khứ. "Khi ra khỏi nơi đây, anh sẽ cưới em làm vợ", Hêrinênđô Mackêt nói khi tạm biệt cô. Amaranta cười nhưng vẫn nghĩ về chàng trong lúc "dạy đám trẻ nhỏ học đọc và muốn làm sống trở lại trong trái tim mình tình yêu bồng bột thời trẻ vốn là nỗi đam mê đối với Piêtrô Crêspi; để hiến dâng cho chàng. Những ngày thứ bảy, ngày vào thăm tù, cô qua nhà bố mẹ Hêrinênđô Mackêt rồi cùng họ đến nhà tù. Có một ngày thứ bảy, Ucsula ngạc nhiên bắt gặp cô đứng ở nhà bếp đang đợi bánh quy ra lò để chọn những chiếc ngon nhất nhét vào một cái túi đã thêu sẵn chờ dịp này.
- Con hãy lấy nó đi con ạ! - bà nói với cô. - Hãn hữu lắm mới có một người đàn ông như nó đấy.
Amaranta làm ra vẻ khó chịu:
- Con chẳng cần phải mồi chài ai cả - cô cãi lại mẹ. - Con mang cho Hêrinênđô những chiếc bánh quy này chăng qua là vì thương anh ấy sớm muộn cũng sẽ bị người ta bắn chết.
Không hề đắn đo cô buột miệng nói ra. Nhưng lúc ấy chính phủ công khai đe doạ sẽ bắn đại tá Hêrinênđô Mackêt nếu như các lực lượng khởi nghĩa không nộp Riôacha. Các buổi đến thăm người tù bị đình chỉ. Amaranta đóng cửa, một mình ở trong nhà khóc lóc tự khổ sở vì ý nghĩ cho mình là kẻ có tội giống như ý nghĩ đã day dứt cô khi Rêmêđiôt chết, cũng như một lần khác những lời nói thiếu cân nhắc của cô đã là trách nhiệm đối với một cái chết khác, cái chết của Piêtrô Crêspi. Ucsula an ủi cô. Bà đảm bảo với cô rằng đại tá Aurêlianô Buênđya sẽ có hành động thực tế mạnh mẽ để ngăn cản vụ hành hình, bà hứa rằng chính bà sẽ đón Hêrinênđô Mackêt về nhà khi nào chiến tranh kết thúc. Bà đã thực hiện lời hứa trước thời hạn dự định. Khi Hêrinênđô Mackêt tới nhà với chức trách Quan tổng trấn trông coi các vấn đề quân sự và dân sự thì bà đón tiếp chàng như một người con, vuốt ve chiều chuộng chàng để chàng ở lại, và tự đáy lòng mình bà cầu khẩn chàng hãy nhớ lại ý định lấy Amaranta làm vợ. Những lời cầu khẩn của bà dường như được linh nghiệm. Những ngày tới nhà để ăn cơm trưa, đại tá Hêrinênđô Mackêt lưu lại cả một buổi chiều để chơi cờ đam với Amaranta ở ngoài hành lang bày những chậu thu hải đường. Ucsula mang đến cho đôi trai gái nào cà phê sữa, nào bánh quy, trông nom đám trẻ nhỏ để chúng khỏi quấy rầy hai người. Trên thực tế, Amaranta cố nhóm lại tình yêu say mê thời trẻ của mình mà lúc này nó như một đám tro nguội lạnh bị lãng quên trong trái tim mình. Với niềm khát khao đã đạt tới độ không thể thay đổi được, cô chờ đón những ngày chàng sẽ đến nhà mình ăn trưa, chờ đón những buổi chiều chơi cờ đam và chờ cho thời gian đi trong lúc mình ngồi bên cạnh một chiến binh có tên gợi bao niềm lưu luyến mà những ngón tay của người ấy cứ run lên khi đi quân cờ. Nhưng trong ngày đại tá Hêrinênđô Mackêt nhắc lại nguyện vọng tha thiết của mình được cưới Amaranta thì cô đã từ chối:
- Em sẽ chẳng lấy ai, - cô nói, - lại cũng không lấy anh đâu. Anh yêu Aurêlianô quá tới mức anh sẽ lấy em vì anh không thể lấy anh ấy mà.
Đại tá Hêrinênđô Mackêt là người điềm tĩnh. "Anh sẽ kiên trì chờ đợi", chàng nói. "Sớm muộn gì anh cũng sẽ cưới em".
Chàng tiếp tục đến chơi nhà. Tự giam mình ở trong phòng ngủ để khóc vụng, Amaranta lấy hai đầu ngón tay bịt kín lỗ tai để khỏi nghe thấy tiếng người theo đuổi mình đang kể cho Ucsula nghe những tin tức chiến sự mới nhất, và mặc dù thèm nhìn chàng đến chết được nhưng cô vẫn đủ nghị lực để không ra tiếp chàng.
Lúc ấy, đại tá Aurêlianô Buênđya đã sắp xếp thời gian để cử hai tuần một lần gửi một thông báo tỉ mỉ về Macônđô. Nhưng chỉ có độc một lần, sau gần tám tháng ra đi, chàng mới viết thư riêng cho Ucsula. Một sứ giả đặc nhiệm đã mang đến nhà một phong thư được viết với lối chữ rất đẹp của đại tá: "Hãy trông nom cha thật cẩn thận vì cha sẽ mất". Ucsula thảng thốt. "Nếu Aurêlianô nói thì Aurêlianô đã biết", Ucsula nói, và nhờ người khiêng Hôsê Accađiô Buênđya vào phòng ngủ. Cụ không chỉ nặng như trước đây vốn đã nặng mà còn nặng thêm lên rất nhiều trong suốt thời kỳ nằm dưới bóng cây dẻ đến mức bảy người đàn ông lực lưỡng không khiêng nổi, buộc họ phải kéo lê cụ vào nhà. Mùi rêu non lẫn mùi mộc nhĩ, thứ mùi của không khí ẩm lâu năm và đậm đặc, làm sực nức cả căn phòng khi cụ già lực lưỡng dầm mưa đãi nắng đã lâu ngày bắt đầu thở. Ngày hôm sau, cụ không thức dậy ở trên giường đặt trong phòng. Sau khi đi khắp các phòng tìm kiếm, Ucsula lại một lần nữa thấy cụ nằm dưới bóng cây dẻ. Thế là họ trói cụ vào giường. Dẫu khỏe mạnh nhưng Hôsê Accađiô Buênđya đã bị loại ra ngoài vòng chiến đấu... Cụ bằng lòng với tất cả, không phân biệt được nữa. Nếu cụ trở lại nằm dưới bóng cây dẻ không phải vì sở nguyện mà vì thói quen của cơ thể. Ucsula chăm nom cụ, cho cụ ăn và kể cho cụ nghe những tin tức về Aurêlianô. Nhưng thực ra, người duy nhất mà cụ tiếp xúc từ đã lâu là Pruđênxiô Aghila.
Với dáng vẻ tiều tụy vì tuổi già trong cõi âm phủ, Pruđênxiô Aghila cứ một ngày hai lẳn đến nhà nói chuyện với cụ. Hai người nói chuyện về gà chọi. Hai người hứa hẹn với nhau sẽ xây dựng một chuồng nuôi những chú gà chọi tuyệt vời, không chỉ để vui vẻ trước một số trận thắng mà còn để giải khuây trong những ngày chủ nhật man mát buồn ở cõi âm phủ. Pruđênxiô Aghila là người tắm rửa cho cụ, cho cụ ăn, kể cho cụ nghe những thắng lợi hiển hách của một người hoàn toàn xa lạ được gọi là Aurêlianô và người này là đại tá trong chiến đấu. Khi ở một mình, Hôsê Accađiô Buênđya khuây khỏa đôi phần với giấc mơ trong căn buồng vô cùng tận. Cụ mơ thấy mình đứng dậy khỏi giường, mở cửa chính mà đi sang phòng bên có cái giường với đầu giường làm bằng thép tôi, một chiếc ghế xích đu bằng gỗ liễu giỏ với chính một bức chân dung Thánh bà Đồng trinh Rêmêđiôt treo trên bức tường cuối phòng. Từ phòng này cụ đi sang phòng khác giống y hệt, mà cửa của nó mở ra dẫn sang phòng khác giống y hệt, rồi sau đó sang phòng khác cũng giống y hệt, cứ như thế cho đến vô cùng tận. Cụ thích đi từ phòng này sang phòng khác, như đi trong một hành lang hai bên tường đều gắn gương, cho tới khi Pruđênxiô Aghila vỗ vai cụ. Thế là cụ trở về lẳn lượt đi qua các phòng, trong lúc quay lại mà tỉnh giấc dần, cụ chạy trên con đường ngược lại, để rồi lại gặp Pruđênxiô Aghila trong cái phông của đời thực. Nhưng rồi có một đêm nọ, sau hai tuần Ucsula đưa cụ vào nhà, Pruđênxiô Aghila vỗ vai cụ ngay ở phòng trung gian giữa cõi thực và cõi mộng và cụ mãi mãi dừng lại ở đấy, mà cứ tưởng rằng đó là phòng của đời thực. Sáng ngay hôm sau, khi mang bữa điểm tâm cho cụ, Ucsula bắt gặp một người từ ngoài hành lang đi lại phía mình. Người ấy béo lùn, mặc bộ quần áo đen, đội một chiếc mũ đen rộng vành chụp gần hết đôi mắt buồn rầu của ông ta. "Trời ơi", - Ucsula nghĩ bụng. "Ai như là Menkyađêt... Người đó là Cataurê, em trai Visitaxiôn, người tự bỏ nhà ra để tránh dịch mất ngủ và từ đó đến nay không có tin tức gì. Visitaxiôn hỏi em mình trở lại để làm gì thì ông ta dùng tiếng thổ dân trả lời:
- Em đến dự đám tang của hoàng đế.
Thế là mọi người đổ xô vào phòng Hôsê Accađiô Buênđya dùng hết sức lay cụ, gào to lên để gọi cụ, lấy gương soi chiếu vào lỗ mũi cụ để gọi, nhưng không làm sao gọi cụ tỉnh được. Sau đó ít lâu, khi người thợ mộc đo cụ để đóng áo quan, qua cửa sổ, người ta thấy trời đổ xuống trận mưa hoa li ti màu vàng. Cả đêm ấy, những bông hoa nhỏ li ti màu vàng rơi xuống một cái làng đang trong nỗi âm thầm đau khổ. Hoa phủ kín các nóc nhà và hoa lấp kín các lối ra vào. Bầu trời sực nức mùi hoa khiến cho những con vật ngủ ngoài trời phải ngột thở. Hoa trời rơi xuống không biết cơ man nào mà kể, đến mức khi trời sáng các con đường phủ đầy hoa phẳng lỳ như một tấm chăn. Người ta buộc phải dùng gậy, sào mà hất hoa đi để lấy lối cho đám tang đi qua.
CHƯƠNG 8
Ngồi trên chiếc ghế xích đu làm bằng gỗ liễu giỏ, với đồ thêu thùa để trong lòng, Amaranta ngắm Aurêlianô Hôsê lần đẩu tiên trong đời cạo râu. Cậu đang lia lưỡi dao cạo trên cái cằm đầy bọt xà phòng. Lưỡi dao cạo làm chảy máu những mụn nhân, làm đứt môi trên do cậu cố ý tỉa bộ ria mép màu hung hung, nhưng dù cậu cố sức nó vẫn cứ y nguyên như trước. Cái công việc cạo râu quá tỉ mẩn của cậu khiến Amaranta có cảm giác trong lúc ấy cậu đã bắt đầu già.
- Nom cháu giống Aurêlianô như đúc khi anh ấy vào tuổi cháu - cô nói. - Cháu đã là người lớn rồi đấy.
Cậu đã là người lớn từ lâu rồi, từ cái ngày Amaranta tưởng rằng cậu hãy còn ranh con nên vẫn cứ khỏa thân trong nhà tắm ngay trước mặt cậu như lâu nay cô vẫn thường làm kể từ ngày Pila Tecnêra đem cậu trả cho gia đình, rũ bỏ trách nhiệm nuôi nấng của thị. Lần đẩu nhìn thấy cô tắm, cậu bé chỉ chú ý đến cái rãnh sâu giữa hai núm vú trên ngực cô mình. Lúc ấy cậu còn ngây thơ lắm đến mức phải hỏi cô bị làm sao ở ngực thế thì Amaranta giả vờ lấy ngón tay gãi ngực rồi trả lời cháu mình: "Cô bị người ta róc, róc thịt đấy". Sau đó, khi đã bình phục sau trận ốm vì Piêtrô Crêspi tự tử, cô lại cùng tắm chung với Aurêlianô Hôsê trong nhà tắm. Cậu không để ý đến cái rãnh sâu mà trái lại run bắn người vì thích thú lạ lùng trước hai bầu vú hồng hồng căng mọng. Cậu vẫn dõi nhìn cô và nhờ vậy hiểu kỹ hơn cái kỳ lạ của tình thân mật giữa hai cô cháu, và cậu vẫn cảm thấy da mình nổi gai trong lúc ngắm nhìn cô, giống như da cô mình cũng nổi gai khi dội nước. Ngay từ lúc còn rất nhỏ tuổi, cậu đã có thói quen bỏ chiếc võng trống cả đêm để bừng tỉnh dậy trên giường Amaranta, chả là vì nằm bên cạnh cô, cậu đỡ sợ bóng tối hơn. Nhưng kể từ hôm có ý thức thích thú tấm thân ngà ngọc của cô mình, thì động lực thúc đẩy cậu bỏ võng để chui vào mùng của cô không phải là nỗi sợ bóng tối mà là sự thèm khát được cảm nhận hơi thở nồng ấm của Amaranta vào lúc trời hửng sáng. Trong thời kỳ cô cự tuyệt đại tá Hêrinênđô Mackêt, có một buổi đêm về sáng nọ, với cảm giác nghẹt thở Aurêlianô Hôsê thức dậy. Cậu cảm thấy những ngón tay của Amaranta, giống như những con tằm, nóng ran và khao khát, đang lần tìm bụng mình. Giả vờ đang còn ngủ, cậu cựa mình đổi tư thế để chúng khỏi gặp trở ngại trên con đường mò tìm, và lúc ấy cậu nhận ra năm ngón tay thuộc bàn tay không băng dải băng đen, như những con sên mù, đang lần mò giữa hai bẹn mình. Dù hai người giả vờ không biết điều cả hai cùng biết và điều mỗi người biết rõ rằng người kia đã biết, kể từ đêm đó họ gắn bó với nhau trong một sự ăn ý tuyệt vời. Aurêlianô Hôsê không thể ngủ được khi cậu chưa nghe thấy tiếng nhạc van phát ra từ chiếc đồng hồ nơi phòng khách, và cô gái đứng tuổi, mà làn da cô bắt đầu cảm thấy tê tái buồn, sẽ không một phút yên lòng nếu cô chưa cảm thấy kẻ mộng du trườn mình trong mùng. Đó là người cô đã nuôi nấng mà không nghĩ rằng người ấy sẽ là một nới bám víu tạm thời cho nỗi cô đơn của mình. Vậy là bọn họ không chỉ ngủ chung một giường, cùng khỏa thân, cùng thèm khát mân mê nhau mà còn lẵng nhẵng theo nhau khắp các xó xỉnh trong nhà, cùng ở trong buồng đóng kín cửa vào bất kỳ giờ nào, lúc nào cũng hào hứng không biết chán. Có lần bọn họ suýt bị Ucsula bắt quả tang. Vào một buổi chiều nọ, cụ vào kho bột ngô, khi hai người sắp hôn nhau. "Cháu yêu cô lắm phải không?", cụ hỏi Aurêlianô Hôsê vẻ hết sức ngây thơ. Cậu vâng để trả lời bà mình. "Cháu ngoan lắm", Ucsula kết thúc, đong bột mì để làm bánh rồi trở về nhà bếp. Sự kiện này đã lôi Amaranta ra khỏi cơn cuồng si. Cô hiểu rằng mình đã vượt quá xa giới hạn, rằng mình không còn hôn hít nó như hôn hít một đứa trẻ nhỏ chơi đùa, trái lại cô đang bì bõm lội trong một cơn đam mê bệnh hoạn vừa nguy hiểm vừa không có lối thoát, rồi cô kiên quyết dập tắt cơn đam mê này. Cũng lúc ấy, Aurêlianô Hôsê vừa kết thúc việc học quân sự, nhận ra sự thực và bỏ nhà để vào doanh trại ngủ. Mỗi thứ bảy đến, cậu đều cùng với đám lính đến tiệm bác Catarinô. Cậu giải buồn với những người đàn bà son phấn mà cứ da diết tưởng tượng họ là Amaranta.
Sau đó ít lâu, những tin tức chiến sự trái ngược nhau bắt đầu được tung ra. Trong khi chính phủ thừa nhận những bước tiến mới của quân khởi nghĩa thì các sĩ quan ở Macônđô nhận được những thông báo tin cậy về một cuộc đình chiến do hai bên thương lượng tất yếu sẽ xảy ra. Vào đầu tháng tư, có một sứ giả tin cậy đến ra mắt đại tá Hêrinênđô Mackêt. Vị này khẳng định với đại tá rằng các lãnh tụ đảng đã bắt liên lạc với các tư lệnh quân khởi nghĩa ở nội địa, và đã sẵn sàng ký một hiệp định đình chiến với điều kiện chính phủ che phái Tự do ba ghế bộ trưởng, một số đại biểu tối thiểu trong nghị viện, và sẽ khoan hồng chung cho những nghĩa quân đã hạ súng. Vị sứ giả mang theo một mệnh lệnh hết sức bí mật của đại tá Aurêlianô Buênđya, người không tán thành các điều khoản của hiệp định.
Đại tá Hêrinênđô Mackêt cần phải chọn năm người tốt nhất và chuẩn bị để trốn ra nước ngoài. Mệnh lệnh này đã được thực hiện trong thời hạn ngắn nhất. Một tuần trước khi bản thỏa ước được loan báo, và trong lòng khí hỗn độn những tin đồn khác nhau, đại tá Aurêlianô Buênđya và mười sĩ quan tin cậy nhất của chàng, trong đó có đại tá Rôkê Cacnixêrô, lặng lẽ trở về Macônđô vào lúc quá nửa đêm, giải tán quân đội, chôn giấu vũ khí, đất bỏ các tài liệu. Vào lúc trời hửng sáng, cùng với đại tá Hêrinênđô Mackêt và năm người dưới quyền chàng, bọn họ đã rời khỏi làng. Đó là một chiến dịch được thực hiện rất nhanh chóng và bí mật đến mức Ucsula không hay biết gì cho đến giờ chót khi có người gõ nhẹ lên cửa sổ phòng ngủ của cụ và thầm thì nói: "Nếu cụ muốn nhìn thấy đại tá Aurêlianô Buênđya thì xin mời cụ ra ngay cửa ạ". Ucsula vùng dậy, mặc nguyên quần áo ngủ, bước ra cửa, và hầu như cụ mới chỉ kịp nhận ra tiếng vó ngựa của đoàn người đang lặng lẽ phi ra khói làng cuốn theo đám bụi mù mịt. Chỉ đến ngày hôm sau cụ mới được biết Aurêlianô Hôsê đã đi cùng cha mình.
Mười ngày sau kể từ khi một thông cáo chung giữa chính phủ và phái đối lập được công bố báo tin đình chiến, đã có những tin tức về cuộc vũ trang nổi dậy đẩu tiên của đại tá Aurêlianô Buênđya ở biên giới phía đông. Các lực lượng của chàng, không những ít quân lại còn trang bị kém, đã bị đánh tan tác chỉ trong thời gian không đầy một tuần. Nhưng trong suốt cả năm ấy, trong lúc phái Tự do và phái Bảo hoàng cố gắng làm cho đất nước sống trong sự hoà giải thì chàng mưu tính bảy cuộc nổi dậy. Một đêm nọ, từ một chiếc tàu chàng nã pháo vào thành phố Riôacha, và đội tuần tra đã phải dậy giữa đêm, bắn trả thù mười bốn nhà Tự do nổi tiếng bị giam giữ ở thành phố này. Chàng chiếm một sở hải quan ở biên giới trong hơn mười lăm ngày và từ đây chàng gửi đến quốc dân đồng bào lời hiệu triệu tổng khởi nghĩa. Một trong số những đạo quân của chàng đã lạc trong rừng liền ba tháng, vì đơn vị này có nhiệm vụ vượt qua hơn một nghìn năm trăm kilômét đường rừng để nhen nhóm các cuộc chiến đấu xung quanh thủ đô. Đôi lúc chàng chỉ ở cách Macônđô chừng vài chục cây số nhưng chàng đã bị các đội quân tuần tra của chính phủ buộc phải đi sâu vào núi cách không xa địa điểm thú vị nơi nhiều năm trước đây cha chàng đã gặp được xác một chiếc tàu Tây Ban Nha.
Cũng trong thời gian này Visitaxiôn qua đời. Sau khi từ bỏ ngai vàng vì sợ dịch mất ngủ, bà muốn được chết già và nguyện vọng cuối cùng của bà là người ta sẽ đào số lương tích cóp trong vài chục năm chôn ở dưới gầm giường rồi gửi nó cho đại tá Aurêlianô Buênđya để chàng tiếp tục chiến đấu. Nhưng Ucsula không cho đào số tiền, bởi vì ngày ấy người ta đồn rằng đại tá Aurêlianô Buênđya đã chết trong một vụ đổ bộ vào vùng ven tỉnh lỵ. Thông cáo chính thức, cái thông cáo thứ tư trong không đầy hai năm đã cho thấy điều đó là hiển nhiên vì gần như sáu tháng nay người ta không được biết gì về chàng. Bỗng nhiên, khi Ucsula và Amaranta đang để tang mới cho các vị tiền bối, thì có một tin lạ được chuyển đến. Đại tá Aurêlianô vẫn còn sống, nhưng rõ ràng chàng không theo chính phủ nước mình, do đó đã gia nhập các lực lượng liên bang đang thắng thế ở một số nước khác thuộc Caribê. Chàng đến với những đất nước có những tên khác nhau ngày một xa lạ với tên quê hương mình.
Sau đó người ta được biết rằng tư tưởng lúc ấy cổ vũ chàng là tư tưởng về sự thống nhất các lực lượng liên bang vùng Trung Mỹ để quét sạch các chế độ Bảo hoàng từ Alasca đến Patagônia.
Sau vài năm chàng ra đi, bức thư đầu tiên mà Ucsula nhận từ chàng là một bức thư đã nhàu nát lại nhòe nhoẹt được chuyển tay từ thành phố Xantiagô đê Cuba.
- Chúng ta đã vĩnh viễn mất nó rồi, - Ucsula thốt lên khi đọc lá thư bởi vì Lễ Noen trong ngày tận thế sẽ xuất hiện trên con đường ấy(1).
Người được cụ nói điều đó, người đầu tiên cụ chìa cho xem bức thư là tướng Hôsê Raken Môncađa, một người thuộc phái Bảo hoàng. "Rất tiếc là - tướng Môncađa bình luận - Aurêlianô này lại không phải là một người Bảo hoàng". Ngài thật bụng khâm phục chàng. Cũng như rất nhiều quan chức dân sự Bảo hoàng, Hôsê Raken Môncađa đã tiến hành cuộc chiến để bảo vệ đảng mình và trong chiến đấu đã leo lên quân hàm cấp tướng, mặc dù ngài không có tài thao lược. Trái lại, cũng như rất nhiều người trong đảng mình, ngài là người phản đối chế độ quân phiệt. Ngài coi giới võ biền là đám người lười biếng không có kỷ cương, thích mạo hiểm và tham lam, có kinh nghiệm chống đối các quan chức dân sự để làm giàu trong tình cảnh hỗn độn. Là người thông minh, nhã nhặn, da dẻ hồng hào, người thích ăn ngon và ham các cuộc chọi gà, thế mà đã có lúc ngài là kẻ thù đáng gờm nhất của đại tá Aurêlianô Buênđya. Ngài đã thiết lập được quyền chỉ huy của mình với các nhà quân sự nhà nghề trong cả vùng duyên hải rộng lớn này. Có lần, theo những thỏa thuận chiến lược, ngài buộc phải rút quân khỏi một thị trấn để trao lại cho lực lượng của đại tá Aurêlianô Buênđya, ngài đã để lại hai bức thư cho chàng. Trong một bức thư dài gửi cho đại tá, ngài mời chàng tham gia chiến dịch chung nhằm làm cho cuộc chiến đỡ khốc liệt hơn. Bức thư khác ngài nhờ đại tá chuyển đến cho vợ mình sống trong vùng kiểm soát của các lực lượng vũ trang thuộc phái Tự do. Từ dạo ấy, kể cả trong những lúc chiến sự xảy ra ác liệt nhất, hai vị tư lệnh này đã thỏa thuận ngừng bắn để trao đổi tù binh. Đó là những lúc hưu chiến với không khí vui vẻ đến mức tướng Môncađa đã lợi dụng thời gian ấy để dạy đại tá Aurêlianô Buênđya chơi cờ đam. Đã có những lúc cả hai người nghĩ đến khả năng phối hợp những yếu tố nhân dân có trong cả hai đảng để loại trừ ảnh hưởng của các nhà quân sự và các nhà chính trị nhà nghề, và thiết lập một thể chế nhân đạo nhờ khai thác triệt để những mặt ưu việt của từng học thuyết. Khi chiến tranh kết thức, trong lúc đại tá Aurêlianô Buênđya thường xuyên thất bại, phải chạy trốn theo những hẻm núi thì tướng Môncađa được phong làm Quan thanh tra ở làng Macônđô. Ngài ăn mặc dân sự, dùng cảnh sát không vũ trang thay cho đám dân lệ, ngài buộc mọi người phải tôn trọng mọi quy định của luật ân xá và giúp đỡ một số gia đình là thân nhân của những người Tự do tử trận. Ngài tìm mọi cách để Macônđô được chọn là thị trấn huyện và do đó ngài được bổ nhiệm là thị trưởng và đã vun trồng được một bầu không khí tin cậy lẫn nhau trong dân chúng khiến cho họ nghĩ về chiến tranh như nghĩ về một nỗi cực khổ vô nghĩa lý của thời quá khứ. Cha Nicanô, bị những cơn sốt đau gan hành hạ đã gày nhom và do đó đã bị cha Côrônen - từng được mệnh danh En Cachôrô, một cựu chiến binh trong cuộc chiến tranh của những người thuộc phái liên bang tiến hành đến thay thế. Brunô Crêspi đã kết hôn với Amparô Môscôtê. Nhờ cửa hàng đồ chơi và nhạc cụ của anh không ngừng phát tài, anh đã xây dựng một nhà hát từng được các gánh hát Tây Ban Nha liệt vào các lịch trình biểu diễn lưu động của họ. Đó là một phòng xa lông rộng ở ngoài trời với những chiếc ghế gỗ dài, một tấm phông nỉ có gắn các mặt nạ Hy Lạp và ba phòng bán vé hình đầu sư tử mà qua cái miệng há ra của nó người ta bán vé vào cửa cho khách.
Cũng trong thời kỳ này nhà trường được xây dựng. Đông Mênchô Escalôna, một thày giáo già được phái từ miền đầm lầy tới trông coi trường học. Được sự đồng ý của các phụ huynh, ngài bắt các cậu học trò ương bướng phải quỳ gối đi trên nền sân lởm chởm đá sỏi và bắt những đứa trẻ lắm mồm phải ăn ớt cay. Aurêlianô Sêgunđô và Hôsê Accađiô Sêgunđô, những đứa con sinh đôi của Santa Sôphia đê la Piêđat, là những học trò đầu tiên ngồi trong phòng học với bảng đen, phấn viết, ca nhôm có khắc tên mình. Rêmêđiôt thừa kế được sắc đẹp đích thực của bà mẹ và bắt đầu được làm quen với cái tên Rêmêđiôt - Người đẹp. Mặc dù tuổi cao, mặc dù phải phịu nhiều tang tóc và những hoạn nạn chồng chất, Ucsula vẫn trẻ khoẻ như thường. Được Santa Sôphia đê la Piêđat giúp đỡ, cụ lại kinh doanh nghề kẹo bánh và trong thời gian ngắn, cụ đã không chỉ thu lại tài sản bị con trai tiêu nhẵn trong chiến tranh, mà còn nhồi vàng ròng vào đầy các quả bí khô đem chôn trong phòng ngủ.
"Thượng đế còn cho ta sống, - cụ thường nói, - thì trong ngôi nhà những kẻ điên khùng này sẽ không bao giờ thiếu tiền bạc".
Mọi chuyện đang diễn ra êm đẹp như thế, bỗng thình lình Aurêlianô Hôsê rời bỏ hàng ngũ quân đội liên bang Nicaragoa, trốn lên một chiếc tàu Đức, rồi xuất hiện ngay tại bếp ăn nhà mình. Cậu trở về người khỏe mạnh như một con ngựa, da sạm nắng và tóc rậm như người Anhđiêng với ý nghĩ thầm kín định cưới Amaranta làm vợ.
Khi Amaranta nhìn thấy cậu bước vào, dù cậu chưa hề nói gì cả cô biết ngay vì sao cậu trở về. Cùng ngồi một bàn mà hai người không dám nhìn vào mặt nhau. Nhưng sau hai tuần trở về, dù Ucsula có mặt, cậu vẫn cứ nhìn thẳng vào mắt cô và nói: "Lúc nào cháu cũng nghĩ tới cô thân yêu". Amaranta chạy trốn cậu. Cô dò đoán để tránh phải gặp cậu ở những nơi, những lúc bất thình lình. Cô cứ bám lấy Rêmêđiôt - Người đẹp, không rời nửa bước. Cô xấu hổ đỏ bừng hai má trong cái ngày thằng cháu hỏi mình còn mang dải băng đen trên tay đến bao giờ, bởi vì cô hiểu câu hỏi đó như là một lời ám chỉ sự trinh tiết của mình. Khi cậu trở về nhà, cô liền cài chặt cửa buồng mình ngủ. Nhưng trong nhiều đêm nghe rõ tiếng ngáy đều đều hiền hậu của cậu ở phòng bên, cô yên lòng đến mức không đề phòng nữa. Sau gần hai tháng Aurêlianô Hôsê trở về, có một buổi đêm về sáng, cô cảm thấy cậu vào phòng mình ngủ. Thế là, đáng lẽ phải chạy trốn, phải gào toáng lên như cô đã dự định trước, thì cô lại buông thả mình trong cảm giác nhẹ nhàng được nghỉ ngơi, được thỏa mãn. Cô cảm thấy cậu đang trườn trong mùng, như đã trườn từ lúc còn nhỏ, như xưa nay nó vẫn trườn thế, rồi cô không tài nào ghìm được mồ hôi lạnh túa ra và hàm răng run lập cập khi nhận thấy cậu đã hoàn toàn khỏa thân. "Cút đi!", cô thì thầm đuổi mà cảm thấy như mình đang chết ngạt vì tính tò mò. "Cút đi không tao sẽ kêu lên bây giờ". Nhưng Aurêlianô Hôsê lúc ấy biết rõ điều mình cần phải làm, bởi vì cậu đâu còn là thằng nhóc sợ bóng đêm mà trái lại đã là một thằng lính chiến. Kể từ đêm ấy, bọn họ lại tiếp tục các cuộc vật lộn thầm lặng với nhau cho đến lúc trời hừng sáng. "Ta là cô mày", Amaranta thì thào nói vẻ mệt mỏi. "Ta gần như là mẹ mày, không chỉ vì tuổi tác mà còn vì ta đã nuôi dạy mày đủ điều chỉ còn thiếu cho mày bú thôi". Vào lúc trời hừng đông, Aurêlianô lỉnh đi và đến buổi đêm về sáng ngày hôm sau lại trở lại phòng ngủ cô mình, ngày một thích chí hơn bởi thấy rằng cửa phòng cô mình vẫn không cài then. Không lúc nào cậu không yêu da diết cô mình. Cậu thường gặp hình ảnh cô mình trong những phòng tối nơi các làng bị chiếm đóng, nhất là những phòng tồi tàn nhất, và nhận ra nàng một cách vật chất qua mùi máu khô đọng trên những dải băng của người bị thương, trong nỗi sợ hãi chợt đến trước tử thần. Ở đâu và lúc nào cậu cũng thấy cô mình.
Cậu đã chạy trốn cô mình bằng cách cố tình xoá nhòa ký ức của mình không chỉ nhờ ở sự xa cách muôn trùng mà nhờ ở cả những trận đánh đẫm máu rùng rợn từng được các bạn đồng ngũ liệt vào hạng đáng sợ nhất, nhưng trong lúc cậu càng cố xóa nhòa hình ảnh cô mình ở nơi khủng khiếp của chiến tranh thì chiến tranh lại càng giống Amaranta hơn. Vì thế mà cậu đau lòng phải sống lưu vong, cố tìm cách giết cô mình bằng chính cái chết của mình cho đến khi cậu nghe một người lính kể câu chuyện cổ tích về một người đàn ông lấy người cô ruột đồng thời lại là cháu gái mình và người con trai của ông ta lại chính là ông trẻ của nó.
- Người ta không thể lấy cô ruột mình sao? - cậu hỏi vẻ hoảng hốt.
- Không những có thể lấy được, - một người lính trả lời cậu, - mà còn hơn thế nữa. Chúng ta làm cuộc chiến tranh chống lại các thày tu này cốt để người ta có thể lấy ngay chính mẹ đẻ của mình.
Mười lăm ngày sau, cậu đào ngũ. Cậu thấy Amaranta của đời thực mặn mà hơn Amaranta trong ký ức, thấy cô buồn và thanh tao hơn nhiều và mặc dù trên thực tế cô đã ở vào thời kỳ sắc đẹp tàn phai nhưng hơn bao giờ hết cô lại nồng nàn trong bóng tối nơi phòng ngủ, hơn bao giờ hết cô buông thả mình trong sự điên cuồng cự tuyệt. "Cháu là một thằng đê tiện", Amaranta bảo cậu khi bị cháu truy đuổi. "Cái việc cháu đang làm với người cô đáng thương của mình này là không đứng đắn đâu dù cho đức Giáo hoàng có đặc ân tha thứ đi nữa". Aurêlianô Hôsê hứa sẽ đi đến thành Rôm, hứa quỳ gối lê khắp châu Âu hôn dép đức Giáo hoàng chỉ để xin cô mình "tha cầu thành" cho mình vào.
- Không chỉ vì thế đâu, - Amaranta cố chống cự, - mà còn vì sẽ đẻ ra những đứa con có đuôi lợn.
Aurêlianô Hôsê cố tình làm ngơ trước mọi lý lẽ.
- Dù có đẻ ra những con tê tê đi nữa cũng cam lòng, - cậu van xin.
Một buổi đêm về sáng nọ, cậu đến tiệm bác Catarinô sau khi không chịu nổi cơn đau vì nhục dục bị ức chế quá mức. Ở đây cậu bắt tình với một người đàn bà có bộ vú chảy, niềm nở dễ tính, là người đã làm nhuần cái bụng cậu trong một lúc. Cậu định sẽ đối xử tệ mạt với Amaranta. Cậu thấy cô ngồi ở hành lang, đang đạp máy khâu, - một nghề cô học rất nhanh, - và cậu không chào hỏi cô mình. Amaranta cảm thấy mình trút bỏ được gánh nặng và chính cô cũng không hiểu nổi vì sao lúc này mình lại nghĩ đến đại tá Hêrinênđô Mackêt, vì sao mình lại da diết nhớ những buổi chiều chơi cờ đam, vì sao mình lại muốn chàng làm chồng mình. Aurêlianô Hôsê vẫn chưa biết mình đã mất chỗ đứng trong trái tim cô mình, cho nên một đêm nọ do không thể tự kiềm chế nổi dục vọng, cậu lại mò vào phòng ngủ của Amaranta. Lần này cô đã cự tuyệt một cách dứt khoát và kiên quyết. Từ đó đêm nào cô cũng cài chặt cửa phòng mình lại.
Ít tháng sau ngày Aurêlianô Hôsê trở về, một người đàn bà vẻ cởi mở, vương mùi hoa nhài, bồng đứa bé năm tuổi đến nhà. Chị ta nói rằng đứa bé là con của đại tá Aurêlianô Buênđya và rằng chị ta mang nó đến để Ucsula đặt tên. Không một ai nghi ngờ gốc gác của đứa bé chưa có tên ấy: nó giống đại tá như đúc thời chàng được cha dẫn đi xem nước đá. Người đàn bà kể rằng cậu bé chào đời với đôi mắt mở thao láo nhìn những người xung quanh với vẻ dò xét của một người lớn, và rằng chính chị ta phải giật mình trước cái nhìn chăm chú không chớp mắt của nó.
"Đích thị rồi", Ucsula nói. "Chỉ thiếu điều nó không làm cho ghế phải tự xoay quanh khi nó nhìn". Cụ đặt tên cho nó với tên của Aurêlianô và họ của mẹ nó, bởi vì luật pháp không cho phép đứa trẻ mang họ cha một khi người cha chưa thừa nhận. Tướng Môncađa nhận làm cha đỡ đầu. Mặc dù Amaranta yêu cầu bên nhà gái để cậu bé ở lại nhà nhưng người mẹ không đồng ý.
Lúc ấy Ucsula vẫn chưa biết tập quán của các bậc cha mẹ cho các cô trinh nữ vào phòng ngủ của các chiến binh như thể họ vẫn thường thả gà mái vào chuồng những con gà trống đẹp mã. Nhưng qua một năm ròng cụ đã biết: chín đứa con trai nữa của đại tá Aurêlianô Buênđya được mang đến nhà để xin cụ đặt tên. Đứa lớn nhất, da nâu với đôi mắt xanh hoàn toàn không giống với bên nội, đã lên mười tuổi. Họ mang đến nhà những đứa trẻ ở mọi tuổi, với đủ màu da, nhưng tất cả đều là con trai, và tất cả đều có vẻ cô đơn - đặc điểm buộc người ta phải thừa nhận nguồn gốc của chúng. Có một đứa lớn trước tuổi rất nhiều đã đập vỡ vài bình hoa và một số cốc tách, vì hình như tay nó hậu đậu đụng đến cái gì là làm vỡ cái đó. Đứa khác tóc hung, có đôi mắt ốc nhồi, y hệt mắt mẹ nó, để tóc dài búi lại thành từng mớ giống y hệt tóc phụ nữ. Cậu bé này rất tự nhiên bước vào nhà cứ như thể cậu từng được nuôi nấng ở đấy, rồi cậu đi thẳng đến chiếc tủ cũ kê trong phòng Ucsula mà đòi: "Cho cháu cô vũ nữ có dây cót đi". Ucsula giật mình. Cụ mở tủ. Sau khi bắt gặp cô vũ nữ ấy được cuốn trong đôi tất. Đó là tặng vật của Piêtrô Crêspi và không một ai nhớ đến nó. Trong không đầy mười hai năm, mười bảy đứa trẻ vốn là con của đại tá gieo rắc trên khắp các miền chàng đi qua trong chiến tranh đã được đặt tên Aurêlianô kèm với họ mẹ chúng. Lúc đầu, Ucsula nhét đầy tiền vào túi chúng và Amaranta muốn giữ chúng lại để nuôi dạy. Nhưng cả hai đều đi đến kết luận là chỉ nên tặng cho mỗi đứa trẻ một gói quà kí niệm và nhận làm mẹ đỡ đầu của chúng. "Chúng ta đặt tên cho chúng thôi", Ucsula nói trong lúc cụ ghi lại tên và địa chỉ của các bà mẹ, nơi và ngày sinh của bọn trẻ vào một cuốn vở. "Chắc là Aurêlianô đã trù liệu, vậy thì hắn sẽ là người quyết định tất cả khi nào trở về". Trong lúc ăn trưa, qua việc bình luận với tướng Môncađa về cái "sự sinh sôi nẩy nở ấy", cụ bày tỏ ý muốn đại tá Aurêlianô Buênđya sẽ có dịp trở về để sum họp với các con ở ngay nhà mình.
- Xin cụ đừng lo, - tướng Môncađa nói vẻ bí hiểm, - đại tá sẽ trở về nhanh hơn cụ tưởng đấy.
Điều tướng Môncađa biết rõ và không muốn để lộ trong bữa cơm trưa là đại tá Aurêlianô Buênđya đang chuẩn bị đi tới một cuộc khởi nghĩa trường kỳ, triệt để, đẫm máu nhất so với những cuộc khởi nghĩa từng được chàng mưu tính cho đến lúc này.
Không khí chính trị lại trở nên căng thẳng y hệt không khí chính trị của mấy tháng trước khi nổ ra cuộc chiến tranh đầu tiên. Các cuộc chọi gà từng được ngài thị trưởng khích lệ đã bị bãi bỏ. Đại uý Akilêt Ricacđô chỉ huy trưởng đội quân đóng ở Macônđô lên nắm quyền, điều hành mọi việc ở thị trấn. Những người thuộc phái Tự do tố cáo y là kẻ khiêu khích. "Sẽ xảy ra sự kiện khủng khiếp đấy", Ucsula nói với Aurêlianô Hôsê. "Cháu chớ có ra đường sau sáu giờ chiều đấy, nghe chưa". Những lời dặn dò ấy của cụ đều trở nên vô ích. Aurêlianô Hôsê, giống hệt như Accađiô trong thời kỳ trước, không chịu nghe lời bà mình.
Hình như điều đó là kết quả của sự trở về nhà của cậu, là kết quả của lối sống thờ ơ trước những công việc thôi thúc hàng ngày. Chính những thứ này đã đánh thức trong cậu cái tài chơi gái và lười biếng của ông bác Hôsê Accađiô. Cơn sóng lòng đối với Amaranta của cậu đã tắt lịm không để lại một vết thương tổn nào. Cậu chơi bời có phần phóng đãng, lúc chơi bia, lúc giải phiền với những người đàn bà ngẫu nhiên bắt gặp, lúc biển lận tiền bạc của Ucsula bỏ quên trong ngăn kéo bàn. Cậu chỉ trở về nhà để thay quần áo, "Con cái nhà đến lạ, tất cả đều giống nhau như hệt", Ucsula thở than. "Lúc đầu, được nuôi dưỡng rất chu đáo, do đó tất cả đều ngoan ngoãn, nết na, hiền lành dường như đến con ruồi cũng không đủ can đảm để giết. Ấy thế mà râu vừa lún phún đã lại hư thân mất nết rồi". Trái với Accađiô, người không bao giờ biết gốc gác của mình, cậu được biết riêng mình là con của Pila Tecnêra, người đã mắc võng cho cậu để ngủ trưa ngay tại nhà thị. Trong nỗi cô đơn, bọn họ đã đi xa hơn quan hệ mẹ con để tư thông với nhau. Pila Tecnêra đã hoàn toàn tuyệt vọng. Tiếng cười của thị ồm ồm như giọng cây đàn cóc. Đôi vú thị đã sệ trễ xuống, bụng và vế thị đã mềm nhũn vì từng là nạn nhân của số phận người đàn bà chung chạ không thể thay đổi của thị. Nhưng trái tim thị cam chịu già đi không một chút đắng cay. Thị là người béo phị, lắm lời. Với sự trống rỗng của mụ Tú bà bất hạnh, thị đã từ bỏ ảo tưởng vô vọng mà những con bài đem lại cho mình, và thị đã tìm thấy niềm an ủi trong ái tình của người khác. Trong ngôi nhà Aurêlianô Hôsê ngủ trưa, các cô gái láng giếng tiếp những người tình ngẫu nhiên bắt gặp. "Bác Pila, cho cháu mượn phòng nhé", họ dễ dàng nói với thị như vậy khi họ đã ở trong nhà rồi. "Tuỳ", Pila trả lời. Rồi nếu có ai đứng ở đấy, thị giãi bày:
- Tôi lấy làm hạnh phúc nếu được biết người khác đang đê mê trên giường.
Không bao giờ thị lấy tiền thuê phòng. Không bao giờ thị từ chối làm ơn cho người khác cũng như không bao giờ từ chối biết bao người đàn ông từng tìm đến thị ngay cả khi thị đã xế bóng về già. Thị chiều họ không vì tiền cũng không vì tình mà chỉ hi hữu đôi lần vì thích thú khoái lạc, thế thôi. Năm người con gái của thị, vốn thừa kế được hạt giống yêu nồng nàn của thị, đã phiêu bạt theo những con đường mòn gai góc của cuộc đời ngay từ tuổi dậy thì. Trong số hai đứa con trai thị nuôi thành người, một đứa tham gia quân đội của đại tá Aurêlianô Buênđya và đã chết trong chiến đấu, còn đứa khác bị đánh thành thương tật và bị bắt bỏ tù vào lúc mười bốn tuổi khi nó định ăn cắp một chuồng gà mái ở một làng thuộc vùng đầm lầy. Xét về mặt hình thức, Aurêlianô Hôsê là người cao to, có nước da nâu hồng hào, là người trong nửa thế kỷ nay "quân bài" ông cự đã báo cho thị biết, và rằng cũng như tất cả những người đàn ông được các quân bài báo trước cho thị thì Aurêlianô Hôsê đã đến với thị khi cậu đã bị tử thần đánh dấu. Thị nhìn thấy điều đó trong những quân bài.
- Đêm nay con chớ ra đường, - thị nói, - con hãy ở lại đây mà ngủ kẻo Cacmêlita Môntiên cứ nằng nặc đòi ta đưa cô ả vào phòng con đấy.
Aurêlianô Hôsê không nhận bắt được ý nghĩa sâu xa ẩn trong lời mời như van xin ấy.
- Hãy bảo cô ấy đợi con đến nửa đêm nhé! - cậu nói.
Cậu đi đến rạp hát. Ở đấy một gánh hát Tây Ban Nha quảng cáo diễn vở Mũi dao găm của con cáo mà thực ra là kịch bản của Xôrida nhưng nó đã phải thay tên theo lệnh đại uý Akilêt Ricacđô, bởi vì những người Tự do đã gọi những người Bảo hoàng là "bọn mạnh"(2). Chỉ đến khi trình vé ở cửa vào, Aurêlianô Hôsê mới biết rằng đại uý Akilêt Ricacđô, cùng với hai người lính mang súng dài, đang kiểm soát đám đông. "Hãy liệu thần hồn, đại uý ạ", Aurêlianô báo cho y biết. "Kẻ buộc ta phải giơ tay lên vẫn chưa xuất hiện đâu". Viên đại uý định dùng sức mạnh kiểm soát cậu, nhưng Aurêlianô Hôsê, vì lúc này không mang theo vũ khí, đã ù té chạy. Viên đại uý ra lệnh bắn nhưng bọn lính không tuân lệnh. "Đó là một Buênđya đấy", một trong số họ nói với đại uý. Quá giận dữ, viên đại uý giằng lấy súng, chạy ra giữa đường rồi nổ súng.
- Đồ dê cụ! - đại uý vẫn kịp thét. - Cầu Chúa hắn là đại tá Aurêlianô Buênđya.
Cacmêlita Môntiên; một cô gái tân tuổi đôi mươi, vừa tắm nước lá cam xong và đang lót lá hương thảo xuống giường Pila Tecnêra, thì nghe thấy tiếng súng nổ. Aurêlianô Hôsê đã sẵn sàng cùng với Cacmêlita Môntiên hưởng niềm hạnh phúc mà Amaranta từ chối cậu, sẵn sàng cùng với cô có bảy đứa con và chung thuỷ với cô cho đến khi chết trên đôi cánh tay cô, nhưng viên đạn đã xuyên qua lưng phá toang lồng ngực cậu. Đó là viên đạn được hướng đạo bởi một sự giải thích sai của những quân bài. Đại uý Akilêt Ricacđô, vốn là kẻ phải chết vào đêm ấy quả nhiên đã chết trước Aurêlianô Hôsê bốn giờ. Hầu như vừa mới vang lên tiếng súng của mình bắn thì y đã bị hai viên đạn cùng một lúc quật ngã, và không bao giờ có thể phát hiện được nguồn gốc những viên đạn ấy. Tiếp theo đó là một tiếng hô râm ran làm rung chuyện cả trời đêm:
- Đảng Tự do muôn năm? Đại tá Aurêlianô Buênđya muôn năm!
Vào lúc mười hai giờ đêm, khi Aurêlianô Hôsê tắt thở vì kiệt máu, và Cacmêlita Môntiên nhận thấy tương lai mờ mịt của mình trên những lá bài, thì hơn bốn trăm người đàn ông đã diễu qua trước cửa rạp hát và đã bắn đạn súng lục vào tử thi bị bỏ rơi của đại uý Akilêt Ricacđô. Phải cần tới một đội tuần tra mới khiêng nổi cái thây ma bị ghim đầy đầu đạn và nhão ra như bánh ngâm trong súp của viên đại uý để đưa lên xe cút kít, mang đi.
Trái với những việc làm sai trái của quân chính phủ, tướng Hôsê Raken Môncađa sử dụng đến các ảnh hưởng chính trị của mình, trở lại mặc quân phục và nắm toàn quyền ở Macônđô. Tuy nhiên ngài không hy vọng rằng thái độ hòa giải của mình lại có thể tránh được điều tất phải xảy ra. Tin tức tháng chín có nhiều mâu thuẫn. Trong học chính phủ tuyên bố mình đã kiểm soát được toàn bộ đất nước thì những người Tự do nhận được thông báo bí mật về các cuộc vũ trang nổi dậy ở vùng nội địa. Chế độ hiện hành không thừa nhận đất nước đang ở trong tình trạng có chiến tranh, do đó trong một công báo không dám tuyên bố rằng tòa án quân sự vẫn tiếp tục xử vắng mặt đại tá Aurêlianô Buênđya và đã tuyên án tử hình vắng mặt chàng. Họ đã ra lệnh thực hiện bản án cho đơn vị quân đội nào đầu tiên bắt được chàng. "Điều này muốn nói rằng nó vẫn còn sống", Ucsula tuyên bố trước mặt tướng Môncađa. Nhưng chính ngài vẫn chưa biết.
Thực tế cho thấy đại tá Aurêlianô Buênđya đã có mặt ở trong nước được hơn một tháng rồi. Lúng túng trước những nguồn tin mâu thuẫn nhau, đồng thời bị lừa phỉnh bởi những hành động xuất quỉ nhập thần của đại tá Aurêlianô Buênđya ở những miền xa xôi hẻo lánh của đất nước, tướng Môncađa vẫn chưa tin đại tá đã trở về nước cho đến khi ngài được chính thức báo cho biết rằng đại tá đã làm chủ hai tỉnh duyên hải. "Thưa cụ tôi thành tâm chúc mừng cụ", ngài nói với Ucsula trong khi chìa cho cụ xem bức điện tín. "Con trai cụ sẽ có mặt ở đây nhanh thôi". Lần đầu tiên trong đời, Ucsula đâm lo. "Thế còn ngài sẽ làm gì?", cụ hỏi. Tướng Môncađa cũng đã nhiều lần tự hỏi mình câu hỏi ấy.
- Tôi sẽ làm thinh cái việc mà con trai cụ đã làm, cụ ạ! - ngài trả lời, - đó là thực hành phận sự của mình.
Vào lúc rạng sáng ngày mồng một tháng mười, đại tá Aurêlianô Buênđya với một nghìn quân lính vũ trang cực mạnh tấn công Macônđô và quân đội được lệnh kháng chiến đến cùng.
Đến trưa, khi tướng Môncađa cùng ngồi ăn với Ucsula thì phát đại bác của quân cách mạng làm rung chuyển cả thị trấn và phá tan bức tường mặt tiền kho bạc thị trấn. "Bọn họ được vũ trang mạnh như chúng tôi, - tướng Môncađa thở dài nói, - nhưng họ chiến đấu ngoan cường hơn chúng tôi". Đến hai giờ chiều, trong lúc trời rung đất chuyển dưới những làn đại bác rền vang của cả hai bên chiến tuyến, ngài từ biệt Ucsula với cảm nghĩ mình đang bị đánh bại. "Cầu Thượng đế rằng đêm nay cụ chưa đón Aurêlianô tại nhà này, - ngài nói, - nếu không như thế, xin cụ hãy ôm hôn ông ta thay cháu, bởi vì cháu không mong sẽ gặp mặt ông ta nữa".
Đêm ấy ngài bị bắt khi định chạy khỏi Macônđô sau lúc đã viết cho đại tá Aurêlianô Buênđya một bức thư dài nhắc chàng nhớ lại những dự định chung của hai người nhằm làm cho cuộc chiến đỡ khốc liệt hơn và chúc chàng giành thắng lợi quyết định nhằm chống lại các quan nhân đồi bại và các chính khách tham lam của cả hai đảng. Ngày hôm sau đại tá Aurêlianô Buênđya cùng ăn trưa với ngài tại nhà Ucsula, là nơi ngài đang bị giam giữ cho tới khi toà án quân sự cách mạng quyết định số phận ngài. Đó là cuộc họp mặt gia đình. Nhưng trong lúc hai địch thủ quên cuộc chiến để cùng nhau nhớ lại những kỷ niệm cũ thì Ucsula có cảm giác u buồn rằng con trai cụ là một kẻ khác hẳn. Cụ có cảm giác ấy ngay từ lúc chàng bước vào nhà được cả một đội cảnh vệ ồn ĩ bảo vệ. Đội cảnh vệ này đã lục lọi khắp các phòng cho đến khi thấy rằng không có gì nguy hiểm. Đại tá Aurêlianô Buênđya không những chỉ thừa nhận hành động càn quấy thô bạo ấy mà còn ra lệnh một cách dứt khoát và không cho phép bất kỳ ai, kể cả Ucsula được đến gần mình chưa tới ba mét trong lúc đội bảo vệ chưa bố trí xong lính gác quanh nhà.
Chàng mặc bộ quân phục vải sợi thô thông dụng, không mang quân hàm quân hiệu gì hết, đi ủng cao cổ với cựa thúc ngựa bê bết bùn và máu khô. Trên thắt lưng, chàng đeo một khẩu súng lục đựng trong bao da sờn, bàn tay luôn luôn tì vào báng súng, cử chỉ này hoàn toàn phù hợp với sự cảnh giác cao độ và kiên quyết trong đôi mắt chàng. Đầu chàng, giờ đây tóc xoăn tít lại dường như được sấy khô. Mặt chàng vốn sạm nắng gió biển Caribê đã mang vẻ mặt sắt lạnh lùng. Bằng vẻ lạnh lùng thầm kín chàng đã sẵn sàng đối mặt với tuổi già không thê cưỡng lại nổi. So với lúc chàng ra đi, chàng cao hơn, xanh và gáy hơn, và đã để lộ những triệu chửng đầu tiên của bệnh buồn nhớ không nguôi. "Trời ơi", Ucsula tự nói với mình vẻ hoảng hốt. "Giờ đây nó là kẻ đủ khả năng làm bất kỳ điều gì". Đúng vậy, chàng là người như vậy. Không chỉ bằng lòng với việc ra lệnh chôn các xác chết trận trong cùng một hố chung mà chàng còn giao cho đại tá Rôkê Cacnixêrô nhiệm vụ khẩn trương mở các phiên toà quân sự, còn mình đích thân gánh lấy nhiệm vụ nặng nề: tiến hành các cuộc cải cách ruộng đất thật triệt để nhằm xoá bỏ tận gốc chế độ Bảo hoàng. "Chúng ta phải vượt lên một bước trước các chính khách của đảng", chàng nói với các cố vấn của mình. "Khi mở mắt nhìn vào thực tại thì bọn họ đứng trước những việc đã rồi". Đó là lúc chàng quyết định xét lại các văn tự ruộng đất, kể cả những cái đã được làm từ một trăm năm về trước, và do đó đã phát hiện ra những văn tự giả mạo được hợp pháp hoá của ông anh Hôsê Accađiô. Bằng nét gạch chéo vào các văn tự ấy, chàng vô hiệu hoá chúng. Trong điệu bộ lịch sự cuối cùng, chàng nghĩ ngợi một giờ và đi thăm Rêbêca để báo cho bà biết quyết định của mình.
Trong ngôi nhà tranh tối tranh sáng, chỉ có bà quả phụ cô đơn đã một thời là người bạn để chàng giãi bày những tình cảm thầm yêu trộm nhớ của mình và là người ngồi ở nhà mình kiên trì theo dõi khi nào bọn lính đem bắn chàng, đã cứu chàng thoát chết. Giờ đây bà chỉ còn là bóng dáng của thời qua. Bà lẩn mình trong bộ đồ tang đen phủ kín đến ngón tay, ngón chân, và với trái tim nguội lạnh, bà hầu như không biết gì về chiến tranh. Đại tá Aurêlianô Buênđya có cảm giác rằng chất diêm sinh từ xương cất hiện ra ngoài làn da bà, và rằng bà thấp thoáng hiện hình sau ngọn lửa ma trơi trong cái không khí tù đọng hầu như vẫn còn sực nức mùi thuốc súng. Chàng bắt đầu khuyên bà hãy bớt thương nhớ chồng và hãy mở cửa sổ cho nhà thoáng đãng, rằng bà hãy tha thứ cho thiên hạ trước cái chết của Hôsê Accađiô. Nhưng Rêbêca đã ở ngoài mọi cám dỗ phù hoa. Sau khi đã tìm kiếm chúng một cách vô ích trong dư vị của đất, trong những bức thư tẩm hương của Piêtrô Crêspi, trên cái giường rung lên trước sức nặng cuồng say của chồng mình, bà đã gặp được cái không khí thanh thản trong ngôi nhà ấy, nơi sự hồi tưởng khôn nguôi đã làm hiện hình những ký ức xưa và như người thực chúng lượn lờ đi lại trong các phòng đóng kín. Nằm dài trên chiếc ghế xích đu gỗ liễu giỏ, nhìn đại tá Aurêlianô Buênđya như thể chàng là một bóng hình của thời xưa, Rêbêca không hề tỏ ra bối rối khi bà được biết rằng các đất đai do Hôsê Accađiô lấn chiếm trái phép nay sẽ được trả lại cho những người chủ chân chính của chúng.
- Aurêlianô ạ, hãy để cho người ta làm điều chú đã quyết định. Lúc nào chị cũng nghĩ, và giờ đây chị càng khẳng định ý nghĩ của mình, rằng chú là một thằng đê hèn.
Việc kiểm tra văn tự ruộng đất được kết thúc đồng thời với các phiên toà khẩn cấp do đại tá Hêrinênđô Mackêt điều khiển và các phiên toà này đều kết thúc với việc xử bắn toàn bộ số sĩ quan của quân đội chính phủ bị phía cách mạng bắt giữ làm tù binh. Phiên toà quân sự cuối cùng là phiên toà xét xử tướng Hôsê Raken Môncađa. Ucsula can thiệp. "Đó là một nhà chức trách tốt nhất trong số các nhà chức trách ở Macônđô", cụ nói với đại tá Aurêlianô Buênđya: "Mẹ cũng không cần thiết phải nói gì về tấm lòng nhân hậu của ông ta và về thái độ cư xử kính nể mà ông ta đã dành cho chúng ta, bởi vì hơn ai hết con hiểu rõ ông ta mà". Đại tá Aurêlianô Buênđya dõi vào mắt cụ một cái nhìn dò xét:
- Con không thể vi phạm thể lệ xét xử của toà án, - chàng cãi lại mẹ - Nếu mẹ thấy cẩn phải nói điều gì thì xin mẹ cứ ra trước toà án quân sự mà nói". Ucsula không những chỉ một mình mình nói mà còn đi vận động tất cả các bà mẹ sĩ quan quân cách mạng hiện đang sống ở Macônđô. Các cụ già vốn là những người sáng lập ra làng Macônđô, trong số đó có các cụ bà từng tham gia cuộc mạo hiểm đi xuyên rừng để tìm nơi cư trú, đã lần lượt thay nhau ca tụng công đức của tướng Môncađa. Ucsula là người cuối cùng trong số này. Danh dự của cụ, uy tín của cụ, tư chất dõng dạc đầy thuyết phục trong lời tuyên bố của cụ, tất cả những thứ đó trong một lúc nào đó đã làm cho các quan toà phải lúng túng. "Các ngài đã chơi cái trò kinh người này rất nghiêm chỉnh và các ngài đã làm đúng vì các ngài đang thực hiện phận sự của mình", cụ nói với các quan toà. "Nhưng xin các ngài nhớ cho là trong lúc Thượng đế còn để chúng ta sống, chúng ta vẫn là mẹ đẻ ra các ngài và cho dù các ngài có là những người rất cách mạng đi nữa, chúng ta vẫn cớ quyền lột quần áo các ngài nện cho mấy roi nếu các ngài không nghe lời". Khi những lời ấy còn vang vọng trong cái trường học bị biến thành trại linh, thì toà lui vào để nghị án. Đến nửa đêm, tướng Hôsê Raken Môncađa bị kết án tử hình. Bất chấp nhường lời biện hộ mãnh liệt của Ucsula, đại tá Aurêlianô Buênđya vẫn không chịu giảm mức án cho ngài. Trước lúc trời sáng một ít, chàng đến thăm kẻ tử tù trong xà lim.
- Anh hãy nhớ cho, - chàng nói với ngài, - là tôi không bắn anh. Cách mạng bắn anh đấy.
Tướng Môncađa khi nhìn thấy chàng bước vào xà lim cũng không thèm ngồi dậy.
- Cút đi anh bạn ạ, - ngài nói.
Kể từ khi trở về cho đến lúc ấy, đại tá Aurêlianô Buênđya vẫn chưa tìm được cơ hội thăm lại tướng Môncađa với cả con tim mình. Chàng ngạc nhiên bao nhiêu khi thấy ngài đã già đi nhiều quá, khi thấy tay ngài run lẩy bẩy, khi thấy ngài an phận chịu chết và do đó lúc này chàng cảm thấy tự khinh bỉ mình đến mức có thể nhầm nó với lòng thương hại:
- Anh hẳn biết hơn tôi, - chàng nới, - rằng tất cả toà án quân sự là một trò cười, vì rằng trên thực tế anh phải đền tội cho những kẻ khác, bởi vì lần này bằng mọi cách chúng tôi sẽ giành được chiến thắng. Nếu anh ở vào địa vị tôi lúc này, lẽ nào anh lại không làm như vậy?
Tướng Môncađa ngồi dậy lấy vạt áo lau cặp kính gọng đồi mồi. "Cũng có thể", ngài nói, "nhưng điều tôi phải bận tâm không phải là việc anh bắn tôi, bởi vì dù thế nào đi nữa đối với loại người chúng ta thì cái chết này là hiển nhiên". Ngài đặt cặp kính lên giường rồi cởi chiếc đồng hồ quả quít. "Điều tôi bận tâm", ngài nói tiếp, "là từ một người căm thù đám tướng lĩnh nhà nghề, từng đấu tranh không mệt mỏi với chúng, từng trăn trở suy nghĩ về chúng thế mà nay anh lại chẳng khác gì chúng. Trong cuộc đời không có mẫu người nào đại diện cho sự thấp hèn của con người như anh". Ngài cởi chiếc nhẫn cưới, và chiếc huân chương Thánh bà Đồng trinh Rêmêđiôt rồi đặt chúng xuống bên chiếc đồng hồ và cặp kính.
- Đến cái nước này, - ngài kết thúc, - anh không chỉ là một tên độc tài khát máu điển hình nhất của lịch sử nước ta, mà rồi anh còn sẽ bắn cả cụ Ucsula để lương tâm mình được yên ổn.
Đại tá Aurêlianô Buênđya cứ đứng thần ra như một bức tượng. Tướng Môncađa đưa cho chàng kính, huân chương, đồng hồ, nhẫn cưới rồi đồi giọng nói:
- Nhưng thôi, tôi không muốn anh đến để mà xỉ vả anh, - ngài nói. - Tôi muốn nhờ vả anh chuyển những thứ này đến tay vợ tôi.
Đại tá Aurêlianô Buênđya nhận các thứ rồi đút vào túi.
- Bà ấy vẫn sống ở Manaurê chứ?
- Vẫn ở Manaurê? - tướng Môncađa xác nhận, - vẫn cái ngôi nhà ở phía sau nhà thờ nơi anh đã đến gửi bức thư ấy.
- Tôi sẵn lòng làm. Hôsê Raken ạ? - đại tá Aurêlianô Buênđya nói.
Khi chàng bước ra ngoài trong ngọn gió xanh ẩm hơi sương, mặt chàng ướt nhoè như trong buổi bình minh trước đây, và chỉ lúc ấy chàng mới hiểu vì sao mình đã quyết định bản án phải được thi hành ngay trong sân nhà tù chứ không thể ở bên cạnh bức tường nghĩa địa được. Đội hành hình xép hàng ngay trước cửa, bồng súng chào chàng, vị tư lệnh của họ.
- Các anh đã có thể lôi hắn đi được rồi, - đại tá ra lệnh.
Chú thích:
(1) Ở đây tác giả chơi chữ. Nếu ghép Camino (con đường) với Xantiagô thì có nghĩa là giải ngân hà. Lễ Noen trong ngày tận thế sẽ xuất hiện ở giải ngân hà (theo Kinh Thánh)
(2) Nguyên tên vở kịch là El punal del go do (Mũi dao găm của kẻ mạnh) nhà cầm quyền buộc phải đổi là El punal del zorro (Mũi dao găm của con cáo). Đó là vở kịch thơ của nhà thơ Tây Ban Nha José Zorrilla y del Moral, 1817-1893).
CHƯƠNG 9
Đại tá Hêrinênđô Mackêt là người đầu tiên nhận thấy cái hư vô của chiến tranh. Với tư cách người chỉ huy toàn quyền ở Macônđô chàng duy trì đều đặn một tuần hai buổi nói chuyện điện tín với đại tá Aurêlianô Buênđya. Lúc đầu những buổi trao đổi này đã khẳng định được dòng chảy của cuộc chiến đẫm máu mà ở bất kỳ thời điểm nào các đường viền của nó cũng cho phép xác lập điểm đích sẽ đi tới và dự kiến những đường hướng trong tương lai. Dù không bao giờ tự để mình bị sa lầy trong lĩnh vực tình cảm thân tín, ngay cả đối với những người bạn chiến đấu gần gũi nhất, lúc này đại tá Aurêlianô Buênđya đã giữ được cái cách nói quen thuộc cho phép người ở bên kia đầu dây nhận ra mình. Nhiều lần chàng kéo dài các buổi nói chuyện điện tín quá thời gian quy định và để chúng dây dưa sang các câu chuyện phiếm. Tuy nhiên, trong điều kiện cuộc chiến ngày càng mở rộng và căng thẳng hơn, hình ảnh của chàng dần dần lu mờ đi trong thế giới mông lung không có thực. Những nốt tạch và nốt tè theo cách ấn cần manip của chàng ngày một xa xưa và mơ hồ hơn, và chúng họp lại thành những từ ngữ dần dần cũng mất hết ý nghĩa. Lúc này, đại tá Hêrinênđô Mackêt chỉ nghe thôi và chàng cảm thấy khó chịu bởi cảm giác mình đang tiếp xúc qua điện tín với một người xa lạ thuộc thế giới khác.
- Mình đã hiểu, Aurêlianô ạ! - Chàng ấn cần manip để kết thúc - Đảng Tự do muôn năm!
Đại tá Hêrinênđô Mackêt đã hoàn toàn bị mất liên hệ với chiến tranh. Cái mà trước đây vốn là một hành động thực tế, một đam mê không thể kiềm chế được của tuổi trẻ, giờ đây đối với chàng đã trở thành một câu chuyện xưa, một nỗi trống trải hư vô. Nơi duy nhất để chàng chạy trốn nỗi cô đơn ấy là phòng máy may của Amaranta. Chiều nào chàng cũng đến thăm cô. Chàng thích ngắm đôi bàn tay cô trong lúc gấp nếp vải trên bàn máy do Rêmêđiôt - Người đẹp quay maniven. Hàng giờ, hàng giờ bọn họ ở bên nhau, không nói lấy một lời. Trong lúc Amaranta tự thoả mãn với việc duy trì ngọn lửa yêu đương mãnh liệt của chàng, thì chàng hoàn toàn không thể hiểu nổi mục đích ấy của trái tim kia. Khi được biết tin chàng sẽ trở về, Amaranta cảm thấy sung sướng đến ngạt thở. Nhưng khi thấy chàng lẫn trong đội bảo vệ ồn ĩ của đại tá Aurêlianô Buênđya bước vào nhà, thấy chàng tiều tuy vì phải lăn lộn nơi hải ngoại, thấy chàng già đi vì tuổi tác và sự lãng quên, thấy chàng nhớp nháp thứ mồ hôi quện bụi đường, hôi mùi hôi súc vật, thấy chàng xấu trai với cánh tay bị băng bất động ở trước nghe, lúc ấy cô thất vọng quá muốn chết luôn. "Trời ơi, - cô nói - người này không phải là người mình hằng mong đợi". Tuy nhiên, vào ngày hôm sau, chàng đến nhà trong tư thế bảnh bao hơn: đã cạo râu và tắm rửa, bộ ria mép thơm mùi oải hương, và cánh tay không đeo băng nữa. Chàng mang cho cô một cuốn kinh cầu nguyện bọc bìa cứng khảm xà cừ.
- Ôi, đàn ông mới lạ làm sao, - cô nói bởi không biết nói gì hơn. - Cả đời đấu tranh chống lại các thày tu, thế nhưng họ lại đi tặng sách kinh đấy.
Kể từ ngày đó, ngay dù trong những ngày chiến sự ác liệt nhất chiều nào chàng cũng đến thăm cô. Rất nhiều lần chàng quay bánh xe quay của chiếc máy khâu khi không có mặt Rêmêđiôt - Người đẹp. Amaranta cảm thấy lúng túng trước tấm lòng thuỷ chung son sắt, trước tinh thần tận tuy của người đàn ông được ông anh mình tin cậy uỷ thác cho nhiều quyền thế ấy mà khi bước vào phòng máy may vẫn cứ cởi vũ khí để ở ngoài phòng khách. Nhưng, trong bốn năm ròng chàng đã thổ lộ tình yêu của mình với cô và cô đã tìm được cách thoái thác mà không làm chàng đau khổ, bởi vì cô không yêu chàng, nhưng cũng thấy mình không thể sống thiếu chàng. Rêmêđiôt - Người đẹp, người dường như dửng dưng với mọi sự trên đời, bị coi là người kém phát triển trí tuệ, lại tỏ ra không thờ ơ lắm và đã ra vẻ mến đại tá Hêrinênđô Mackêt. Amaranta ngay lập tức phát hiện ra rằng cái cô bé do cô nuôi ấy tuy chưa ở tuổi dậy thì đã là cô gái đẹp nhất ở Macônđô rồi. Trong trái tim mình cô cảm thấy đang sống lại mối hận thù cô từng đối xử với Rêbêca trước đây, và cầu khẩn Thượng đế hãy đừng để mình phải mong cô bé chết, cô đã tống khứ nó khỏi phòng máy may của mình. Đó là thời kỳ đại tá Hêrinênđô Mackêt bắt đầu cảm thấy chán ghét chiến tranh. Chàng sử dụng đến sự thận trọng của mình, đến tính nết dịu dàng của mình, sẵn sàng từ bỏ vinh quang từng đổi bằng những năm tháng đẹp nhất của đời mình để chiếm lấy trái tim Amaranta. Nhưng chàng đã không thuyết phục nổi cô.
Vào một chiều tháng tám, đau khổ trước thái độ kiên trì của chàng, Amaranta ở lỳ trong phòng ngủ để khóc cho nỗi cô đơn của số phận mình, sau khi đã dứt khoát từ chối tấm lòng kiên trinh của chàng:
- Chúng ta hãy mãi mãi quên nhau đi, - cô nói với chàng, - bởi vì chúng ta đã nhỡ thì rồi.
Buổi chiều ấy đại tá Hêrinênđô Mackêt vội chạy đến đáp lời cú điện tín của đại tá Aurêlianô Buênđya. Đó là một buổi nói chuyện thường lệ không hề làm xoay chuyển cuộc chiến tranh trì trệ. Vào lúc kết thúc, đại tá Hêrinênđô Mackêt ngắm nhìn những con đường hiu quạnh, những giọt nước long lanh như pha lê trên tán những cây nạnh đào, rồi chàng lạc lối trong nỗi cô đơn.
- Aurêlianô này, - chàng buồn rầu nói qua cần manip - đang mưa ở Macônđô đấy!
Im lặng hồi lâu trên đường dây. Bỗng nhiên máy móc vang lên những tiếng tạch tè bực bội của đại tá Aurêlianô Buênđya.
- Đừng có mà lẩn thẩn thế, Hêrinênđô ạ, - những tín hiệu nói. - Dĩ nhiên tháng tám thì trời mưa.
Đã lâu lắm hai người không được nhìn mặt nhau, đến mức đại tá Hêrinênđô Mackêt phải ngạc nhiên trước thái độ phản ứng đầy vẻ khiêu khích ấy. Tuy nhiên, sau đó hai tháng, khi đại tá Aurêlianô Buênđya trở về Macônđô thì sự ngạc nhiên ấy trở thành một niềm vui đến bần thần cả người. Ngay đến cả Ucsula cũng phải ngạc nhiên khi thấy chàng thay đổi nhiều quá.
Lẩn mình trong chiếc áo khoác ngoài mặc dù đang lúc oi bức, chàng lặng lẽ trở về không hề có lính hộ vệ, mang theo ba ả nhân tinh. Chàng để họ cùng ở với mình trong một nhà, còn mình thì nằm dài trên võng gần như hết ngày. Hầu như chàng không đọc những bức điện thông báo tình hình chiến sự hàng ngày. Có lần, đại tá Hêrinênđô Mackêt xin chàng cho những lời chỉ dẫn để giải quyết một vấn đề đang có chiều hướng gây nhiều phiền phức trong quan hệ quốc tế ở một địa. điểm trên biên giới và được chàng trả lời:
- Đừng làm phiền ta vì những chuyện cỏn con này, - chàng ra lệnh cho đại tá. - Hãy đi hỏi đức Toàn năng ấy.
Có lẽ đó là giai đoạn căng thẳng nhất của cuộc chiến. Các tay địa chủ thuộc phái Tự do, những người ngay từ lúc đầu ủng hộ cách mạng, đã ngầm liên minh với các tay địa chủ thuộc phái Bảo hoàng để chặn đứng cuộc cải cách ruộng đất. Các chính khách từng tài trợ cho cuộc chiến tranh, ngay từ ở hải ngoại họ đã công khai phản đối những quyết định táo bạo của chàng. Nhưng chàng phớt lờ hết, ngay cả đối với sự phế truất quyền lực này. Chàng không đọc lại những bài thơ của mình giờ đây đã dày tới năm tập và thường xuyên bị bỏ quên dưới đáy rương. Về ban đêm hoặc vào giờ ngủ trưa, như thường lệ, chàng gọi một nhân tình lên võng hú hí với ả rồi sau đó lăn ra ngủ say như trâu chết, chẳng còn biết đến trời đất là gì nữa. Lúc ấy, chỉ có chàng mới hiểu rằng trái tim sôi nổi của mình đã vĩnh viễn bị đày vào cõi hỗn mang. Lúc đầu, say sưa trước thắng lợi trở về trước những thắng lợi quá hiển nhiên, chàng đã bước lên tột đỉnh vinh quang. Chàng hài lòng bám chặt lấy công tước Macbôru, người thày vĩ đại trong nghệ thuật quân sự của mình, người mặc chiếc áo khoác làm bằng da hổ vẫn giữ nguyên vuốt sắc khiến người lớn phải kính nể và trẻ con phải sợ hãi. Đó là lúc chàng quyết định không một ai, kể cả Ucsula, được đến gần chàng ba mét. Với những mệnh lệnh ngắn gọn và kiên quyết, chàng quyết định vận mệnh thế giới ngay từ trung tâm cái vòng tròn do những kẻ tuỳ tùng lấy phấn trắng vẽ ở bất kỳ nơi nào chàng đến và chỉ một mình chàng bước vào. Lần đầu tiên có mặt ở Manaurê, sau khi hành hình tướng Môncađa, chàng vội vã thực hiện nguyện vọng cuối cùng của nạn nhân mình. Bà quả phụ nhận lấy kính, huân chương, đồng hồ, nhẫn cưới nhưng không cho phép chàng bước chân qua cửa.
- Đại tá không nên vào nhà, - bà nói. - Ngài điều hành ngoài mặt trận, còn tôi, tôi điều hành trong nhà mình.
Tuy đại tá Aurêlianô Buênđya không để lộ ra mặt nỗi căm tức nhưng tâm trí chàng chỉ hết day dứt khi biết đám tuỳ tùng đã cướp phá và thiêu thành tro ngôi nhà bà quả phụ. "Xin anh hãy lo giữ gìn trái tim mình, Aurêlianô ạ", lúc ấy đại tá Hêrinênđô Mackêt nói với chàng. "Anh đang mục ruỗng trong lúc còn đang sống". Lúc này, chàng tổ chức hội nghị lẩn thứ hai các tướng lĩnh khởi nghĩa chủ chết. Chàng gặp mặt tất cả: các nhà ảo tưởng có, những kẻ nhiều tham vọng có, những tay mạo hiểm có, những kẻ nặng hiềm thù cá nhân có, và ngay cả đến những tên đầu trộm đuôi cướp cũng có. Cũng còn có một quan chức Bảo hoàng đã chạy trốn toà án vì tội biển thủ công quỹ.
Rất nhiều người không biết gì, kể cả vì sao mình chiến đấu họ cũng không biết nốt. Trong khung cảnh lộn xộn của đám đông mà sự khác biệt nhau về chính kiến suýt nữa gây ra vụ bùng nổ trong nội bộ, nổi bật lên một thế lực đáng sợ: đó. là tướng Têôphilô Vacgat. Ngài là một người Anhđiêng thuần gốc, thô bạo, mù chữ, nhưng lại có đức ranh mãnh ngầm và có tài dùng ma thuật vùng Tiểu Á để trói buộc quân linh mình trong một thứ cuồng tín điên rồ. Đại tá Aurêlianô Buênđya triệu tập Hội nghị với mục đích thâu tóm quyền chỉ huy quân khởi nghĩa vào tay mình để chống lại các thủ đoạn của đám chính khách.
Tướng Têôphilô Vacgat đã đi trước những dự định của chàng: Trong ít giờ đồng hồ ngài phá vỡ được sự thống nhất của một số viên tư lệnh nổi tiếng nhất và nhẩy lên nắm quyền chỉ huy chung. "Đó là một con mãnh thú cản phải dè chừng", chàng nói với các sĩ quan thuộc quyền mình. "Đối với chúng ta, con người ấy còn nguy hiểm hơn cả viên Bộ trưởng Bộ quốc phòng đấy".
Giữa lúc ấy có một viên đại uý trẻ, vốn thường trội hơn người đời bởi tính uỷ mị của mình, đã thận trọng giơ tay:.
- Thưa đại tá, thật quá dễ dàng, - viên đại uý trẻ nói để thăm dò. - Giết quách hắn đi là xong thôi mà!
Đại tá Aurêlianô Buênđya không ngạc nhiên trước tính chất giá lạnh của lời đề nghị được đưa ra mà trái lại chàng ngạc nhiên trước cái cách thức trong dó một phần tử thứ yếu đã đi trước chính sự suy nghĩ của mình.
- Các ngài đừng đợi ta ra cái lệnh ấy nhé, - chàng nói.
Quả nhiên, chàng không ra lệnh. Nhưng mười lăm ngày sau đó tướng Têôphilô Vacgat đã bị dao băm vằm trong một vụ phức kích bất ngờ và đại tá Aurêlianô Buênđya bước lên nắm quyền chỉ huy chung. Chính trong cái đêm chức vụ mời của chàng được tất cả các viên tư lệnh quân khởi nghĩa thừa nhận, chàng bỗng hoảng hốt bật thức dậy, gào toáng đòi người ta mang đến cho mình một chiếc áo khoác ngoài. Một cơn lạnh bên trong biết thấu tận xương, làm chàng nhức nhối, ngay lúc mặt trời đứng bóng cũng không để cho chàng yên. Tình trạng ấy kéo dài vài tháng cho đến khi chàng bị mất ngủ kinh niên. Cơn mơ quyền lực bắt đầu đổ vỡ từng mảng. Để tìm cách giải cơn rét bên trong chàng ra lệnh bắn viên sĩ quan trẻ nêu đề nghị giết tướng Têôphilô Vacgat. Các mệnh lệnh của chàng được thi hành trước lúc được ban bố, nhiều khi ngay cả trước khi chàng dự định và thường thường vượt quá mức chàng dám mong muốn. Lạc lối trong nỗi cô đơn của quyền lực vô biên, chàng bắt đầu mất phương hướng. Chàng khó chịu trước đám dân chúng ở những làng bị chiếm đóng tung hô mình và chàng cảm thấy họ chính là đám dân chúng từng tung hô kẻ thù của mình. Trên khắp các nẻo đường, chàng đều gặp những trang thiếu. niên nhìn mình với chính đôi mất mình, nói chính giọng nói của mình, chào chàng bằng chính sự nghi ngờ mà chàng đã chào chúng và đều nhận chúng là con của chàng. Chàng cảm thấy mình bị phân tán, bị lặp lại, và cảm thấy cô đơn hơn bao giờ hết. Chàng nhận ra chính đám sĩ quan của mình đã lừa phỉnh mình. Chàng đánh lộn với công tước Macbôru. "Người bạn tốt nhất, - chàng vẫn thường nhủ mình, - là người vừa chết xong".
Chàng mệt mỏi trước hoàn cảnh mơ hồ, trước vòng luẩn quẩn của cuộc chiến dằng dai ấy mà chàng luôn luôn bắt gặp mình ngay tại một địa điểm, chỉ có điều là chàng ngày một già thêm, ngày một yếu hơn mà không hề biết vì sao, như thế nào và đến bao giờ. Lúc nào cũng có kẻ đứng ở ngoài vòng phấn trắng. Đó là kẻ đòi tiền chàng, là kẻ có đứa con đang bị ho gà, hoặc là kẻ muốn đi ngủ mãi mãi vì không thể ngậm mãi trong miệng mình cái mùi vị cứt đái của chiến tranh, và là kẻ tuy nhiên vẫn cố gắng gượng đứng nghiêm để báo cáo: "Thưa đại tá, tất cả đều bình thường ạ". Và chính sự bình thường ấy, vốn có nghĩa là không có gì xảy ra, lại là cái đáng sợ hơn cả của cuộc chiến tàn bạo. Vì bị điềm báo bỏ rơi và để chạy trốn cơn rét bên trong cơ thể sẽ theo riết chàng cho tới khi chết, chàng tìm đến nơi ẩn nấp duy nhất ở làng Macônđô, trong hơi ấm của những kỷ niệm xa xưa ấy. Sự lười biếng của chàng thật là quá đáng đến mức khi người ta báo tin có phái đoàn của đảng đến để thảo luận về việc đình chiến thì chàng chỉ cựa mình trên võng, không hề thức dậy.
- Dẫn bọn nó đến nhà thổ nhé, - chàng nói.
Đó là sáu luật sư mặc áo đuôi tôm đội mũ phớt đang cố chịu đựng cái nóng ngột ngạt của tháng mười một gay gắt nắng.
Ucsula để họ trú chân ngay trong nhà mình. Phần lớn buổi ban ngày bọn họ đóng kín cửa ở lỳ trong phòng ngủ để lén lút bàn luận. Khi tối đến họ đòi cho một đội linh bảo vệ và một nhóm nhạc công đàn phong cầm rồi tự ý đến tiệm bác Catarinô. "Đừng làm phiền họ nhé", đại tá Aurêlianô Buênđya căn dặn. "Ta đã biết tỏng bọn chúng muốn gì rồi". Vào đầu tháng chạp, cuộc thảo luận từng chờ đợi lâu nay, được mọi người dự đoán là một cuộc thảo luận không thể kết thúc đã diễn ra trong không đầy một giờ. Trong phòng khách nực nụa, bên cạnh cây đàn pianô tự động được một tấm vải trắng phủ kín, lần này đại tá Aurêlianô Buênđya không ngồi vào chính giữa vòng phấn trắng do đám tuỳ tùng của mình vạch ra. Chàng ngồi trên một chiếc ghế giữa những cố vấn chính trị của mình. Cuộn mình trong chiếc áo khoác nỉ, chàng lặng lẽ nghe những đề nghị ngắn gọn của các sứ giả đặc nhiệm. Đầu tiên họ đề nghị bỏ việc kiểm tra văn tự ruộng đất để lấy lại sự ủng hộ của cánh địa chủ Tự do. Sau đó họ đề nghị từ bỏ cuộc đấu tranh chống ảnh hưởng của giáo hội để tranh thủ sự đồng tình của giáo dân. Cuối cùng họ đề nghị từ bỏ lý tưởng bình đẳng về quyền lợi giữa con hoang và con đích để bảo vệ tôn ty trật tự trong gia đình.
- Nghĩa là, - đại tá Aurêlianô Buênđya mỉm cười khi các sứ giả ngừng đọc, - chúng ta đang chiến đấu chỉ để giành chính quyền thôi.
- Đó chỉ là những cải cách tạm thời, - một đại biểu cãi lại. - Lúc này hơn lúc nào hết, điều căn bản là mở rộng cơ sở quần chúng của cuộc chiến. Sau đó chúng ta sẽ xem lại.
Một cố vấn chính trị của đại tá Aurêlianô Buênđya vội vã tham gia tranh luận.
- Thật là nhảm nhí, - ông ta nói, - nếu những cải cách này là đúng đắn thì điều đó muốn nói rằng: chế độ Bảo hoàng là tốt đẹp. Nếu bằng những cải cách này chúng ta mở rộng được cơ sở quần chúng của cuộc chiến thì điều đó muốn nói rằng chế độ Bảo hoàng đang có cơ sở quần chúng rộng lớn. Và nhìn chung, điều đó muốn nói rằng trong gần hai mươi năm nay chúng tôi đã chiến đấu chống lại lương tri dân tộc mình.
Ông ta còn định tiếp tục nói nhưng đại tá Aurêlianô Buênđya ra hiệu cho ông dừng lại. "Xin tiến sĩ đừng làm mất thời giờ", chàng nói. "Điều có ý nghĩa quan trọng là kể từ bây giờ trở đi chúng ta chiến đấu với mục đích duy nhất là giành lấy chính quyền". Chàng vẫn mỉm cười, cầm lấy những tờ giấy do các sứ giả đưa cho và sẵn sàng định ký.
- Gặp thời thế thế thời phải thế, - chàng kết thúc, - chúng tôi hoàn toàn chấp nhận mà.
Những người thuộc phe chàng thảng thốt đưa mắt nhìn nhau.
- Xin đại tá thứ lỗi cho, - đại tá Hêrinênđô Mackêt nhỏ nhẹ nói - Đó là một sự phản bội ạ?
Đại tá Aurêlianô Buênđya dừng ngọn bút đã chấm mực ở trên không và trút lên đầu đại tá Hêrinênđô Mackêt tất cả sức nặng quyền uy của mình:
- Nộp vũ khí cho ta, - chàng ra lệnh.
Đại tá Hêrinênđô Mackêt đứng dậy, đặt vũ khí lên bàn.
- Hãy trình diện ở trại lính, - đại tá Aurêlianô Buênđya ra lệnh cho chàng. - Anh sẽ phải chịu sự định đoạt của toà án cách mạng.
Sau đó chàng ký bản tuyên bố, trao giấy má cho các sứ giả và nói với họ:
- Hỡi các ngài, các ngài đã có giấy tờ của mình ở đấy cả rồi. Mong các ngài hãy tận hưởng chúng nhé.
Hai ngày sau đó, đại tá Hêrinênđô Mackêt bị tố cáo là kẻ phản bội, đã bị kết án tử hình. Nằm trên võng mình, đại tá Aurêlianô Buênđya cứ trơ lỳ trước mọi lời van xin khoan hồng cho đại tá Hêrinênđô Mackêt. Đêm trước ngày hành hình, bất chấp lệnh không được làm phiền chàng, Ucsula đã vào thăm chàng ngay trong phòng ngủ. Mặc bộ đồ đen tuyền phủ từ đầu đến phân, vẻ trịnh trọng khác thường, cụ đứng suốt ba phút trong lúc nói với chàng. "Ta biết mày sẽ bắn thằng Hêrinênđô, - cụ dõng dạc nói, - và ta không thể làm gì để ngăn chặn vụ hành hình này. Nhưng ta nói cho mày biết ngay sau khi thấy tử thi nó ta sẽ thề trước hài cốt của cha mẹ ta, trước vong linh của Hôsê Accađiô Buênđya, ta sẽ thề trước Thượng đế rằng dù mày trốn đi bất kỳ đâu ta cũng lôi mày ra và ta sẽ tự tay giết mày". Trước khi ra khỏi phòng, không đợi nghe con mình cãi lại, cụ kết thúc:
- Cũng như ta sẽ giết mày nếu mày sinh ra với cái đuôi con lợn.
Trong cái đêm dài đằng đẵng ấy, khi đại tá Hêrinênđô Mackêt nhớ lại những buổi chiều êm đẹp trong phòng máy may của Amaranta thì đại tá Aurêlianô Buênđya bức bối dằn vặt, cố cấu xé cho vỡ nát cái đêm dài dằng dặc, cái vỏ dai bọc quanh nỗi cô đơn của chàng. Quãng đời hạnh phúc duy nhất của chàng, kể từ buổi chiều xa xưa ấy khi cha chàng dẫn chàng đi xem nước đá, đã diễn ra trong xưởng kim hoàn, nơi thời gian cứ trôi đi trong lúc chàng miệt mài đúc những con cá vàng. Chàng đã phải khơi dậy ba mươi hai cuộc nội chiến, đã nhiều lần thoát chết, và đã phải tìm kiếm vinh quang như con lợn dũi đống rác tìm kiếm thức ăn, để gần bón mươi năm sau mới phát hiện ra ý nghĩa của câu phương ngôn "ngu si hưởng thái bình", một đức tính vốn có của sự nhẹ dạ cả tin.
Vào lúc trời rạng sáng, người phờ phạc mệt mỏi bởi đêm mất ngủ hành hạ, chàng xuất hiện trong xà lim tử tù trước lúc hành hình một giờ. "Trò hề đã hết rồi, anh bạn ạ", chàng nói với đại tá Hêrinênđô Mackêt. "Chúng mình sẽ ra khỏi nơi đây trước khi muỗi kịp hành hình anh". Đại tá Hêrinênđô Mackêt không thể kìm được sự khinh bỉ của mình trước thái độ ngạo mạn kia.
- Không đi đâu hết, Aurêlianô ạ, - chàng phản đối. - Tôi thà chết còn hơn phải nhìn thấy anh trở thành con dao đẫm máu.
- Anh sẽ không thấy tôi nữa mà, - đại tá Aurêlianô Buênđya nói. - Anh hãy đi giày vào và hãy giúp tôi kết thúc cuộc chiến bẩn thỉu này.
Ngay trong lúc nói chàng vẫn chưa hình dung nổi rằng khởi sự một cuộc chiến bao giờ cũng dễ dàng hơn nhiều so với việc kết thúc nó. Chàng cần tới một năm chiến đấu đẫm máu để buộc chính phủ phải đưa ra những để nghị hoà bình có lợi cho quân khởi nghĩa và một năm nữa để thuyết phục phe cánh mình nhất trí chấp nhận những điều kiện đó. Chàng đã bước tới những thái cực không muốn của tội ác để dìm tắt các cuộc khởi nghĩa của chính các sĩ quan dưới quyền mình, những người vẫn ngoan cường chiến đấu chống lại sự bán rẻ thắng Lợi của cuộc khởi nghĩa, để rồi kết thúc bằng việc chính chàng giúp đỡ cho các lực lượng thù địch hoàn toàn thống trị họ. Chưa bao giờ chàng là một chiến binh dũng mãnh như lúc ấy. Sự nhận thức sáng rõ rằng cuối cùng mình chiến đấu vì chính sự giải phóng mình chứ không phải vì những tư tưởng trừu tượng, vì những khẩu hiệu do các chính khách có thể phất phải hoặc phất trái tuỳ theo từng hoàn cảnh cụ thể, đã truyền cho chàng một nhiệt tình phấn khích mới. Đại tá Hêrinênđô Mackêt, người chiến đấu cho sự thất bại với tất cả lòng hăng say và trung thành như trước đây từng chiến đấu vì thắng lợi, đã phản đối sự sợ hãi vô tích sự của chàng. "Anh đừng lo", chàng nói. "Chết đâu có phải là quá dễ dàng như người ta tưởng". Trong trường hợp của chàng đó là sự thật. Niềm tin vững chắc rằng ngày chết của mình sẽ được báo trước đã phú cho chàng tính bất khả xâm phạm kỳ lạ, một sự bất tử, chắc chắn đến mức khiến chàng không thể bị thương trong những lúc xông trận nguy hiểm và cuối cùng đã cho phép chàng giành được một sự thất bại còn khó khăn hơn nhiều, còn đẫm máu và phải trả giá đắt hơn nhiều so với việc giành lấy một thắng lợi.
Trong gần hai mươi năm chiến tranh, đại tá Aurêlianô Buênđya đã nhiều lần có mặt ở nhà, nhưng trạng thái vội vã mỗi lần chàng trở về, cái bộ máy quân sự ồn ĩ theo chàng đi khấp các miền đất nước cũng như vầng hào quang huyền thoại ôm toả hình ảnh chàng và ngay đối với hình ảnh của chàng trong ánh hào quang huyền thoại ấy không ai cảm thấy gần gần kể cả chính Ucsula, tất cả những cái đó đã biến chàng thành một kẻ lạ lẫm. Lần cuối cùng chàng có mặt ở Macônđô và đã sử dụng một ngôi nhà cho ba ả nhân tình của mình ở, ngoài ra chỉ thấy chàng ở nhà mình hai hoặc ba lần, khi chàng có thời gian để trở về nhà ăn cơm theo lời mời của gia đình. Rêmêđiôt - Người đẹp và hai cậu bé sinh đôi, những kẻ sinh ra ở giữa thời buổi loạn lạc, hầu như không quen biết chàng. Amaranta không tìm ra mối tương đồng giữa hình ảnh ông anh đã để cả tuổi trẻ của mình trôi đi trong xưởng kim hoàn đúc những con cá vàng với hình ảnh một chiến binh huyền thoại từng cách ly mình với phần còn lại của. nhân loại bởi một khoảng cách dài ba mét.
Nhưng khi cô biết sắp có đình chiến và nghĩ rằng một lần nữa chàng trở về làm người bình thường, và cuối cùng chàng được tự do trở lại với trái tim của những người thân, thì tình cảm gia đình, bị ngủ quên đã khá lâu, nay sống lại mạnh mẽ hơn bao.
- Cuối cùng, - Ucsula nói, - một lần nữa chúng ta lại có người đàn ông trong nhà.
Amaranta là người đầu tiên hồ nghi rằng người ta đã làm cho chàng thất bại vĩnh viễn. Một tuần trước khi đình chiến, khi chàng bước vào nhà không có lính hộ vệ, theo sau là hai lính dõng đi chân đất, những người này đặt xuống hành lang tất cả các đồ thô do la chở, và một hòm đựng thơ, vật còn lại duy nhất trong số tư trang đẹp đẽ của chàng, thì cô thấy chàng đi qua trước phòng máy may và gọi chàng. Đại tá Aurêlianô Buênđya dường như khó nhận ra cô.
- Em là Amaranta đây! - cô nói đùa, vui vẻ vì anh mình trở về và chìa cho chàng xem tấm băng đen. - Hãy nhìn này, anh.
Đại tá Aurêlianô Buênđya nhoẻn một nụ cười y hệt nụ cười chàng nhìn thấy cô băng tay lần đầu tiên, cái lần chàng trở về Macônđô bị kết án tử hình.
- Ôi, thật khủng khiếp, - chàng nói, - thời gian trôi đi sao mà nhanh thế!
Quân đội thường trực có nhiệm vụ bảo vệ ngôi nhà. Chàng trở về trong tư thế bị áp giải, bị phỉ nhổ, bị buộc tội đã làm cho chiến tranh tái phát với mục đích bán nó đắt hơn. Chàng run lẩy bẩy vì sốt và vì rét và một lẩn nữa hai nách chàng lại sưng. tấy lên. Sáu tháng trước khi nghe tin sẽ có đình chiến, Ucsula đã mở cửa và quét dọn phòng của vợ chồng chàng rồi xông trầm hương khắp các xó xỉnh mà nghĩ rằng chàng sẽ trở về tĩnh dưỡng tuổi già bên cạnh những con búp bê lâu ngày không dùng đến của Rêmêđiôt. Nhưng thực ra, trong hai năm cuối cùng chàng đã trả cho cuộc đời những gì mình được hưởng kể cả phần mình hưởng trong tuổi già. Vào lúc đi qua xưởng kim hoàn từng được Ucsula chuẩn bị khéo léo, chàng không nhận ra ngay cả đến chùm chìa khoá đã cài sẵn ở ổ khoá. Chàng không cảm nhận gì hết ngay cả những hư hỏng dù lớn dù nhỏ do thời gian trôi đi đã để lại trong ngôi nhà và rằng sau một thời gian vắng nhà rất lâu ấy nếu một người vẫn giữ sống nguyên những kí niệm của mình hẳn phải thấy đó là một tai hoạ. Chàng không mảy may đau khổ trước những vết vôi lở trên tường, trước những mạng nhện giăng khắp các xó xỉnh, trước bụi bậm phủ trên các cây thu hải đường, trước những vết mọt lỗ chỗ mắt sàng trên xà nhà, trước rêu bám trên bậu cửa. Chàng ngồi ở ngoài hiên, vẫn đi ủng và cuộn mình trong chiếc áo khoác, như thể đang đợi trời tạnh mưa, và cứ ngồi nguyên như thế suốt buổi chiều ngắm mưa rơi trên những cây thu hải đường. Lúc ấy Ucsula hiểu rằng đã lâu lắm cụ không có chàng ở nhà này.
"Nếu không phải là chiến tranh; - cụ nghĩ, - thì chỉ có thể là thần chết". Đó là một dự đoán hết sức sáng rõ, có sức thuyết phức đến mức cụ đồng nhất nó với một điềm báo. Đêm ấy trong lúc ăn tối, cậu bé mạo danh Aurêlianô Sêgunđô cầm bánh bằng tay trái và múc súp bằng tay phải. Người anh em sinh đôi với cậu, mạo danh Hôsê Accađiô Sêgunđô, cầm bánh bằng tay phải và múc súp bằng tay trái. Bọn chúng cử động thật là nhịp nhàng đến mức không thể nghĩ là hai người ngồi đối diện nhau mà đó dường như là một người ngồi nhìn vào gương. Cảnh tượng hai đứa trẻ sinh đôi đồng cảm với nhau kể từ khi chúng có ý thức rằng chúng giống nhau như đúc được lắp lại để chào đón người mới trở về. Nhưng đại tá Aurêlianô Buênđya cũng không nhận ra nó. Dường như chàng xa lạ với tất cả, ngay đến việc Rêmêđiôt - Người đẹp khoả thân đi qua để vào phòng ngủ cũng không khiến chàng để ý. Ucsula là nhời duy nhất đã dám làm khuấy đảo cơn trầm tư mặc tưởng của chàng:
- Nếu con cần phải ra đi nữa, - cụ nói với chàng vào lúc giữa bữa ăn, - thì ít ra con cũng phải làm cái gì để chúng ta còn nhớ đêm nay chúng ta đã sống như thế nào nữa chứ!
Vậy là không một chút ngạc nhiên, đại tá Aurêlianô Buênđya nhận ra rằng Ucsula là người duy nhất đã đoán biết được nỗi đau của lòng mình, và lần đầu tiên trong rất nhiều năm chàng dám nhìn thẳng vào mắt cụ. Da cụ nhăn nheo, răng cụ khấp khiễng, tóc cụ khô héo và cái nhìn trên mắt cụ đầy vẻ thảng thốt. Chàng so sánh cụ với hình ảnh xa xưa của cụ mà chàng vẫn giữ được, hình ảnh cụ trong buổi chiều chàng đã nói ra điểm báo nói rằng cái nồi canh vừa sôi sẽ đổ khỏi bàn và quả nhiên nó đã đổ xuống đất vỡ tan từng mảnh. Ngay lập tức chàng nhận ra những vết nhăn nheo, những vết sần sùi, những vết chai, những vết sẹo đã để lại trên làn da cụ trong hơn một nửa thế kỷ làm lụng vất vả và chàng nhận thấy rằng những dấu vết ấy không mảy may làm lay động lòng mình. Ngay lập tức chàng cố vội tìm trong trái tim mình cái nơi có những tình cảm dã bị mục ruỗng và chàng đã không thể tìm ra. Chí ít ra, trong lúc khác, chàng cảm thấy xấu hổ khi bỗng nhiên chàng bắt gặp hơi hám của Ucsula trên làn da mình và nhiều lần chàng cảm thấy những suy tư của cụ đã giao thoa vào những suy tư của mình. Song tất cả những cái đó đều bị chiến tranh choán hết chỗ. Ngay trong thời điểm ấy, chính Rêmêđiôt, vợ chàng, cũng là hình ảnh mờ nhạt của một người nào đó có thể là con gái chàng. Những cô gái chàng quen biết trong nỗi hiu quạnh của tình yêu và là những người để chàng gieo rắc nòi giống mình trên khắp miền duyên hải, không một ai để lại dấu ấn trong tình cảm của chàng. Phần lớn các cô ấy đã bước vào phòng chàng ngủ lúc trời tối và đã ra đi trước khi trời sáng, và ngày hôm sau họ chỉ còn là một chút hoài nhớ bâng khuâng trong ký ức chàng. Tình cảm duy nhất vẫn trụ lại trước sức tàn phá của thời gian và chiến tranh là tình cảm chàng nhớ thương người anh trai Hôsê Accađiô khi cả hai người còn là trẻ thơ, chưa hề biết đến yêu đương mà chỉ cùng nghịch ngợm thôi.
- Xin mẹ thứ lỗi cho, - chàng nói để đáp lại yêu cầu của Ucsula. - Chỉ vì cuộc chiến tranh này đã huỷ hoại hết cả.
Những ngày sau đó, chàng loay hoay lo xoá sạch dấu ấn của mình từng hiện hữu trong cõi đời này. Chàng dọn quang quẻ xưởng kim hoàn, chỉ để lại những đồ dùng nào không gợi nhớ mình, phân phát quần áo của mình cho những người lính gác, rồi với chính ý nghĩ hối hận mà cha chàng đã có khi chôn ngọn giáo đâm chết Pruđênxiô Aghila, chàng chôn vũ khí của mình ở ngoài sân. Chàng chỉ giữ lại một khẩu súng lục với độc một viên đạn. Ucsula không dám can dự vào công việc của chàng. Chỉ có một lần duy nhất cụ khuyên giải chàng, ấy là lúc chàng sắp xé bức ảnh Rêmêđiôt được giữ gìn cẩn thận ở trong phòng và được một ngọn đèn lúc nào cũng thắp toả sáng chiếu vào. "Bức chân dung này đã từ lâu không thuộc về con nữa", cụ nói với chàng. "Đó là một bảo vật của gia đình". Đêm trước ngày ký hiệp định đình chiến, khi trong nhà không còn lấy một vật gợi người khác nhớ tới mình, chàng cắp chiếc hòm đựng năm tập thơ mang đến lò nướng bánh trong lúc Santa Sôphia đê la Piêđat đang chuẩn bị nhóm lò.
- Lấy cái này mà nhóm lò, - chàng nói rồi đưa cho cô cuộn giấy đã ố vàng. - Lò sẽ mau bốc lùa hơn bởi vì toàn là của đã lâu ngày rồi.
Santa Sôphia đê la Piêđat, người phụ nữ thầm lặng, người phụ nữ díu dàng, người không bao giờ cãi lại ai ngay cả với các con mình, nhận ngay ra đó là một hành động đã bị cấm.
- Đó là những giấy tờ quan trọng đấy, - cô nói.
- Chả có gì quan trọng đâu, - đại tá nói. - Đó là những trang giấy hoàn toàn riêng tư chỉ để cho ai viết người ấy đọc.
- Vậy thì, xin ông trẻ hãy đốt hộ, - cô nói.
Không những chàng đốt giấy mà còn lấy rìu chẻ thùng ra từng mảnh rồi đưa tất cả vào lò. Trước đó mấy giờ, Pila Tecnêra đã đến thăm chàng. Sau nhiều năm không nhìn thấy bà, đại tá Aurêlianô Buênđya vô cùng ngạc nhiên thấy bà đã già đì và béo đẫy ra quá nhiều, thấy bà đã đánh mất tiếng cười vang khanh khách, nhưng chàng cũng ngạc nhiên khôn xiết trước tài bói bài chính xác của bà. "Hãy giữ miệng", bà đã bảo chàng, và chàng tự hỏi, nếu như lần khác trong tột đỉnh vinh quang mà bà bảo chàng điều đó, thì liệu nó có phải là một cái nhìn đã bất ngờ ảnh hưởng tới số phận chàng không. Sau đó ít lâu, khi viên bác sĩ bảo vệ sức khoẻ đã lau xong mủ ở hai nách, không một chút hứng thú đặc biệt, chàng chỉ hỏi ông ta tim nằm chính xác ở dâu. Viên bác sĩ đã chỉ vào chỗ tim nằm rồi lấy bông bẩn thấm thuốc đỏ vẽ lên ngực chàng một vòng tròn.
Ngày thứ tư, cái ngày ký hiệp định đình chiến bừng sáng trong quang cảnh trời mưa và thời tiết ấm áp dễ chịu. Đại tá Aurêlianô Buênđya xuất hiện ở nhà bếp trước lúc năm giờ và như thường lệ uống cà phê không đường. "Con đã chào đời vào đúng cái ngày như thế này", Ucsula bảo chàng. "Tất cả mọi người ai cũng phải ngạc nhiên trước đôi mắt mở thao láo của con". Chàng không chú ý nghe cụ nói, bởi vì đang lắng nghe quân lính chuẩn bị, lắng nghe những hồi kèn đồng báo thức vang lên lanh lảnh và những tiếng hô ra lệnh đang làm xốn xang buổi bình minh. Dù sau nhiều năm chiến tranh, những tiếng động ấy dường như đã thân quen với chàng nhưng lằn này chúng lại khiến chàng có cảm giác rụng rời ở nơi đầu gối, có cảm giác rờn rợn nơi làn da từng cảm thấy trong tuổi thanh xuân khi đứng trước một người đàn bà khoả thân. Chàng nghĩ một cách hỗn độn, vào lúc đã bị nhất trong cạm bẫy của nỗi cô đơn, rằng nếu mình lấy cô gái ấy hẳn mình đã là một người đàn ông không lăn lộn trong chiến tranh và không mang quang vinh, đã là một thợ thủ công bình thường không tên tuổi, một con đực hạnh phúc. Chính cảm giác buồn muộn màng ấy, vốn không nổi bật lên trong các dự kiến của chàng, khiến chàng ăn sáng mà thấy đắng miệng. Vào lúc bảy giờ sáng, khi đại tá Hêrinênđô Mackêt đến tìm chàng để cùng đi trong nhóm sĩ quan cách mạng, đã bắt gặp chàng lầm lỳ, suy tư, cô đơn hơn bao giờ hết. Ucsula định khoác lên vai chàng chiếc áo khoác mới. "Chính phủ sẽ nghĩ như thế nào", cụ nói với chàng, "Họ sẽ nghĩ rằng con đầu hàng chẳng qua là vì con đã khánh kiệt tới mức không mua nổi một chiếc áo khoác". Nhưng chàng vẫn không chịu nhận chiếc áo khoác. Khi đã ra tới cửa, vì nhìn thấy trời vẫn mưa nên chàng đã để cụ đội cho mình chiếc mũ nỉ cũ của Hôsê Accađiô Buênđya.
- Aurêlianô con ạ, - lúc ấy cụ kịp nói với chàng, - hãy hứa với mẹ rằng nếu ở đấy con gặp điều rủi ro thì con hãy nghĩ tới mẹ mình. Hứa đi con!
Với cụ chàng mỉm một nụ cười lơ đễnh, giơ bàn tay xoè rộng năm ngón, rồi không nói lấy một lời chàng ra khỏi nhà mình để chường mặt trước những tiếng gào thét, những lời chửi bới và nguyền rủa theo chàng cho đến tận cổng làng. Ucsula cài thật chặt then cửa với ý định sẽ không mở trong suốt quãng đời còn lại của cụ. "Chúng ta sẽ chết mục trong. nhà", cụ nghĩ. "Chúng ta thà để tro phủ kín người ở trong ngôi nhà không có đàn ông này, chứ nhất định không để cho dân làng khốn nạn này thích thú nhìn chúng ta khóc"... Cả buổi sáng ấy cụ lực khắp các xó kín để tìm một kí niệm của con mình nhưng không sao tìm nổi.
Buổi lễ ký kết được tổ chức ở một địa điểm cách Macônđô chừng vài chục kilômét, ngay dưới bóng một cây gạo khổng lồ mà sau này thị trấn Neclanđia được thành lập. Đại biểu của chính phủ, của các đảng phái, của đội quân nộp súng đầu hàng được một nhóm ồn ĩ các cô nữ tu sĩ mặc áo trắng phục vụ, nom các cô giống như đàn bồ câu đang hoảng hốt trước trời mưa. Đại tá Aurêlianô Buênđya cưỡi trên lưng một con lừa lấm bê bết bùn đến địa điểm. Chàng không cạo râu, chàng đau đớn bởi cơn nhức nhối do nách sưng tấy hơn là do sự thất bại khủng khiếp của các mơ ước của chàng, bởi lẽ chàng đã đạt tới điểm tận cùng của mọi niềm tin, nó hơn cả vinh quang và hơn cả nỗi luyến tiếc vinh quang. Theo đúng như điều chàng đề nghị, buổi lễ không có âm nhạc, không có pháo nổ, không có chuông ngân reo vui, không có lời tung hô, không làm theo bất kỳ một kiểu phô trương hình thức nào để có thể làng đảo lộn tính chất tang tóc của lễ ký hiệp định đình chiến. Một bác phó nháy lưu động, vì chụp được ảnh chàng - tấm chân dung này có thể được lưu giữ - đã bị buộc phải huỷ ngay toàn bộ số phim mà không cần phải kiểm tra từng cái một.
Buổi lễ hầu như diễn ra trong thời gian vừa đủ để cho chữ ký ráo mực. Các sĩ quan, còn trung thành đến phút chót với đại tá Aurêlianô Buênđya ngồi xung quanh một chiếc bàn mộc thô đặt ở chính giữa rạp xiếc cũ, nơi có các đại biểu ngồi. Trước khi ký văn bản, vị đại diện cho Tổng thống nước cộng hoà định đọc to văn bản đầu hàng, nhưng đại tá Aurêlianô Buênđya đã kịp phản đối. "Không nên mất thời giờ trong các nghi thúc", chàng nói rồi định ký mà không cần đọc lại các văn bản. Một trong số các sĩ quan của chàng lúc đó phá vỡ cái không khí lặng lẽ đến mức nặng nề trong rạp xiếc.
- Thưa đại tá, - người ấy nói, - xin đại tá làm ơn đừng để chúng ta là những người ký trước ạ?
Đại tá Aurêlianô Buênđya dừng lại. Văn kiện đã đi một vòng quanh bàn trong không khí yên tĩnh tuyệt đối đến mức có thể đọc được các chú ký nhờ ngọn bút vẽ nguệch ngoạc trên giấy.
Chỗ ký đầu tiên vẫn còn để trống. Đại tá Aurêlianô Buênđya sẵn sàng đặt bút ký vào.
- Thưa đại tá, - lúc đó một viên sĩ quan khác của chàng nói, - ngài vẫn còn đủ thời gian để ký ạ.
Không hề mất bình tĩnh, đại tá Aurêlianô Buênđya ký bản sao thứ nhất. Chàng vẫn chưa ký bản sao cuối cùng thì ở ngoài cửa rạp xuất hiện một đại tá quân khởi nghĩa trẻ măng đang nắm cương một con lừa cái thồ hai chiếc hòm. Mặc dù đang lúc còn trẻ măng, người ấy để lộ vẻ điềm tĩnh đầy chua chát. Đó là người giữ công quỹ của lực lượng cách mạng ở quanh vùng Macônđô. Chàng trẻ tuổi đó phải trải qua sáu ngày đường cực nhọc, lôi chú lừa lả đi vì đói để đến kịp giờ ký kết hiệp định đình chiến. Với điệu bộ thư thả của người đang thất vọng, chàng trẻ tuổi dỡ hai chiếc hòm, mở tung chúng ra, rồi đặt lên bàn bảy mười hai viên gạch vàng từng viên từng viên một. Không một ai nhớ số của cải kếch sù ấy vẫn còn. Trong năm chiến tranh cuối cùng đầy biến động khi bộ chỉ huy trung ương bị vỡ từng mảng và cuộc cách mạng biến chất thành một cuộn đánh lộn đẫm máu giữa các viên tư lệnh, thật khó mà xấc định được bất kỳ một trách nhiệm nào thuộc về ai. Số vàng của quân khởi nghĩa, vốn bị nung chảy thành từng cục và sau đó được phủ một lớp bùn nung, trên thực tế không được một ai kiểm soát. Đại tá Aurêlianô Buênđya bảo liệt ghi bảy mươi hai viên gạch vàng ấy vào danh sách của cải do phía quân cách mạng đầu hàng giao cho chính phủ rồi kết thức lễ ký kết mà không cho phép ai đọc diễn văn. Anh thanh niên gầy còm xanh tái ấy vẫn đứng trước mặt chàng với đôi mắt màu hổ phách nhìn thẳng vào mắt chàng.
- Còn gì nữa chàng trẻ tuổi? - đại tá Aurêlianô Buênđya hỏi.
Đại tá trẻ tuổi nghiến hai hàm răng lại:
- Chứng từ! - chàng trẻ tuổi nói.
Đại tá Aurêlianô Buênđya chìa cho anh chứng từ do chính tay chàng viết. Sau đó, chàng uống một cốc nước chanh và một chiếc bánh biscô do các cô nữ tu sĩ phân phát; rồi chàng đi về một trong những gian lều người ta chuẩn bị sẵn nếu chàng muốn nghỉ ngơi. Tại đây, chàng cởi áo sơ mi, ngồi lên mép chiếc giường một. Vào lúc ba giờ mười lăm chiều, chàng chĩa mũi súng lục vào ngay vòng tròn do viên bác sĩ bảo vệ sức khoẻ lấy thuốc đỏ vẽ lên ngực mình rồi bóp cò. Ở Macônđô vào đúng cái giờ ấy Ucsula mở vung nồi sữa nấu trên bếp lửa, ngạc nhiên thấy rằng sao nó lâu sởi thế và cụ thấy giòi bọ đầy trong nồi sữa.
- Người ta đã giết Aurêlianô rồi, - cụ thảng thốt kêu lên.
Cụ nhìn ra sân, ngoan ngoãn vâng theo thói quen cô đơn của mình, rồi lập tức cụ nhìn thấy Hôsê Accađiô Buênđya, người đầm đìa nước mưa vẻ buồn bã vì trời mưa và già đi rất nhiều so với lúc cụ mất. "Người ta đã giết nó vì tội phản bội, - Ucsula bình giá, - và chẳng một ai làm ơn vuốt mắt cho nó". Đêm xuống, qua làn nước mắt cụ nhìn thấy những cái đĩa tròn vàng óng ánh màu da cam vù vù bay trên trời giống như những tia chớp và cụ nghĩ đó là dấu hiệu của thần chết. Cụ vẫn ngồi dưới bóng cây dẻ, gục đầu trên đầu gối chồng mình mà sụt sùi khóc, trong lúc người ta khiêng đến cho cụ đại tá Aurêlianô Buênđya, với đôi mắt mở trừng trừng đầy giận dữ cuộn mình trong chiếc áo khoác bê bết máu khô.
Chàng không bị nguy hại đến tính mạng. Viên đạn xuyên một đường thẳng tắp qua ngực chàng đến mức viên bác sĩ lấy một sợi dây đã dấm thuốc đỏ luồn từ ngực ra sau lưng. "Đây là tác phẩm tuyệt vời của tôi", ông ta nói với chàng vẻ sung sướng. Đó là điểm duy nhất mà một viên đạn xuyên qua không hề gây thương tổn cho bất kì bộ máy bên trong nào". Đại tá Aurêlianô Buênđya thấy xúm quanh mình là các cô nữ tu sĩ khốn khổ đang tụng những bài nhã ca buồn thương cầu cho vong linh chàng được thảnh thơi nơi yên nghỉ vĩnh hằng và lập tức chàng hối hận đã không bắn ngay vào hàm ếch miệng mình như chàng đã dự tính và chàng đã không bắn như vậy chỉ là để chế giễu lời phỏng đoán của Pila Tecnêra.
- Nếu ta vẫn còn quyền lực, - chàng nói với viên bác sĩ - ta sẽ bắn chết anh mà không cần phải xét hỏi. Không phải vì anh đã cứu sống ta mà vì anh đã biến ta thành trò cười cho thiên hạ.
Việc tự vẫn không thành đã trả lại cho chàng uy danh từng mai một. Chính những người mọc chuyện cho là chàng bán rẻ chiến tranh để lấy ngôi nhà với bốn bức tường xây toàn gạch bằng vàng đã khẳng định sự tự vẫn ấy là một hành động cao thượng và do đó đã tuyên bố chàng là một người tuẫn tiết. Sau đó, khi chàng từ chối Huân chương Công Huân do ngài Tổng thống nước Cộng hoà tặng thì ngay đến cả những kẻ tử thù cũng đã phải lần lượt đến diễu hành qua phòng ngủ của chàng để yêu cầu chàng không công nhận các điểm trong bản hiệp định đình chiến và khơi dậy một cuộc chiến tranh mới. Vì cảm động trước sự ủng hộ rộng lớn của các bạn chiến đấu cũ, đại tá Aurêlianô Buênđya không từ chối khả năng thoả mãn ý nguyện của họ. Trái lại, đã có lúc dường như chàng quá phấn chấn trước ý nghĩ về một cuộc chiến tranh mới mà đại tá Hêrinênđô Mackêt nghĩ rằng chỉ chờ một cái cớ nào đó nó sẽ được tuyên bố ngay. Quả nhiên, nguyên cớ đã xuất hiện khi ngài Tổng thống nước Cộng hoà từ chối việc trợ cấp khoản lương hưu chiến tranh cho các cựu chiến binh kể cả phe Tự do cũng như phe Bảo hoàng một khi mỗi hồ sơ cá nhân chưa được xem xét và luật trợ cấp lương hưu chiến tranh chưa được Quốc hội thông qua. "Đó là một sự lạm dụng", đại tá Aurêlianô Buênđya nổi cáu, "Rồi người ta sẽ chết già hết trong lúc chờ đợi thư từ phúc đáp". Lần đầu tiên chàng bỏ trống chiếc ghế xích đu do Ucsula mua để chàng tĩnh dưỡng, đi đi lại lại trong phòng đọc một bức điện dứt khoát gửi ngài Tổng thống nước Cộng hoà. Trong bức điện này chàng tố cáo những vi phạm đầu tiên của phía chính phủ đối với hiệp định đình chiến Neclanđia và đe doạ sẽ tuyên bố chiến tranh nếu như lương hưu không được giải quyết trong vòng mười lăm ngày. Thái độ của chàng rất đúng đắn đến mức nó cho phép chờ đợi sự ủng hộ của tất cả, ngay cả sự đồng tình của các cựu chiến binh thuộc phái Bảo hoàng. Nhưng lời phúc đáp duy nhất của chính phủ là sự tăng cường lính gác trước cửa nhà với lí do để bảo vệ ngôi nhà và cấm ngặt tất cả các cuộc lui tới thăm viếng. Những biện pháp tương tự cũng đã được áp dụng trong toàn quốc đối với các tướng lĩnh bị quản thức. Đó là một chiến dịch rất đúng lúc, rất thô bạo và cũng rất hiệu nghiệm đến mức hai tháng sau hiệp định đình chiến, khi đại tá Aurêlianô Buênđya bình phục hoàn toàn, những người bạn chiến đấu gần gũi nhất của chàng đều đã chết hoặc đã bị trục xuất hoặc đã hoàn toàn quy phục trước ách quản thúc công khai.
Vào tháng chạp, đại tá Aurêlianô Buênđya bước ra khỏi phòng ngủ và chỉ cần liếc mắt nhìn hành lang là đủ để chàng không còn nghĩ đến chiến tranh nữa. Với sức sống dường như không thể có ở tuổi mình, Ucsula đã làm tất cả để thanh xuân hóa ngôi nhà. "Giờ thì họ sẽ biết ta là ai", cụ nói khi biết chắc con mình sẽ sống. "Trong thị trấn này sẽ không có ngôi nhà nào sang trọng hơn, mở rộng cửa đón gió bốn phương hơn là ngôi nhà những người điên này". Cụ sai lau chùi nhà, quét vôi nhà, thay mới bàn ghế giương tủ, sửa lại vườn hoa và trồng thêm hoa mới rồi mở toang mọi cửa: cửa ra vào và cửa sổ, để ánh sáng mùa hè rực rỡ tràn vào tận phòng ngủ. Cụ quyết định thôi để tang những người thân chết kế tiếp nhau, và hình cụ cũng mặc lại những bộ váy áo đậm màu xuân trẻ thay cho những bộ váy áo cũ quá xuềnh xoàng. Âm nhạc lại vang lên từ cây đàn pianô tự động khiến cho không khỉ trong nhà thêm vui tươi hơn. Vào lúc nghe âm nhạc ấy, Amaranta lại da diết nhớ Piêtrô Crêspi, nhớ bông hoa dành dành ngà vàng cài trên ve áo, nhớ mùi oải hương lan tỏa từ người chàng. Và tự trong trái tim héo hắt của cô đã bừng nở một tình cảm trong sáng, được thanh sạch nhờ thời gian. Một buổi chiều dọn dẹp cho gọn gàng phòng khách, Ucsula đã nhờ các chú lính gác ngôi nhà giúp cho một tay. Người chỉ huy trẻ tuổi của đội gác cho phép cụ. Dần dà, Ucsula nhở họ làm hộ cả những việc khác. Cụ mời họ ăn cơm, cho họ quần áo và giày tất, dạy họ học đọc học viết. Khi chính phủ bỏ việc canh gác, một trong số những người linh ấy đã ở lại nhà hầu hạ cụ trong nhiều năm.
Ngày tết Năm mới bừng sáng với việc người chỉ huy trẻ tuổi của đội gác, cuồng điên trước những hành vi vô ý vô tứ của Rêmêđiôt - Người đẹp, đã chết vì tình ngay bên cạnh cửa sổ phòng cô gái.
CHƯƠNG 10
Những năm sau này, hấp hối trên giường bệnh, Aurêlianô Sêgunđô đã nhớ lại buổi chiều mưa tháng sáu cái buổi chiều anh bước vào phòng ngủ để nhận mặt đứa con trai đầu lòng của mình. Mặc dù đứa trẻ yếu ớt và hay khóc, không hề giống một người nào trong nhà Buênđya, anh chẳng phải suy nghĩ lao lung mới đặt nổi tên cho nó.
- Sẽ gọi nó là Hôsê Accađiô, - anh nói.
Phecnanđa Đên Cacpiô, cô vợ kiều diễm anh mới cưới năm ngoái, đã đồng ý gọi tên đứa bé như vậy. Về phần mình, Ucsula đã không thể giấu nổi cảm giác đau đớn bâng khuâng Trong lịch sử lâu dài của gia đình, việc gọi tên trùng nhau từ thế hệ này sang thế hệ khác cho phép cụ rút ra những kết luận hẩu như đã được khẳng định. Trong khi những người mang tên Aurêlianô là những người âu sầu lại rất thông minh thì những người mang tên Hôsê Accađiô là những người nông nổi và táo bạo; nhưng tất cả đều bị số phận bi thảm in dấu. Những trường hợp duy nhất khó phân biệt là trường hợp của Hôsê Accađiô Sêgunđô và Aurêlianô Sêgunđô. Lúc còn ở tuổi ấu thơ cả hai đều quá giống nhau và lại hay nghịch ngợm đến ngay cả Santa Sôphia đê la Piêđat cũng chịu không phân biệt nổi hai anh em sinh đôi này. Trong ngày lễ đặt tên, Amaranta đeo cho mỗi người một tượng thánh có khắc tên và mặc cho họ bộ quần áo khác màu đánh dấu bằng chữ đầu viết tắt tên mỗi người; nhưng khi vào lớp, hai người đã đổi tên, đổi quần áo, đổi tượng thánh cho nhau. Thày giáo Menchô Escalôna, do đã quen nhận mặt Hôsê Accađiô Sêgunđô nhờ chiếc áo sơ mixanh, bỗng nhầm lẫn khi phát hiện ra cậu này đeo tượng thánh mang tên Aurêlianô Sêgunđô và rằng mặc dù cậu kia tự xưng tên là Aurêlianô Sêgunđô nhưng lại mặc áo sơ mi trắng và đeo tượng thánh khắc tên Hôsê Accađiô Sêgunđô. Bắt đầu từ đấy không còn biết đích xác ai là ai. Ngay cả khi họ đã trưởng thành và cuộc sống đã làm cho họ khác nhau, Ucsula vẫn tiếp tục tự hỏi lòng mình nếu ở một thời điểm nào đó họ không phạm một khuyết điểm trong trò chơi gây nhiều nhầm lẫn phiền phức của mình thì chắc hẳn họ đã thay đổi nhiều. Ngay cả khi bước vào tuổi thanh niên, họ vẫn là hai cỗ máy đồng thời. Họ dậy cùng một lúc, thấy cần phải vào cầu tiêu cùng một giờ, cùng chịu cơn trái nắng trở trời và họ mơ thấy những giấc mơ giống hệt nhau. Ở nhà, ai cũng tin rằng bọn họ thống nhất hành động là do cố ý muốn gây nhầm lẫn cho mọi người chứ không một ai hiểu nổi bản chất của họ; cho đến một hôm Santa Sôphia đê la Piêđat đưa cho người nây cốc nước chanh, rồi sau đó bà thấy người kia nói chưa có đường. Thực thế, bà quên không cho đường vào nước chanh. Santa Sôphia đê la Piêđat đem chuyện này kể lại cho Ucsula nghe. "Con cái nhà này đều thế cả", cụ nói vẻ không hề ngạc nhiên. "Chúng điên rồ ngay từ bé". Thời gian trôi đi cũng kết thúc luôn sự đảo lộn các sự vật. Cậu bé trong các trò chơi nhầm lẫn vẫn được gọi tên là Aurêlianô Sêgunđô đã có thân hình vạm vỡ của ông nội và cậu kia vẫn được gọi là Hôsê Accađiô Sêgunđô đã có thân hình mảnh khảnh của ngài đại tá, và điểm duy nhất hai người giống nhau chính là vẻ cô đơn của dòng họ. Có lẽ sự hoán vị hình hài, tên tuổi và đặc tính ấy chính là điều khiến Ucsula phải nghi ngờ rằng: ngay từ tuổi thiếu nhi, họ đã bị xáo trộn như người ta chương quân bài. Sự khác nhau rõ rệt giữa hai người được thể hiện rõ trong thời chiến tranh ác liệt nhất khi Hôsê Accađiô Sêgunđô xin đại tá Hêrinênđô Mackêt cho mình cùng đi xem các vụ hành hình.
Ngược với suy nghĩ của Ucsula, nguyện vọng của cậu đã được thoả mãn. Trái lại, Aurêlianô Sêgunđô cảm thấy bủn rủn cả người khi nghĩ tới việc mình có mặt trong buổi hành hình. Cậu bé chỉ thích ở nhà. Vào lúc lên mười hai tuổi, cậu hỏi Ucsula có gì trong phòng đóng kín cửa kia. "Giấy má thôi", cụ trả lời cậu, "đó là sách của Menkyađêt và những điệu quái dị cụ viết trong những năm cuối đời". Câu trả lời đáng lẽ sẽ làm cho cậu yên lòng thì lại càng kích thích tính tò mò của cậu. Cậu khẩn khoản đòi vào xem, tha thiết hứa với cụ sẽ không làm hư hại các thứ trong đó, đến mức Ucsula không đành lòng được, buột phải đưa chìa khoá cho cậu. Không ai bước vào căn buồng nữa kể từ khi người ta khiêng từ thi Menkyađêt đi; và lắp vào cửa một chiếc khoá sắt lâu ngày han gỉ đã làm liệt các bộ phận của nó. Song, khi Aurêlianô Sêgunđô mở toang các cửa sổ, thấy một luồng ánh sáng thân thuộc dường như vẫn thường chiếu sáng căn buồng vào tất cả mọi ngày; căn buồng không có bụi bậm phủ, không có mạng nhện giăng, mà trái lại tất cả đều sạch sẽ, có lẽ còn được quét dọn và lau chùi kỹ lưỡng hơn cả ngày đưa đám tang cụ, mực trong lọ vẫn không khô, gỉ sắt vẫn không làm các dụng cụ kim loại mất đi vẻ bóng nhoáng; cả than lửa trong bếp nơi Hôsê Accađiô Buênđya đun thuỷ ngân vẫn không tắt. Trên các giá là những cuốn sách được đóng bìa cứng bằng các tông màu nâu nhạt giống như da người thuộc và cả những trang viết tay cỏn tươi màu mực. Mặc dù phòng bị đóng kín cửa trong nhiều năm, không khí nơi đây dường như vẫn trong sạch hơn các nơi khác trong ngôi nhà. Tất cả đều rất mới đến mức vài tuấn sau đó khi Ucsula mang một xô nước và một cái chổi vào phòng để lau quét sàn thì cụ chẳng phải làm gì cả. Aurêlianô Sêgunđô đang say đắm đọc một cuốn sách. Mặc dù cuốn sách này mất bìa và không có nhan đề, cậu bé thưởng thức câu chuyện một người phụ nữ ngồi bên bàn lấy đũa gắp từng hạt cơm ăn; câu chuyện về một ngư dân mượn anh hàng xóm một cục chì để gài vào lưới đánh cá và con cá sau này bác trả cho anh hàng xóm mang trong bụng nó một hạt ngọc; chuyện cây đèn thần thoả mãn mọi ước nguyện và những chiếc thảm bay.
Vẻ đầy cao hứng, cậu bé hỏi Ucsula rằng có phải những chuyện này đều có thật không, và cụ đã trả lời cậu rằng phải đấy, rằng trước đây lâu lắm rồi, những người digan mang đến làng Macônđô những cây đèn thần và cả những tấm thảm bay.
- Có điều là, - cụ thở dài, - thế giới ngày một khánh kiệt và do đó không thấy có các vật ấy nữa.
Khi đọc xong cuốn sách có nhiều truyện bỏ dở vì mất trang, Aurêlianô Sêgunđô chuyển sang dịch các bản viết tay. Đó là công việc không thể làm được. Các con chữ giống như quằn áo móc trên dây thép, và nhìn chung nó giống bản nhạc ghi trên giấy hơn là một áng văn chương. Có một buổi trưa nực nữa nọ, trong lúc dò đoán các bản chép tay, cậu bé cảm thấy không chỉ có mình mình ở trong phòng. Menkyađêt ngồi ở đấy, quay lưng lại phía cửa sổ, hai tay đặt trên gối. Cụ vẫn mặc chiếc áo khoác ngoài cổ quái và đội chiếc mũ vành cánh quạ cụp, mồ hôi bết tóc chảy thành giọt qua hai thái dương, y hệt hình ảnh cụ từng được Aurêlianô và Hôsê Accađiô nhìn thấy từ khi họ còn nhỏ tuổi. Ngay lập tức Aurêlianô Sêgunđô nhận rõ cụ, bởi vì ký ức di truyền ấy được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, và nó đến với cậu từ trí nhớ của ông nội cậu.
- Chào cụ, - Aurêlianô Sêgunđô nói.
- Chào anh bạn trẻ, - Menkyađêt trả lời.
Kể từ dạo ấy, trong vài năm, hầu như chiều nào họ cũng gặp nhau. Menkyađêt nói với cậu bé về thế giới, cố truyền lại cho cậu tri thức cổ xưa của mình, nhưng cụ từ chồi dịch những trang viết tay.
"Chẳng một ai nên biết ý nghĩa trong khi chúng chưa được trăm năm", cụ giải thích. Aurêlianô Sêgunđô mãi mãi giữ kín các cuộc hội ngộ này. Cũng có lúc cậu bé cảm thấy thế giới riêng của mình bị đánh đổ, bởi vì Ucsula đã vào phòng đúng lúc Menkyađêt đang có mặt. Nhưng cụ đã không nhìn thấy.
- Cháu nói chuyện với ai thế? - cụ hỏi.
- Chả nói với ai cả, cố ạ? - Aurêlianô Sêgunđô trả lời.
- Cố nội mày cũng thế đấy, - Ucsula nói, - Ông ấy cứ nói chuyện một mình thôi.
Trong khi đó, Hôsê Accađiô Sêgunđô lại mãn nguyện khi được xem một buổi hành hình. Cả đời mình, cậu sẽ nhớ mãi ánh lửa chớp sáng của sáu viên đạn cùng bắn một lúc và tiếng súng nổ vọng lại từ các ngọn núi xung quanh, rồi nhớ đến nụ cười buồn bã và đôi mắt thảng thốt của kẻ bị bắn, người vẫn hiên ngang đứng trong lúc máu chảy ra thấm đẫm áo sơ mi, người vẫn mỉm cười ngay cả lúc người ta cởi trói cho mình khỏi cọc xử bắn và nhét mình vào chiếc quan tài đầy vôi bột. "Vẫn còn sống", cậu nghĩ. "Người ta sẽ chôn sống anh ta". Cậu sợ lắm, sợ đến mức từ dạo đó cậu nguyền rủa nghề lính và chiến tranh, không chỉ vì các vụ xử bắn mà chủ yếu vì thói quen kinh tởm chôn sống những người bị hành hình. Vậy là không một ai biết từ lúc nào cậu bắt đầu kéo chuông nhà thờ, bắt đầu giúp cha Antôniô Isaben, người được mệnh danh là En Cacharô(1) đến thay cha xứ, bắt đầu chăm sóc các chú gà chọi được nuôi trong sân tu viện. Khi đại tá Hêrinênđô Mackêt biết chuyện, chàng đã mắng mỏ cậu bé một hồi vì tội học những nghề nghiệp vốn bị những người Tự do lên án.
- Vấn đề là, - cậu bé trả lời, - dường như cháu đã trở thành một người Bảo hoàng.
Cậu tin điều đó như thể đó là một sự khẳng đinh của nỗi bất hạnh. Đại tá Hêrinênđô Mackêt bực dọc, đã kể lại câu chuyện cho Ucsula nghe.
- Càng tốt, - cụ tán thưởng. - Lạy Chúa, nó sẽ trở thành một nhà tu hành để cuối cùng Thượng đế đến nhà này.
Ngay lập tức mọi người biết rằng cha Antôniô Isaben đang chuẩn bị làm lễ ban thánh thể đầu tiên cho cậu. Cha dạy cậu học bổn trong lúc vặt lông cổ các chú gà chọi. Cha lấy những ví dụ đơn giản dễ hiểu để giảng giải cho cậu trong lúc cha đặt các cô gà mái ấp vào ổ như đã từng xảy ra với Thượng đế trong ngày Sáng thế thứ hai, ngày những chú gà con được hình thành trong quả trứng. Ngay từ dạo ấy vị mục sư để lộ những triệu chứng lẩm cẩm đầu tiên của tuổi già mà nhiều năm sau này nó đã dẫn cha đến việc nói rằng có thể quỷ dữ đã chiến thắng cuộc khởi nghĩa trái với ý của Thượng đế, người ngồi trên ngai vàng thượng giới, không để lộ hình hài của mình trước mắt những kẻ ngu khờ. Được tôi rèn bởi lòng dũng cảm của thày học, ít tháng sau Hôsê Accađiô Sêgunđô đã trở thành một người rất am hiểu những thủ thuật tôn giáo để đánh lừa ma quỉ đồng thời cũng là người giàu kinh nghiệm nuôi gà. Amaranta may cho cậu một bộ quần áo vải lanh có cổ cồn và cà vạt, mua cho cậu một đôi giày trắng và mạ chữ vàng tên cậu trên những dải lụa buộc vào cây nến. Hai đêm trước ngày lễ ban thánh thể đầu tiên cho cậu, cha xứ Antôniô Isaben đóng kín kho đồ thánh để cùng với cậu làm lễ xưng tội, có sự giúp đỡ của cuốn sổ ghi tên các tội lỗi. Đó là một danh mục rất dài đến mức vị mục sư già, vốn quen đi ngủ từ lúc sáu giờ đã ngủ khì trên ghế xích đu trước khi kết thúc.
Những câu hỏi là một điều khải thị đối với Hôsê Accađiô Sêgunđô. Cậu không ngạc nhiên thấy cha xứ hỏi mình đã chung đụng với đàn bà chưa, và cậu đã hãnh diện trả lời rằng không, nhưng cậu lại hoang mang khi cha hỏi mình có chung đụng với súc vật không. Tháng năm, vào ngày thứ sáu đầu tiên, cậu chịu lễ ban thánh thể mà lòng quặn đau vì tính tò mò. Sau đó, cậu hỏi Pêtrômô, tu sĩ ốm yếu giữ kho đồ thánh, sống ở trên tháp chuông, và theo như lời đồn đại gã ăn đom đóm để sống, và Pêtrôniô đã trả lời cậu: "Là bởi vì có đạo hữu đê mạt đã ngủ với lừa cái đấy". Hôsê Accađiô Sêgunđô vẫn cứ ngạc nhiên hơn bao giờ hết, vẫn cứ đòi phải giải thích nhiều hơn nữa đến mức Pêtrôniô mất bình tĩnh.
- Tôi đi vào các tối thứ ba hàng tuần, - gã thú nhận. - Nếu cậu hứa không nói với ai thì ngày thứ ba tới tôi sẽ dẫn cậu đi.
Quả nhiên, ngày thứ ba tới, Pêtrôniô vác một chiếc ghế gỗ mà cho đến lúc này không một ai biết nó được dùng làm gì, đi xuống khỏi tháp chuông, dẫn Hôsê Accađiô Sêgunđô ra một vườn gần đấy. Cậu bé đam mê với những đêm phiêu lưu ấy, đến mức sau đó rất lâu người ta mới thấy cậu xuất hiện ở tiệm nhẩy bác Catarinô. Cậu trở thành người chơi gà chọi. "Hãy mang những con vật ấy đi nơi khác", Ucsula bảo khi lần đầu tiên cụ nhìn thấy cậu mang những con gà chọi đẹp về nhà. "Những con gà ấy từng mang về nhà này biết bao cay đắng mà bây giờ mày còn mang thêm đau khổ cho chúng ta nữa sao". Hôsê Accađiô Sêgunđô không cãi lại cố nội mình, lặng lẽ mang những chú gà chọi đi nuôi ở nhà Pila Tecnêra, bà nội cậu, người sẵn sàng chiều theo ý cậu để cậu có mặt ở nhà mình. Ngay lập tức cậu đã tỏ rõ kiến thức của cha Antôniô Isaben ngay ở sới chọi gà, chuẩn bị nhiều tiền không những đủ để làm giàu thêm những con gà mình nuôi mà còn lo thoả chí tang bồng. Ở thời điểm này, Ucsula đã so sánh cậu với người em cậu và cụ đã không thể hiểu nổi làm sao hai người sinh đôi trong thời thơ ấu giống nhau như đúc mà giờ đây khác nhau hoàn toàn. Cụ cũng chẳng phải ngẩn ngừ gì lâu trong ý nghĩ ấy bởi ngay lập tức Aurêlianô Sêgunđô đã bắt đầu lười nhác. Lúc ngồi trong phòng Menkyađêt, cậu là người trầm tư mặc tưởng y hệt đại tá Aurêlianô Buênđya thời trẻ. Nhưng trước khi có hiệp định Neclanđia ít lâu, một cuộc gặp gỡ tình cờ đã lôi cậu ra khỏi thế giới nội tâm, buộc cậu phải đối mặt với cuộc sống thực. Đó là việc một người đàn bà trẻ, vốn làm nghề bán vé xổ số treo giải một chiếc phong cầm, đã niềm nở chào cậu. Aurêlianô Sêgunđô không hề ngạc nhiên bởi vì vẫn thường xảy ra việc người ta nhầm cậu với người anh mình. Nhưng cậu chẳng cần đính chính ngay cả khi cô ả định dùng tiếng khóc sụt sùi làm mềm nhũn trái tim mình, do đó ả đã dẫn cậu về phòng ngủ. Ngay từ cuộc gặp gỡ đầu tiên, ả quý mến cậu lắm đến mức trong khi mở xổ số ả đã gian lận để cậu giành được cây phong cầm. Sau vài tuần, Aurêlianô Sêgunđô nhận ra rằng người đàn bà này đã xen kẽ ngủ với cậu và anh cậu mà cứ tưởng rằng hai người là một, và lẽ ra phải làm cho rõ nhẽ thì cậu lại lờ đi để kéo dài tình trạng hai anh em cùng chung đụng xác thịt với một người đàn bà. Cậu không trở lại phòng Menkyađêt. Chiều nào cậu cũng ở ngoài sân mê mải học đàn phong cầm bất chấp lời chửi bới của Ucsula, người đã cấm chơi nhạc vì trong nhà lúc đó đang có tang, và ngoài ra còn coi khinh đàn phong cầm là đồ chơi của những kẻ giang hồ kế nghiệp cụ Phranxixcô - Con Người. Tuy nhiên, Aurêlianô Sêgunđô đã trở thành một tay chơi đàn phong cầm nổi tiếng và vẫn cứ nổi tiếng sau khi cưới vợ, có con và trở thành người được kính nể hơn cả trong thị trấn Macônđô.
Trong khoảng vài tháng, cậu cùng với anh mình chia sẻ các đêm hoan lạc với người đàn bà ấy. Cậu theo dõi anh mình, làm anh mình nhỡ kế hoạch, và khi chắc chắn rằng Hôsê Accađiô Sêgunđô đêm ấy sẽ không đến với người đàn bà thì cậu sẽ mò đến ngủ. Có một buổi sáng nọ, cậu phát hiện ông anh mình bị ốm. Hai ngày sau, cậu bắt gặp ông anh mình đang bám chặt vào vì kêo trong cầu tiêu, người đầm đìa mồ hôi và nước mắt giàn giụa đang khóc lóc, và thế là cậu hiểu. Anh cậu thú nhận rằng người đàn bà đã ruồng bỏ anh ta vì cái tội lây bệnh lậu cho ả. Anh cậu cũng kể lại chuyện Pila Tecnêra đã chữa bệnh ấy như thế nào. Aurêlianô Sêgunđô lén lút ra những bãi rửa nóng bỏng chất permanganato và uống nước lợi tiểu. Cả hai người lành bệnh sau ba tháng âm thầm chịu đựng đau đớn. Hôsê Accađiô Sêgunđô không đi lại với người đàn bà nữa. Aurêlianô Sêgunđô nhận được sự tha thứ của ông anh, và gắn bó với người đàn bà cho đến mãn đời.
Người đàn bà ấy tên là Pêtra Côtêt. Ả với người chồng sống bằng nghề xổ số đến Macônđô vào giữa lúc chiến tranh đang ác liệt và khi anh chồng chết ả vẫn tiếp tục hành nghề. Đó là một người phụ nữ lai đen sạch sẽ và trẻ trung, đôi mắt hình quả hạnh đào màu hung vàng khiến bộ mặt ả dữ tợn như mặt báo, nhưng ả có trái tim hào hiệp và nghệ thuật mồi chài ái tình rất tuyệt vời. Khi Ucsula biết được Hôsê Accađiô Sêgunđô đã là người chơi gà chọi và Aurêlianô Sêgunđô chơi phong cầm trong những đêm vui náo nhiệt ở nhà nhân tình thì cụ tức phát điên lên. Điều đó giống như thể hai người này đã tập trung trong họ tất cả những gì xấu xa, kém cỏi của gia đình và không nối dõi được những đức tính quý báu của gia đình. Vậy là cụ quyết định sẽ không một ai được gọi bằng tên Hôsê Accađiô và tên Aurêlianô. Tuy nhiên, khi Aurêlianô Sêgunđô có con trai đầu lòng và đặt tên cho nó là Hôsê Accađiô thì cụ đã không dám trái ý cậu.
- Được thôi ta đồng ý, - Ucsula nói, - nhưng với điều kiện phải để ta nuôi dạy nó.
Dẫu rằng đã là cụ già trăm tuổi và suýt loà vì màng đã kéo sắp kín con ngươi, nhưng cụ vẫn giữ nguyên thể trạng sức khoẻ, không hề trái thói trái nết cũng không hề lẫn cẫn. Không ai giỏi bằng cụ trong việc dạy dỗ người đàn ông danh giá có thể khôi phục danh dự của gia đình, một người đàn ông không bao giờ nghe nói đến chiến tranh, đến gà chọi, đến gái điếm đến các nghề nông nổi, đó là bốn thảm hoạ, mà theo sự suy nghĩ của Ucsula, đã dẫn tới sự sụp đổ của dòng họ cụ. "Thằng bé này sẽ trở thành thày tu", cụ trang trọng hứa. "Và nếu như Thượng đế để ta sống, nó sẽ là Giáo hoàng". Khi nghe thấy thế tất cả đều phá lên cười, không chỉ ở trong phòng và trong toàn ngôi nhà lúc này đang có mặt những người bạn vui nhộn của Aurêlianô Sêgunđô. Chiến tranh, vì bị lãng quên bởi chính trí nhớ tồi, bỗng nhiên sống dậy trong tiếng mở nút chan sâm banh.
- Nào, hãy chúc mừng sức khoẻ Đức giáo hoàng, - Aurêlianô Sêgunđô nâng cốc nói.
Các vị khách mời đồng thanh chúc tụng. Sau đó, chủ nhà chơi phong cầm. Pháo nổ rền và trống khua rộn cả làng. Sáng sớm, những vị khách chếnh choáng hơi men sâm banh mổ liền sáu con bò cái rồi bày thịt ra đường sẵn sàng mời đám đông cùng dự cuộc vui. Không một ai ngạc nhiên. Kể từ khi Aurêlianô Sêgunđô đứng lên trông nom gia đình, những cuộc vui tương tự như thế là chuyện thường tình, mặc dù chúng chưa hề có lý do chính đáng như tiệc vui lần này nhằm chúc mừng sự chào đời của một đức Giáo hoàng. Trong ít năm cậu đã tích cóp được một gia sản thuộc hàng lớn nhất ở vùng đầm lầy không cần phải công phu gì lắm, mà trái lại chỉ đơn thuần nhờ vận may, đó là sự sinh sôi cực kỳ mau mắn của các đàn gia súc. Bò cái đẻ sinh ba, gà mái một ngày hai lần đẻ trứng, còn lợn thì lớn nhanh như thổi. Không một ai có thể lý giải được sự giàu có dường như là kết quả của phép màu nhiệm. "Bây giờ phải hà tằn hà tiện", Ucsula nói với thằng chắt ăn tiêu hoang toàng. "Vận may chẳng theo suốt đời mày đâu". Nhưng Aurêlianô Sêgunđô không nghe lời cụ. Trong lúc càng mở nút sâm banh thết bạn thì súc vật của anh càng đẻ như điên và anh càng tin rằng cái vận đỏ của mình không khởi sự ở việc làm ăn biết tính toán mà khởi sự ở ảnh hưởng của Pêtra Côtêt, nhân tình của anh, người có tình yêu đủ sức làm mủi lòng con tạo. Anh rất yên lòng rằng đó là cội nguồn của cải của mình và do đó không bao giờ anh để cho Pêtra Côtêt ở xa đàn gia súc, và ngay cả khi đã cưới vợ và có con, anh vẫn sống với ả trong sự đồng loã của Phecnanđa. Với thân xác rắn rỏi và vâm váp như thân xác của cố nội và ông nội mình, nhưng hơn họ ở tính tình vui vẻ và hồn nhiên, Aurêlianô Sêgunđô hầu như không có đủ thời gian để chăm nom đàn gia súc của mình. Chỉ cần anh mang Pêtra Côtêt đến các chuồng trại, để ả ngồi trên ngựa dẫn ả đi chơi các trang trại là đủ cho súc vật của anh phải sinh con đẻ cái rất nhanh.
Như tất cả các sự vật tốt đẹp từng xảy ra trong cuộc đời dài của mình, số của cải bất kham ấy dường như được con tạo định trước. Ngay trong thời kỳ cuối của chiến tranh, Pêtra Côtêt vẫn phát hành vé xổ số và đôi lúc Aurêlianô Sêgunđô vẫn phải ăn cắp tiền của Ucsula để trang trải mọi tốn kém. Bọn họ thoải mái chung sống với nhau, không hề bận tâm ngoài việc lo lắng để đêm nào cũng ngủ với nhau, ngay cả trong những ngày cần kiêng cữ, để hú hí với nhau cho tới khi trời sáng. "Cái con đàn bà ấy sẽ làm cho mày phải điêu đứng đấy", Ucsula mắng mỏ thằng chắt anh mỗi khi thấy nó bước vào nhà như một kẻ mắc chứng mộng du. "Nó đã làm cho mày ngớ ngẩn, rồi một ngày nào đó ta sẽ thấy mày quằn quại vì đau đớn với con cóc ôm trong bụng đấy". Hôsê Accađiô Sêgunđô, vốn phải mất rất nhiều thời gian mới phát hiện ra việc thằng em trai xỏ mũi mình, không thể hiểu được nỗi đam mê của em trai. Anh nhớ Pêtra Côtêt như một người đàn bà dễ dãi, đúng hơn là người ươn lười trên giường và hoàn toàn nhạt nhẽo đối với tình yêu.
Làm ngơ trước những lởi mắng mỏ của Ucsula, và trước những lời chế giễu của anh mình, Aurêlianô Sêgunđô chỉ nghĩ sẽ gặp được một nghề cho phép anh duy trì ngôi nhà cho Phecnanđa và để chết với nàng, trên nàng và dưới nàng trong một đêm xả láng cuồng nhiệt. Khi đại tá Aurêlianô Buênđya mở lại xưởng kim hoàn, do niềm vui thanh thản của tuổi già lôi cuốn ngài, thì Aurêlianô Sêgunđô nghĩ rằng nếu theo nghề chế tạo những con cá vàng cũng là một điều tốt. Anh ở trong căn phòng nhỏ nực nụa nhiều giờ liền xem những tấm kim loại cứng được ngài đại tá kiên trì rèn đục đã dần trở thành những cái vẩy óng ánh.
Anh thấy công việc rất tỉ mẩn trong khi đó nỗi nhớ Pêtra Côtêt lại hết sức thôi thúc và da diết đến mức chỉ ba tuần sau anh biến khỏi xưởng. Đó là thời kỳ Pêtra Côtêt đang phát tài bằng việc lấy thỏ treo giải để mở xổ số. Những con thỏ này sinh ra và lớn nhanh như thổi. Chúng nhiều vô kể. Dù có tăng vé và số lần quay số lên nhiều lần ả vẫn không dùng hết thỏ vào việc trả thưởng. Thoạt đầu, Aurêlianô Sêgunđô không nhận ra những con thỏ này đã sinh sản như thế nào. Nhưng có một đêm, khi không một ai trong làng muốn bàn tán về các cuộc xổ số lấy thỏ, anh cảm thấy có tiếng sấm động ngay bên tường. "Anh đừng có mà giật mình nhé!", Pêtra Côtêt nói, "đó là những con thỏ đấy!". Bọn họ không thể ngủ thêm được nữa, băn khoăn trán trở vì nỗi lo cho đàn gia súc. Vào lúc trời hửng sáng, Aurêlianô Sêgunđô nở cửa và nhìn thấy ở sân lúc nhúc những thỏ là thỏ, lông xanh mượt trong ánh bình minh. Pêtra Côtêt cười ngặt nghẽo, không hể kìm được ý muốn chòng ghẹo anh:
- Những con thỏ này là những con vừa sinh ra đêm quạ lấy - ả nói.
- Eo ơi, sợ quá? - anh nói - Vì sao mình không thử với bò cái xem?
Ít ngày sau đó, dọn dẹp lại sân nhà, Pêtra Côtêt nuôi ở sân một con bò cái thay cho đàn thỏ. Vài tháng sau, con bò cái đẻ đinh ba. Mọi sự đều bắt đầu từ đấy. Nhanh như chớp, Aurêlianô Sêgunđô đã trở thành ông chủ, nắm trong tay nhiều ruộng đất và nhiều đàn gia súc và hầu như anh không có đủ thời gian để mở rộng hơn nữa các chuồng gia súc và bãi thả gia súc. Đó là một sự giàu có ngây ngất mà ngay chính anh cũng phải buồn đời và không thể tự kiềm chế nổi thái độ quá trớn để bộc lộ nỗi tiềm vui sướng của mình. "Hỡi những con bò cái, hãy giạng đáng ra kẻo cuộc đời quá ư ngắn ngủi", anh gào lên. Ucsula tự hỏi không biết anh đã phạm tội gì, nếu không ăn cắp thì cũng một tên ăn trộm gia súc và cứ mỗi bận nhìn thấy anh mở nút hai sâm banh chỉ để xịt bọt nó lên đầu mình một cách thích thú thì cụ chửi bới anh vì tội phá gia chi tử. Cụ không để cho anh yên thân lấy một lúc, do đó có một ngày Aurêlianô Sêgunđô lúc dậy với niềm vui điềm tĩnh, cầm một sọt tiền giấy, một xô hồ và một chổi phết hồ, hát trong họng những bài hát cũ của cụ. Phranxixcô - Con Người, rồi dán những tờ bạc một đồng pêsô lên tường nhà, dán từ trên xuống dưới, cả bên trong lẫn bên ngoài. Ngôi nhà cũ, vốn được quét vôi trắng từ hồi mua cây đàn pianô tự động, nay có vẻ mặt lạ lẫm dễ lầm với giáo đường của đạo Hồi. Trong khung cảnh lộn xộn của gia đình, trong lúc Ucsula bực tức, trong niềm vui của dân làng đổ ra đường để chứng kiến cảnh hợm mình của kẻ vén tay đốt nhà táng, Aurêlianô Sêgunđô cũng vừa dán xong những đồng tiền giấy lên nhà, kể từ bức tường mặt tiền đến tận nhà bếp, kể cả cầu tiêu và phòng ngủ, rồi ném số tiền thừa xuống sân.
- Bây giờ thì, - anh nói, - ta mong rằng không một ai trong nhà này sẽ xỉ vả ta về tiền bạc nữa.
Chuyện xảy ra là như thế. Ucsula sai bóc các tờ bạc bê bết dính các mảng vôi tường, và quét vôi trắng tường nhà. "Hỡi Thượng đế lòng lành của con", cụ cầu khẩn, "hãy làm cho chúng con lại nghèo như cái thuở mới thành lập làng này, để ở cuộc đời khác ngài khỏi bắt tội chúng con vì đã hoang phí tiền của". Những lời cầu khẩn của cụ được nghe theo nghĩa ngược lại. Quả có thế. Một người làm công lột những tờ bạc khỏi tường đã vô ý đụng phải bức tượng thánh Hôsê, một bức tượng thạch cao khổng lồ do một người nào đó đã đem đến nhà vào lúc chiến tranh sắp kết thức, và nó vỡ tiếng ra khi chạm phải mặt đất. Bên trong nó đựng toàn tiền vàng. Không một ai còn nhớ người nào đã mang tới nhà bức tượng to bằng cỡ người thực. "Ba người đàn ông đã mang nó tới", Amaranta nói. "Người ta nhờ tôi nói lại với nhà ta sẽ trông bức tượng này cho đến khi nào mùa mưa qua đi, và tôi đã bảo họ là hãy đặt ở đấy, ở trong xó kia, để không ai va chạm phải, và bọn họ đã cẩn thận để nó ở đấy và cũng từ dạo ấy nó vẫn nguyên ở đấy, vì chẳng bao giờ thấy họ trở lại tìm nó". Gần đây, Ucsula đã thắp nến và quỳ lạy trước bức tượng thánh Hôsê mà vẫn không nghi ngờ rằng: bên trong bức tượng thánh ấy lại có gần hai trăm ki lô vàng. Sự hiển linh muộn màng của lòng tin đa thần giáo trong cụ càng khoét sâu thêm nỗi lo lắng của cụ. Cụ nguyền rủa đống tiền vàng đáng giá này, nhét chúng vào ba tải gai, rồi chôn chúng ở một địa điểm kín đáo, để chờ đợi ba người lạ mặt sẽ đến đòi nó. Mãi về sau này, trong những năm tháng vất vả của tuổi già, Ucsula vẫn thường xen vào các buổi nói chuyện của các vị khách lạ lúc ấy đến nhà để hỏi rằng trong lúc loạn lạc họ có để ở đây một bức tượng thánh Hôsê bằng thạch cao nhờ gia đình trông hộ trong thời kỳ mưa gió không?
Những sự kiện ấy, vốn thường làm cho Ucsula lo lắng nhiều, lại là chuyện thường tình trong thời kỳ này. Macônđô bị chìm ngập trong sự tàn phá màu nhiệm. Những ngôi nhà tranh vách đất của các bậc sáng nghiệp giờ đây được thay thế bằng những ngôi nhà gạch, sàn láng xi măng và có rèm chắn nắng đan bằng những phiến gỗ nhỏ. Những ngôi nhà này càng làm cho không khí vốn đã nóng càng oi nóng hơn vào lúc hai giờ chiều. Cái làng cũ của cụ Hôsê Accađiô Buênđya lúc này chỉ còn lại những cây hạnh đào phủ đầy bụi sẵn sàng chịu đựng những hoàn cảnh còn khó khăn hơn nhiều, và con sông nước trong như pha lê mà những tảng đá thời tiền sử của nó đã bị đập vỡ thành từng mảnh vụn dưới sức nện điên cuồng những cú búa quai xuống của Hôsê Accađiô Sêgunđô, khi anh khởi sự công việc nạo vét lòng sông để thiết lập đường thuỷ trên con sông này. Đó là một giấc mơ khùng khùng điên điên có thể so sánh với những ước mơ của các vị tiền bối mình, bởi vì lòng sông ngổn ngang đá tảng cũng như các thác ghềnh trên nó đã ngăn cản sự đi lại bằng tàu thuyền từ Macônđô ra biển. Nhưng Hôsê Accađiô Sêgunđô, trong quyết tâm táo bạo thiếu tính toán, đã say sưa lao vào công việc. Cho đến lúc này anh vẫn chưa hề bộc lộ khả năng tính toán của mình. Ngoại trừ mối tình ngắn ngủi với Pêtra Côtêt, chưa bao giờ anh quen biết phụ nữ. Ucsula coi anh là một điển hình cho sự kém thông minh mà gia đình mình, trong lịch sử trường tồn của nó, đã sản sinh ra. Anh hầu như không có khả năng tự làm nổi bật mình ngay cả khi anh là người sành sỏi chơi gà chọi. Khi đại tá Aurêlianô Buênđya kể cho anh nghe về chiếc tàu Tây Ban Nha nằm cách biển mười hai kilômét, mà mạn tàu của nó bị hoá thành than đã được chính mắt ngài nhìn thấy trong lúc còn chiến tranh, thì câu chuyện này đối với những người khác trong thời gian dài có vẻ ma quái nhưng đối với anh là một điều dễ hiểu. Anh bán hết gà chọi với giá cao nhất, tập hợp trai làng và bỏ tiền ra mua cưa đục rồi khởi sự công việc to lớn gồm việc phá đá, khoét lòng sông bạt ghềnh, vượt thác... "Cái đó thì ta biết tỏng", Ucsula nói. "Cứ như thể thời gian chạy vòng tròn và giờ dây chúng ta trở lại từ đầu". Khi anh tin chắc rằng có thể cho tàu bè đi lại trên sông dược, Hôsê Accađiô Sêgunđô liền trình bày thật tỉ mỉ các kế hoạch của mình và người em dã cho anh đủ số tiền chi dùng cho công việc. Anh vắng mặt một thời gian dài. Người ta đang bàn tán rằng kế hoạch mua một chiếc tàu thuỷ của anh chỉ là một thủ đoạn để lấy tiền của ông em thôi, cũng là lúc một tin được lan truyền rộng rãi: một chiến thuyền đang tiến về gần thị trấn. Dân Macônđô, vốn đã quên khuấy những kỳ tích của cụ Hôsê Accađiô Buênđya, ồn ào kéo nhau ra bờ sông và với con mắt nghi ngờ họ đã nhìn thấy một con tàu đầu tiên đang từ từ tiến đến. Đó là con tàu đầu tiên và cũng là con tàu cuối cùng đã cập bến ở đây. Thực ra nó chỉ là một bê gỗ được hai mươi người đàn ông đi bộ dùng dây chão to cùng hò nhau kéo đi. Đứng ở cuối thuyền, với ánh mắt sáng đầy hào hửng, Hôsê Accađiô Sêgunđô diều khiển chuyến đi tốn kém này. Cùng về với anh còn có một tốp gái làng chơi diêm dúa đội những chiếc ô lộng lẫy để che ánh nắng gay gạt, trên vai quàng những tấm khăn lụa quý giá mặt trét bự son phấn, đầu gài hoa, những con rắn vàng cuốn lấy cánh tay và hàm răng cấy hạt ngọc. Cái bè gỗ ấy là phương tiện giao thông duy nhất mà Hôsê Accađiô Sêgunđô đã có thêm đẩy ngược dòng về tới Macônđô và cũng chỉ một lần ấy thôi. Nhưng sẽ không bao giờ anh chịu thừa nhận đó là sự thất bại của mình trong công việc khởi đầu, mà trái lại, lúc nào anh cũng tuyên bố đó là chiến tích của mình, là "một thắng lợi của ý nguyện". Anh trút lên vai em mình tất cả những tốn kém của chuyến đi được tính toán chi li. Cái duy nhất còn lại trong chuyến khởi đầu bất lợi này là luồng gió mới do những gái làng chơi theo mốt Pháp mang đến thị trấn. Nghệ thuật chiều đàn ông tuyệt vời của họ đã làm thay đổi lối chơi gái truyền thống, và ý nghĩa phúc lợi xã hội của nó đã đánh đổ tiệm bác Catarinô, biến đường phố thành một cái chợ chung với những ngọn đèn pha kiểu Nhật Bản và những chiếc máy hát phát ra những bản nhạc buồn nhớ. Họ là động lực cổ vũ ngày hội Cacnavan dẫm máu từng dìm Macônđô trong sợ hãi liền ba ngày và kết quả duy nhất còn lại mãi mãi của nó là việc nó tạo điều kiện cho Aurêlianô Sêgunđô làm quen với Phecnanđa đên Cacpiô.
Rêmêđiôt - Người đẹp, dược chọn làm hoa hậu. Ucsula, từng run sợ trước sắc đẹp mê hồn của cô chắt gái, không thể làm gì để ngăn cản việc tuyển chọn này. Cho đến tận lúc ấy cụ vẫn tìm mọi cách để không cho cô ra đường, nếu như không phải đi lễ mixa cùng với Amaranta, nhưng cụ buộc cô phải dùng tấm mạng đen che kín mặt. Những người đàn ông ít thành kính, những kẻ giả danh thày tu để làm lễ mixa bất kính ở tiệm bác Catarinô, đã đi nhà thờ với mục đích duy nhất để xem, dù chỉ một thoáng thôi, khuôn mặt của Rêmêđiôt - Người đẹp, mà sắc đẹp huyền thoại của nàng từng dược bàn tán sôi nổi khắp vùng đầm lầy. Chuyện ấy xảy ra khá lâu trước khi họ tìm được dịp là đối với họ cái dịp này còn quan trọng hơn, bởi vì rất nhiều người trong số họ sau khi chiêm ngưỡng nhan sắc của Rêmêđiôt - Người đẹp, đã không bao giờ lấy lại được giấc ngủ bình an. Con người đã có thể tạo nên dịp ấy là một kẻ lạ mặt, đã vĩnh viễn đánh mất cái thanh thản của tâm hồn mình, đã rơi vào tâm thể trầm tư mặc tưởng và đau khổ dễ bị kích động, và mấy năm sau đã bị tàu hoả nghiến nát vì ngủ quên trên đường ray. Ngay từ lúc người ta thấy mặt chàng tại nhà thờ mặc bộ quần áo nỉ trắng xanh thì không một ai nghi ngờ rằng chàng là người lạ mặt đã từ phương xa, có thể là một thành phố cổ xưa nào đó ở tít trong nội địa, tới đây do bị cám dỗ bởi sắc đẹp của Rêmêđiôt - Người đẹp. Chàng là một người rất đẹp trai, hào hoa và nhã nhặn, thân thể cân xứng hài hoà đến mức nếu Piêtrô Crêspi ở bên cạnh chàng thì chỉ là một kẻ ốm yếu hom hem. Rất nhiều phụ nữ thì thầm với nhau trong lúc mỉm cười buồn bã rằng chàng là người xứng đáng với cô gái. Chàng không đi lại với ai ở Macônđô. Chàng có mặt vào lúc sáng sớm ngày chủ nhật, giống như một hoàng tử trong truyện cổ tích cưỡi trên lưng chú ngựa thắng bô yên nỉ và bàn đạp. Đó là tư thế hiện hữu của chàng, vì với tư thế đó ngay từ hồi đầu tiên thấy chàng trong nhà thờ tất cả mọi người đều đồng ý với nhau rằng đó là một đám tang thầm lặng và nặng nể, một cú giao kèo bí mật, một nỗi thất vọng ê chề mà kết quả của nó khòng thể là tình yêu giữa chàng và Rêmêđiôt - Người đẹp, mà phải là cõi chết. Đến lần thứ sáu có mặt ở nhà thờ vào các ngày chủ nhật chàng công tử xuất hiện tay cầm một bông hồng vàng. Chàng đứng nghe kinh mixa, như lâu nay chàng vẫn đứng như thế, rồi khi kết thúc lễ mixa chàng tiến lên chặn bước Rêmêđiôt - Người đẹp và tặng cô bông hồng đơn lẻ. Với vẻ tự nhiên cô nhận bông hoa, như thể cô đã được chuẩn bị sẵn để đón nhận sự dâng tặng ấy, rồi ngay lập tức, trong chớp mất cô vén mạng để lộ khuôn mật và mỉm cười cám ơn chàng. Đố là tất cả những gì cô gái làm. Nhưng cái phút chớp nhoáng ấy là một khoảnh khắc bất tử không những đối với chàng công tử mà còn đối với tất cả những người đàn ông có vinh hạnh được sống cái khoảnh khắc nhức nhối ấy.
Từ lúc đó, công từ lập ban nhạc ngay cạnh cửa sổ phòng Rêmêđiôt - Người đẹp, và đôi lúc ban nhạc chơi cho đến sáng hôm sau. Aurêlianô Sêgunđô là người duy nhất đồng cảm với chàng, và định làm cho chàng tỉnh mộng. "Không nên mất thời gian thêm nữa", anh nói với chàng vào một đêm nọ. "Con gái nhà này còn ngu hơn cả lừa đấy". Anh kết thân với chàng, mời chàng cùng tắm trong sâm banh, cố làm cho chàng hiểu rằng con gái nhà mình có "lòng dạ sắt đá" nhưng vẫn không lay chuyển được quyết tâm của chàng. Khó chịu trước những đêm nhạc kéo dài không dứt, ngài đại tá Aurêlianô Buênđya đã đe doạ dùng báng súng lục để chữa cho chàng cái bệnh tương tư.
Không gì có thể buộc chàng phải từ bỏ mối tình si ấy, ngoại trừ tình trạng loạn trí đáng thương của chính mình. Từ một người đàn ông hào hoa và đứng đắn, chàng trở nên xấu tính và rách rưới. Người ta đồn rằng chàng đã từ bỏ quyền lực và của cải ở quê hương xa xôi của mình, mặc dù trên thực tế không một ai biết đích xác nguồn gốc của chàng. Chàng trở nên người hay cãi vã người chạy bàn trong cái quán giải khát, và rồi một hôm thức dậy người đầm đìa cứt đái của chính mình ngay trong tiệm bác Catarinô. Điều đáng buồn nhất trong tấm thảm kịch của chàng là Rêmêđiôt - Người đẹp không bao giờ để ý đến chàng ngay cả khi chàng xuất hiện trong tư thế một hoàng tử ở nhà cô. Cô thản nhiên nhận bông hồng vàng không hề có ý xấu mà đúng hơn còn thích thú trước cử chỉ quá ư hào phóng của chàng, và cô vén tấm mạng lên cốt để nhìn rõ mặt chàng chứ đâu phải để chàng nhìn thấy mặt mình.
Thực ra, Rêmêđiôt - Người đẹp không phải là một người thuộc cõi thế tục này. Cho đến ngay khi cô đã quá tuổi dậy thì khá lâu rồi, Santa Sôphia đê la Piêđat vẫn còn phải tắm và mặc quần áo hầu cô, và ngay cả khi cô đã có ý thức về mình rồi bà vẫn cứ phải để mắt canh chừng kẻo cô lấy cứt mình vẽ những con vật lên tường nhà. Hai mươi tuổi đầu rồi mà cô vẫn chưa học đọc và học viết, vẫn chưa ngồi vào bàn ăn và tự dùng lấy thìa nĩa, vẫn cứ để truồng thỗn thện đi lại trong nhà, bởi vì bản thể con người cô không chịu được bất cứ hình thức lễ nghi nào. Khi người chỉ huy trẻ tuổi của đội gác thổ lộ tình yêu với cô thì cô đã đơn giản cự tuyệt anh vì những lời nói nông nổi của anh khiến cô quá đỗi ngạc nhiên. "Bà thấy chưa, sao mà anh chàng ấy ngốc thể", cô nói với Amaranta. "Anh chàng bảo cháu là anh chàng đang chết vì cháu, làm như thể cháu là thứ bệnh thổ tả không bằng". Khi thấy anh ta quả nhiên chết bên cửa sổ phòng mình, Rêmêđiôt - Người đẹp dã khẳng đinh lại cảm giác lúc ban đầu của mình:
- Bà thấy chưa? - cô nói vẻ bình phẩm, - anh chàng quả là ngốc!
Dường như có một sự thông minh sắc bén nào đó đã cho phép cô gái nhìn ra bản chất các sự vật ẩn sau bất kỳ hiện tượng nào. Theo cách nhìn của đại tá Aurêlianô Buênđya thì Rêmêđiôt - Người đẹp không phải là người chậm phát triển trí tuệ như người ta vẫn tưởng, mà hoàn toàn ngược lại. "Nó cứ như người vừa trở về sau hai mươi năm lăn lộn trong chiến tranh", ngài vẫn thường nói như vậy. Về phần mình, Ucsula cảm tạ Thượng đế vì Ngài đã thưởng cho gia đình cụ một cô gái cực kỳ trong trắng, nhưng đồng thời cụ lại lo âu trước sắc đẹp của nó, bởi vì cụ cho đó như là một lực lượng siêu nhiên đầy mâu thuẫn, một cạm bẫy của quỉ dữ nằm ngay giữa cái thiện chân. Vì thế mà cụ quyết chí tách cô ra khỏi cuộc sống, bảo vệ cô trước mọi ý muốn thế tục mà không hay rằng Rêmêđiôt - Người đẹp, đã được miễn dịch trước mọi thói xấu của con người ngay từ trong bụng mẹ. Chưa bao giờ cụ nghĩ rằng người ta sẽ chọn cô chắt gái của mình lầm hoa hậu ngự trị nơi trung tâm vũ hội Cacnavan. Nhưng Aurêlianô Sêgunđô, rất thích thú được trá hình con hổ, đã mời cha Antôniô Isaben về nhà để thuyết phức cố nội mình rằng vũ hội Cacnavan không phải là một ngày hội đa thần giáo mà là ngày hội truyền thống của đạo Thiên Chúa. Cuối cùng tuy vẫn còn hậm hực cụ phải nghe theo lời cha xứ đồng ý để người ta phong hoa hậu cho cô chắt gái.
Tin đồn rằng Rêmêđiôt Buênđya sẽ làm chủ ngày hội đã lan đi khắp vùng đồng lầy, bay tới tận những hang cùng ngõ hẻm vốn là nơi sắc đẹp lừng danh của cô vẫn chưa được biết tới và nó gây nên nỗi lo lắng cho những ai đến lúc này còn nghĩ rằng tên họ của cô là biểu tượng cho sự bại hoại. Đó là một nỗi lo không có cơ sở. Nếu có ai trong lúc đó không còn đáng lo ngại nữa thì người đó là ngài đại tá Aurêlianô Buênđya, một cụ già buồn bã, ngày một để mất dần mối liên hệ giữa mình với thực tại đất nước. Giam mình trong xưởng kim hoàn, mối liên hệ duy nhất của ngài với bên ngoài chính là việc buôn bán những chú cá vàng. Một trong số những người lính từng canh gác ngôi nhà đại tá khi hoà bình mới lập lại, ngày ngày đi tới các làng lân cận bán cá vàng và trở về nhà khuân theo tiền vàng và tin tức.
Có tin nói rằng chính phái Bảo hoàng được sự giúp đỡ của phái Tự do đã làm lại luật pháp để mỗi vị Tổng thống có quyền ở ngôi trong khoảng trăm năm. Có tin nói rằng một bản thoả ước với toà thánh Vatican đã được ký kết và nói rằng một vị Hồng y Giáo chủ đội vương miện lấp lánh kim cương, cưỡi trên một ngai bằng vàng cũng đã từ thành Rôm đến và các vị bộ trưởng thuộc phái Tự do đã cho chụp ảnh buổi lễ họ quỳ gối hôn lên chiếc nhẫn của ngài. Có tin nói rằng cô đào cảnh của một gánh hát Tây Ban Nha, trong đêm nghỉ lại ở thủ đô, đã bị một toán người đeo mặt nạ bắt cóc ngay trong phòng ngủ và ngay ngày chủ nhật cô ta đã khoả thân khiêu vũ ở nhà nghỉ mát của ngài Tổng thống nước Cộng hoà. "Chớ có nói chuyện chính trị với ta?", ngài đại tá nói với người lính. "Vấn đề của chúng ta là bán cá vàng". Lời đồn đại nói rằng sở dĩ ngài đại tá không muốn hay biết gì về hoàn cảnh đất nước lã vì ngài đã làm giàu nhờ xưởng kim hoàn của mình, khi đến tai Ucsula đã khiến cụ phải bật cười với cảm quan thực tế rất sắc nhậy của mình, cụ không thể hiểu được công việc kinh doanh của ngài đại tá hết đổi những con cá vàng lấy những đồng tiền vàng, để rồi sau đó lại biến những đồng tiền vàng thành những con cá vàng và cứ như thế luân hồi mãi theo cách thức: càng phải lao động nhiều hơn khi bán được nhiều hơn để thoả mãn cái vòng luẩn quẩn vô vọng.
Quả thế thực, đối với ngài đại tá điều khiến ngài thích thú không phải là kinh doanh mà là lao động. Ngài phải tập trung tâm tưởng đến cao độ để xếp các vảy, để khảm con ngươi vàng bé tí hin vào đôi mắt, để dát mỏng các vảy trước vây sau, để cắm đuôi cho con cá, mà do đó trong tâm tưởng ngài không có chỗ trống để cho nỗi thất vọng vì chiến tranh lẩn vào. Cái nghề nghiệp kỳ khu tỉ mẩn đòi hỏi ngài phải dốc hết trí lực đã làm cho ngài già khọm đi rất nhanh, nhanh hơn tất cả những năm tháng chinh chiến gian lao cộng lại, tư thế ngồi làm việc đã vặn cong sống lưng ngài và con ngươi mắt ngài đã mờ đi mất hết sức nhìn, nhưng sự tập trung tư tưởng cao độ trong công việc đã trọng thưởng ngài, cho ngài một tinh thần thanh thản. Lần cuối cùng người ta thấy ngài quan tâm tới một vài vấn đề có liên quan đến chiến tranh, ấy là khi các cựu chiến binh của cả hai chính đảng đã cầu viện sự giúp đỡ của ngài để đòi chính phủ phải thông qua lương hưu chiến tranh, một thứ lương luôn luôn được hứa hẹn nhưng cũng luôn luôn ở tình trạng mới khởi sự công việc. "Các ngài hãy quên quách nó đi", ngài nói với họ. "Các ngài thấy đấy, ta đã từ chối nó để tránh phải đau khổ trong mỏi mòn trông đợi cho đến chết". Lúc đầu, đại tá Hêrinênđô Mackêt đến thăm ngài vào tất cả các buổi chiều, cả hai ngồi ở cửa nhìn ra đường để cùng nhớ lại quá khứ của mình.
Nhưng Amaranta lại đau khổ không thể ghìm được những kỷ niệm xưa được gợi lại do chính người đàn ông mệt mỏi mà cái đầu hói của ông ta đã đẩy ông ta vào vực sâu của sự già trước tuổi, và do đó bà đã làm khổ ngài bằng những cái không đâu, cho đến khi ngài chỉ đến chơi nhà vào những dịp đặc biệt rồi thì không đến nữa vì bệnh bại liệt buộc ngài phải nằm yên một chỗ. Lầm lỳ, lặng lẽ, không hề nhận ra luồng gió mới đầy sinh khí đang lộng thổi trong nhà mình, ngài đại tá Aurêlianô Buênđya hầu như mới chỉ lùểu được rằng cái bí mật của một tuổi già bình yên không phải là cái gì khác mà chính là sự gắn bó sâu sắc với cái cô đơn. Ngài thức dậy vào lúc năm giờ sáng sau khi ngủ giấc ngủ chập chờn, uống tách cà phê không đường vốn gắn với cả đời ngài, sau đó tự giam mình trong xưởng kim hoàn, rồi đến bốn giờ chiều, ngài kéo lê chiếc ghế đẩu đi dọc theo hành lang mà không hề nhìn vườn hồng đỏ rực hoa, không hề để ý tới vẻ kiên nhẫn đầy nghị lực của Amaranta mà mỗi buồn của bà đang dõi theo một tiếng động kêu u u được cảm nhận vào lúc chiều xuống, rồi ngài ngồi ở trước cửa nhìn ra đường cho tới khi muỗi đốt dữ dội mới thôi. Đôi lúc có người nào đó dám làm khuấy động nỗi cô đơn của ngài.
- Có khoẻ không, ngài đại tá? - họ hỏi ngài khi đi qua.
- Vẫn thế, - ngài trả lời. - Tôi đang đợi đám tang của mình đến.
Vậy là nỗi lo ngại được gây nên bởi sự xuất hiện lại một cách công khai của họ Buênđya qua việc phong hoa hậu cho Rêmêđiôt - Người đẹp đã mất đi những cơ sở thực tiễn của nó.
Tuy nhiên, rất nhiều người không tin như vậy. Ngây thơ trước thảm hoạ đe doạ mình, dân chúng đổ xô về quảng trường lớn trong niềm vin ồn ào khôn xiết. Vũ hội Cacnavan đã đạt tới đỉnh cao cuồng nhiệt, còn Aurêlianô Sêgunđô thoả chí với việc mình giả dạng con hổ, và anh sung sướng đi giữa đám đông tự buông thả, mà gào mà hát tới khản cả cổ họng. Ngay khi đó, trên con đường từ đầm lầy dẫn vào thị trấn xuất hiện một đoàn người giả trang đủ màu đủ vẻ, rước cỗ kiệu thếp vàng trên đó có một cô gái đẹp lộng lẫy đến mức người ta không dám nghĩ tới.
Những cư dân hiền lành của thị trấn Macônđô cùng một lúc gỡ bỏ mặt nạ để có thể nhìn rõ hơn cô gái lộng lẫy trong chiến vương miện gài ngọc bích và chiếc áo khoác bằng lông điểu thử, dường như cô là một hoàng hậu đích thực chứ không phải là một hoa hậu trong vũ hội giả trang Cacnavan. Không thiếu người có lý trì sáng suốt đủ để nghi ngờ rằng đoàn người đó đang định khiêu khích. Nhưng Aurêlianô Sêgunđô đã ngay lập tức vượt qua được tình trạng rắc rối phức tạp này, và anh tuyên bố rằng những kẻ mới đến là khách mời danh dự, rồi anh trịnh trọng đặt Rêmêđiôt - Người đẹp và hoàng hậu đóng giả cùng ngồi trên đài cao. Đến nửa đêm, những người lạ mặt giả trang người Bơđuyn(2) tham gia các trò vui ngây ngất của đêm hội và họ đã khiến trò vui thêm phong phú hơn với thuật hỏa công rực rỡ và cả các trò ảo thuật leo dây khiến mọi người nghĩ đến các trò chơi màu nhiệm của người digan. Bỗng nhiên, trong lúc đêm hội đang náo nhiệt nhất, có một người nào đó đã phá vỡ không khí hội hè đầm ấm.
- Đảng Tự do muôn năm! - anh ta hô. - Đại tá Aurêlianô Buênđya muôn năm!
Những tràng súng nổ đã dập tắt ánh sáng rực rỡ muôn màu của pháo hoa, những tiếng kêu thất thanh đầy hoảng sợ đã bóp nghẹt âm nhạc rộn ràng, và nỗi sợ hãi đã xua tan niềm vui.
Nhiều năm sau này dư luận vẫn tiếp tục khẳng định rằng đội lính hoàng gia bảo vệ hoàng hậu đóng giả là một trung đội lính thường trực từng giấu vũ khí thông thường bên dưới bộ áo đẹp đẽ của người Bơđuyn. Trong một thông cáo đặc biệt chính phủ phản đối dư luận trên và hứa sẽ tiến hành điều tra dứt khoát vụ đổ máu này. Nhưng sự thật chẳng bao giờ được làm sáng tỏ, còn lời giải thích rằng đội cận vệ hoàng gia không hề có biểu hiện khiêu khích nào, đã tác chiến theo mệnh lệnh của viên chỉ huy và đã nổ súng không thương tiếc vào đám đông thì vẫn dai dẳng tồn tại mãi. Khi trật tự được lặp lại, cả thị trấn này không còn bóng dáng một người Bơđuyn giả dạng nào, trên quảng trường còn lại những kẻ bị thương và những xác chết, trong đó có ba thằng hề, bốn người đóng vai Côlông, mười bảy hoàng đế, một con quỷ, ba nhạc công, ba hoàng hậu Nhật Bản. Trong lúc hỗn độn đầy hoảng sợ, Hôsê Accađiô Sêgunđô đã kịp cứu thoát Rêmêđiôt - Người đẹp, và Aurêlianô Sêgunđô kịp ôm lấy cô gái đóng giả hoàng hậu với quần áo xộc xệch, chiếc áo khoác lông điểu thử đẫm máu để chạy trốn. Cô gái tên là Phecnanđa đên Cacpiô. Người ta đã chọn cô trong số năm ngàn cô gái đẹp nhất nước và mang cô đến Macônđô với lời hứa sẽ phong cô là hoàng hậu xứ Mađagasca. Ucsula chăm sóc cô như chăm sóc con gái mình. Dân làng, đáng lẽ sẽ hoài nghi vẻ ngây thơ của cô thì lại thương hại đức tính chân thực của cô gái. Sáu tháng sau vụ thảm sát, khi những người bị thương đã bình phục hẳn và những bông hoa cuối cùng để ở mộ chung đã héo, Aurêlianô Sêgunđô đã đi tìm cô ở một thành phố xa xăm, nơi cô đang sống với cha mình, rồi sau đó cưới cô ở thị trấn Macônđô trong một tiệc vui ồn ĩ kéo suốt hai mươi ngày.
Chú thích:
(1) El Cachorro, tiếng Tây Ban Nha, nghĩa: Cáo con.
(2) Người A-rập du cư thường sống ở nước họ hoặc sông rải rác ở Syri hoặc ở Châu Phi xích đạo
CHƯƠNG 11
Sau hai tháng, vợ chồng họ xuýt nữa bỏ nhau vì Aurêlianô Sêgunđô chụp cho Pêtra Côtêt một bức chân dung vận xiêm y hoàng hậu xứ Mađagasca để an ủi ả. Khi biết chuyện, Phecnanđa đã thu xếp quần áo cô dâu nới và bỏ Macônđô ra di không một lời từ biệt anh. Aurêlianô Sêgunđô theo kịp nàng ở trên đường đồng lầy. Sau khi van xin và hứa hẹn sẽ tu tỉnh, anh đưa được nàng trở lại nhà mình và không lui tới nhà nhân tình nữa.
Pêtra Côtêt tin tưởng ở sức hấp dẫn của mình, không hề bối rối. Ả đã làm cho anh thành người đàn ông. Ngay từ lúc anh còn là một cậu bé choai choai, trong đầu chứa chất toàn những ý nghĩ viển vông và không hề hiểu biết cuộc sống, ả đã lôi anh ra khỏi phòng Menkyađêt, cho anh một chỗ đứng trong cuộc đời thực. Tạo hoá cho anh bản tính trầm lắng và kiêu ngạo, hay suy tư cô đơn, còn ả đã rèn cho anh tính cách quật khởi, mạnh mẽ, cởi mở và hoang toàng, đã truyền cho anh niềm vui cuộc sống, niềm vui hội hè và xài phí; do đó đã biến anh từ tâm hồn đến diện mạo bên ngoài thành một người đàn ông đúng như ả từng mơ ước khi còn là con gái đang thì. Anh đã cưới vợ, bởi vì cũng như con cái, sớm hay muộn rồi chúng nó cũng phải lấy vợ, lấy chồng. Anh không dám sớm cho thị biết tin. Anh cố giữ thái độ ngây thơ trước việc tự mình nổi giận vô cớ hay vờ ra vẻ đau khổ cốt làm sao cho Pêtra Côtêt sẽ là kẻ gây ra sự ly tán giữa hai người. Có một ngày Aurêlianô Sêgunđô mắng mỏ ả một cách vô lý. Hiểu ngay mưu đồ của anh, ả lập tức nói toạc móng heo:
- Chẳng qua là anh muốn lấy cô hoa hậu ấy mà.
Aurêlianô Sêgunđô, xấu hổ lắm, giả vờ giận dữ một hồi, nói toáng lên rằng mình bị hiểu lầm và bị làm nhục, rồi từ đó không lui tới với ả nữa. Lúc nào cũng làm chủ bản thân, một sự tự chủ tuyệt vời, Pêtra Côtêt lắng nghe âm nhạc, và pháo mừng đám cưới, lắng nghe tiếng ồn ào, cuồng nhiệt trong cuộc vui chung, như thể tất cả những thứ đó chỉ là một trò ma mãnh mới của Aurêlianô Sêgunđô. Ðối với những kẻ tỏ vẻ thương hại cho số phận của ả, ả trấn an họ bằng nụ cười: "Các bác đừng ngại", ả nói với họ, "Ngữ hoa hậu ấy chỉ là thứ để tôi sai vặt thôi". Với cô hàng xóm mang đến cho ả những cặp nến kép để soi tỏ bức chân dung người tình đã bỏ mình, thì ả nói một cách chắc nịch đầy bí hiểm:
- Cây nến duy nhất khiến anh ấy trở lại sẽ luôn luôn cháy sáng.
Như ả đã thấy trước, Aurêlianô Sêgunđô trở lại nhà ả ngay sau khi tuần trăng mật kết thúc. Anh kéo theo những người bạn cố tri của mình và một bác phó nháy mang theo bộ quần áo và chiếe áo khoác lông điểu thử mà Phecnanđa đã mặc trong vũ hội Cacnavan. Trong không khí vui vẻ như ngày hội kéo suốt buổi chiều ấy, anh khoác cho Pêtra Côtêt xiêm y hoàng hậu, đội cho ả chiếc vương miện hoàng hậu xứ Mađagasca, chụp ảnh rồi phân phát chân dung ả cho eáe bạn hữu. Ả không chỉ phụ hoạ vào trò chơi mà còn động lòng thương hại anh vì nghĩ rằng chắc hẳn anh đã phải hất hoảng lắm nên mới nghĩ ra thủ đoạn làm lành lạ lùng này. Vào lúc bảy giờ tối, tuy vẫn còn mặc xiêm y hoàng hậu, ả đã tiếp anh trên giường. Anh mới cưới vợ chưa chầy vài tháng, nhưng ả đã nhận thấy ngay rằng vợ chồng họ không được hoà thuận ngay ở trên giường cưới và ả sướng như điên vì thấy sự trả thù của mình đã được thực hiện trọn vẹn. Tuy nhiên, hai ngày sau, khi anh không những không dám trở lại nhà ả mà còn nhờ một người trung gian đến giải quyết nốt các điều khoản chia ly, thì ả hiểu rằng sẽ cần phải điềm tĩnh hơn và rằng dường như anh đã sẵn sàng quyết chí chạy theo cái mẽ hào nhoáng bên ngoài ấy. Ả cũng không bực dọc. Ả lại thuận theo mọi đòi hỏi của anh, làm cho mọi người thực lòng tin rằng ả là người đàn bà đau khổ. Vật kỷ niệm duy nhất của Aurêlianô Sêgunđô ả còn giữ được là đôi ủng màu be mà theo đúng như lời anh nói, anh sẽ mang chúng khi được liệm vào quan tài. Ả cuộn chúng trong tấm vải và giấu kĩ ở dưới đáy rương, rồi lại chờ đợi, chờ đợi một cách đầy hy vọng.
- Sớm hay muộn thế nào anh ấy cũng phải trở lại, - ả nói với chính mình, - dù chỉ để đi đôi ủng này.
Ả không cần phải đợi lâu như từng dự đoán trước. Thực ra, Aurêlianô Sêgunđô, ngay từ đêm tân hôn, đã hiểu rằng mình sẽ trở lại nhà Pêtra Côtêt sớm hơn rất nhiều trước khi cần phải đi đôi ủng màu be, vì Phecnanđa là một người đàn bà lạc loài trong cuộc đời này. Nàng đã sinh ra và lớn lên ở một nơi xa biển hàng ngàn kilômét, một thành phố buồn thê lương với những đêm đầy sợ hãi vang lên tiếng bánh xe lọc cọc của các bậc phó vương trên những con đường đá gồ ghề. Ba mươi hai tháp chuông cùng đổ hồi vào lúc sáu giờ chiều một cách thê lương, chết chóc. Không bao giờ nắng chiếu vào ngôi nhà cổ kính lát đá. Gió tắt lịm trên đỉnh những cây bá ở ngoài sân, trên những tấm màn gió đã úa màu trong các phòng, trên mái vòm giao nhau của những cáy cam tùng ở ngoài vườn. Ngay khi đã ở tuổi dậy thì, Phecnanđa vẫn không hay biết gì về cuộc đời ngoài những bản nhạc tập pianô buồn bã nhớ nhung, do một người nào đó được phép không ngủ trưa chơi bên nhà hàng xóm. Ngồi trong căn phòng của bà mẹ ốm yếu da xanh mái đi trong ánh sáng lọc qua những tấm kính mờ bụi; nàng nghe những cung bậc thứ tự, rền rĩ, buồn bã và nghĩ rằng âm nhạc ấy hiện hữu trong cuộc đời, trong lúc nàng mải mê tết những chiếc mũ tang bằng lá cây palma. Mẹ nàng, sốt đổ mồ hôi vào lúc năm giờ chiều, kể cho nàng nghe thời huy hoàng đã qua. Có một đêm trăng, khi còn nhỏ tuổi, Phecnanđa nhìn thảy bóng một người đàn bà vận đồ trắng đi từ vườn hoa vào phòng cầu kinh. Cái bóng vừa lướt qua quá nhanh ấy đã làm nàng lo lắng chính là vì nàng cảm thấy nó giống hệt mình, cứ như thể đó là bóng dáng mình trong khoảng hai mươi năm sau. "Ðó là bà hoàng hậu cố nội con đấy", mẹ nàng nói trong lúc cơn ho diu đi, "Cụ chết vì ngộ gió khi chặt một cành cam tùng". Rất nhiều năm sau, khi cảm thấy mình giống hệt cụ cố nội mình, Phecnanđa đâm ra nghi ngờ bóng ma mình nhìn thấy hồi còn nhỏ, nhưng mẹ nàng đã mắng nàng về tội thiếu đức tin.
- Chúng ta vốn giàu có và có thế lực mạnh mẽ vô cùng, bà nói với nàng. - Rồi con sẽ là hoàng hậu mà.
Nàng tin điều đó mặc dù gia đình nàng hiện chỉ làm chủ một chiếc bàn ăn dài có đủ khăn và đồ dùng ăn uống bằng bạc, và cái bàn này chỉ được dùng để ăn bánh ngọt và uống nước sôcôla. Ngay đến ngày làm lễ thành hôn, nàng vẫn mơ thời làm vua. Huyền thoại ấy dẫu rằng cha nàng, đông Phecnanđô đã buộc phải cầm cố ngôi nhà để lấy tiền may sắm đồ cưới cho nàng. Không quá ngây thơ cũng chẳng hợm mình về danh giá gia đình, người ta đã giáo dưỡng nàng như thế đấy. Ngay từ thuở mới hiểu biết chút ít, nàng còn nhớ mình vẫn được ngồi trên chiếc bô bằng vàng có khắc gia huy dòng họ mình để ì đái. Lần đầu tiên bước ra khỏi nhà là lúc nàng đã mười hai tuổi, ch trên một chiếc xe ngựa chỉ cần chạy qua hai ô phố để đến tu viện.
Những cô bạn cùng lớp đều ngạc nhiên rằng người ta tách riêng nàng ra, cho nàng ngồi trên một chiếc ghế dựa rất cao, và rằng ngay cả trong lúc vui chơi nàng cũng không chơi chung với họ. "Cô ấy rất khác đấy", các nữ tu sĩ giải thích cho họ, "Cô ấy sẽ là hoàng hậu đấy". Các bạn gái của nàng tin điều đó, bởi vì ngay từ lúc ấy nàng đã là một cô gái xinh đẹp, khác thường và kín đáo nhất. Tám năm sau, sau khi đã học làm thơ bằng chữ Latinh, đã học chơi đàn clavơxanh(1) học đàm đạo với các công tử về nghề nuôi chim ưng, với các dực Giám mục về môn thần học chuyên biện giải cho tôn giáo, học tranh luận với các chính khách ngoại quốc về các vấn đề nhà nước và với Giáo hoàng về các vấn đề của Thượng đế, nàng trở về nhà cha mẹ mình để lại tết những chiếc mũ tang bằng lá cây palma. Nàng thấy nhà mình quang sạch đồ đạc. Hầu như chỉ còn những giường tủ không có giá trị, các ngọn đèn chùm, và bộ đồ ăn bằng bạc, bởi vì những đồ dùng có giá trị đều bị bán dần bán mòn để lấy tiền trang trải các khoản chi phí cho việc dạy dỗ nàng. Mẹ nàng đã từ trần vì cơn sốt lúc năm giờ chiều. Cha nàng, đông Phecnanđô, mặc đồ đen, với áo cổ cồn và một chiếc xà tích vàng vắt chéo ngang ngực, vào các ngày thứ hai đưa cho nàng một đồng tiền bạc để chi dùng ăn uống, rồi cụ mang đi những chiếc mũ tang tết lá cây palma vừa làm xong tuần trước. Phần lớn buổi ban ngày cụ ở lì trong phòng riêng, và trong những dịp hiếm hoi cụ mới đi ra ngoài đường cái nhưng lại vội trở về nhà trước lúc sáu giờ tối để cùng nàng đọc kinh Rôsariô. Không bao giờ chơi thân với một ai. Không bao giờ nghe nói về những cuộc nội chiến đang làm tổn thương đất nước. Không bao giờ bỏ nghe các buổi tập đàn pianô vào lúc ba giờ chiều. Vào lúc nàng bắt đầu vỡ mộng mình sẽ là hoàng hậu thì ở ngoài cửa chính vang lên tiếng vồ gọi cửa nện khẩn cấp, nàng vội mở cửa cho một quân nhân bảnh bao, điệu bộ khoan thai, trên má mang một vết sẹo và trên ngực gài tấm huy chương vàng. ông ta vào đàm đạo ở phòng riêng với cha nàng. Hai giờ sau, cha nàng đến phòng máy may tìm nàng. "Con hãy chuẩn bị đồ đạc của mình đi", cụ nói với nàng "Con cần phải đi xa". Nàng bị mang đến Macônđô như thế đấy. Chỉ trong một ngày thôi, cuộc đời đã trút xuống đầu nàng tất cả sức nặng của một thực tế mà trong
nhiều năm cha mẹ cố tình tránh cho nàng. Từ khi trở về nhà, nàng đóng kín cửa, ở trong phòng khóc, bất chấp những lời van xin và giải thích của đông Phecnanđô, để xoá đi vết nhục cháy bỏng thành sẹo trên da mình. Nàng vừa tự nhủ lòng sẽ không ra khỏi phòng cho đến khi chết thì cũng vừa hay Aurêlianô Sêgunđô đến nhà tìm nàng. Ðó là một vận may không thể dự tính trước được, bởi vì trong lúc hoang mang vì tức giận, trong lúc điên tiết vì xấu hổ, nàng đã nói dối anh để không bao giờ anh lần ra được tông tích đích thực của mình. Nhưng dấu vết thực tế duy nhất để Aurêlianô Sêgunđô lần mò theo khi đi tìm nàng là lối nói vùng thảo nguyên không trộn lẫn được và nghề tết mũ tang bằng lá cây palma của nàng. Anh nhẫn nại tìm nàng với quyết tâm lớn mà cụ Hôsê Accađiô Buênđya đã sử dụng để vượt núi thành lập làng Macônđô, với lòng tự hào mù quáng mà đại tá Aurêlianô Buênđya sử dụng để khơi dậy các cuộc chiến tranh vô bổ, với lòng kiên trì rồ dại mà Ucsula đùng để khẳng định sự trường tồn của dòng họ mình. Aurêlianô Sêgunđô đã đi tìm Phecnanđa như thế đấy mà không lúc nào anh tỏ ra chán nản. Khi anh hỏi ở đâu có bán mũ tang tết bằng lá cây palma thì mọi người dẫn anh về nhà họ để chọn những chiếc mũ đẹp nhất. Khi anh hỏi cô gái đẹp nhất trên mặt đất này ở đâu thì các bà mẹ lập tức đưa anh đi xem mặt con gái mình. Anh lạc lối trên những ngọn đèo mây phủ, trong những vùng bị lãng quên, và trong mớ bòng bong của sự thất vọng. Anh đã vượt qua một cao nguyên vàng úa nơi chỉ có tiếng vọng o o lắp lại những suy tưởng và chỉ có cơn khát làm mờ mắt. Sau nhiều tuần kham khổ, anh đã tới được một thành phố xa lạ mà ở đấy tất cả các tháp chuông đều dỗ hồi thê thảm. Dù chưa từng nhìn thấy, cũng chưa từng nghe ai miêu tả, anh đã nhận ra ngay những bức tường thành lở lói vì gió sương mang hơi mặn của xương người táp vào, nhận ra ngay những ban công gỗ ọp ẹp vì mọt đục khoét lâu ngày, nhận ra ngay tấm biển quảng cáo ở đây bán mũ tang, mà chữ viết của nó đã nhom đi trên tấm bìa các tông cũ. Kể từ lúc anh đến cho tới buổi sáng Phecnanđa để lại ngôi nhà cho Ðức mẹ Toàn năng trông nom, lúc nào anh và nàng cũng tất bật đến mức hầu như không đủ thời gian cho các cô nữ tu sĩ kịp may bộ đồ cô dâu. Họ bận rộn lo nhét những ngọn đèn chùm, những bộ đồ ăn bằng bạc, và những thứ vô dụng nhiều vô kể của cái gia đình quý tộc đã khánh kiệt từng tồn tại hai thế kỷ này vào sáu chiếc thùng lớn. Ðông Phecnanđô từ chối lời mời cùng đi với họ. Cụ hứa sẽ đi khi nào đã hoàn thành các lời hứa của mình. Kể từ lúc cúi mình làm dấu ban phức cho con gái, cụ lại đóng kín cửa để ở lý trong phòng, viết thư bằng thơ có kèm theo những hình trang trí bi thương và con dấu gia huy, vốn là những thứ qua đó Phecnanđa và cha nàng có quan hệ trực tiếp với đời thường. Đối với Phecnanđa, ngày ấy là ngày sinh đích thực của nàng. Đối với Aurêlianô Sêgunđô, ngày ấy là ngày mở đầu đồng thời là ngày kết thúc hạnh phúc của anh.
Phecnanđa mang theo mình một cuốn lịch quý và một chùm thìa khoá mạ vàng trong đó vị cha cố làm thầy giáo của nàng đã dùng mực luôn tươi màu đánh dấu những ngày kiêng nhập phòng. Nếu không kể tuần lễ Thánh, những ngày chủ nhật, những ngày buộc phải nghe kinh mixa, những ngày thứ sáu đầu tiên của một tháng, những ngày tế thần và những ngày hành kinh, là những ngày nhất thiết phải kiêng cữ, cuốn lịch bổ ích của nàng chỉ còn lại bốn mươi hai ngày được tự do nằm rải rác trong tấm mạng nhện những dấu gạch chữ thập còn tươi màu mực. Aurêlianô Sêgunđô cho rằng thời gian sẽ quật đổ bức rào trở ngại đó, đã kéo dài tiệc cưới quá thời gian quy định. Mệt mỏi vì còn phải sai đổ vỏ chai rượu Brandy và rượu sâm banh ra thùng rác để ngôi nhà được gọn gàng, và đồng thời tò mò thấy rằng cô dâu chú rể đã không đi ngủ cùng một giờ lại còn ngủ tại hai phòng biệt lập trong lúc pháo vẫn nổ, nhạc vẫn cử, gia súc vẫn bị giết, Ucsula nhớ lại kinh nghiệm sống của chính mình và tự hỏi không biết có phải Phecnanđa cũng thắt chiếc thắt lưng trinh tiết mà sớm hay muộn sẽ gây nên những lời bình phẩm độc địa của dân làng và là cội nguồn của tấn bi kịch hay không.
Nhưng Phecnanđa đã thú nhận với cụ rằng nàng chỉ phải đợi qua hai tuần trước khi được phép ăn nằm lần đầu tiên với chồng mình. Quả nhiên hai tuần qua đi, nàng mở cửa phòng mình trong sự nhượng bộ bắt buộc của một nạn nhân bị trừng phạt, và Aurêlianô Sêgunđô đã nhìn thấy người đàn bà đẹp nhất trần gian với đôi mắt rực vẻ kiêu hãnh của con vật hoảng sợ và những mớ tóc vàng màu đồng xoã trên gối. Anh sung sướng quá trước hình ảnh ấy đến mức một lúc sau mới nhận ra rằng Phecnanđa đã vận chiếc áo ngủ trắng muốt, che kín mắt cá chân và chùm cả mu bàn tay, ở ngang bụng mở một cửa mở to và tròn, được thêu viền cẩn thận. Aurêlianô Sêgunđô không thể kìm được một chuỗi cười giòn giã.
- Ôi, cái này còn khêu gợi hơn cả những cảnh anh từng nhìn thấy - anh gào, với tiếng cười khanh khách rền vang cả nhà. - Anh đã cưới một nữ tu dòng Xanh Vanh xanh đơ Pôn.
Một tháng sau, vì không làm sao thuyết phục được vợ mình cởi chiếc áo ngủ ấy, anh đã mò đến nhà Pêtra Côtêt để chụp cho ả bức ảnh vận xiêm y của nữ hoàng. Sau đó, khi anh thuyết phục được Phecnanđa thôi không bỏ về quê nữa để trở lại nhà mình, nàng đã nhượng bộ trước những yêu cầu làm lành tha thiết của anh, nhưng anh vẫn không biết cách sắp đặt việc nghỉ ngơi theo đúng như điều anh mơ ước khi đến thành phố ba mươi hai tháp chuông để tìm nàng. Aurêlianô Sêgunđô chỉ tìm thấy ở nàng một ý vị chán nản. Có một đêm, trước khi sinh cậu con trai đầu lòng ít bữa, Phecnanđa biết rằng chồng mình đã bí mật trở lại nằm cùng giường với Pêtra Côtêt.
- Ðúng thế đấy, - anh thú nhận. Rồi bằng một giọng nhượng bộ, anh giải thích: - Anh cần phải hành động như vậy để cho đàn gia súc của ta tiếp tục sinh sôi nảy nở nhiều hơn nữa.
Anh không mất nhiều thời gian để thuyết phục nàng về biện pháp lạ lùng ấy, nhưng khi anh đã thuyết phục được nàng bằng những chứng cứ dường như không thể bác bỏ thì điều kiện duy nhất mà Phecnanđa buộc anh phải hứa là không được để cho thần chết túm được mình ngay trên giường của tình nhân. Ba người sống vòi nhau như thế, không ai đả động đến ai. Aurêlianô Sêgunđô âu yếm và đúng hẹn với cả hai, Pêtra Côtêt hả lòng hả dạ với sự hoà thuận, còn Phecnanđa giả vờ không biết sự thật.
Tuy nhiên, sự hoà thuận lại không đạt được trong gia đình: Phecnanđa không sống hoà mình với mọi người. Ucsula cố sức la mắng để nàng ném đi cái khăn nỉ mà nàng dùng lót giường mỗi khi chung đụng với chồng rồi sau đó lại quàng lên vai và chính chiếc khăn này đã gây nên bao lời nhỏ to bàn tán của dân làng nhưng nàng vẫn không chịu ném nó đi. Cụ không tài nào thuyết phục nổi nàng khi nào cần ị đái thì đi vào. cầu tiêu và bán quánh chiếc bô bằng vàng cho đại tá Aurêlianô Buênđya để ngài làm những con cá vàng. Amaranta khó chịu trước cách nói năng thô bạo và thói quen gọi sai tên sự vật của nàng nên bà cũng thường xuyên nói lóng trước mặt nàng.
Có một ngày, cáu tiết trước lời báng bổ, Phecnanđa muốn biết Amaranta nói gì và bà này không dùng lối nói văn hoa bóng gió, đã trả lời nàng:
- Tao bảo, - bà nói, - rằng cháu là một trong những cô gái tôm đội cứt lên đầu.
Kể từ ngày đó hai người không nói chuyện với nhau. Khi bất đắc dĩ phải nói với nhau điều gì thì họ nhắn qua người khác hoặc nói một cách gián tiếp. Phớt lờ trước nỗi khó chịu của người nhà, Phecnanđa vẫn không từ bỏ ý định sắp đặt thói quen cho các bậc bề trên. Nàng đã quyết định bỏ lệ ăn cơm ở nhà bếp mà ai đói cứ việc đi ăn như trước đây, buộc mọi người phải ăn cơm vào đúng giờ quy định tại phòng ăn, phải ngồi vào bàn ăn lớn đã dọn dẹp tinh tươm có khăn lau, đèn chùm, đồ ăn bằng bạc. Tính chất nghiêm trang của cái việc vốn vẫn được Ucsula coi là một việc giản dị nhất của đời thường, đã tạo nên một không khí căng thẳng khiến Hôsê Accađiô Sêgunđô lầm lì đã là người đầu tiên chống lại nó. Nhưng thói quen vẫn cứ được thiết lập, chẳng hạn như thói quen cầu kinh Rôsariô trước khi ăn bữa tối và chính nó đã làm cho hàng xóm phải để ý và gây nên lời đồn rằng: nhà Buênđya không ngồi vào bàn ăn như mọi gia đình mà trái lại đã biến bữa ăn tối thành một buổi lễ mixa trang trọng. Ngay đến những niềm tin tôn giáo của Ucsula, nảy sinh từ hy vọng chốc lát của cụ hơn là từ truyền thống, cũng bắt đầu mâu thuẫn với những tín điều mà Phecnanđa đã thừa hưởng của cha mẹ. Trong lúc Ucsula còn chắc chân mạnh tay, thì một số tục lệ cổ vẫn còn được duy trì và cuộc sống gia đình vẫn tuân theo những cảm nhận tinh tế của cụ, nhưng từ khi cụ bị loà và sức nặng tuổi già buộc cụ phải ngồi yên một xó, thì cái vòng cương toả được Phecnanđa khởi xướng ngay từ khi nàng mới về nhà chồng đã hoàn toàn khép kín lại và không một ai ngoài nàng quyết định vận mệnh của gia đình. Nghề làm kẹo bánh từng được Santa Sôphia đê la Piêđat duy trì theo ý nguyện của Ucsula đã bị Phecnanđa coi là một nghề hèn mọn và chẳng bao lâu bị đình chỉ. Cửa nhà, vốn được mở toang từ sáng sớm cho đến khi đi ngủ, đã bị đóng lại trong giờ nghỉ trưa với cái cớ để tránh ánh nắng nung nóng các phòng ngủ và sau đó im ỉm đóng suốt ngày. Cành lá lô hội và chiếc bánh vốn được treo ở trước cửa nhà ngay từ thuở mới lập làng Macônđô nay đã bị thay thế bằng một cái hốc để thờ tượng Chúa Giêsu. Ðại tá Aurêlianô Buênđya cũng đã biết được những thay đổi ấy và đã nhận ra lý do của chúng. "Chúng ta đang quay trở lại để làm người quý phái", ngài phản đối, "Ðến cái bước này thì một lần nữa chúng ta lại phải chiến đấu chống chế độ Bảo hoàng, nhưng lần này là để đưa một ông vua khác lên ngai vàng". Phecnanđa vốn rất tinh tế, tự giữ gìn ý tứ để khỏi phải va chạm với ngài. Tinh thần tự do của ngài, cái sức phản kháng của ngài trước mọi nghi thức xã hội cứng rắn khiến nàng rất khó chịu. Những tách cà phê không đường uống vào lúc năm giờ sáng, sự bừa bộn trong xưởng kim hoàn, chiếc áo khoác sứt chỉ đường tà cũng như thói quen ngồi trước cửa nhìn ra đường vào lúc chiều tà của ngài, tất cả những thứ đó đều như những chiếc gai nhức nhối đâm vào mắt nàng. Nhưng Phecnanđa cấn phải nhượng bộ ngài, phải coi ngài như một bộ phận ở ngoài cái cỗ máy gia đình bởi vì nàng hiểu rất rõ ràng rằng ngài đại tá già này là một người đã bị tuổi tác và nỗi thất vọng làm cho hiền lành đi; chứ nếu không chỉ với một hành động quật khởi đầy sức mạnh, ngài hoàn toàn có thể làm lay chuyển nền móng của cả ngôi nhà. Khi chồng nàng quyết định gọi tên đứa con trai đầu lòng bằng tên của ông nội nó thì nàng không dám cãi lại, bởi vì nàng mới về nhà chồng vẻn vẹn một năm trời. Nhưng khi sinh đến trưởng nữ, nàng một mực đòi đặt tên cho nó là Rênata như tên của mẹ mình. Ucsula đã quyết định gọi tên nó là Rêmêđiôt. Sau một cuộc tranh luận gay gắt trong đó Aurêlianô Sêgunđô đóng vai một nhà hiền triết vui vẻ, họ đặt tên cho nó là Rênata Rêmêđiôt, nhưng Phecnanđa vẫn cứ gọi nó là Rênata chọc lỏn, trong khi đó cả nhà và dân làng gọi nó là Mêmê, một tên gọi thân mật của Rêmêđiôt.
Thoạt đầu, Phecnanđa không nói chuyện về gia đình mình, nhưng rồi dần dần nàng bắt đầu lý tưởng hoá người cha mình. Ngay tại bàn ăn, nàng ca ngợi cụ như một con người đặc biệt từng từ bỏ mọi nghi lễ trống rỗng và đã trở thành một vị thánh sống. Aurêlianô Sêgunđô ngạc nhiên trước sự tán tụng không phải lúc về ông bố vợ, đã không dừng được, đành phải giễu nhẹ sau lưng vợ mình. Cả nhà đều theo gương anh. Ngay chính Ucsula, đang hết sức tự hào về gia đình êm ấm và ngược lại phải lặng lẽ chịu đựng nhưng mối bất hoà trong nhà, đã có lần tự mình nói rằng thằng chít còn oắt con của mình chắc chắn sẽ là một Hồng y Giáo chủ bởi vì hắn là "cháu ngoại của một vị thánh, là con của một hoàng hậu và một thằng ăn trộm gia súc". Bất kể nụ cười mỉa ấy, bọn nhóc quen nghĩ về ông ngoại mình như nghĩ về một nhân vật huyền thoại, người vẫn thường gửi cho chúng những vần thơ âu yếm trong các bức thư và cứ mỗi bận lễ Noen đến lại gửi cho chúng một thùng quà to đùng gần như không mang lọt cửa chính. Thực ra đó là những đồ vặt vãnh cuối cùng còn lại của gia tài quyền quý xưa. Ngay tại phòng ngủ của bọn trẻ, bằng những thứ này người ta dựng một bàn thờ với những tượng thánh to bằng cỡ người thực mà đôi mắt thuỷ tinh của các vị này đã gây cho chúng ấn tượng sâu sắc như người thật; còn những bộ áo quần được thêu thùa thật đẹp của các vị thì theo con mắt chúng là những bộ quần áo đẹp nhất chưa một người dân Macônđô nào trong được mặc. Dần dần, vẻ huy hoàng tẻ nhạt của ngôi nhà cổ kính và lạnh lẽo nọ đã được chuyển về ngôi nhà sáng sủa của gia đình Buênđya. "Giờ đây, họ đã gửi cho chúng ta một nghĩa địa gia đình rồi", có lần nào đó Aurêlianô Sêgunđô đã bình luận, "chỉ còn thiếu những cây liễu giỏ và đá xây mồ thôi". Mặc dù trong các thùng này không bao giờ đựng các đồ chơi cho bọn trẻ, nhưng chúng vẫn cứ mong đợi cho chóng hết năm để đến tháng chạp, bởi vì dù thế nào đi nữa thì các đồ cổ lỗ sĩ và luôn luôn không được biết trước ấy cũng vẫn là một sự kiện mới lạ trong nhà.
Trong dịp lễ Noen lần thứ mười kể từ khi Phecnanđa về nhà chồng, khi cậu bé Hôsê Accađiô đã chuẩn bị đi thi, một chiếc hòm gỗ khổng lồ của ông ngoại được đóng đinh quét xi thật cẩn thận và được gửi đến cho bà Phecnanđa đen Cacpiô đê Buênđya rất tôn kính viết bằng thứ chữ gôtích quen thuộc, đã đến khá sớm hơn mọi năm. Trong lúc nàng ở trong phòng đọc thư, những đứa trẻ nôn nóng vội mở chiếc hòm. Như thường lệ, được sự giúp sức của Aurêlianô Sêgunđô, bọn chúng cậy các mảng xi gắn, mở nắp chiếc hòm, moi hết mùn cưa ở bên trong ra, và chúng thấy ở bên trong một chiếc hòm chì được các vít đồng vít lại rất chắc chắn. Trước mặt những đứa trẻ đang háo hức, Aurêlianô Sêgunđô tháo tám chiếc vít đồng, và khi mở nắp hòm ra hầu như anh không kịp kêu lên và đẩy bọn trẻ sang một bên, vì đã nhìn thấy đông Phecnanđô vận đồ đen, trên ngực đeo một cây thánh giá, da dẻ nứt bung ra trong những nốt lở khẳn mùi hôi và cái tử thi này đã được chưng trong một thứ nước thịt trai nuôi lấy ngọc đặt trên bếp lửa cháy âm ỉ.
Sau ngày sinh bé gái ít lâu, lễ thượng thọ không hề mong đợi của đại tá Aurêlianô Buênđya được công khai loan báo. Chính phủ ra lệnh tổ chức nó để kỷ niệm ngày ký hiệp định Neclanđia. Ðó là một quyết định trái với đường lối chính trị chính thống đến mức đại tá đã mạnh mẽ tuyên bố chống lại và ngài đã từ chối lễ mừng. "Ðây là lần đầu tiên ta nghe nói đến lễ thượng thọ", ngài nói, "Nhưng muốn nói gì thì nói, điều đó chỉ có thể là một lời báng bổ mà thôi". Cái xưởng kim hoàn vốn đã hẹp rồi giờ đây lại đông nghịt các vị sứ giả. Những luật gia mặc đồ sẫm trước đây như nhưng con quạ lượn lờ quanh đại tá nay trở lại với dáng vẻ già nua và trang trọng hơn rất nhiều. Khi thấy bọn họ xuất hiện như trước đây họ từng đến để ngăn cản cuộc chiến, ngài đã không thể chịu nổi những lời tán tụng quá ư trơ trẽn cửa họ. Ngài ra lệnh cho họ hãy để mình yên, không chịu nhận mình là một yếu nhân của dân tộc, như lời bọn họ nói, mà chỉ là một anh thợ thủ công tầm thường với ước muốn duy nhất là được chết vì mệt mỏi trong lãng quên và trong cảnh nghèo túng làm những con cá vàng của mình. Ðiều khiến ngài phẫn nộ hơn cả là tin tức nói rằng chính ngài Tổng thống nước Cộng hoà đã dự định sẽ đích thân tham gia các hoạt động quần chúng ở Macônđô để gắn Huân chương Công huân cho đại tá.
Ðại tá Aurêlianô Buênđya đã nhờ nói lại chính xác từng từ một với ngài Tổng thống rằng mình thật lòng khao khát đợi cái dịp tuy là muộn mằn nhưng rất quý này để cho ngài Tổng thống một phát súng, không phải để ngài chuộc tội vì những bất công và không hợp thời của chế độ mà để ngài chuộc lấy cái tội dám hỗn xược đối với một cụ già vốn không làm hại ai cả. Ðó là lời cảnh cáo đanh thép mà đại tá đã nói ra miệng, do đó ngài Tổng thống nước Cộng hoà đến phút chót đã hoãn chuyến đi và để cho lễ mừng thêm long trọng, ngài đã phái một đặc phái viên đi thay mình. Ðại tá Hêrinênđô Mackêt, hoàn toàn ở yên một chỗ, đã rời bỏ giường bệnh bại liệt, đến an ỉn người bạn chiến đấu cũ của mình. Khi thấy xuất hiện một chiếc ghế xích đu được bốn người đàn ông khiêng, và thấy người bạn từng chia sẻ với mình mọi nỗi vinh nhục ngay từ thời trai trẻ ngồi trên nó bên những chiếc gối, thì đại tá Aurêlianô Buênđya nhận ra ngay rằng đại tá Hêrinênđô Mackêt gắng gượng đến để bày tỏ tình đoàn kết của mình. Nhưng khi đã biết ý định thực của chuyến viếng thăm này, ngài đã ra lệnh đuổi người bạn cố tri của mình ra khỏi xưởng kim hoàn.
- Thật là quá muộn ta mới hiểu rằng, - ngài nối với bạn mình, - nếu để chúng bắn anh thì ta đã làm phúc cho anh nhiều đấy.
Thế là ngày lễ thượng thọ của ngài đại tá được tiến hành không có sự tham gia của bất kỳ thành viên nào trong gia đình Buênđya. Lễ mừng này đã ngẫu nhiên trùng với tuần lễ hội giả trang Cacnavan nhưng không một ai có thể cởi bỏ cho đại tá Aurêlianô Buênđya cái ý nghĩ dai dẳng cho rằng sự trùng hợp ấy cũng đã được chính phủ dự tính trước để làm cho lời bắng bổ đó càng thêm thô bạo. Từ xưởng kim hoàn vắng lặng, ngài nghe các bản hành khúc hùng dũng, nghe hăm mốt loạt đại bác nổ, nghe những hồi chuông vang lên bản thánh ca tạ ân, và nghe một vài câu trong cái bài diễn văn đọc trước nhà mình khi họ lấy tên ngài đặt cho một đường phố. Khi mắt ngài nhoè nước mắt, thứ nước mắt tủi hờn, thứ nước mắt căm giận và lần đầu tiên kể từ khi chịu thất bại đến nay, ngài cảm thấy đau khổ vì không còn chí cái thế và sức bạt núi thời trai trẻ để mở một cuộc chiến đẫm máu đặng quét sạch chế độ Bảo hoàng. Giữa lúc những tiếng ồn vui vang vọng của ngày hội chưa dứt thì Ucsula gõ cửa xưởng kim hoàn.
- Ðừng làm phiền nữa, - ngài nói. - Ta đang bận.
- Mở cửa mau, - với giọng nói thường ngày, cụ đòi mở. - Việc này chẳng can dự gì với ngày hội đâu.
Thế là đại tá Aurêlianô Buênđya mở then cửa và ngài thấy ở trước cửa mười bảy người đàn ông hoàn toàn khác nhau, từ vóc dáng đến màu da, nhưng tất cả đều mang vẻ cô đơn mà qua đó ở bất cứ xó xỉnh nào trên mặt đất này người ta đều có thể nhận ra họ là anh em. Ðó là những người con trai của ngài. Không hề bảo nhau, cũng không hề quen nhau, họ đã đến đây từ những xó xỉnh hẻo lánh nhất của vùng duyên hải đang rộn ràng trong ngày hội náo nhiệt. Tất cả đều tự hào mang tên Aurêlianô kèm với tên họ của mẹ mình. Trong ba ngày ở lại nhà đại tá, để làm hài lòng Ucsula và khiến Phecnanđa phải ngạc nhiên, đôi lúc họ gây ra những vụ ẩu đả. Amaranta lục tìm trong đống giấy tờ cũ cuốn sổ tay trong đó Ucsula đã tự tay ghi lại tên, ngày tháng năm sinh, ngày đặt tên của tất cả và bà chỉ cho từng người phòng ở hiện tại thuộc về mình. Danh sách ấy cho phép nhớ lại hai mươi năm chiến tranh. Với danh sách này người ta có thể dựng lại những hành trình ban đêm của đại tá, kể từ buổi sáng sớm chàng đi khỏi làng Macônđô dẫn đầu hai mươi mốt chàng thanh niên để gia nhập một cuộc khởi nghĩa đầy ảo tưởng, cho đến lần cuối cùng trở về mình lẩn trong chiếc áo khoác bê bết máu khô. Aurêlianô Sêgunđô không bỏ lỡ dịp chúc mừng các ông chú mình bằng việc ồn ĩ mở tiệc vui gồm rượu sâm banh và đàn phong cầm và tiệc vui này ồn ĩ vui nhộn đến mức được liệt hạng hay hơn cả vũ hội Cacnavan không thành vì trùng với lễ thượng thọ của đại tá do chính phủ tổ chức. Họ đập vỡ một nửa số cốc tách, xéo nát cả các vườn hoa để đuổi theo một chú bê non. Họ bắn súng để giết gà, buộc Amaranta phải nhảy những điệu van buồn của Piêtrô Crêspi, dỗ ngon dỗ ngọt Rêmêđiôt - Người đẹp để cô mặc quần đàn ông leo cột mỡ, rồi thả một chú lợn bôi dày mỡ chạy trên hành lang và con lợn này đã húc ngã Phecnanđa. Nhưng không một ai ca thán những trò nghịch ngợm quá trớn ấy, bởi vì ngôi nhà rung lên như một trận động đất trước trò vui trong đó sức khoẻ cường tráng của con người được tràn ra. Ðại tá Aurêlianô Buênđya, vốn lúc đầu tiếp họ hờ hững và thậm chí còn hồ nghi một số người có quan hệ máu thịt với mình, đã cùng vui với niềm vui sôi nổi của họ và trước khi họ ra đi ngài đã tặng mỗi nhời một con cá vàng. Ngay đến cả Hôsê Accađiô Sêgunđô vốn ngạo đời, cũng hiến cho bọn họ một buổi chiều chơi gà chọi mà tí nữa gây ra tai nạn, vì một số trong số mười bảy anh em Aurêlianô này vốn là những tay sành sỏi trong các sởi thi gà chọi, do đó mới thoáng nhìn cú đá đầu tiên họ đã lập tức phát hiện ra những thủ đoạn ma quái của cha Antôniô Isaben. Aurêlianô Sêgunđô, đứng xem những người anh em cùng chung một bát máu sôi nổi chơi những trò vui vô tận đầy lý thú, đã quyết định mời mọi người ở lại làm việc với mình. Người duy nhất chấp nhận lời mời là Aurêlianô Tristê, một thanh niên lai đen lực lưỡng vốn kế thừa được nhiệt tình hăng say và lòng ham tìm tòi khám phá của ông nội, người từng nếm trải đủ mọi gian truân ở khắp nới, do đó anh cho rằng mình sống ở đâu cũng vậy. Những người khác mặc dù vẫn còn chưa vợ, đã tự quyết định lấy vận mệnh của mình. Tất cả đều là thợ thủ công thạo nghề, đều là trụ cột của gia đình, đều là dân hiền lành. Ngày thứ tư Lễ tro, trước khi mỗi người một ngả đi khắp vùng duyên hải, Amaranta tìm mọi cách để họ mặc quần áo đẹp ngày chủ nhật và đưa bà đi nhà thờ. Thích thú hơn là sùng tín, họ đã để cho mình bị cuốn vào tận nơi làm lễ kiên tin. Chính tại đây cha Antôniô Isaben đã lấy tro vạch một chữ thập lên trán từng người. Về đến nhà, người nhỏ tuổi nhất muốn lau trán đã phát hiện ra vết tro không thể rửa sạch được, rồi ngay sau đó, cậu phát hiện ra vết tro của các anh cậu cũng không thể rửa sạch được. Họ thử lấy nước xà phòng, rồi lấy đất và bã cọ, rồi lấy đá kỳ và dung dịch kiềm, vẫn không tài nào xoá được chữ thập trên trán mình. Trái lại, Amaranta và những người khác đi dự lễ mixa đều dễ dàng chùi sạch chữ thập ấy trên trán mình. "Chúng ra đi như vậy càng tốt", - Ucsula nói, - "Từ đây trở đi không một ai có thể nhầm lẫn chúng". Họ ồn ĩ ra đi trong tiếng pháo và âm nhạc đưa tiễn, và để lại cảm giác rằng dòng họ Buênđya đã gieo giống ở khắp mọi nơi cho muôn đời. Aurêlianô Tristê, với chữ thập xám màu tro trên trán, đã lập ở ngoài bìa làng một nhà máy làm nước đá mà Hôsê Accađiô Buênđya từng mơ thấy trong những đam mê sáng tạo của cụ.
Ở được mấy tháng, nghĩa là khi đã là người quen thuộc và được mọi người trọng nể, Aurêlianô Tristê đi tìm một ngôi nhà để đưa mẹ và cô em gái chưa chồng (vốn không phải là con gái ngài đại tá) đến ở với mình và anh thích ngôi nhà cổ lỗ dường như bỏ hoang ở phố gần quảng trường. Anh hỏi ai là chủ ngôi nhà ấy. Có người bảo anh rằng đó là nhà vô chủ, rằng trước đây có một bà goá cô đơn chuyên ăn đất và vôi tường để sống đã ở ngôi nhà này và rằng trong những năm cuối đời, người ta chỉ hai lần nhìn thấy bà ra đường đội một chiếc mũ gài nhiều bông hoa giả nhỏ li ti và đi đôi giày cũ màu bạc khi bà đi ngang qua quảng trường để đến bưu điện gửi thư cho đức Giám mục. Người ta bảo anh rằng người bạn gái duy nhất của bà là một người ở gái rất ác vẫn thường giết chó, giết mèo và bất kỳ con vật nào dám bén mảng vào nhà, rồi vất xác chúng ra giữa đường cái khiến cả làng ngột ngạt trong mtù hôi xác con vật thối rữa. Kể từ độ mặt trời sấy khô bộ da con vật cuối cùng bị ném ra giữa đường cái đến nay đã trải qua một thời gian rất dài, đến mức cả làng thống nhất cho rằng bà chủ và người ở gái đã chết từ trước khi chiến tranh kết thúc rất lâu, và nói rằng ngôi nhà vẫn còn đứng vững được là vì trong nhiều năm gần đây chưa hề có một cơn lốc cũng như chưa có mùa đông ác nghiệt nào, các bản lề cửa đã rời rã hết vì gỉ; những cánh cửa hầu như vẫn đứng yên được là nhờ mạng nhện giăng chằng chịt, các cửa sổ vẫn bám vào nhau nhờ có hơi ẩm; nền nhà nứt nẻ hết bởi cỏ và hoa dại mọc um tùm, và những kẽ nẻ này là nơi để thằn lằn và đủ loại con vật ghê tởm làm tổ, tất cả những thứ đó dường như cùng phụ hoạ nói lên rằng tại ngôi nhà này ít nhất là từ nửa thế kỷ nay không có ai sinh sống. Aurêlianô Tristê, vốn thích mạo hiểm, không cần thêm nhiều bằng chứng. Anh lấy vai khẽ ẩy cửa chính, thế là cái khung cửa gỗ đã mọt bỗng đổ xuống không hề gây tiếng động trong một trận mưa bụi và cứt mọt. Aurêlianô Tristê đứng yên ở bậc cửa đợi cho đến khi luồng bụi mù mịt bay đi hết, và lập tức anh nhìn thấy ngay ở giữa phòng khách có một người đàn bà gầy guộc, vẫn ăn mặc theo mốt thế kỷ trước, trên cái đầu trọc vẫn còn vương một vài mớ tóc hung, đôi mắt to vừa tắt đi những tia sáng hy vọng vẫn còn đẹp, và da mặt nhăn nhúm lại bởi nỗi cô đơn chua xót. Ðang hoảng hốt trước hình ảnh của con người đã thuộc về một thế giới khác, Aurêlianô Tristê hầu như vẫn chưa hay rằng người đàn bà ấy đang chĩa nòng khẩu súng lục cũ về phía mình ngắm bắn.
- Bà thứ lỗi cho, - anh khẽ nói.
Bà ta đứng yên ngay giữa phòng khách mù mịt bụi, chăm chú quan sát người đàn ông to lớn có tấm lưng vuông vức, trên trán xăm bức hình cây Thánh giá màu xám tro, và qua làn bụi mù mịt này bà lại thấy. anh trong một làn sương mờ thuộc một thời khác, khoác chéo ngực một khẩu súng săn hai nòng và tay xách một xâu thỏ.
- Trời ơi? Vì tình yêu thương của Thượng đế, - bà ta khẽ thốt lên, - có lẽ nào giờ đây anh lại trở về với em bằng ký ức này?
- Thưa bà, cháu muốn thuê ngôi nhà này ạ, - Aurêlianô Tristê nói.
Thế là người đàn bà giương khẩu súng lên, nhắm thẳng vào chữ thập màu tro ở trán anh, rồi lên đạn một cách kiên quyết.
- Xéo ngay? - bà ra lệnh.
Ðêm ấy, trong lúc ăn tối, Aurêlianô Tristê kể lại câu chuyện này cho cả nhà nghe, Ucsula bật khóc nức nở. "Lạy Thượng đế thánh thần?", hai tay ôm lấy đầu, cụ thốt lên, "Nó vẫn sống ư".
Thời gian, chiến tranh, những nỗi bất hạnh thường ngày nhiều vô kể đã khiến cụ quên khuấy Rêbêca. Người duy nhất không lúc nào không ý thức rằng Rêbêca vẫn còn sống là Amaranta già nua và ương bướng. Amaranta nghĩ đến Rêbêca vào lúc trời sáng khi cơn băng giá của trái tim đánh thức bà dậy trên chiếc giường cô đơn, rồi nghĩ đến Rêbêca khi bà xoa xà phòng lên bộ vú teo và cái bụng nhăn nheo, khi bà mặc đồ lót của tuổi già, và khi bà thay tấm băng đen trên bàn tay mà bà đã tự mình nhúng vào bếp đang rực than hồng để trừng trị mình.
Amaranta nghĩ tới Rêbêca vào tất cả mọi giờ, dù ngủ hay thức, dù vui hay buồn, bởi vì nỗi cô đơn đã buộc bà phải lựa chọn những kỉ niệm, phải đất bỏ hàng đống rác rưởi buồn nhớ của cuộc đời đã dồn tụ lại trong trái tim mình, và mặt khác đã thanh lọc, đã nâng cao, đã vĩnh hằng hoá những kỉ niệm khác, những kỉ niệm chua chát nhất của đời mình. Qua bà, Rêmêđiôt - Người đẹp biết được sự tồn tại của Rêbêca. Cứ mỗi bận họ đi qua ngôi nhà rách nát, bà kể cho cô cháu nghe về một sự kiện nhàm chán, hay một câu chuyện ngụ ngôn tục tĩu, rồi thông qua hình thức này cố làm cho cô cháu chia sẻ với mình nỗi hận thù đã nguội đi và do đó cố kéo dài nó cho đến khi chết. Nhưng bà đã không thực hiện được các mực đích của mình, bởi vì Rêmêđiôt - Người đẹp hoàn toàn ngây thơ trước mọi thứ tình cảm dễ xúc động và hơn nữa cũng dửng dưng trước những tình cảm quá ư xa xôi đối với mình. Trái lại, Ucsula, người từng chịu đựng sự dằn vặt khác hẳn với sự dằn vặt của Amaranta, đã nhớ tới Rêbêca trong một kí ức thanh sạch hơn, bởi vì hình ảnh một con bé đáng thương được người ta mang đến nhà cùng với tải hài cất của cha mẹ nó dã chiến thắng đòn trừng phạt mà cụ thực hiện để không công nhận nó là thành viên của gia đình mình. Aurêlianô Sêgunđô quyết định cần phải đưa bà về nhà để chăm nom, nhưng thiện chí của anh bị thất bại vì tính cố chấp của Rêbêca, người đã đổi bao năm tháng đau thương và nghèo túng để giành lấy quyền an hưởng trong cô đơn, và đã không sẵn lòng từ bỏ nó để đổi lấy một tuổi già vui vẻ trong những niềm vui giả tạo của cuộc đời lầm than hàng ngày.
Tháng hai, khi mười sáu người con trai của đại tá Aurêlianô Buênđya trở lại nhà và trong lúc cuộc vui đang náo nhiệt Aurêlianô Tristê đã nói với họ về Rêbêca và chỉ trong nửa ngày, bọn họ đã khôi phục lại diện mạo ngôi nhà, thay cửa và cửa sổ, quét vôi bức tường mặt tiền, chống đỡ các bức tường khác và láng xi măng lại nền nhà. Họ làm tất cả ở nhà ngoài nhưng không được phép sửa sang ở nhà trong. Rêbêca không hề ló mặt ra đến cửa. Bà để cho họ làm xong công việc sửa sang nhà cửa ồn ĩ ấy, sau đó bà tính công và bảo Arhêniđa, bà hầu già vẫn ở với bà, mang ra cho họ một nắm tiền, thứ tiền đã bị cấm lưu hành từ cuộc chiến tranh cuối cùng nhưng Rêbêca cứ đinh mình tin rằng chúng vẫn còn tiêu được. Ðó là lúc bà biết được sự xa lánh cuộc đời thực của mình đã đi đến đâu và bà hiểu rằng trong lúc mình còn một hơi thở thì thật khó có thể tách mình ra khỏi sự tự giam hãm một cách cố chấp trong ngôi nhà cô đơn này.
Trong chuyến viếng thăm Macônđô lần thứ hai của các con trai đại tá Aurêlianô Buênđya, có một người đã ở lại làm việc với Aurêlianô Tristê. Anh ta tên là Aurêlianô Xêntênô. Ðó là một trong số những người đầu tiên tìm đến nhà để được đặt tên. Ucsula và Amaranta nhận ra anh ngay vì chỉ trong ít giờ anh đã làm vỡ không biết bao nhiêu đồ dễ vỡ khi anh đụng vào. Thời gian đã làm giảm đi sức phát triển cơ thể lúc ban đầu của anh và giờ đây anh là người có tầm vóc trung bình, người đầy sẹo đậu lào, nhưng khả năng đập phá của anh vẫn nguyên như cũ. Nhiều bát đĩa đã vỡ, ngay cả khi anh chưa đụng phải chúng. Phecnanđa phải vội vàng chọn mua cho anh một bộ đồ ăn bằng hợp kim để anh khỏi đập vỡ nốt những bộ đồ sứ đắt tiền của nàng. Ngay cả những bát đĩa bằng kim loại này chỉ trong ít ngày cũng đã cái thì sứt mẻ, cái thì méo mó. Nhưng ngoài tật hay làm vỡ bát đĩa vô phương khắc phục ấy ra, anh là người chân thành rất mực đến mức ngay lập tức anh được mọi người tin yêu và là người làm việc rất khoẻ. Chỉ trong thời gian ngắn, bằng sức lực của mình anh đã làm cho việc sản xuất nước đá phát triển vượt quá nhu cầu thị trường địa phương. Và do đó Aurêlianô Tristê nghĩ đến khả năng phải mở rộng kinh doanh nước đá sang các làng khác thuộc vùng đầm lầy. Đó là lúc anh thai nghén bước ngoặt quyết định không chỉ có ý nghĩa đôi với việc hiện đại hoá nhà máy của mình mà còn có ý nghĩa đôi với sự nghiệp làm cho Macônđô gắn bó với phần còn lại của thế giới.
- Cần phải mở đường xe lửa đến tận đây, - anh nói.
Ðó là lần đầu tiên ở Macônđô được nghe cái từ ấy. Ðứng trước bản vẽ do Aurêlianô Tristê vạch ra, và nó là bản vẽ thừa kế trực tiếp những sơ đồ mà cụ Hôsê Accađiô Buênđya đã minh hoạ cho kế hoạch sử dụng năng lượng mặt trời trong chiến tranh, Ucsula càng khẳng định cảm giác của mình về thời gian đang quay vòng tròn. Nhưng khác hẳn với ông nội mình, Aurêlianô Tristê không mất ngủ, không biếng ăn, không hay cáu giận thất thường khiến người khác phải khổ tâm, mà trái lại anh hình dung rõ ràng các kế hoạch, thấy chúng hiện ra như những khả năng trực tiếp, anh đặt những con tính rành mạch về những tốn kém và những thời hạn xây dựng rồi cứ thế anh tính kỹ càng không hề để lọt một khe hở đáng tiếc nào.
Aurêlianô Sêgunđô, người dường như có thói không biết lo xa vốn thừa kế được từ cụ cố nội và tính nết này lại không có ở đại tá Aurêlianô Buênđya, đã tung tiền ra một cách nông nổi để làm đường xe lửa như trước đây đã tung tiền cho người anh mình làm đường thuỷ thất bại. Aurêlianô Tristê xem lịch rồi ngày thứ tư tiếp đó đã lên đường để kịp trở về sau mùa mưa. Từ dạo anh đi không hề có tin tức gì hơn. Aurêlianô Xêntênô, sau khi đã làm cho sản phẩm nước đá quá ư thừa mứa bắt đầu thử làm nước đá trên cơ sở nước hoa quả thay cho nước lã, và thế là do không biết và không có ý định anh đã tìm được nguyên tắc cơ bản để làm kem và bằng hình thức này anh nghĩ đến việc thay đổi phương thức sản xuất của một nhà máy mà anh đoán rằng sẽ thuộc về mình, bởi vì người anh vẫn chưa để lộ dấu hiệu sẽ trở về sau khi đã qua đi một mùa mưa, lại qua đi tiếp một mùa hè. Tuy nhiên, vào đầu một mùa đông nữa, có một bà giặt rũ quần áo ở ngoài sông đang lúc oi bức nhất, đã chạy ngang qua con đường trung tâm, vừa chạy vừa hớt hải kêu toáng lên trong trạng thái tâm hồn hoàn toàn bị kích động:
- Làng nước ơi! - bà ta kêu. - Một con quái vật khủng khiếp giống như cái nhà bếp kéo theo cả một làng đang đến kia kìa?
Trong lúc ấy, cả làng rùng mình trước tiếng còi huýt dài vang động và tiếng thở xình xịch nặng nhọc của đầu máy xe lửa. Những tuần lễ trước đây, dân làng đã nhìn thấy các đội công nhân đang đặt tà vẹt và kéo đường ray nhưng không một ai để ý, bởi vì họ nghĩ rằng đó chẳng qua là một trò ảo thuật mới của những người digan trở lại với kèn và lục lặc thi nhau thổi và gõ để quảng cáo cho những phát minh kỳ tài của các bậc thông thái người Giêrudalem. Nhưng khi đã hoàn hồn trước tiếng còi và tiếng xình xịch của đầu máy xe lửa, toàn thể dân cư thị trấn Macônđô đổ ra đường và họ nhìn thấy Aurêlianô Tristê từ trên đầu máy xe lửa vẫy chào mình, họ hào hứng nhìn con tàu cắm đầy hoa trên các thành cửa sổ, lần đầu tiên đến được thị trấn Macônđô sau tám tháng chậm trễ. Con tàu màu vàng thơ ngây có lẽ sẽ mang đến cho Macônđô biết bao điều không chắc chắn và những điều sáng tỏ, biết bao lời phỉnh nịnh và nỗi bất hạnh, biết bao biến động, đau khổ và nhớ mong.
Chú thích:
(1) Một thứ đàn phong cầm cổ xưa.
CHƯƠNG 12
Ngỡ ngàng trước bao nhiêu là phát minh diệu kỳ, dân Macônđô chẳng còn biết khởi sự thán phục từ đâu. Người ta thức cả đêm ngắm nhìn những bóng đèn điện được thắp sáng nhờ chiếc máy phát do Aurêlianô Tristê mang về sau chuyến du hành bằng tàu hoả lần thứ hai, và phải mất nhiều ngày người ta mới quen được với cái tiếng ấm ầm của nó.
Người ta phẫn nộ trước những hình ảnh sống động mà tay lái buôn giàu có đông Brunô Crêspi đem chiếu ở rạp hát có cái cửa tỏ vò bán vé, bởi lẽ một nhân vật đã chết và bị đem chôn trong một bộ phim và có kẻ nhỏ nước mắt xót thương, lại sống lại và trở thành người A-rập trong một bộ phim khác. Ðám đông dân chúng đã bỏ ra hai xentavôt để chia sẻ nỗi trầm luân của các nhân vật không thể chịu được cái trò dối trá chưa từng có ấy và bỏ ra về. Theo yêu cầu của đông Brunô Crêspi, thị trưởng bèn ra cáo thị giải thích rằng phim ảnh là một thứ sản phẩm tưởng tượng mà công chúng không đáng phải bực mình như vậy. Trước những lời giải thích ngán ngẩm đó, nhiều người cho rằng họ đã là nạn nhân của cái trò quỉ quái mới của bọn digan, và quyết định không trở lại rạp chiếu bóng nữa, vì nghĩ rằng mình đã có quá nhiều nỗi đau khổ rồi do đó chẳng phải hoài hơi đi thương khóc cho những nỗi bất hạnh vờ vĩnh của những nhân vật tưởng tượng. Chuyện cũng xảy ra như vậy đối với những chiếc máy hát mà các cô gái làng chơi thường mang theo thay cho chiếc đàn cổ lỗ sĩ, và có một thời đã làm thiệt hại ghê gớm đến quyền lợi của các ban nhạc. Thoạt đầu, sự tò mò đã làm tăng thêm đám khách hàng ở khu phố cấm, đến mức các bà quyền quí cũng cải trang thành dân thường để đến nhìn tận mắt cái tân kỳ của chiếc máy hát. Nhưng càng quan sát kỹ, người ta càng nhanh chóng đi đến kết luận rằng đây chẳng phải là trò ma thuật gì như người ta tưởng và như các cô gái làng chơi vẫn nói, mà chỉ là một thứ thủ thuật máy móc không thể so sánh được với một ban nhạc là thứ gây xúc động, giàu tính người và chứa đựng biết bao sự thật hàng ngày. Sự vỡ mộng thật là ghê gớm đến nỗi khi máy hát trở nên phổ biến ở từng nhà nó vẫn không phải là công cụ giải trí của người lớn, mà chỉ để cho trẻ con tháo lắp nghịch chơi. Trái lại khi có người được dịp chứng kiến cái kỳ diệu có thực của chiếc máy điện thoại đặt ở ngoài ga xe lửa, vì nó cũng có chiếc tay quay nên trông như một chiếc máy hát thô sơ, thì ngay cả đến những người mạnh bạo nhất cũng phải run sợ. Dường như Thượng đế đã quyết định thử thách mọi khả năng kinh ngạc của con người và giữ dân chúng Macônđô trong tâm trạng nghiêng ngả giữa vui và buồn, tin và ngờ, thậm chí đến mức không ai biết được đích xác đâu là giới hạn của thực tế. Ðó là một mớ bòng bong trộn lẫn giữa sự thật và ảo ảnh từng làm cho cái bóng ma Hôsê Accađiô Buênđya phải sống lại đứng ngồi không yên dưới bóng cây dẻ và buộc cụ phải đi đi lại lại trong nhà ngay cả khi trời đã sáng bạch. Từ ngày con đường sắt được chính thức khánh thành và tàu bắt đầu đỗ lại đều đặn vào lúc mười một giờ trưa thứ tư hàng tuần, và một nhà ga thô sơ bằng gỗ trong phòng có bàn viết có máy điện thoại và một cái cửa tò vò làm nơi bán vé được dựng lên, khi ấy người ta thấy ở Macônđô có những đám đàn ông và đàn bà đi đi lại lại ngoài đường cố làm ra vẻ bình thường, nhưng thực ra họ có vẻ như những người làm xiếc. ở một làng đã từng biết rõ những mánh khóe của bọn digan thì tương lai chẳng tất đẹp gì đối với những anh làm xiếc bán thuốc dẫu có bẻm mép đấy nhưng đến cuối tuần cũng chỉ trông vào chiếc nồi kêu boong boong và những bữa ăn chỉ đủ cứu vớt linh hồn, nhưng họ lại được lợi to khi loè những kẻ cả tin vì mệt mỏi hay vì ngây thơ. Trong số những anh chàng hề xiếc quần chẽn, ủng cao, mũ cao su, kính gọng sắt, mắt màu nâu trông như những chú gà trống tất mã, có một người trong số những người thứ tư nào cũng đến Macônđô và ăn trưa ở nhà Buênđya, đó là ngài Hơcbơc béo lùn luôn luôn tươi cười.
Chẳng ai nhận ra ông ta ngồi ở bàn ăn khi ông ta còn chưa chén sạch cả nải chuối. Aurêlianô Sêgunđô ngẫu nhiên gặp ông ta đang còn càu nhàu chửi bới bằng một thứ tiếng Tây Ban Nha ngượng nghịu vì không kiếm được một phòng riêng ở khách sạn Giacôp, và thế là anh đã dẫn vị khách về nhà như vẫn thường làm đối với nhiều người lạ khác. Ông ta có một gánh hàng bán bóng thám không từng mang đi khắp nơi thu những món lãi kếch xù, nhưng lại không câu được khách ở Macônđô, bởi vì dân ở đây coi đó là một trò lạc hậu sau khi họ từng nhìn thấy và đi thử những chiếc thảm bay của dân gian. Vì vậy ông ta sẽ ra đi vào chuyến tàu sắp tới. Khi gia chủ cho người mang đến nải chuối chín trứng cuốc đầu tiên vẫn thường được treo lủng lẳng ở phòng ăn, người khách hờ hững bẻ một quả. Ông ta cứ vừa ăn vừa nói, vừa nhấm nháp vừa nhai tóp tép, giống như điệu bộ của một nhà thông thái đãng trí hơn là của kẻ phàm ăn, và khi chén xong nải thứ nhất, ông ta bèn gọi thêm nải nữa. Lúc đó, ông ta mở túi đồ nghề luôn mang bên người lấy ra một bọc đựng dụng cụ quang học. Rồi với vẻ thận trọng của một tay buôn kim cương, ông ta xem xét tỉ mỉ quả chuối, cắt ra từng miếng bằng một con dao đặc biệt rồi đem cân bằng cân tiểu ly, xong lại tính đường kính của từng miếng bằng chiếc máy đo của những người lái súng. Tiếp đó ông ta lại lục ra hết dụng cụ này đến dụng cụ khác, chiếc thì đo nhiệt độ, chiếc thì đo độ ẩm không khí, chiếc thì đo cường độ ánh sáng. Thật là một nghi thức kỳ quái, làm cho cũng phải vừa ăn vừa thấp thỏm trông đợi ngài Hơcbơc nói mấy lời gì đó, nhưng ông ta không nói gì khả dĩ cho thấy ý đồ của mình.
Vào những ngày sau đó, người ta thấy ngài Hơcbơc mang theo vợt và giỏ đi bắt bướm ở các vùng xung quanh thị trấn. Ðến thứ tư, một nhóm gồm các kỹ sư nông nghiệp, thuỷ lợi, các nhà đồ bản và đo đạc đến khảo sát hàng tuần liền ở chính những khu vực mà Hơcbơc từng đến bắt bướm. Sau đó ngài Giăc Brao đến trên một toa tàu riêng nối thêm vào đoàn tàu hoả màu vàng; và nó là toa đặc biệt vì sàn và thành dát bạc, ghế đệm bọc nhung, trấn lợp thuỷ tinh màu xanh. Cũng trên chuyến tàu đặc biệt này, lăng xăng xung quanh ngài Giăc Brao còn có các vị trạng sư long trọng trong những chiếc áo thụng đen, một thời đã bám theo đại tá Aurêlianô Buênđya ở khắp nơi. Việc này làm cho dân làng nghĩ rằng các kỹ sư nông nghiệp, thuỷ lợi, các nhà đồ bản và đo đạc, cũng như ngài Hơcbơc với những quả bóng thám không và những chú bướm sặc sỡ sắc màu, cùng ngài Brao với toa tầu di động và những con chó bécgiê dữ tợn hình như báo hiệu một cuộc chiến tranh.
Tuy nhiên người ta không có nhiều thời gian để suy nghĩ, bởi vì những người dân nhạy cảm ở Macônđô chỉ vừa kịp hỏi nhau xem trò quái quỉ gì đang xảy ra thì cả thị trấn đã biến thành cái trại gồm những căn nhà bằng gỗ, mái lợp tôn của những người lạ mặt chẳng biết từ đâu đến trên những chuyến tàu hoả chật ních, người ta không chỉ ngồi trên các hàng ghế, dưới sàn mà cả trên nóc toa. Ðám dân Gringô(1) này, về sau đem theo cả những bà vợ gầy gò thường hay mặc đồ van mỏng và đội những chiếc mũ vải rộng vành, đã xây dựng khu dân cư riêng ở phía bên kia đường tàu, dọc đường trồng cây pan ma, nhà nào cũng làm cửa sổ bằng lưới sắt, ngoài hiên kê những chiếc bàn màu trắng, trên sân thượng cắm những con quay gió hình chữ X và xung quanh nhà là những bãi cỏ rộng thả gà ri và gà tây. Cả khu làng được rào lại bằng những tấm lưới sắt, giống như một trại gà khổng lồ có mắc điện mà vào những tháng đầu hè mát mẻ, sáng ra những đàn chim én bay đen cả bầu trời. Không ai biết rõ họ tìm kiếm cái gì, hoặc giả trên thực tế họ chỉ là những người từ thiện và họ đã gây nên một sự rối loạn ghê gớm, còn hơn cả những gì do những người digan gây nên trước đây, nhưng lại qua nhanh và có thể hiểu được. Do được phú những khả năng mà xưa kia chỉ Chúa trời mới có, họ thay đổi cung cách mưa, rút ngắn mùa thu hoạch, dời dòng sông sang phía đầu làng bên kia, đằng sau khu nghĩa địa. Cũng vào dịp đó họ xây hẳn một chiếc lăng bằng bê tông thay cho nấm mồ cũ của Hôsê Accađiô, để cho cái mùi thuốc súng của thi hài không làm ô nhiễm dòng nước. Ðể phục vụ cho những người lạ mặt không gia đình, họ biến khu phố nhỏ của các cô gái làng chơi thành một thị trấn rộng và đông đúc hơn. Rồi một ngày thứ tư rực rỡ kia, họ mang đến một chuyến tàu chở đầy những gái làng chơi tuyệt mỹ, những cô gái diêm dúa được huấn luyện với tài nghệ không thể tưởng tượng nổi, và được chuẩn bị trước đủ các loại phấn sáp và dụng cụ để khêu gợi những anh chàng chưa có kinh nghiệm hãy còn nhút nhát, e dè, thoả mãn những kẻ đầy dục vọng, và mua vui cho đủ loại người, cho những chàng trai độc thân. Khu phố Thổ Nhĩ Kỳ sang trọng hơn với những cửa hàng dành cho thuỷ thủ viễn dương thay thế những tiệm nhỏ cũ nát, cứ đến tối thứ bảy lại ồn ào những đám đông hiếu động và mạo hiểm chen lấn xô đẩy nhau bên những bàn cờ bạc, bên những bàn bắn súng ăn tiền, trong cái ngõ cụt nơi người ta đoán hậu vận và giải điềm báo, bên những chiếc bàn đầy thức ăn thức uống, và đến sáng chủ nhật những chiếc bàn này gây đổ ngổn ngang dưới đất, giữa những đám người nằm lộn xộn, đôi khi là những kẻ say bí tỉ sau những giờ hoan lạc, nhưng hầu hết là những kẻ ngã gục vì bị bắn, bị đâm, bị chém hay bị đập bằng chai lọ trong các cuộn ẩu đả. Quả là một sự xâm nhập quá ư ầm ĩ và không đúng lúc, đến nỗi trong thời gian đầu người ta không thể nào đi lại trong phố đầy những đồ đạc, hòm xiểng, và những gỗ ván, tre nứa của những người nghiễm nhiên dựng nhà ở bất cứ miếng đất trống nào mà chẳng cần xin phép ai, và cả những trò bê bối của những đôi trai gái mắc võng bừa bãi dưới các gốc cây và làm tình với nhau ngay giữa ban ngày ban mặt chẳng kể gì kẻ qua người lại. Góc phố yên tĩnh duy nhất là của những người da đen vùng Antidat với những căn nhà gỗ ọp ẹp, và cứ vào lúc hoàng hôn thì họ ngồi trước hiên nhà hát những bài ca não ruột bằng thứ thổ ngữ của mình. Biết bao biến đổi đã diễn ra trong một thời gian quá ngắn, nghĩa là chỉ tám tháng sau khi ngài Hơcbơc đến thăm, và những người dân vốn sinh sống ở Macônđô gọi nhau dậy sớm để xem chính cái làng của mình.
- Hãy xem chúng ta đã gặp những đồ ma quỉ gì nào, - ngài đại tá Aurêlianô Buênđya thường nói, - đừng có mà mời bọn Gringô đến xơi chuối ngự nữa nhé!
Trái lại, Aurêlianô Sêgunđô không để đâu hết vui mừng trước làn sóng dân tứ xứ đổ về. Không mấy chốc nhà anh đẩy những người khách lạ, những thực khách nổi tiếng thế giới, và thế là phải làm thêm phòng ngủ ở ngoài sân, mở rộng thêm nhà ăn, thay chiếc bàn ăn cũ bằng một chiếc mới mười sáu chỗ ngồi, bát đĩa, dao dĩa đều phải mới hết, mặc dù thế vẫn phải bố trì ăn trưa thành từng đợt. Phecnanđa đã phải ra sức chịu đựng và phục vụ như đối với các ông hoàng cái đám khách đủ mọi loại người, những kẻ ngang nhiên tha cả ủng đầy đất, cát vào phòng ăn, tiểu tiện bừa cả ra vườn, trải bạt ra bất cứ chỗ nào để ngủ trưa và tuôn cả đủ mọi chuyện chẳng kể gì đến sự ngượng ngùng của đàn bà con gái cũng như sự bất bình của những người đàn ông đứng đắn. Trước sự lộn xộn của đám người hạ đẳng ấy, Amaranta tỏ rõ nỗi bực dọc bằng cách đến bữa lại bỏ vào ăn cơm trong nhà bếp như ngày trước. Ðại tá Aurêlianô Buênđya biết rằng hẩu hết những kẻ vào trong xưởng chào ngài chẳng phải vì họ quí trọng gì ngài, mà chỉ là do tò mò muốn biết thêm một thứ di vật lịch sử, một bộ xương của Viện bảo tàng, nên đã quyết định đóng cửa cài then suốt ngày, và hãn hữu mới thấy ngài ngồi ở phía cửa quay ra đường. Ucsula thì khác hẳn, ngay cả lúc chỉ còn lết được đôi chân, bám vào tường mà đi, cụ vẫn cảm thấy cái háo hức của tuổi trẻ mỗi khi đoàn tàu sắp đến. "Cần phải kiếm thịt và cá", cụ ra lệnh cho bốn chị nấu bếp, lúc nào cũng tất tưởi có mặt đúng giờ dưới sự điều khiển nghiêm khắc của Santa Sôphia đê la Piêđat. "Cần phải chuẩn bị sẵn đủ mọi thứ, - cụ nhất quyết nhắc lại, bởi vì chẳng bao giờ biết được khách khứa thích ăn những món gì". Chuyến tàu đến vào giờ nóng bức nhất. Ðến bữa ăn trưa, căn nhà ồn ào như chợ, và đám thực khách mồ hôi nhễ nhại, chẳng cần biết những ai là chủ nhà cứ chen bừa vào chiếm lấy những chỗ tốt nhất trên bàn ăn, trong khi các bà nấu bếp vội vã va cả vào nhau bê những nồi xúp tướng, những nồi thịt ninh, những xoong canh rau, những liễn cơm và múc hết gáo này đến gáo khác cạn sạch cả thùng đại nước chanh. Tình trạng lộn xộn quá đến nỗi Phecnanđa tức tối điên người vì đinh ninh rằng rất nhiều người đã vào ăn tới hai lần và nhiều lúc muốn tuôn ra những lời lẽ thô tục bởi có một vài anh chàng dở hơi tưởng đây là quán trọ hay sao mà lại gọi đem hoá đơn ra thanh toán. Ðã hơn một năm kể từ ngày ngài Hơcbơc tới thăm và điều duy nhất người ta được biết là việc bọn Gringô định trồng chuối ở vùng đất mê người mà Hôsê Accađiô Buênđya và người của cụ đã vượt qua trên đường đi tìm những phát kiến lớn. Hai người con trai khác của đại tá Accađiô Buênđya với những chữ thập đánh dấu trên trán cũng đến do bị lôi cuốn bởi sự bùng nổ đó, và họ giải thích lý do dẫn tới quyết định ấy bằng một câu có lẽ cũng là chung của mọi người.
- Chúng tôi đến đây, - họ nói, - vì tất cả mọi người đều đến.
Rêmêđiôt - Người đẹp, là người duy nhất thoát khỏi nạn dịch trồng chuối. Nàng cứ giữ mãi cái tuổi niên thiếu tuyệt đẹp, ngày càng dửng dưng trước mọi sự chải chuốt, càng không lưu tâm gì đến những trò ma mãnh giảo hoạt, luôn luôn sung sướng trong cái thế giới hiện thực giản dợn của chính mình. Nàng không hiểu vì sao mà các bà các chị lại cứ phải làm cho cuộc đời thêm phức tạp với những xu chiêng và xi líp, và thế là nàng tự may một chiếc váy đầm bằng vải gai để chỉ phải chui đầu vào là giải quyết xong mọi chuyện không phải phiền phức gì nữa. Như vậy nàng cảm thấy mình vẫn được tự do thoải mái, mà theo nàng hiểu thì đó là cách tốt nhất khi ở trong nhà. Mọi người cử mè nheo bảo nàng cắt bớt mớ tóc dài như suối chảy mãi tới bắp chân để búi lên và dùng dây xanh đỏ buộc lủng lắng sau gáy, thế là nàng bèn cạo trọc luôn và lấy tóc mình làm bộ tóc giả chừ pho tượng thánh. Ðiểu đáng ngạc nhiên ở cái bản năng giản đơn của nàng là càng vứt bỏ kiểu cách để tìm kiếm sự thoải mái, càng bỏ qua những qui phạm để tuân theo cái bột phát tự nhiên, thì nàng càng trở nên đẹp ghê gớm và càng làm cho cánh đàn ông thèm muốn tợn. Khi những người con của đại tá Accađiô Buênđya đến Macônđô lần đầu tiên, Ucsula nhớ rằng họ mang trong người dòng máu của Rêmêđiôt, đứa chắt gái của cụ và cụ cảm thấy một nỗi hoảng sợ chưa từng có. "Hãy nhìn cho kỹ", cụ đe trước, "Nếu mày ăn nằm với bất kỳ đứa nào trong số đó, thì mày sẽ đẻ con có cái đuôi lợn". Nàng chẳng để tâm đến lời răn đe mấy, vẫn mặc quần áo con trai, lăn lê bò toài trên bãi cát để trèo cột mỡ và suýt nữa thì gây nên một thảm thảm kịch giữa mười bảy người chú họ của mình đang bàng hoàng trước cảnh tượng không sao chịu đựng nổi. Cũng vì vậy mà không ai trong số họ ngủ lại nhà khi đến thăm làng và bốn người còn lại từ trước thì sống riêng ở mấy phòng thuê theo sự xếp đặt của Ucsula. Tuy vậy, Rêmêđiôt - Người đẹp, chắc là sẽ chết cười nếu mà biết được sự đề phòng đó. Cho tới giây phút cuối cùng còn ở trần gian, nàng không hề biết rằng cái số phận làm đàn bà có sức quyến rũ không cưỡng lại nối của mình lại là một mối thảm hoạ hàng ngày. Mỗi lần nàng xuất hiện ở nhà ăn, cãi lại lệnh của Ucsula là một lần làm cho đám khách lạ hết hoảng sợ hãi. Hai năm rõ mười là nàng thỗn thện trong chiếc váy đầm thùng thình trớ trêu kia, và không ai có thể hiểu rằng cái đầu trọc lốc tròn quay của nàng lại không phải là một sự thách thức, và rằng việc nàng chẳng ngượng ngùng phơi đùi ra cho mát cũng như việc nàng cứ mút ngón tay chùn chụt sau khi dùng tay bốc thức ăn lại không phải là một sự khiêu khích đầy tội ác điều chẳng bao giở những người trong gia đình biết được là đám khách lạ nhanh chóng nhận ra rằng Rêmêđiôt - Người đẹp thường gây ra nỗi kinh hoàng và sự giày vò nội tâm cho họ ngay cả sau khi nàng đã đi qua hàng giờ rồi. Những trang nam nhi lọc lõi trước những đau khổ vì tình, được thử thách khắp đó đây đều khẳng định rằng họ chưa từng bao giờ lại có cảm giác thèm khát đến như vậy trước làn hơi tự nhiên của Rêmêđiôt - Người dẹp. Ở hành lang đặt những chậu cây thu hải đường, ở phòng khách, ở bất cứ góc nào trong nhà, người ta có thể chỉ đích vào nơi nàng đã đứng và thời gian chính xác lúc nàng rời đi. Cái dấu vết ấy rõ ràng, không lẫn lộn được, nhưng không ai trong gia đình nhận ra vì từ lâu nó đã hoà nhập vào cái mùi hàng ngày trong nhà, còn những khách lạ thì dễ dàng nhận ra ngay. Vì vậy duy chỉ có bọn họ hiểu được rằng viên chỉ huy trẻ tuổi của đội gác có lẽ đã chết vì tình, và một chàng công từ từ xa đến có lẽ đã tuyệt vọng. Không biết gì tới khung cảnh xao động và trạng thái tai ương nghiệt ngã do mỗi cử chỉ, mỗi bước đi của mình gây ra, Rêmêđiôt - Người đẹp luôn cư xử với mọi người không chút tà tâm và vẫn làm cho họ sầu não trước sự hoan hỉ ngây thơ của nàng. Khi Ucsula bắt nàng phải vào ăn cơm trong bếp cùng với Amaranta để cho đám khách lạ khỏi trông thấy, thì nàng lại cảm thấy dễ chịu hơn, bởi vì rốt cuộc nàng càng được tự do thoải mái. Thực ra nàng ăn cơm ở đâu cũng vậy thôi, và không phải vào giờ qui định mà hễ thích lúc nào thì nàng ăn lúc ấy. Khoảng ba giờ sáng nàng đã dậy ăn, rồi ngủ suốt cả ngày, và suốt mấy tháng trời nàng ăn uống chẳng theo giờ giấc nào, cho đến khi một sự tình cờ nào đó đưa nàng trở lại trật tự cũ. Khi mọi việc đều suôn sẻ thì mười một giờ trưa nàng mới dậy và chui vào trong nhà tắm khoá cửa lại và cứ thế trần truồng dầm mình trong bồn tắm hàng vài giờ liền, vừa giết những con bò cạp vừa rũ đi cơn buồn ngủ kéo dài. Sau đó nàng lấy chiếc gáo bằng quả bầu khô múc llước trong vại dội ào ào lên người. Buổi tắm cử kéo dài, tỉ mỉ, thích thú trong cái khung cảnh tịch mịch trang nghiêm, mà nếu ai không biết rõ nàng thì chắc hẳn sẽ nghĩ rằng nàng đang say mê chăm chút cơ thể mình. Nhưng đối với nàng, cái nghi thức đơn điệu kia chẳng có gì là khêu gợi, và đó chỉ là cách tiêu khiển thì giờ trong lúc nàng đói. Có hôm khi nàng bắt đầu tắm, một người khách lạ dỡ một viên ngói trên nóc nhìn xuống, và chàng ta như nghẹt thở trước tấm thân ngà ngọc ấy. Nàng nhìn thấy đôi mắt trân trân kia qua lỗ trống trên mái ngói và phản ứng của nàng không phải là cảm giác xấu hổ, mà là sự lo sợ cho tính mạng của chàng trai.
- Cẩn thận kẻo ngã, - nàng hét lên.
- Anh chỉ muốn được chiêm ngưỡng em thôi mà. - Chàng khách lạ thì thào.
- Ồ, thế à nhưng hãy cẩn thận, mái ngói đã bục rồi đấy.
Nét mặt của chàng trai thoáng vẻ đau đớn kinh hoàng và như đang âm thầm cưỡng lại sự hồi hộp đầu tiên để không làm ảo mộng tiêu tan. Rêmêđiôt - Người đẹp những tưởng chàng đau khổ vì sợ mái ngói vỡ, và nàng tắm nhanh hơn thường lệ để chàng khỏi gặp nguy hiểm. Vừa múc nước ở vại dội lên người, nàng vừa nói với chàng rằng cái mái nhà ọp ẹp đến thế sẽ gây chuyện khốn khổ, và rằng lá mục vì mưa dột là nguyên nhân khiến cải bồn tắm lúc nào cũng đầy những bò cạp. Chàng trai những tưởng câu chuyện tầm phào kia là cách mà nàng che giấu sự bằng lòng, cho nên khi nàng bắt đầu xoa xà phòng thì chàng bèn dấn thêm bước nữa:
- Ðể anh xoa xà phòng cho em.
- Cám ơn lòng tốt của anh, - nàng nói, - nhưng chỉ cần hai bàn tay em cũng đủ.
- Cho anh xoa đằng lưng thôi mà, - chàng van nài.
- Chẳng cần như vậy. Em chả thấy ai lại xoa xà phòng sau lưng bao giờ.
Sau đó, trong khi nàng lau mình, chàng trai nước mắt đắm đìa khẩn khoản được cầu hôn với nàng. Nàng thực thà trả lời rằng chẳng bao giờ nàng lại đi lấy một người con trai xoàng tới mức bỏ phí cả hàng tiếng đồng hồ, thậm chí bỏ cả bữa cơm, để chỉ làm cái việc là xem một cô gái tắm. Cuối cùng, khi nàng mặc chiếc váy đầm vào, chàng trai không thể nào chịu đựng được trước sự thực là nàng không mặc đồ lót gì cả, như mọi người vẫn đoán như vậy và cảm thấy điều bí mật ấy như một thanh sắt nung đỏ ấn dấu mãi mãi vào da, thịt lệnh. Lúc đó chàng trai bèn dỡ thêm hai viên ngói nữa để trèo vào bên trong nhà tắm.
- Mái nhà cao lắm? - nàng gọi, giọng kinh hoàng, - khéo ngã chết đấy!
Tiếng những viên gạch vỡ rơi loảng xoảng như báo hiệu một thảm hoạ, và anh chàng khách lạ kia chỉ kịp rú lên một tiếng khủng khiếp, sọ vỡ tan và chết không kịp ngáp trên nền xi măng. Những người khách lạ từ trong nhà ăn nghe thấy tiếng đổ ầm ầm đã vội chạy ra khiêng xác chàng trai trẻ, cảm thấy từ làn da của anh ta toả ra cái mùi nồng nặc đến khó thở của Rêmêđiôt - Người đẹp, và cái mùi này vẫn tiếp tục hành hạ đám đàn ông cả sau khi chết, cả khi họ chỉ còn là nắm xương tàn. Mặc dù vậy, họ không liên hệ tai nạn khủng khiếp đó với cái chết của hai người đàn ông khác cũng vì Rêmêđiôt - Người đẹp. Phải đợi đến khi có một nạn nhân nữa thì những người khách lạ và rất nhiều người sinh trưởng ở Macônđô mới tin vào câu chuyện huyền thoại nói rằng hơi thở của Rêmêđiôt - Người đẹp không phải là làn hơi tình ái mà là luồng khí giết người. Câu chuyện xảy rá vài tháng sau đó, vào một buổi chiều khi Rêmêđiôt - Người đẹp cùng với mấy bạn gái đi xem những đồn điền mới. Dân Macônđô gần đây có thói quen tiêu khiển mới bằng cách đi dạo dọc những con đường ẩm ướt và dài như vô tận trồng chuối kín cả hai bên, là nơi sự im lặng dường như được bắt nguồn từ một xứ sở hoang vu nào đó, và do đó âm thanh thật khó lan xa. Có khi chỉ cách nhau có nửa mét mà không nghe thấy tiếng nhau, nhưng tiếng nói từ tít phía bên kia cánh đồng vọng tới lại rất rõ. Trò chơi mới mẻ đó làm cho các cô gái ở Macônđô được những mẻ cười thoải mái hoặc những trận hồi hộp hù doạ và trêu đùa nhau. Tối đến các cô thường kể lại các cuộc dạo chơi đó như kể lại những giấc mơ. Sự im lặng kia được coi trọng tới mức Ucsula không dám ngăn cản cuộc tiêu khiển của Rêmêđiôt - Người đẹp, và một buổi chiều đã cho phép nàng đi chơi với điều kiện phải đội chiếc mũ rộng vành và diện bộ cánh thật đẹp. Từ lúc các cô gái vào tới đồn điền, bầu không khí như đượm một mùi thơm chết chóc. Những người đàn ông làm việc trên cánh đồng như cảm thấy bị mê hoặc, bị đe doạ bởi một hiểm hoạ vô hình, và rất nhiều người như chìm đắm trong cơn khủng khiếp đẫm nước mắt. Rêmêđiôt - Người đẹp và các cô bạn hốt hoảng của cô vừa kịp ẩn vào một ngôi nhà gần đó khi bọn họ suýt bị một đám đàn ông cuồng nhiệt làm nhục Sau đó các cô được cứu thoát nhờ có bốn anh em Aurêlianô, mà những chữ thập tro thánh trên trán họ in đậm một sự tôn kính, dường như chúng là một dấu ấn của đẳng cấp, của sự bất khả xâm phạm. Rêmêđiôt - Người đẹp không kể với ai câu chuyện một kẻ trong số đó lợi dụng lúc ồn ào sờ tay vào bụng dưới của nàng, cái bàn tay ấy có vẻ như những chiếc móng chim ưng bám vào bờ vực thẳm. Trong tích tắc nàng gạt tay chàng trai trẻ ngông cuồng và nhìn thấy một đôi mắt rầu rĩ làm cho trái tim nàng nhói lên một cảm giác thương cảm. Ðêm ấy, chàng trai đến phố Thổ Nhĩ Kỳ khoe khoang về sự liều lĩnh và số may của mình. Vài phút sau anh chàng bị một con ngựa đá một phát giập ngực và đám đông khách tứ phương chứng kiến cảnh anh ta giãy giụa trong vũng máu, chết gục giữa đường.
Thế là điều phỏng đoán về chuyện Rêmêđiôt - Người đẹp mang trong người uy quyền của thần chết đã được chứng minh bằng bốn trường hợp không gì bác bỏ được. Mặc dù một số người hay tán gẫu thường nói cho sướng miệng rằng nếu được ngủ một đêm với người đàn bà quyến rũ như vậy thì có chết cũng đành nhưng thực ra chẳng anh nào cố sức để làm việc đó cả. Có lẽ chỉ cần một thứ tình cảm nguyên thuỷ và giản dị như tình yêu là đủ để không chỉ chinh phục nàng mà còn để tránh mọi nguy hiểm, nhưng đó chính là điều duy nhất không ai nghĩ tới.
Ucsula không chú ý gì đến nàng nữa. Trước kia, khi cụ còn chưa từ bỏ ý định cứu vớt nàng thành người hữu ích cho cuộc đời, cụ thường cố làm cho nàng quan tâm đến những công việc chính ở trong nhà. "Ðàn ông họ thường đòi hỏi nhiều hơn là mày tưởng", cụ thường nói mập mờ như vậy, "Nào nấu nướng, nào quét dọn, rồi biết bao nhiêu điều lặt vặt phải lo toan, ngoài những điều mày nghĩ". Thực ra cụ đã tự lừa dối mình bằng cách dạy cho nàng hưởng hạnh phúc gia đình, bởi vì chính cụ cũng tin rằng một khi dục vọng được thoả mãn thì không một người đàn ông trên trái đất này có thể chịu đựng được, dù chỉ trong một ngày, sự lơ đễnh không thể hiểu được ấy... Khi người đàn ông cuối cùng(2) của nhà Hôsê Accađiô ra đời, cụ dứt khoát muốn nuôi dạy cho nó trở thành Giáo hoàng, cho nên cụ chả còn tâm lực đâu mà lo lắng đến cô chắt gái. Cụ để mặc nàng, nghĩ rằng sớm muộn gì thì cũng có điều kỳ diệu xảy ra, và trong cái thế giới mọi sự đều có thể này hẳn là cũng sẽ phải có một người đàn ông đủ nhẫn nại để rước lấy nàng. Từ lâu rồi, Amaranta đã dứt bỏ mọi ý định cố dạy nàng thành một cô gái hữu ích. Ngay từ những buổi chiều khâu vá chẳng còn nhớ rõ nữa ấy, khi cô cháu gái chỉ thích có mỗi việc quay maniven chiếc máy khâu, bà đã kết luận dứt khoát nó là đứa ngốc nghếch. "Ðến phải mang đấu giá mày đi thôi", bà nói, và rất ngạc nhiên trước thái độ tỉnh bơ của nàng đối với những lời tán tỉnh của đám đàn ông. Về sau khi Ucsula cứ nhất quyết bắt Rêmêđiôt - Người đẹp phải phủ mạng che mặt lúc đi lễ nhà thờ, Amaranta nghĩ rằng cái trò bí ẩn kia có lẽ lại trở thành khêu gợi tới mức mà chẳng mấy chốc sẽ có một người đàn ông đủ sức hiếu kỳ và nhẫn nại để đi tìm chỗ yếu của trái tim nàng. Nhưng khí trông thấy cung cách ngờ nghệch mà nàng khước từ một kẻ cầu thân có nhiều điểm còn ăn đứt cả vương tôn công tử, thì bà không còn hy vọng gì nữa. Phecnanđa thậm chí không muốn hiểu nàng nữa. Khi thấy Rêmêđiôt - Người đẹp vận đồ xiêm áo Hoàng hậu trong ngày hội Cacnavan đẫm máu, Phecnanđa nghĩ rằng đó là một cô gái dị thường. Nhưng khi thấy nàng dùng tay ăn bốc, và trả lời bằng những câu ngớ ngẩn thì Phecnanđa chỉ cảm thấy tiếc là những kẻ đần độn trong gia đình lại có cuộc sống lâu dài thế. Mặc dù rằng đại tá Aurêlianô Buênđya vẫn tin và thường nhắc đi nhắc lại rằng thực ra thì Rêmêđiôt - Người đẹp là đứa thông minh sáng suốt chưa từng thấy, và mặc dù rằng nàng vẫn thường tỏ ra khéo léo lạ kỳ trong việc bỡn cợt mọi người khác, cả nhà đã phó mặc nàng cho Thượng đế lòng lành. Rêmêđiôt - Người đẹp một mình bơi trong sa mạc cô đơn, chẳng có cây thánh giá trên vai, chìm đắm trong những giấc mơ tươi đẹp, trong những buổi tắm triền miên, trong những bữa ăn không giờ giấc, trong chuỗi lặng im sâu thẳm không hồi tưởng, cho đến một buổi chiều tháng ba khi Phecnanđa ở trong vườn muốn gấp những chiếu chăn thô trải giường và gọi các bà các chị ra giúp mình một tay. Họ vừa mới bắt đầu, thì Phecnanđa phát hiện thấy Rêmêđiôt - Người đẹp toàn thân xanh tái.
- Chị ốm hay sao vậy? - Phecnanđa hỏi.
Rêmêđiôt - Người đẹp đang cầm một dầu mép chăn bên kia mỉm cười như nuối tiếc.
- Không phải đâu, - nàng nói,- chị thấy mình khoẻ hơn lúc nào hết.
Nàng vừa nói đến đấy thì Phecnanđa cảm thấy một làn gió dễ chịu đầy ánh sáng làm bật chiếc chăn khỏi tay mình và hất tung nó lên trời. Amaranta cảm thấy lạnh xương sống và cố bám lấy chiếc chăn cho khỏi ngã, đúng vào lúc Rêmêđiôt - Người đẹp bay lên. Ucsula, lúc ấy gần như loà mắt, là người duy nhất bình tĩnh nhận ra thực chất của làn gió không gì cưỡng lại kia và cứ để mặc cho những chiếc chăn bay như vậy mà nhìn Rêmêđiôt - Người đẹp đang vẫy tay vĩnh biệt mình.
Giữa luồng sáng phập phồng của những chiếc chăn cùng bay lên theo nàng, có cả mùi những con bọ cạp và hoa mẫu đơn, tất cả cùng đi theo nàng trong cái bầu không khí kết thúc lúc bốn giờ chiều, và tất cả cùng theo nàng vĩnh viễn biến mất ở trên tầng cao không khí nơi những con chim bay cao nhất cũng chẳng vỗ cánh tới bao giờ.
Ðám khách lạ tất nhiên nghĩ rằng Rêmêđiôt - Người đẹp cuối cùng đã hoá thân theo cái số mệnh tiền định của nàng là con ong chúa, và gia đình nàng đã ra sức cứu vãn danh dự bằng cái huyền thoại nàng tự bay lên. Phecnanđa ghen tức vô cùng, cuối cùng cũng chấp nhận câu chuyện ly kỳ, và rất lâu sau đó vẫn tiếp tục cầu trời đem trả lại những chiếc chăn. Mọi người đấu tin vào câu chuyên kỳ diệu và họ đều hương khói khấn khứa. Có lẽ sẽ không ai nói chuyện gì khác trong một thời gian lâu nữa, nếu như không có chuyện tàn sát man rợ đám con trai của đại tá Aurêlianô Buênđya, làm cho sự ngạc nhiên biến thành sự hãi hùng! Mặc dù chưa bao giờ nói ra miệng lời tiên đoán của mình, nhưng đại tá Aurêlianô Buênđya đã dự cảm trước trong chừng mực nào đó cái kết cục bi thảm của các con mình. Khi Aurêlianô Sêrađô và Aurêlianô Accada tỏ ý muốn ở lại Macônđô, ông bố đã cố ngăn cản. Ông không hiểu chúng sẽ làm gì ở cái làng mà chỉ từ đêm đến sáng đã biến thành một nơi nguy hiểm. Nhưng Aurêlianô Xêntênô và Aurêlianô Tristê được Aurêlianô Sêgunđô ủng hộ đã nhận hai người vào làm trong xí nghiệp của mình. Ðại tá Aurêlianô Buênđya có nhiều lý do đúng sai lẫn lộn để không tán đồng quyết định ấy. Kể từ khi trông thấy ngài Brao trên chiếc ôtô đầu tiên đến Macônđô - một chiếc xe màu da cam có chiếc còi làm khiếp vía những con chó cứ chạy theo mà sủa ầm ĩ - người lính già bực mình với sự xun xoe khúm núm của dân làng, và nhận ra rằng có cái gì thay đổi trong phẩm cách con người kể từ hồi ngài từ bỏ vợ con, vác khẩu súng lên vai ra đi chiến trận. Các nhà chức trách địa phương, sau Hiệp định đình chiến Neclanđia, đều trở thành những thị trưởng chăng có sáng kiến gì, những thẩm phán làm vì, được chọn trong số những người bảo thủ mệt mỏi và hiền lành ở Macônđô. "Ðây là một chế độ của những con quỉ đói"; đại tá Aurêlianô Buênđya bình phẩm khi trông thấy những viên cảnh sát đi chân đất mang dùi cui đi ngang qua, "Chúng ta đã bao lần nổi dậy làm chiến tranh cốt để cho chúng nó không bắt chúng ta phải quét vôi xanh nhà mình". Tuy vậy khi Công ty chuối đến, các viên chức địa phương bị thay thế bằng đám chức dịch lạ mặt mà ngài Brao đưa đến sinh sống ở khu nhà chung cư, khu "trại gà mắc điện", để cho họ được hưởng - theo lời ngài giải thích - vinh dự hợp với chức vị của mình, và không phải chịu cảnh nóng bức, muỗi và vô số sự thiếu thốn khổ ải của dân chúng. Những viên cảnh sát cũ bị thay thế bằng bọn giết người bằng dao chặt mía. Chúi đầu trong xưởng, đại tá Aurêlianô Buênđya nghĩ ngợi về những đổi thay đó, và lần đầu tiên trong những năm cô đơn thầm lặng của mình, ngài trằn trọc mãi với điều khẳng định dứt khoát rằng không tiếp tục cuộc chiến tranh tới cùng là một sai lầm. Vào những ngày ấy, một người anh em của đại tá Măcgơniphicô Visban bị quên lãng dẫn đứa cháu bảy tuổi đi uống nước ngọt ở một hàng rong ngoài quảng trường. Chẳng may đứa trẻ va phải viên đội xếp cảnh sát và đánh đổ cốc nước ngọt vào quần áo của y. Tên man rợ này liền rút dao chém đứa bé làm mấy khúc, người ông chạy tới ngăn cản liền bị y chém phăng đầu. Cả làng đều trông thấy ông già bị chém cụt đầu khi một số người khiêng ông về nhà, và một người phụ nữ túm tóc xách chiếc đầu lâu chạy theo cùng với chiếc bao tải đẫm máu đựng xác đứa trẻ.
Ðối với đại tá Aurêlianô Buênđya thì đây là giới hạn của sự trừng phạt. Ngay lập tức, ngài cảm thấy phẫn nộ giống như hồi còn trai trẻ ngài đã phẫn nộ khi đứng trước xác người đàn bà bị lính đánh chết chỉ vì tội bị chó dại cắn. Nhìn những đám người tò mò đứng trước cửa nhà, bằng cái giọng căm thù không thể chịu đựng được nữa ngài quát tướng lên:
- Một ngày kia ta sẽ trang bị vũ khí cho các con ta để chúng nó kết liễu đời cái bọn Gringô chết tiệt này!
Trong tuần lễ ấy, ở những địa điểm khác nhau thuộc vùng duyên hải, mười bảy người con của ngài đã bị những tên giết người vô hình nhằm vào dấu thánh trên trán mà bắn như bắn thỏ. Aurêlianô Tristê ra khỏi nhà mẹ đẻ vào lúc bảy giờ tối thì một phát súng từ trong bóng tối xuyên giữa trán. Aurêlianô Xêntênô chết cứng trên chiếc võng vẫn thường buộc trong nhà máy vì bị một chiếc dùi đâm ngập đến tận cán ở chính giữa hai lông mày. Aurêlianô Sêrađô từ rạp chiếu bóng đưa người yêu về nhà, trên đường trở về đến phố Thổ Nhĩ Kỳ thì có kẻ trà trộn trong đám đông bắn một phát súng lục làm anh ta đổ gục vào nốt chảo bơ đang sôi. Mấy phút sau, có người gõ cửa căn phòng nơi Aurêlianô Accada đang ngủ với một người đàn bà và gọi: "Nhanh lên, chúng nó giết anh em mày ngoài kia". Người đàn bà cùng ở trong phòng với anh ta về sau kể rằng Aurêlianô Accada nhảy ra khỏi giường và mở cửa chạy ra thì bị một loạt đạn môde bắn vỡ sọ. Cái đêm chết chóc ấy, khi cả nhà chuẩn bị đèn nến khâm liệm bốn xác chết thì Phecnanđa chạy như điên khắp làng để tìm Aurêlianô Sêgunđô, lúc đó được Pêtra Côtêt ấn vào trong chiếc tủ áo vì tin chắc rằng mật lệnh tàn sát nhằm rào tất cả những ai mang tên ngài đại tá. Mãi đến bốn ngày sau, khi các bức điện nhận được từ nhiều nơi thuộc vùng duyên hải cho phép hiểu rằng sự điên cuồng của kẻ thù vô hình chỉ thẳm vào những anh em Aurêlianô có dấu chữ thập ở trán, Pêtra Côtêt mới cho anh ta ra ngoài. Amaranta lục cuốn sổ nhỏ ghi chép về những đứa cháu, và cứ nhận được bức điện báo tử nào thì gạch tên đứa đó, cho tới khi chỉ còn lại đứa cháu lớn. Bà nhớ rõ đứa cháu này vì cậu ta có nước da đen tương phản với lôi mắt xanh to tướng. Ðó là Aurêlianô Amađô vốn là thợ mộc, sinh sống ở một làng nhỏ tít trong bìa rừng. Sau hai tuần đợi không thấy có điện báo của anh, Aurêlianô Sêgunđô cho người đi báo để anh đề phòng, sợ rằng anh không biết gì về mối nguy hiểm đang treo trên đầu. Người đưa tin trở về nói là Aurêlianô Amađô đã thoát nạn. Có hai người đàn ông đến lùng anh ở nhà vào cái đêm tàn sát ấy. Chúng đã nã súng vào anh, nhưng không trúng được vào chỗ có dấu chữ thập trên trán. Aurêlianô Amađo nhảy qua hàng rào ở sân, và chạy tuột vào triền rừng mà anh thuộc như lòng bàn tay do có quan hệ buôn bán gỗ với những người thổ dân. Từ đó không có tin tức gì thêm về anh.
Thật là những ngày đen tối đối với đại tá Aurêlianô Buênđya. Tổng thống nước cộng hoà gửi tới ngài bức điện chia buồn, hứa ra lệnh điều tra đến nơi đến chốn và tỏ lòng tưởng nhớ những người đã khuất. Theo lệnh của Tổng thống, thị trưởng đem bốn vòng hoa tới dự lễ tang và định đặt lên các quan tài, nhưng ngài đại tá cho đem để ra ngoài đường. Sau đám tang, đại tá thảo một bức điện lời lẽ gay gắt và tự tay đem đi điện cho Tổng thống, nhưng điện báo viên không chịu phát. Thế là ngài viết thêm mấy dòng lời lẽ cay cú hơn nữa và cho vào phong bì gửi đi. Cũng giống như khi xảy ra cái chết của cô vợ, và bao nhiêu cái chết của những người bạn quí trong thời kỳ chiến tranh, ngài đại tá không cảm thấy đau buồn, mà chỉ thấy một nỗi mệt mỏi bất lực và sự điên dại mù quáng. Thậm chí ngài còn tố cáo cả cha Antôniô Isaben đồng loã với bọn giết người vì đã làm dấu chữ thập cho các con mình bằng một thứ tro không phai màu để kẻ thù dễ nhận ra chúng. Vị cố đạo lụ khụ này không còn minh mẫn là mấy và khi lên bực đã bắt đầu làm cho con chiên kinh hãi với những lời rao giảng lung tung, một chiều nọ đã đến nhà đại tá mang theo cả một bát tro hoà sẵn dùng làm dấu thánh vào thứ tư hàng tuần, và cố gọi đủ cả gia đình đến để lấy thứ nước tro ấy làm dấu chữ thập lên trán họ nhằm thanh minh rằng nó có thể lấy nước lã rửa sạch được.
Nhưng sự hãi hùng của nỗi bất hạnh ăn sâu đến mức ngay cả Phecnanđa cũng chẳng để ý tới việc làm đó và từ bấy trở đi không bao giờ thấy một ai trong dòng họ Buênđya đến quì trước bàn chịu lễ vào dịp lễ Tro thứ tư hàng tuần.
Trong một thời gian dài đại tá Aurêlianô Buênđya không bình tĩnh lại được. Ngài bỏ việc làm những con cá vàng, ăn uống khó khăn, và đi lại khắp nhà như một kẻ mộng du, kéo lệt sệt chiếc áo choàng và hậm hực nhất nỗi giận dữ ngấm ngầm. Sau ba tháng tóc ngài bạc trắng, hàng ria cũ chải chuốt nay đâm tua tủa phủ kín đôi môi nhợt nhạt, nhưng trái lại, đôi mắt ngài một lần nữa lại rực sáng giống như hai hòn than, từng làm khiếp đảm những ai trông thấy ngài lúc mới sinh và một thời chúng đã làm cho những chiếc ghế xoay tít khi ngài nhìn vào. Trong sự giằng xé điên cuồng ấy đại tá Aurêlianô Buênđya ra sức tìm kiếm một cách vô ích những điềm báo từng đưa tuổi trẻ của ngài theo những con đường nguy hiểm tới sa mạc bi thảm của vinh quang. Ngài như mất phương hướng, chơi vơi trong ngôi nhà xa lạ mà ở đấy không còn ai và chẳng có cái gì còn gợi cho ngài chút tình cảm thân thương nào. Một lần nữa ngài mở cửa căn buồng của Menkyađêt để tìm kiếm dấu vết cuộc chiến tranh đã qua, nhưng chỉ thấy những đống đổ nát, rác rưởi và những đồ vứt đi chất đống lại đấy sau bao năm không ai nhòm ngó tới. Trên bìa những quyển sách gáy da chẳng còn ai giở tới nay đã ẩm mốc và lên rêu xanh, trên khoảng không vốn là nơi sáng sủa và trong lành nhất nhà cứ bập bềnh cái mùi không thể chịu được của những kỷ mềm đã thồi rữa. Một buổi sáng nọ ngài thấy Ucsula ngồi khóc dưới gốc cây dẻ, dưới chân người chồng đã chết. Ngài đại tá Aurêlianô Buênđya là người duy nhất trong nhà, không tiếp tục nhìn thấy cụ bà cường tráng tàn tạ đi trong nửa thế kỷ sương gió. "Hãy chào cha đi" - Ucsula nói với ngài. Ngài dừng lại chốc lát trước cây dẻ và một lần nữa nghiệm thảy rằng khoảng trống kia cũng không gây ấn tượng gì đối với ngài cả.
- Mẹ bảo gì? - ngài hỏi.
- Trông ông ấy rất buồn, - Ucsula trả lời, - chắc ông ấy nghĩ rằng con sẽ chết.
- Hãy nói với cha rằng, - ngài đại tá mỉm cười nói, - người ta không chết khi phải chết, mà sẽ chết khi nào có thể chết.
Lời tiên đoán của người cha đã khuất khơi dậy chút ngạo nghễ cuối cùng còn lại trong tim, nhưng ngài lại tưởng nhầm đây là một cuồng sức mạnh đột ngột. Vì vậy mà ngài cứ gạn hỏi Ucsula xem những đồng tiền vàng tìm thấy trong bức tượng thánh Hôsê bằng thạch cao đã được chôn ở chỗ nào trong sân. "Không bao giờ con biết được", - cụ nói chắc như đinh đóng cột, và thêm: "Một ngày kia chủ nhân của chỗ của cải ấy hẳn sẽ xuất hiện, và chỉ có người ấy mới đào bới lên được". Không ai hiểu vì sao một người luôn luôn hào hiệp đến thế mà lại tỏ ra khao khát tiền bạc nhường ấy, và không chỉ là số tiền đủ để có thể giải quyết một việc khẩn cấp, mà là một số của cải khổng lồ đến nỗi Aurêlianô Sêgunđô chỉ nghe nói đã phát khiếp lên. Những người cùng cánh mà ngài tìm đến nhờ giúp đỡ đều trốn biệt không tiếp. Chính vào lúc ấy người ta nghe ngài nói: "Ðiểm khác nhau duy nhất hiện nay giữa phái Tự do và phái Bảo hoàng là ở chỗ những người Tự do đi lễ nhà thờ vào lúc năm giở và những người Bảo hoàng thì đi vào lúc tám giờ". Tuy nhiên, ngài cứ một mực thiết tha, cầu khẩn, vứt bỏ tất cả mọi nguyên tắc danh dự mà ngài vốn tuân thủ, chạy vạy chỗ này một ít chỗ kia một ít với một sự kiên nhẫn thầm lặng, chỉ trong vòng tám tháng ngài đã hùn được một món tiền lớn hơn eả số tiền Ucsula đã chôn giấu. Lúc bấy giờ ngài đến thăm đại tá Hêrinênđô Mackêt nhờ giúp đỡ để mở cuộc chiến tranh tổng lực.
Ðã có một thời đại tá Hêrinênđô Mackêt đúng là người duy nhất có thể giật dây các cuộc bạo động mặc dù vẫn nằm trên chiếc ghế xích đu của người bại liệt. Sau Hiệp định ảnh chiến Neclanđia, trong khi đại tá Aurêlianô Buênđya lẩn tránh ở xưởng kim hoàn sản xuất những con cá vàng thì Hêrinênđô Mackêt tiếp xúc với đám sĩ quan khởi nghĩa trung thành với ngài cho tới thất bại. Cùng với họ ngài tiến hành cuộc chiến tranh của sự nhục nhã hàng ngày, của sự cầu khẩn và van xin, lào là xin trở lại vào ngày mai", nào là "cũng sắp sửa", rồi lại "chúng tôi đang chú ý xem xét trường hợp của ngài"; một cuộc chiến tranh thua thiệt vô phương cứu chữa chống những kẻ phục vụ tận tuy và chắc chắn đáng phải được nhưng lại không bao giờ được hưởng khoản trợ cấp suốt đời. Cuộc chiến tranh khác cuộc chiến tranh đẫm máu hai mươi năm, không gây nhiều thiệt hại như cuộc chiến tranh gậm nhấm của sự áp đặt vĩnh viễn. Chính đại tá Hêrinênđô Mackêt từng thoát khỏi ba vụ mưu sát, sống sót với năm vết thương và bình yên vô sự qua biết bao trận khác, đã chết ngợp trong sự vây hãm tàn bạo của hy vọng và nếm mùi thất bại nhục nhã của tuổi già, trong khi nghĩ tới Amaranta giữa những chiếc đèn hình thoi trong căn nhà ở nhờ. Những cựu chiến binh, mà người ta còn biết tin, dã xuất hiện trên một tờ báo qua những tấm ảnh, mặt câng câng, cùng chụp chung với ngài Tổng thống vô danh của nước Cộng hoà, người đã tặng bọn họ những chiếc cúc có in ảnh ngài để dùng đơm ở cổ áo, và trả cho họ một lá cờ bẩn thỉu, vấy máu và ám khói thuốc súng để phủ lên những chiếc quan tài của chính họ. Còn những người khác, những người biết tự trọng hơn, vẫn chờ đợi một bức thư trước cảnh tranh tối tranh sáng của lòng thương thiên hạ, chết dần chết mòn vì đói khát, sống dở chết dở vì điên dại, thối rữa tàn lụi đi vì già cỗi giữa cái đống cứt đái thơm tho của sự vinh quang. Vì vậy mà khi đại tá Aurêlianô Buênđya mời tham gia vào việc tổ chức một cuộc chiến tranh một mất một còn nhằm kết liễu mọi vết tích của một chế độ tham nhũng và bê bối do xâm lược nước ngoài dựng lên, ngài đại tá Hêrinênđô Mackêt không thể kìm lại được sự xúc động vì thương hại:
- Trời ơi, Aurêlianô, - ngài thở dài. - Tôi biết là ông bạn già rồi, nhưng đến giờ tôi mới nhận thấy ông đã già hơn rất nhiều so với chính hình hài già nua của ông đấy...
Chú thích:
(1) Dân Bắc Mỹ, cách gọi miệt thị.
(2) Tức con trai đầu lòng của Aurêlianô Sêgunđô với Phecnanđa.
CHƯƠNG 13
Trong những năm đầy náo loạn gần đây, Ucsula có rất ít thì giờ rảnh rỗi chăm lo cho Hôsê Accađiô học để trở thành Giáo hoàng. Khi cậu cần chuẩn bị gấp để đi thi, Mêmê, em gái cậu, lớn lên giữa tính nết hà khắc của Phecnanđa và tính tình chua ngoa của Amaranta, lúc đó cũng đã đến tuổi vào trường nữ tu để được rèn giũa thành một nghệ sĩ tiểu phong cầm. Ucsula rất băn khoăn nghi ngờ hiệu quả của các phương pháp dùng để rèn giũa tinh thần học hành trễ nải của vị Giáo hoàng tương lai, nhưng cụ không đổ lỗi cho tuổi già lẫn cẫn của mình hay cho con mắt mờ những đám mây phủ hầu như không để cho cụ nhận rõ được hình thù của sự vật, mà lại qui tội cho cái mà cụ cũng không xác định được chính xác nhưng hiểu nhầm nó với một sự tiêu phí thời gian ngày càng tăng. "Năm tháng bây giờ không còn giống như năm tháng trước kia", cụ thường hay nói như vậy mà cảm thấy công việc hàng ngày như tuột khỏi tầm tay mình. Cụ nghĩ: trước kia trẻ em chậm lớn hơn nhiều. Chỉ cần cụ nhớ lại quãng thời gian đủ để Hôsê Accađiô, đứa con cả của cụ, đi theo đám digan và mọi chuyện xảy ra trước khi cậu trở về người xăm loang lổ như một con rắn và nói năng như một nhà chiêm tinh học, và cả những chuyện xảy ra trong nhà trước khi Amaranta và Accađiô bỏ nói thổ ngữ của người Anhđiêng để học nói tiếng Tây Ban Nha; chỉ cần cụ nhớ lại những buổi chiều thanh thản rực rỡ nắng trong đó Hôsê Accađiô Buênđya đáng thương phải chịu đựng dưới bóng cây dẻ, và tất cả những gì cần phải bày tỏ sự tiếc thương trước cái chết của chồng mình trước khi người ta đưa về cho cụ một ngài đại tá Aurêlianô Buênđya đang hấp hối, mặc dù cụ đã qua bao nhiêu cuộc chiến tranh và bao nhiêu đau khổ vì ngài, thế mà cụ vẫn chưa tới năm mươi tuổi. Hồi trước, sau khi cả ngày ngồi làm những chiếc kẹo nặn hình con giống, cụ vẫn còn thời gian chăm sóc các con để nhìn vào tròng mắt những đứa trẻ mà biết chúng ốm đang cần có một lọ dầu. Trái lại bây giờ khi không có việc gì làm và với Hôsê Accađiô cưỡi trên lưng, cụ lang thang từ mờ sáng đến tận đêm khuya, cái loại thời giờ xấu này đã buộc cụ phải bỏ dở công việc. Thực ra là Ucsula cưỡng lại tuổi già ngay cả khi không còn nhớ được tuổi của mình và tập tễnh đi lại khắp nơi, và việc gì cụ cũng cố dự phần, rồi trêu chọc đám khách lạ bằng những câu hỏi đại loại như hồi chiến tranh có gửi ở nhà này một bức tượng thánh Hôsê bằng thạch cao để gia đình trông nom hộ trong mùa mưa hay không. Không ai biết đích xác cụ bị mù từ khi nào. Ngay cả những năm cuối đời khi cụ đã phải nằm liệt giường thì ai cũng tưởng cụ nằm liệt giường là vì già lão thôi, chứ không ai phát hiện được cụ đã bị mù. Cụ đã nhận thấy điều đó từ trước khi sinh Hôsê Accađiô. Thoạt tiên cụ tưởng đâu là mắt chỉ đau qua loa, bèn uống vụng rượu hổ cất và lấy mật ong nhỏ vào mắt, nhưng chẳng bao lâu cụ nhận thấy rằng mắt mình ngày càng mờ đi một cách vô phương cứu chữa đến nỗi cụ không bao giờ có được khái niệm rõ ràng về đèn điện, vì khi những bóng điện đầu tiên được mắc lên thì cụ chỉ còn cảm thấy một luồng sáng lờ mờ. Cụ không nói với ai bởi vì như vậy có nghĩa là công khai thừa nhận sự bất lực của mình. Cụ lặng lẽ học phân biệt khoảng cách các vật thể, giọng nói của từng người, để tiếp tục nhìn bằng trí nhớ khi mắt đã mờ hẳn. Về sau cụ đã bất ngờ phát hiện ra tác dụng của mùi vị giúp mình xác định các vật thể trong cảnh tối tăm mờ ảo còn tốt hơn cả hình khối và màu sắc, và chúng đã giúp cụ vĩnh viễn thoát khỏi mối nhục ăn báo cô. Trong bóng tối của căn phòng cụ có thể xâu kim và thùa được khuyết áo, và biết được khi nào thì xoong sữa sắp sôi. Cụ nhớ rõ ràng vị trí của từng đồ vật trong nhà tới mức chính cụ có lúc cũng quên rằng mình đã bị mù. Có một lần, Phecnanđa làm ầm ĩ cả nhà vì chiếc nhẫn cưới biến đâu mất, thế mà Ucsula lại tìm thấy trên một chiếc giá để đồ vật trong phòng ngủ của đám trẻ. Chả là trong khi mọi người đi lại lung tung khắp nhà, cụ căng bốn giác quan của mình lặng lẽ theo dõi họ để khỏi bị bất ngờ, nên sau một thời gian cụ phát hiện ra rằng mỗi người trong gia đình này ngày nào cũng giống như ngày nào, đều lặp đi lặp lại chính những lối đi ấy, chính những công việc ấy, thậm chí còn lặp lại những câu nói giống nhau vào cùng một giờ nhất định mà không hay biết gì. Chỉ khi nào họ không tuân theo cái đường mòn chi ly ấy thì mới có thể mất cái gì đó. Vậy nên khi nghe Phecnanđa hốt hoảng la lối là bị mất chiếc nhẫn thì Ucsula nhớ ra rằng việc khác thường duy nhất mà Phecnanđa làm hôm đó là đem những chiếc chiếu của lũ trẻ ra phơi vì Mêmê đêm trước bắt được một con rệp. Vì bọn trẻ cũng tham gia vào việc dọn dẹp, nên Ucsula nghĩ rằng Phecnanđa đã để chiếc nhẫn trên chiếc giá cao, nơi duy nhất chúng không với tới được. Trái lại, Phecnanđa chỉ quanh quẩn tìm kiếm theo những chỗ hàng ngày quen đi lại, mà không biết rằng việc tìm kiếm vật bị mất đã bị thói quen thường ngày cản trở, cho nên mới phải mất công đến thế.
Việc nuôi dạy Hôsê Accađiô đã giúp Ucsula theo sát những thay đổi nhỏ nhặt trong nhà vốn là công việc nặng nhọc đối với cụ Khi nhận biết là Amaranta đang mặc quần áo cho các thánh bày ở trong phòng ngủ, cụ bèn giả vờ như đang dạy cho chú bé học phân biệt các màu sắc khác nhau.
- Nào, xem nào, - cụ nói, - chút thử nói cho cụ xem Thánh Raphaen Accanhen mặc quần áo màu gì nào?
Bằng cách đó, chú bé sẽ nói cho cụ biết điều mà mắt cụ không nhìn thấy, và từ rất sớm trước khi chú bé đi học Ucsula đã có thể phân biệt được màu sắc khác nhau của y phục các thánh đặt ở trong phòng ngủ. Thỉnh thoảng cũng xảy ra những điều bất ngờ. Một buổi chiều Amaranta đang ngồi thêu ở hành lang bày những chậu thu hải đường, thì Ucsula đụng phải.
- Cha mẹ ơi, - Amaranta phản đối, - bà đi đứng ra làm sao thế.
- Chính cô, - Ucsula nói, - mới là người ngồi không phải chỗ.
Cụ nói đúng. Từ hôm đó cụ bắt đầu nhận thấy một điều chưa ai nhận ra, đó là việc mặt trời dần dần chuyển chỗ theo từng mùa trong một năm, do vậy những người thường ngồi ở hành lang cũng dần dần thay đổi chỗ ngồi mà chính họ không hề biết. Từ bữa đó, Ucsula chỉ cần nhớ ngày tháng để biết chính xác chỗ ngồi của Amaranta. Mặc dù tay cụ ngày càng run và chân cụ ngày càng như không nhấc lên được, nhưng chưa bao giờ người ta lại thấy hình bóng quen thuộc của cụ có mặt ở nhiều nơi trong cùng một lúc đến thế. Hầu như cụ còn nhanh nhẹn như lúc cai quản mọi công việc trong nhà. Tuy nhiên, trong nỗi cô đơn không dò thấu được của tuổi già, cụ vẫn minh mẫn để ý tới mọi sự thay đổi nhỏ nhặt nhất trong gia đình, vậy nên lần đầu tiên cụ nhận rõ những sự thật mà trước đây công việc đã không cho phép nhìn thấy. Vào thời gian cụ chuẩn bị cho Hôsê Accađiô đi thi, cụ đã tóm lược lại cuộc sống của gia đình từ ngày thành lập làng Macônđô, và đã hoàn toàn thay đổi ý kiến về đám con cháu của mình. Cụ nhận thấy không phải như mình tưởng vì cuộc chiến tàn bạo mà đại tá Aurêlianô Buênđya đã đánh mất tình cảm gia đình, mà thực ra ngài chưa hề yêu mến ai, ngay cả Rêmêđiôt - người vợ của ngài, hoặc vô khối các cô gái từng một đêm chăn gối với ngài, lại càng không thể nói ngài yêu các con ngài. Cụ nhận thấy rằng ngài đã tham gia nhiều cuộc chiến tranh như vậy không phải vì sự say mê lý tưởng như mọi người nghĩ, và ngài đã từ bỏ thắng lợi trông thấy cũng không phải chỉ vì mệt mỏi như thiên hạ nghĩ, mà chính là ngài đã thắng hoặc bại đều do một nguyên nhân: đích thị là thói kiêu ngạo đầy tội lỗi. Cụ đi đến kết luận rằng đứa con mà mình đẻ ra kia là một chàng trai bất lực trước tình yêu. Một đêm, khi còn hoài thai cụ đã nghe thấy nó khóc. Ðó là một tiếng than não nuột nghe thật rõ ràng đã làm Hôsê Accađiô Buênđya thức giấc bên cạnh và bỗng thấy vui vui khi nảy ra ý nghĩ rằng nó sẽ là người cọ tài nói giọng bụng. Những người khác đoán rằng nó sẽ là nhà tiên tri, trái lại, cụ rùng mình trước ý nghĩ sáng tỏ rằng cái tiếng gầm sâu lắng kia là dấu hiệu đầu tiên của cái đuôi lợn khủng khiếp, và cầu trời hãy để cho nó chết luôn từ trong bụng. Nhưng sự minh mẫn của tuổi già lại giúp cụ nhận ra rằng tiếng khóc của đứa trẻ trong bụng mẹ không phải là dấu hiệu của tài nói giọng bụng hay khả năng tiên tri, mà là dấu hiệu không lầm lẫn được của sự bất lực đối với tình yêu, và điều này cụ cứ nhắc đi nhắc lại nhiều lần. Cái điều đánh giá không tốt đẹp gì về đứa con trai bỗng gợi nên trong lòng cụ tất cả lòng thương cảm. Trái lại, Amaranta, mà sự cứng rắn trong tình cảm của bà làm cụ cảm thấy kinh hãi, mà sự chua ngoa được dồn tụ lại trong tình cảm của bà làm cụ cảm thấy chua xót, qua sự thử thách cuối cùng đã làm cho cụ thấy rõ bà là một phụ nữ hiền dịu chưa từng thấy. Cụ hiểu ra với một sự rõ ràng đáng tiếc rằng những sự dằn vặt vô lý đối với Piêtrô Crêspi không phải là do ý muốn trả thù như mọi người vẫn nghĩ, ngay cả sự giày vò dai dẳng làm thất vọng cuộc đời đại tá Hêrinênđô Mackêt cũng không phải là do nỗi đắng cay đau buồn của bà như thiên hạ vẫn tưởng, đúng ra cả hai việc đó đều là sự đấu tranh sống còn giữa một bên là tình yêu vô hạn độ và một bên là sự hèn yếu không gì thắng nổi, và cuối cùng thì nỗi sợ hãi vô lý mà Amaranta vốn có đã thắng chính trái tim bị vò xé của mình. Ðúng vào lúc ấy Ucsula bắt đầu gọi đến Rêbêca, nhắc đến bà với tình cảm thắm thiết vốn có nay được tăng thêm bởi sự hối hận muộn màng và sự khâm phục bất ngờ do hiểu rằng chỉ có bà Rêbêca, đứa con không bú sữa cụ mà trái lại lớn lên nhờ ăn đất, đất và vôi của bốn bức tường, là đứa con trong huyết quản không mang dòng máu của cụ nhưng lại mang một dòng máu của những người xa lạ mà nắm xương tàn của họ còn rền rĩ dưới mồ, chỉ có Rêbêca, người con gái có trái tim xao động, có cái dạ dày to, người duy nhất có lòng can đảm khôn cùng là người mà Ucsula từng mong mỏi cho dòng dõi nhà mình.
- Rêbêca, - cụ nói, lần lần tay trên tường, - cả nhà đối với con bất công biết bao!
Mọi người trong nhà cứ tưởng cụ lẩm cẩm, nhất là từ khi cụ đi lại lúc nào cũng giơ tay phải lên trời như là thánh Gabrien. Tuy nhiên, Phecnanđa nhận thấy một sự minh mẫn sáng suốt ẩn trong cái bóng đen của sự lẩm cẩm kia, chẳng hạn Ucsula có thể nói ngay không chút ngập ngừng số tiền cả nhà tiêu pha trong năm vừa qua. Amaranta đã có ý nghĩ như vậy vào một ngày nọ khi bà mẹ đang bưng nồi xúp trong bếp và mặc dù không hề biết là mọi người đang lắng nghe, cụ nói rằng chiếc cối xay ngô mua của những người digan đầu tiên, chiếc cối đã từng biến mất trước khi Hôsê Accađiô sáu mươi lăm lần lang thang vòng quanh khắp thế giới vẫn còn ở nhà Pila Tecnêra, người cũng đã sống ngót nghét trăm tuổi, nhưng còn khỏe và nhanh nhẹn. Mặc dù thân xác béo quá cỡ làm lũ trẻ phát khiếp cũng như xưa kia tiếng cười từng làm kinh hoàng đàn bồ câu, Pila Tecnêra không ngạc nhiên trước sự minh mẫn của Ucsula, bởi vì kinh nghiệm của chính bà lão bắt đầu cho thấy tuổi già có đầu óc sáng láng có thể còn đáng tin cậy hơn cả phép bói bài.
Tuy nhiên, khi Ucsula nhận thấy không đủ thời gian để củng cố lòng ham thích của Hôsê Accađiô, cụ đâm ra hốt hoảng sợ hãi. Cụ bắt đầu mắc sai lầm khi cố sức nhìn bằng mắt những gì bản năng vẫn cho phép mình nhìn kỹ hơn. Một buổi sáng cụ hất cả lọ mực vào đầu cậu bé, nghĩ rằng đó là lọ nước thánh. Vì cứ muốn nhúng tay vào hết mọi chuyện nên cụ đã gây nên nhiều sự va chạm đến nỗi cáu gắt lung tung, và cố sức thoát ra khỏi đám mây đen bao quanh mình như một chiếc áo thụng bằng mạng nhện. Chính lúc đó là khi cụ nghĩ rằng sự vụng về thô kệch của mình không phải là chiến thắng đầu tiên của tuổi già và bóng tối, mà là sự thất bại của thời gian. Cụ nghĩ rằng trước đây, khi Thượng đế với tháng năm chưa đặt chính những cái bẫy mà những người Thổ Nhĩ Kỳ đã dùng vào lúc đo một thước vải lụa, thì mọi việc khác xa thế này. Ngày nay không những trẻ con lớn nhanh hơn, mà ngay cả tình cảm cũng biến chuyển một cách khác. Ngay sau khi Rêmêđiôt - Người đẹp về trời thì Phecnanđa chẳng ý tứ gì cứ làu bàu khắp nơi về chuyện nàng đã mang theo cả những chiếc chăn trải giường. Khi những anh em Aurêlianô vừa mới mồ yên mả đẹp thì Aurêlianô Sêgunđô lại đã mời đến đầy nhà những khách rượu say bí tỉ kéo đàn phong cầm, mở sâm banh lốp bốp như thể không có chuyện những con chiên của Chúa vừa mới lìa đời mà là những con chó vừa chết mà thôi, làm như thể ngôi nhà của những kẻ rồ dại từng làm nhức óc biết bao người và từng sản xuất không biết bao kẹo bánh nặn hình con giống kia đã được định sẵn để biến thành bãi rác chứa đầy bọn vô lại. Trong khi xếp đồ đạc vào chiếc rương cho Hôsê Accađiô và nhớ lại những điều đó, Ucsula tự hỏi phải chăng là mình nên chọn con đường về yên nghỉ nơi chín suối để người ta lèn chặt đất lên chiếc quan tài, và bấy giờ có thể hỏi Thượng đế mà chẳng sợ hãi gì xem thực sự Ngài có nghĩ rằng con người vốn sinh ra là dã thú để phải chịu bao đau đớn trớ trêu như vậy không. Hết câu hỏi này đến câu hỏi khác làm cụ dần dần mụ cả người và muốn nhảy ra múa may quay cuồng nói huyên thuyên như người ngoại quốc. Cuối cùng cụ muốn tự cho mình một khoảnh khắc nổi loạn, cái khoảnh khắc bao lần cụ khát khao và bao lần đã cam chịu để phục tùng lý trì, cụ muốn phóng uế vào tất cả và tuôn ra cho hết cái kho từ ngữ thô tục mà cụ đã phải quết nhịn trong cả một thế kỷ luôn luôn đấu dịu.
- Tiên sư cha nhà nó! - cụ rít lên.
Amaranta, bấy giờ đang bắt đầu xếp quần áo vào rương, tưởng rằng có con bò cạp vừa cắn cụ.
- Nó ở đâu? - bà vội vàng hỏi.
- Cái gì?
- Con bò cạp ấy. - Amaranta nói thêm.
Ucsula lấy ngón tay chỉ vào ngực mình:
- Nó ở đây, - cụ trả lời. - ở đây này?
Vào lúc hai giờ chiều một ngày thứ năm, Hôsê Accađiô đi thi. Có lẽ Ucsula thường vẫn nhớ đứa chút như cụ tưởng tượng ra khi tiễn nó đi, vẻ bình thản và nghiêm nghị, không bao giờ khóc thút thít, dẫu phải chịu ngột ngạt trong bộ quần áo nhung xanh với những chiếc cúc bằng đồng và sợi dây bạc đeo vào cổ. Cậu bé rời khỏi nhà ăn để lại mùi thơm dịu mát của thứ nước hoa Phloriđa mà cụ vẫn bôi lên đầu nó để có thể lần theo dấu vết của cậu ở trong nhà. Trong lúc cả nhà đang ăn bữa trưa tiễn biệt cậu, ai cũng giấu vẻ bôi rối bằng cách làm ra vẻ vui mừng, và khen ngợi quá lời những chuyện cười về cha Antôniô Isaben. Nhưng khi người ta mang chiếc rương bọc nhung có các góc bịt bạc đi thì cảnh đó giống như vừa khiêng ra khỏi nhà một chiếc quan tài. Người duy nhất không chịu tham gia vào cuộc tiễn đưa là đại tá Aurêlianô Buênđya.
- Ðây à cái trò vớ vẩn cuối cùng trong nhà còn thiếu, - ngài lẩm bẩm. - Một ông cha đạo!
Ba tháng sau, Aurêlianô Sêgunđô và Phecnanđa đưa Mêmê đến trưởng học và trở về mang theo chim đàn tiểu phong cầm đặt vào chỗ chiếc đàn pianô tự động. Hồi ấy, Amaranta bắt đầu khâu khăn liệm cho chính mình. Cơn sốt xung quanh chuyện trồng chuối đã giảm bớt. Những người dân vốn sinh trưởng ở Macônđô bị đám dân ngoại quốc dồn vào một khu, khó nhọc lắm mới giữ được những phương tiện ít ỏi ngày xưa, nhưng lại được khích lệ vì cảm nghĩ là họ đã sống sót sau một nạn đắm tàu. Khách khứa vẫn đến ăn trưa ở nhà, nhưng trên thực tế thì thói quen cũ đã không được lập lại cho mãi đến khi Công ty chuối cuốn gói đi ít năm sau đó. Tuy nhiên, cũng đã có những thay đổi cơ bản trong truyền thống hiếu khách của gia đình, bởi vì lúc ấy là khi Phecnanđa ra nắm tay hòm chìa khoá. Ucsula lùi vào bóng tối, còn Amaranta suốt ngày luẩn quẩn với những khăn tang và vải liệm, cho nên cái em gái học làm hoàng hậu nay được quyền tự do lựa chọn thực khách và áp đặt những qui định chặt chẽ học được của cha mẹ mình. Sự nghiêm khắc của Phecnanđa làm cho cả nhà giữ được những thói quen vốn có trong một làng đã bị xáo trộn bởi những thói hư tật xấu của đám ngoại bang từng bộc lộ trong việc tiêu xài xả láng những của cải kiếm được một cách dễ dàng. Bà nói không chút úp mở rằng người tốt là những người không có liên quan gì đến Công ty chuối. Ngay cả Hôsê Accađiô Sêgunđô, anh chồng bà, cũng không thoát khỏi tính khắc nghiệt đó, bởi vì một buổi mai ầm ĩ nọ, ông ta đã giết hết những con gà chọi tuyệt vời của mình và chuẩn bị vào làm đốc công trong Công ty chuối.
- Anh đừng có mà bước chân vào nhà này nữa nếu anh mang ghẻ của bọn ngoại quốc về đây. - Phecnanđa nói.
Kỉ cương trong nhà chặt chẽ đến nỗi Aurêlianô Sêgunđô chỉ cảm thấy thoải mái khi đến nhà Pêtra Côtêt. Trước hết với lý do để bớt gánh nặng cho bà vợ, ông chuyển những buổi liên hoan, dạ hội tới đó. Sau đấy, lại viện cớ đàn súc vật sinh sản ngày một giảm, ông cho chuyển cả chuồng bò, chuồng ngựa sang đó. Cuối cùng lấy lý do là ở nhà nhân tình mát mẻ hơn, ông chuyển văn phòng nhỏ của mình sang đó để lo việc buôn bán. Khi Phecnanđa biết rằng mình là một bà goá nhưng chồng mình lại chưa chết thì đã quá muộn để cho mọi chuyện trở lại như cũ.
Aurêlianô Sêgunđô hầu như chẳng ăn cơm ở nhà và những biểu hiện bề ngoài duy nhất mà ông cố giữ, tỉ như cái việc ngủ với vợ ở nhà đã không đủ sức để thuyết phục được ai. Vì sơ ý, một lần nọ ông đã ngủ lại với Pêtra Côtêt cho mãi đến sáng bạch. Khác với điều ông chờ đợi, Phecnanđa không hề trách móc, cũng không hề than thở gì, nhưng ngay trong ngày hôm đó bà sai người mang hai chiếc rương đựng quần áo của ông sang nhà nhân tình. Bà công khai sai đầy tớ khiêng những chiếc rương đi nghênh ngang giữa đường cho mọi người thấy vì nghĩ rằng làm thư vậy thì ông chồng lầm lạc sẽ không chịu được xấu hổ và sẽ ăn năn hối hận mà trở về. Nhưng cử chỉ anh hùng đó chỉ là một bằng chứng nữa cho thấy Phecnanđa đã không hiểu những tính cách của chồng mình mà cả đến những thuần phong mỹ tục của một làng vốn không hề giống như làng của bố mẹ bà, bởi vì mọi người trông thấy đám đầy tớ khiêng những chiếc rương đi đều nói rằng đó là kết cục tất nhiên của một câu chuyện ai cũng rõ.
Aurêlianô Sêgunđô cho mở tiệc tùng, ăn uống ba ngày liền mừng được tự do. Ðiều bất lợi lớn nhất đối với bà vợ là trong khi bà bắt đầu đi vào tuổi già với những bộ quần áo màu tối, những chiếc vòng hoa kiểu cổ, và sự hãnh diện không phải lối, thì ả thân tình hình như lại đang ở vào tuổi hồi xuân, lúc nào cũng ăn vận váy áo lụa mỏng màu sặc sỡ, và đôi mắt lúc nào cũng long lên rừng rực. Aurêlianô Sêgunđô lại lao vào ả với khí thế hừng hực của thời trẻ, như trước kia, khi Pêtra Côtêt, không phải do yêu ông mà vì nhầm ông với người anh em sinh đôi và hề là đã ngủ với cả hai người cùng một lúc, với ý nghĩ rằng thượng đế đã cho mình cái may mắn được có một người đàn ông lủ sức của hai người khì ăn nằm với mình. Dực tình được khơi ai mạnh mẽ đến nỗi đã hơn một lần họ nhìn vào mắt nhau khi lắp ăn cơm, và họ chẳng nói chẳng rằng chụp lồng bàn lên mâm ơm và kéo nhau vào buồng ngủ mà lịm đi trong cái đói và ái inh Bắt chước những gì đã nhìn thấy trong những chuyến đi vụng trộm với các ả làng chơi theo lối Pháp, Aurêlianô Sêgunđô sắm cho Pêtra Côtêt một chiếc giường có trướng rủ, treo rèm nhung lên các cửa sổ và lát trần và tường phòng ngủ bằng những tấm gương khổng lồ. Bấy giờ trông ông càng có vẻ nhậu nhẹt bê tha hơn. Từ các chuyến tàu thường đến vào lúc mười một giờ, ngày nào ông cũng nhận được những hòm sâm banh và rượu mạnh Brandy. Trên đường từ nhà ga trở về gặp ai ông cũng chèo kéo nhảy cho bằng được, dù cho đó là người cùng làng hay người nước ngoài, bất kể quen hay lạ, sang trọng hay nghèo hèn. Ðến cả ngài Brao, vốn chỉ lẩm bẩm bằng tiếng nước ngoài, cũng còn bị lôi cuốn bởi những điệu bộ hấp dẫn của Aurêlianô Sêgunđô, và nhiều lần đã rượu say bí tỉ ở nhà Pêtra Côtêt, đến mức những con chó becgiê Ðức dữ tợn thường theo ngài khắp nơi cũng nhảy theo những điệu hát xứ Têchxat mà ngài lẩm nhẩm chẳng ra kiểu cách gì theo kịp cây đàn phong cầm.
- Hỡi những con bò cái hãy giạng háng ra! - Aurêlianô Sêgunđô gào lên trong cảnh hỗn loạn của đêm hội. - Hãy giạng háng ra kẻo cuộc đời thật là ngắn ngủi?
Chưa bao giờ ông có bộ mặt phấn chấn đến như vậy, và mọi người cũng chẳng cần hơn thế, và đàn gia súc của ông sinh sản cũng chưa bao giờ nhiều đến thế. Bao nhiêu là bò, lợn, gà đem giết trong các buổi tiệc tùng triền miên không dứt, đến nỗi đất trong sân trở nên xám xỉn và nhầy nhụa những tiết. Sâm nhà trở thành nơi chất đống những xương xấu lòng ruột và đủ thứ cặn bã, và người ta đã phải đốt từng gói thuốc nổ suốt cả ngày để những đám diều, quạ khỏi móc cả mắt khách khứa. Aurêlianô Sêgunđô béo phì ra, lúc nào mặt cũng đỏ tía như gà chọi, đi đứng chậm chạp vì ăn khoẻ như Hôsê Accađiô sau khi đi lang thang khắp nơi trở về. Tài phàm ăn chưa từng có, sức tiêu xài xả láng ghê gớm và lòng hiếu khách có một không hai đã làm cho uy tín của ông vượt qua mọi bến bờ vùng đầm lầy, hấp dẫn những tay phàm ăn nhất trong vùng duyên hải. Những tay ăn cự phách từ khắp nơi đổ về tham gia những cuộc ă thi ăn kỳ quặc được tổ chức ở nhà Pêtra Côtêt. Aurêlianô Sêgunđô luôn luôn là người chiến thắng, cho tới một ngày thứ bảy bất hạnh khi xuất hiện Camila Xagastumê, một người đàn bà kỳ lạ nổi danh khắp nước với cái tên "Voi cái". Cuộc thi ăn kéo dài suốt từ thứ bảy cho đến sáng thứ ba. Trong hăm bốn giờ đầu sau khi đã ngốn hết một con cừu quay cùng với sắn, khoai và chuối rán, nốe một thùng rưỡi sâm banh, Aurêlianô Sêgunđô tin chắc mình sẽ thắng. Trông ông có vẻ phấn chấn, đầy sức sống so với nữ đối thủ lặng lẽ, có phong thái lão luyện hơn, nhưng vì thế ít xúc động hơn đối với đám công chúng đủ mọi hạng người đứng ngồi chật ních khắp nhà. Trong khi Aurêlỉanô Sêgunđô nhai nhồm nhoàm, ngấu nghiến vì háo hức trước thắng lợi thì "Voi cái" xắt những miếng thịt với tài nghệ của một bác sĩ ngoại khoa và ăn chậm rãi, thậm chí còn thưởng thức sự thú vị trong khi ăn. Ðó là một người đàn bà cao lớn, béo khoẻ, nhưng vẻ dịu dàng của phụ nữ vẫn át đi cái phì lộn khổng lồ của thân hình. Nàng có bộ mặt đẹp, đôi bàn tay thon thả được chăm chút và một vẻ hấp dẫn ghê gớm làm cho Aurêlianô Sêgunđô khi trông thấy nàng bước vào đã nói nhỏ rằng ông thích thi đấu với nàng trên giường hơn là trên bàn ăn. Về sau khi thấy nàng lịch sự ăn chiếc đùi cừu, ông bình phẩm một cách nghiêm chỉnh rằng loại "Voi cái" lịch thiệp, hấp dẫn và chơi không biết chán kia có lẽ là một loại đàn bà lý tưởng. Ông đã không lầm: cái danh tiếng dữ tợn như chim ưng mà trước đây người ta gán cho "Voi cái" hoàn toàn không có cơ sở. Nàng không phải là cái cối xay thịt, cũng không phải là người đàn bà có râu trong gánh xiếc Hy Lạp như người ta vẫn nói, nàng là giám đốc một trường nhạc. Nàng bắt đầu học ăn khi đã là người mẹ trong gia đình đi tìm phương kế sao cho các con được ăn uống tốt hơn, và không phải bằng cách kích thích giả tạo mà bằng sự bình tĩnh tuyệt đối của tinh thần. Lý thuyết của nàng, được chứng tỏ trong thực tế, dựa trên nguyên tắc cho rằng người nào hoàn toàn thoải mái về mặt ý thức thì có thể ăn không ngừng cho tới khi mệt không sao ăn được nữa. Tức là vì lý do tinh thần, chứ không phải lòng ham mê thể thao đã làm cho nàng bỏ nhà trường và gia đình để đi thi tài với một người đàn ông nổi tiếng khắp nước là người có tài ăn khoẻ nhưng không theo một nguyên tắc nào. Ngay từ khi mới gặp, nàng đã nhận thấy rằng Aurêlianô Sêgunđô sẽ thua vì tính cách của ông chứ không phải vì cái dạ dày. Hết đêm đầu tiên, trong khi nàng thản nhiên như không thì Aurêlianô Sêgunđô hầu như mệt mỏi vì cười nói luôn miệng. Họ đi ngủ trong bốn giờ. Khi tỉnh dậy, mỗi người uống bốn mươi quả cam vắt nước, tám lít cà phê và ba mươi quả trứng sống. Hết đêm thứ hai, sau nhiều giờ không ngủ và sau khi đã ăn hết hai con lợn, một buồng chuối, uống bốn thùng sâm banh, nàng cảm thấy hình như Aurêlianô Sêgunđô cũng đã phát hiện ra phương pháp của mình, nhưng lại đi theo con đường ngu ngốc dưới sự hướng dẫn của một thái độ vô trách nhiệm hoàn toàn. Ðó là người đàn ông nguy hiểm hơn là nàng nghĩ. Mặc dù vậy, khi Pêtra Côtêt mang ra thêm hai chú gà tây quay thì Aurêlianô Sêgunđô cũng sắp sửa đứt mạch máu.
- Nếu ông không thể ăn nữa thì thôi, - nàng nói, - chúng ta sẽ nhận hoà.
Nàng nói chân thành và hiểu rằng mình cũng không thể ăn thêm miếng nào nữa và vì lương tâm cắn rứt trước việc làm cho đối thủ đi nhanh tới chỗ chết. Nhưng Aurêlianô Sêgunđô lại coi đó là lời thách thức mới và tiếp tục nhai món gà tây cho tới khi vượt quá xa cái khả năng ăn kinh khủng của ông. Ông lăn ra ngất đi. Ông ngã gục mặt xuống đĩa xương, sùi bọt mép, thở phì phì trong cơn hấp hối. Ðầu óc tối sầm, ông cảm thấy như mình bị ném từ trên tháp cao xuống một cái vực không đáy, và trong khoảnh khắc minh mẫn còn sót lại, ông nhận ra rằng thần chết đang đến với ông khi kết thúc cú rơi kéo dài vô tận này.
- Hãy đem ta về với Phecnanđa - ông chỉ còn kịp nói lời trăng trối cuối cùng.
Những người bạn đưa ông về đến nhà, đều nghĩ rằng ông đã giữ lời hứa với vợ là không chết trên giường của nhân tình.
Pêtra Côtêt đã đánh xi đôi ủng mà ông muốn mang khi nằm trong quan tài, và đang tìm người mang đi thì có người đến cho hay rằng Aurêlianô Sêgunđô đã qua khỏi cơn nguy hiểm. Quả nhiên, ông lại bình phục sau gần một tuần, và mười lăm ngày sau đó đã lại tổ chức một bữa tiệc linh đình mừng được cải tử hoàn sinh. Ông tiếp tục đến ở nhà Pêtra Côtêt, nhưng ngày nào ông cũng về thăm Phecnanđa và thỉnh thoảng ở lại ăn cơm với gia đình, giống như thể định mệnh đã thay đổi tình huống, đặt ông vào vị trí là chồng của nhân tình và là nhân tình của người vợ đích thực vậy.
Ðó cũng là một điều nhẹ nhõm đối với Phecnanđa. Trong cảnh chán chường bị bỏ rơi, trò giải trí duy nhất của bà là dạo những bản nhạc trên cây đàn tiểu phong cầm vào giờ nghỉ trưa và đọc thư của các con. Trong những bức thư chi tiết gửi cho chúng đều đặn mười lăm ngày một lần, không có một dòng nào là sự thật. Bà giấu giếm nỗi đau khổ của mình. Bà không cho chúng biết nỗi buồn của một ngôi nhà mà mặc dù có những bóng đèn chiếu trên những chậu thu hải đường, mặc dù có cái ngột ngạt của các buổi chiều, mặc dù có những loạt pháo hội hè từ ngoài đường vọng vào, nó vẫn ngày càng giống với ngôi nhà thời thuộc địa của cha mẹ bà. Phecnanđa lững lỡ đi lại giữa ba bóng ma sống và một bóng ma đã chết của Hôsê Accađiô Buênđya, cái bóng ma này thỉnh thoảng lại tới ngồi chăm cllú trước cửa phòng trong lúc bà chơi cây đàn tiểu phong cầm. Ðại tá Aurêlianô Buênđya là một cái bóng. Từ cái lần cuối cùng ngài ra phố để cùng với đại tá Hêrinênđô Mackêt trù liệu một cuộc chiến tranh không tương lai, hầu như ngài không ra khỏi buồng ngoại trừ việc đi tiểu tiện dưới gốc cây dẻ. Ngài cũng không tiếp ai ngoài bác phó cạo thường tới ba tuần một lần. Ngài nhấm nháp bất cứ thứ gì mà Ucsula mang cho mỗi ngày một lần, và mặc dù vẫn tiếp tức say sưa làm những con cá vàng như cũ, nhưng ngài không bán nữa khi biết rằng thiên hạ không mua không để làm đồ trang sức mà để làm di vật lịch sử. Ngài cũng đem tất cả những con búp bê của Rêmêđiôt, mặc dù chúng vẫn được trang trí trong phòng ngủ từ ngày ngài cười vợ, ra ngoài sân chất thành đống rồi châm lửa đốt. Ucsula vốn cảnh giác nên nhận ra được những việc làm của con trai, nhưng cũng không ngăn cản được ngài.
- Sao tim mày sắt đá thế? - cụ hỏi.
- Ðây không phải là chuyện trái tim? - ngài nói. - Trong phòng đầy những gián là gián.
Amaranta vẫn khâu đồ liệm của mình. Phecnanđa không hiểu vì sao bà trẻ vẫn thường viết thư cho Mêmê, còn gửi cả quà cho nó, trái lại thậm chí không hề nói tới Hôsê Accađiô. "Ðến chết không cũng chẳng hiểu tại sao", Amaranta trả lời khi Phecnanđa hỏi qua Ucsula, và câu trả lời ấy đã để lại trong tim bà một ẩn số không bao giờ được làm sáng tỏ. Amaranta người cao dong dỏng, vẻ đĩnh đạc, lúc nào cũng ăn mặc đường hoàng, với một thái độ cao nhã trước thời gian và những kỷ niệm đắng cay. Amaranta dường như mang trên trán dấu chữ thập tro trinh tiết. Thực ra thì bà mang dấu thánh trên tay, trên dải băng đen mà cả khi đi ngủ bà vẫn mang theo, và đó là dải băng do bà tự giặt và là lấy. Suốt đời bà lúc nào cũng khâu vá khăn tang, vải liệm. Có thể nói rằng ban ngày bà khâu, ban đêm lại tháo ra, và bằng cách ấy không phải bà muốn đánh bại sự cô đơn, mà hoàn toàn ngược lại, bà muốn duy trì nó.
Lo lắng lớn nhất của Phecnanđa trong những năm bị bỏ rơi là nếu Mêmê về nghỉ những mùa hè đầu tiên mà lại không gặp Aurêlianô Sêgunđô ở nhà thì sao? Câu chuyện chết hụt vì ăn no đã kết thúc nỗi lo sợ đó. Khi Mêmê trở về, bố mẹ cô đã thoả quận với nhau không những để cho cô gái tin rằng Aurelianô Sêgunđô vẫn là người chồng thuần hậu của mẹ cô mà còn để cho cô gái không cảm thấy nỗi buồn tẻ trong nhà. Năm nào cũng vậy, Aurêlianô Sêgunđô đóng vai người cha mẫu mực trong vòng hai tháng. Ông bày ra các buổi vui chơi có kem và ánh ngọt cùng với tiếng đàn rộn rã của cô sinh viên hồ hởi và hiếu động. Tính cách của cô từ lúc đó đã rõ ràng không giống mẹ mấy. Có lẽ đó chỉ là hình bóng của Amaranta khi còn chưa giết mùi cay đắng và lúc nào cũng nhảy nhót múa hát làm ồn nhà cửa vào những năm bà mười hai hay mười bốn tuổi, tức là trước khi những khát khao thầm kín đối với Piêtrô Crêspi đã làm thay đổi hẳn chiều hướng của trái tim. Nhưng khác với Amaranta, khác với tất cả mọi người, Mêmê chưa thể hiện dấu iệu cô đơn của gia đình, dường như cô hoàn toàn hoà hợp với thế giới ngay cả khi cô ngồi một mình trong phòng khách luyện đàn một cách hết sức chăm chỉ. Rõ ràng là cô thích thú với ngôi nhà, vì cả năm cô mong ngóng cái hồ hởi của đám trẻ đón mình về và cô cũng không khác cha ở cái thiên hướng thích vui chơi và lòng hiếu khách lạ thường. Dấu hiệu đầu tiên của sự kế thừa di hại đó được lộ ra vào mùa hè thứ ba, khi Mêmê trở về với bốn bà xơ và sáu mươi tám cô bạn cùng lớp. Cô tự nhiên nảy ra nghĩ mời họ về nhà chơi một tuần và chẳng báo trước gì hết.
- Thế có khổ không - Phecnanđa than thở. - Cái con bé này cũng gớm ghiếc hệt như bố nó ở nhà đã phải đi mượn giường, mượn võng của hàng xóm, ắp xếp làm chín đợt ăn cơm, định giờ vào nhà tắm và kiếm cho được bốn mươi chiếc ghế dựa để cho các cô gái mặc đồng phục anh đi giày con trai không nhảy nhót suốt ngày khắp nhà. Lời mời đã biến thành một thất bại, bởi vì các cô học trò ồn ào vừa ăn sáng xong thì lại đã bắt đầu ăn trưa theo từng đợt, và lại tiếp tục ăn bữa tối, và trong suốt cả tuần chỉ đi chơi được có một buổi. Tối đến, các bà xơ mệt phờ, không còn sức đâu mà đi lại, chứ đừng nói gì đến hò hét những mệnh lệnh trong khi đám nữ sinh trẻ không hề biết mệt mỏi vẫn hát ầm ĩ ở ngoài sân. Một bận, đám con gái tí nữa thì đạp cả lên cụ Ucsula vốn cứ muốn làm một việc gì đó chính ngay ở chỗ cụ không thể làm được. Lại một hôm khác các bà xơ làm um lên về chuyện ngài đại tá Aurêlianô Buênđya đứng đái ngay dưới gốc dẻ chẳng thèm để ý đến các cô gái đang tụ tập ở sân. Amaranta suýt nữa thì làm mọi người phát hoảng, vì một bà xơ bước vào bếp lúc bà đang tra muối vào nồi súp, và câu hỏi duy nhất mà người nữ tu sĩ kia bật ra là cái nắm bột tràng đó là thứ gì. "Thạch tín đấy", Amaranta trả lời.
Cái đêm mới đến, các cô gái đã làm ồn ào lên vì chuyện đi vào nhà vệ sinh trước lúc đi ngủ, thế mà mãi đến một giờ sáng vẫn còn có người đứng chờ ngoài nhà tiểu. Phecnanđa bèn mua bảy mươi hai chiếc bô, nhưng việc đó chỉ làm cho câu chuyện phức tạp vào ban đêm được chuyển sang buổi sáng, bởi vì từ lúc rạng đông các cô gái đã xếp hàng trước nhà vệ sinh mỗi người cầm bô của mình để đến lượt rửa bô. Mặc dù có vài cô bị sốt và mấy cô bị muỗi đốt mẩn ngứa, hầu hết các cô gái đều tỏ rõ sức chịu đựng vững vàng trước những khó khăn ghê gớm nhất, và ngay cả vào những giờ nóng bức nhất, các cô vẫn ríu rít ngoài vườn. Cuối cùng khi các cô đã ra đi thì các bồn hoa đều tan hoang, đồ đạc gãy vỡ lung tung và tường nhà đầy những hình vẽ và chữ viết, nhưng Phecnanđa tha thứ cho mọi sự đổ vỡ để đổi lấy cái nhẹ nhõm khi họ ra đi. Bà đem trả giường, ghế và đem cất bảy mươi hai chiếc bô vào phòng của Menkyađêt. Căn phòng bỏ không vốn trước đây là của con người mang cuộc sống tinh thần của cả nhà, từ đó trở đi được gọi là phòng để bô. Ðối với đại tá Aurêlianô Buênđya, đó là cái tên đúng nhất, bởi vì trong khi mọi người vẫn thán phục trước việc căn buồng của Menkyađêt không bị hư hại và chẳng có bụi bặm gì thì ngài lại thấy nó biến thành một cái chuồng phân. Dù sao vấn đề ai đúng ai sai đối với ngài cũng không quan trọng. Sở dĩ ngài biết được số phận của căn buồng là vì Phecnanđa cứ đi lại làm cản trở công việc của ngài suốt cả một buổi chiều để xếp mấy chục chiếc bô vào đó.
Vào những ngày ấy, lại thấy Hôsê Accađiô Sêgunđô có mặt ở nhà. Ông ta bước đi vội vã ngoài hành lang, chẳng chào hỏi ai, và ngồi lì trong xưởng nói chuyện với đại tá. Dù không nhìn thấy ông, nhưng Ucsula chỉ nghe tiếng gót giày nện của thầy cai là đủ để cụ ngạc nhiên nhận thấy cái khoảng cách không gì cứu vãn được đã ngăn chia giữa ông và gia đình, ngay cả với người anh em sinh đôi ngày bé vẫn cùng chơi trò trốn tìm ngây thơ và nay thì chẳng còn lại nét nào giống nhau. Ông dong dỏng cao, trịnh trọng, vẻ trầm tư, buồn buồn và trên gương mặt xanh xao để lộ một tia sáng thê thảm. Ðó là người đàn ông giống Santa Sôphia đê la Piêđat, bà mẹ ông hơn cả. Ucsula đã đổ tội cho ý hướng muốn quên ông đi khi bàn chuyện nhà chuyện cửa, nhưng khi cụ cảm thấy ông một lần nữa lại có mặt ở nhà và nhận ra rằng ngài đại tá tiếp ông trong nhiều giờ ngay tại xưởng kim hoàn của ngài, thì cụ lập tức kiểm lại những ký ức xa xưa của mình rồi càng khẳng định hơn nữa mềm tin cho rằng vào một thời điểm nào đó của tuổi thơ ông đã đổi tên mình cho người anh em sinh đôi, bởi vì ông chứ không phải người kia đã là người được gọi là Aurêlianô. Không một ai hay biết những chi tiết nhỏ nhặt trong đời riêng của ông. Có những thời kỳ người ta được biết ông không ở một chỗ nào cho thực cụ thể, có lúc ông nuôi gà chọi ở nhà Pila Tecnêra, và thỉnh thoảng ông ngủ lại đấy, nhưng hầu hết các đêm ông ngủ lại tại các phòng ngủ của bọn gái làng chơi. Ông sống lang bạt kỳ hồ, không mảy may xúc cảm, không mảy may ham muốn, như thể một ngôi sao rực sáng trong vũ trụ của Ucsula.
Thực ra, Hôsê Accađiô Sêgunđô không phải là người của gia đình này và cũng sẽ chẳng bao giờ là người của một gia đình nào khác, kể từ buổi sáng sớm xa xưa kia, cái buổi sáng sớm đại tá Hêrinênđô Mackêt dẫn ông vào trại lính không phải để xem buổi hành hình mà là để cho đến chết ông sẽ không bao giờ quên cái nụ cười buồn thảm có pha chút mai mỉa của kẻ bị hành hình. Ðó không chỉ là kỷ niệm xưa nhất mà còn là kỷ niệm duy nhất thời niên thiếu của ông. Còn kỷ niệm khác, kỷ niệm về một cụ già mặc chiếc áo khoác cổ lỗ, đội chiếc mũ cánh quạ ngồi ngay trước cửa sổ rực sáng kể những điều kỳ diệu, ông vẫn không xác định được nó thuộc về thời kỳ nào. Ðó là một kỷ niệm mờ ảo, hoàn toàn không cần thiết cho những sự dạy dỗ hay cho nỗi hoài nhớ, nó trái với kỷ niệm của kẻ bị hành hình mà trên thực tế kỷ niệm này đã định hướng cho đời ông, và nó trở về trong trí nhớ của ông ngày một trong sáng hơn giữa lúc ông đã già dặn, cứ như thể sự diễn tiến của thời gian đưa ông từ từ tới đó Ucsula định lợi dụng ông để ông khiến cho đại tá Aurêlianô Buênđya từ bỏ xưởng kim hoàn, nơi ngài tự giam hãm mình. "Chắt hãy thuyết phục ông trẻ đi xem phim đi", cụ nói với ông. "Dẫu rằng nó không thính phim ảnh thì ít ra nó cũng có dịp được thở hít không khí trong lành chứ". Song cũng chẳng bao lâu cụ nhận ra rằng ông cũng y hệt như ngài đại tá, chẳng đếm xỉa gì đến những lời van nài của mình, và nhận ra rằng ông cũng đã bị bọc kín bởi sự chai lì trước mọi tình cảm âu yếm. Mặc dù cụ không biết và không một ai biết hai người bàn bạc cái gì trong những lúc trò chuyện rất lâu tại xưởng kim hoàn, cụ đã hiểu rằng đó là hai thành viên duy nhất của gia đình dường như gắn bó với nhau bởi những mối đồng cảm sâu sắc.
Thực ra, ngay cả Hôsê Accađiô Sêgunđô càng không thể lôi được ngài đại tá ra khói nơi ngài tự giam hãm mình. Việc các cô nữ sinh, bạn của Mêmê, ồn ĩ kéo đến nhà đã vượt qua những giới hạn của sự bình tâm của ngài đại tá. Viện cớ phòng ngủ của hai vợ chồng mình hiện có quá nhiều gián đã cắn nát những con búp bê đẹp mắt của Rêmêđiôt- ngài bèn mắc võng ngay tại xưởng kim hoàn, rồi từ đó ngài ở lý trong xưởng, chỉ ra ngài khi cần phải ra. Ucsula không tìm được dịp nói chuyện với ngài. Cụ biết rõ rằng ngài không nhìn mâm cơm mà chỉ để nó ở đầu bàn lớn trong lúc ngài làm xong con cá vàng và cũng chẳng để ý đến bát xúp đã đóng váng và thịt sào đã nguội lạnh. Ngài ngày một khó tính hơn kể từ dạo đại tá Hêrinênđô Mackêt từ chối không giúp ngài một tay để khơi dậy một cuộc chiến đẫm máu không tương lai. Ngài tự giam mình kỹ hơn, dường như ngài còn cài then lòng mình lại và do đó gia đình nghĩ về ngài như một người đã chết. Người ta không thấy bóng dáng ngài nữa mãi cho tới khi ngài bước ra cửa chính để xem đám xiếc đang diễu qua, đó là ngày mười một tháng mười. Ðối với đại tá Aurêlianô Buênđya, đó là một ngày như tất cả những ngày trong những năm cuối cùng của đời mình. Vào lúc năm giờ sáng, tiếng kêu loạn xạ của cóc nhái cũng như tiếng trùng rền rĩ ở ngoài bốn bức tường làm ngài thức dậy. Cơn mưa dầm kéo suốt từ ngày thứ bảy, và ngài không cần phải nghe tiếng mưa rơi rả rích trên những tàu lá ngoài vườn hoa, bởi vì bằng mọi cách ngài cảm nhận ra cơn mưa ngay từ trong cái rét thấu xương mình. Như mọi bận, ngài đã mặc chiếc áo khoác nỉ với chiết quần lót ống dài dệt bằng sợi bông thô và dẫu nó bám đầy bụi cũ kỹ chính ngài vẫn gọi nó là "chiếc quần lót của kẻ mạnh". Ngài mặc quần dài ống hẹp nhưng không đóng cúc quần và cũng không dùng chiếc cúc vàng vốn thường dùng để đóng kín cổ áo sơ mi lại, bởi vì ngài vẫn có ý đi vào nhà tắm. Sau đó ngài đội chiếc áo khoác nỉ lên đầu như một chiếc mũ chùm đầu, lấy ngón tay chải bộ râu rậm chảy xuống, rồi đi tiểu tiện ngay ở ngoài sân. Còn lâu mát trời mới dậy và do đó Hôsê Accađiô Buênđya vẫn đang ngủ vật vờ trong túp lều lá cọ mục vì mưa dầm. Ngài không nhìn thấy cụ như chẳng bao giờ ngài nhìn thấy và cũng không nghe thấy câu nói không thể hiểu được mà bóng ma cha ngài nói với ngài khi cụ giật mình thức dậy vì dòng nước đái nóng bỏng rơi lộp bộp trên đôi giày cụ. Ngài chưa vào nhà tắm vội không phải vì lạnh và vì ẩm mà vì sương mù dày đặc của tháng mười. Khi trở về xưởng kim hoàn ngài ngửi thấy mùi nồng khét của các bếp nấu do Santa Sôphia đê la Piêđat đang nhóm, và ngài đứng ở nhà bếp đợi cho đến khi cà phê sôi để mang một tách cà phê không pha đường về phòng mình. Như tất cả mọi buổi sáng, Santa Sôphia đê la Piêđat hỏi ngài hôm nay là ngày thứ mấy, ngài trả lời rằng hôm nay là thứ tư ngày mười một tháng mười. Vì nhìn người đàn bà bạo dạn rạng rỡ trong ánh lửa, mà ngay cả trong lúc ấy cũng như bất cứ thời điểm nào khác trong đời mình ngài thấy bà hiển hiện một cách trọn vẹn, và do đó ngay lập tức ngài nhớ lại một ngày mười một tháng mười, đang lúc chiến tranh ác liệt, một niềm tin chắc khá thô bạo nói rằng người con gái ngủ với ngài đã chết khiến ngài thức dậy. Thực thế, cô gái đã chết và ngài không bao giờ quên cái ngày ấy bởi vì chính cô ta trước đó một giờ đã hỏi ngài hôm nay là thứ mấy. Mặc dù đã có sự gợi nhớ ấy, ngay lần này ngài cũng chưa ý thức đầy đủ về các điềm báo đã từ bỏ ngài đến mức độ nào, rồi trong lúc cà phê sôi, hoàn toàn vì tò mò chứ không vẩn một chút hoài nhớ nhỏ nhặt nào, ngài vẫn tiếp tục nghĩ về người đàn bà, mà tên của cô ta ngài không bao giờ biết, mà gương mặt cô ta ngài chưa từng nhìn rõ, bởi vì người đàn bà ấy đã va vấp trong bóng tối để lần mò cho tới chiếc võng ngài nằm. Tuy nhiên, trong nỗi trông trải của biết bao cô gái đã đến với cuộc đời ngài bằng chính hình thức ấy, ngài đã không nhớ rằng cô ta chính là người trong phút giây gặp gỡ lần đầu đầy cảm kích ấy đã suýt chết chìm trong nước mắt, và chưa đầy một giờ trước khi chết còn hứa sẽ yêu ngài mãi mãi, yêu ngài cho đến khi chết. Ngài không nghĩ đến cô ta nữa, cũng sẽ không nghĩ đến bất kỳ ai ở nơi nào, sau khi ngài đã bước vào xưởng kim hoàn, châm đèn sáng để đếm những con cá vàng trong hộp sắt tây. Mười con cả thảy, kể từ độ quyết định sẽ không bán chúng nữa, ngài chỉ làm hai con mỗi ngày, và khi nào đủ số hai mươi nhăm con ngài lại đem nung chảy ra để làm lại từ đầu. Ngài cặm cụi làm việc suốt buổi sáng, hoàn toàn tập trung tư tưởng vào công việc không hề nghĩ ngợi gì hết, không hề hay biết rằng vào lúc mười giờ trời bắt đầu đổ mưa, rồi có ai đó đi qua trước cửa xưởng kim hoàn gào mọi người đóng các cửa lại kẻo nước ngập nhà, và ngài hoàn toàn không còn biết đến chính mình nữa, cho tới khi Ucsula bước vào xưởng mang theo suất cơm trưa cho ngài và tắt đèn.
- Trời ơi, mưa chi mà dữ thế, - Ucsula nói.
- Mưa tháng mười mà! - ngài nói.
Lúc nói câu ấy, ngài vẫn không rời mắt khỏi con cá vàng đầu tiên làm trong ngày, bởi vì ngài cố khảm con ngươi vàng vào đôi mắt nó. Chỉ khi làm xong, và đặt nó vào thùng sắt tây lúc ấy ngài mới xì xụp húp xúp. Sau đó ngài ăn, rất chậm rãi, miếng thịt xào với hành, cơm trắng cùng với những lát chuối rán, tất cả những món ăn này đều để chung trong một cái đĩa to. Cái lối ăn ngon miệng của ngài không bị đảo lộn trong hoàn cảnh tất đẹp nhất cũng như trong những hoàn cảnh khó khăn ác liệt nhất. Khi sắp ăn xong, ngài cảm thấy muốn được nghỉ ngơi.
Theo một quan niệm khoa học, ngài không bao giờ làm việc, đọc sách, tắm táp và kể cả nhập phòng nếu chưa được hai giờ cho bộ máy tiêu hoá làm việc và đó là một niềm tin rất bền vừng đến mức đôi lúc ngài để chậm việc thực hiện các trận đánh nhằm tránh cho quân sĩ khỏi mắc bệnh sung huyết. Vậy là ngài lên võng nằm, dùng con dao nhíp gỡ cục sáp đút nút tai, rồi sau đó mấy phút ngài đã ngủ khì. Ngài mơ thấy mình đi vào một ngôi nhà trống, tường trắng và nỗi lo lắng mình là người đầu tiên bước vào ngôi nhà này khiến ngài băn khoăn. Trong giấc mơ ấy, ngài nhớ là đêm trước mình đã mơ thấy như thế và không chỉ đêm trước đó mà tất cả các đêm trong những năm cuối cùng của đời mình ngài từng mơ thấy như vậy rồi. Ngài biết rằng hình ảnh ấy bị xoá nhoà khỏi trí nhớ khi mình thức dậy, bởi vì giấc mơ lặp đi lặp lại ấy có đặc tính chí được nhớ lại trong chính giấc mơ. Quả nhiên, sau đó một lát, khi bác phó cạo gõ cửa xưởng kim hoàn, đại tá Aurêlianô Buênđya đã thức dậy với cảm giác mình vô tình ngủ thiếp đi trong mấy phút ngắn ngủi và rằng mình chưa kịp mơ thấy gì hết.
- Hôm nay không cắt tóc đâu, - ngài nói với bác phó cạo. - Xin hẹn bác vào ngày thứ sáu nhé.
Bộ râu lốm đốm những sợi trắng của ngài đã ba ngày chưa cạo, nhưng ngài cảm thấy chưa cần thiết phải cạo, nếu như ngày thứ sáu tới ngài sẽ cắt tóc thì sẽ làm luôn một thể. Mồ hôi nhớp nhúa của giấc ngủ trưa không hề mong muốn đã làm tấy đỏ những vết sẹo bị mò cắn ở nách ngài. Trời đã tạnh mưa nhưng mặt trời vẫn chưa hiện ra. Ðại tá Aurêlianô Buênđya nấc một cú ợ hơi đến to và cú ợ hơi này đã trả lại nơi đầu lưỡi ngài cái vị chua của bát xúp vừa ăn. Và nó như một mệnh lệnh của cơ thể buộc ngài phải khoác chiếc áo khoác lên vai và đi ra cầu tiêu ngay. Ngài ngồi trong cầu tiêu quá thời gian cần thiết, ngồi chồm hỗm trên đám phân lầy nhầy trào ra khỏi miệng chiếc thùng gỗ hứng ở dưới, cho đến khi thói quen nhắc ngài nhớ là đã đến giờ làm việc buổi chiều. Trong lúc ngồi đợi, ngài lại nhớ rằng hôm nay là ngày thứ tư và rằng Hôsê Accađiô Sêgunđô chưa có mặt ở xưởng kim hoàn vì hôm nay là ngày trả lương tại các đồn điền của Công ty chuối. Cái kỷ niệm này như tất cả các kỷ niệm khác trong những năm cuối đời, ngài mang theo nó không phải để nhớ lại những năm tháng chiến tranh. Ngài nhớ rằng đại tá Hêrinênđô Mackêt có một lần đã hứa với mình rằng sẽ tìm cho mình một con ngựa có ngôi sao trắng ở ngay trán và rằng đã lâu rồi vẫn không thấy đại tá nhắc lại chuyện này. Sau đó ngài lại nghĩ đến những câu chuyện tản mạn khác, nhưng ngài nhớ lại chúng không theo một trình tự nào. Vì để khỏi nghĩ đến những chuyện khác, ngài đã học để suy nghĩ về chúng trong nỗi giá lạnh của đời mình, để những kỷ niệm không thể tránh được ấy có trở lại vẫn không khiến ngài phải mủi lòng. Khi trở về xưởng kim hoàn, do thấy bầu trời đã khô ráo, ngài quyết định lúc này mà đi tắm thì tuyệt, nhưng Amaranta đã cản trở ngài. Vậy là ngài bắt tay vào làm con cá vàng thứ hai trong ngày. Trong lúc ngài đang móc đuôi vào con cá thì mặt trời ló ra rất mạnh đến mức ánh sáng gầm lên thành tiếng như tiếng một chiếc tàu đánh cá. Bầu trời được trận mưa kéo dài ba ngày làm cho thanh sạch nay lại đông đặc kiến cánh bay. Lập tức ngài lại thấy mình buồn đái, rồi ngài cố nhịn cho đến khi làm xong con cá vàng. Ngài bước ra sân vào lúc bốn giờ mười lăm, nghe thấy từ xa vọng đến tiếng kèn đồng, tiếng trống inh ỏi và tiếng reo vui đùa của trẻ nhỏ, và lần đầu tiên kể từ ngày còn là một chàng thanh niên tới nay, ngài đã giẫm lên cạm bẫy của nỗi hoài nhớ một cách có ý thức, rồi ngài sống lại buổi chiều kỳ diệu của những người digan mà cha ngài đã dẫn ngài đi xem nước đá. Santa Sôphia đê la Piêđat bỏ dở những công việc đang làm trong nhà bếp, chạy ra cửa chính:
- Xiếc! - bà gào lên.
Ðáng lẽ đi ra gốc cây dẻ, đại tá Aurêlianô Buênđya lại đi ra cổng cánh, rồi lẫn vào đám người tò mò đang đứng xem gánh xiếc diễu hành qua. Ngài nhìn thấy một người đàn bà mặc quần áo màu vàng cưỡi trên bành một con voi. Ngài nhìn thấy một chú lạc đà một bướu buồn bã. Ngài nhìn thấy một chú gấu cầm chiếc muôi gõ vào một cái xoong theo nhịp phách của âm nhạc. Ngài nhìn thấy những anh hề đang làm xiếc leo dây đi sau cùng. Một lần nữa người ta lại nhìn thấy trên gương mặt ngài nỗi cô đơn đáng thương của ngài khi đoàn xiếc đã đi qua và trên đường cái chỉ còn lại khoảng không rực sáng, bầu không khí lại đen đặc những con kiến cánh bay và nhột số kẻ tò mò thò đầu rúc vào vực thẳm không cùng của sự mơ hồ. Lúc ấy ngài mới đi trở lại gốc cây dẻ, rồi trong lúc đái, ngài cố tiếp tục nghĩ đến gánh xiếc, nhưng ngài không bắt gặp kí ức nữa. Ngài giơ hai cánh tay lên ôm lấy đầu mình, giống như một chú gà con, rồi ngài đứng yên, trán tì vào thân cây dẻ. Gia đình không hay biết chuyện đó. Mãi đến ngày hôm sau, vào lúc mười một giờ sáng, khi Santa Sôphia đê la Piêđat đi vào sân sau để đổ rác, bà rợn tóc gáy thấy đám diều hâu đang sà xuống, sà xuống.

18/4/2014
Gabriel Garcia Marquez
Nguyễn Trung Đức dịch
Theo https://www.truyenngan.com.vn/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Tình yêu của biển

Tình yêu của biển Thì ra biển cũng bạc lòng say đắm/ nhuộm đen khuôn hình, trắng tấm sắt son/ một vũng gió buộc vào sâu mắt bão/ buồm căng...