Thứ Hai, 22 tháng 3, 2021

Khu vườn bí mật 2

Khu vườn bí mật 2
(The Secret Garden)

CHƯƠNG 10 - DICKON
Ánh nắng chan hòa gần 1 tuần trên khu vườn bí mật. Khu vườn bí mật là cái tên Mary vẫn thầm gọi mỗi khi nghĩ về nơi đó. Con bé thích cái tên ấy lắm. Thích hơn nữa là cái cảm giác khi các bức tường cũ kỹ tuyệt đẹp vây kín nó bên trong khiến cho không ai còn biết nó đang ở đâu nữa.
Điều đó giống như khi người ta được sống ở một xứ sở thần tiên nào đó, hoàn toàn tách biệt với thế gian này. Mấy cuốn sách nó đã đọc và yêu thích đều là mấy cuốn truyện thần tiên, và nó được biết về những khu vườn bí mật qua một số truyện. Đôi khi người ta đến vườn để ngủ suốt cả trăm năm, là điều con bé cho rằng khá ngốc nghếch.
Nó không hề có ý định chìm trong giấc ngủ, và thực tế, cứ mỗi ngày trôi qua ở Misselthwaite, nó càng nhận ra nhiều thứ. Nó bắt đầu thích sống ngoài trời; nó không còn căm ghét các ngọn gió lớn mà muốn tận hưởng chúng. Nó không những có thể chạy nhanh hơn, xa hơn mà còn có thể nhảy dây liên tục một trăm vòng. Các giống cây trong khu vườn bí mật chắc cũng phải kinh ngạc lắm. Phần đất quanh chúng được phát quang sạch sẽ, giúp cho chúng có chỗ để thở, và giá mà Mary biết được rằng dưới lớp đất đen thẩm kia, chúng đang hân hoan vui sướng và ra sức nảy nở thì hay biết mấy. Ánh mặt trời ùa đến chỗ chúng, sưởi ấm cho chúng, và khi cơn mưa ào xuống thì nước mưa tìm đến chúng dễ dàng hơn, cho nên giờ đây chúng cảm nhận trong mình một sức sống tràn trề.
Mary vốn là một con bé cả quyết khác thường. Bây giờ lại có một điều thật thú vị để mà cả quyết nên nó mê mải vô cùng. Nó hì hục đào xới, đều đặn nhổ cỏ dại, và thay vì trở nên chán nản thì càng ngày nó càng say mê công việc. Làm lụng đối với nó cũng giống như một trò chơi hấp dẫn.
Nó phát hiện được thêm những chấm xanh nhạt đang bắt đầu lộ ra, nhiều hơn nó từng hy vọng. Chúng nhú lên như thể có ở khắp mọi nơi. Ngày nào nó cũng chắc mẩm vừa phát hiện ra những mầm cây mới, một số nhỏ li ti như mới chỉ lấp ló khỏi mặt đất. Chúng nhiều đến nỗi con bé chợt nhớ lại những gì Martha đã nói về "hàng ngàn hoa giọt tuyết", về những thân củ đang lan tỏa khắp nơi và làm nảy nở thêm vô số thân củ mới.
Suốt mười năm qua, chúng chẳng được ngó ngàng đến, và có lẽ chúng đã nảy nở thành hàng nghìn cây mới, như bọn hoa giọt tuyết. Con bé tự hỏi không biết còn bao lâu nữa chúng mới trổ hoa. Thỉnh thoảng nó lại ngừng tay đào, đưa mắt ngắm nhìn khu vườn và cố mường tượng tới cái ngày nơi đây được bao trùm bởi hàng ngàn hàng vạn bông hoa.
Chính trong cái tuần lễ toàn những ngày nắng ấm ấy, con bé trở nên gần gũi với lão Ben Weatherstaff hơn. Mấy bận nó làm lão ngạc nhiên, khi bỗng dưng xuất hiện cạnh lão như từ dưới đất chui lên. Quả thực con bé rất sợ lão sẽ vác dụng cụ bỏ đi khi thấy nó tới, vì thế nó luôn khẽ khàng tiến lại phía lão. Nhưng thực tình lão không còn "găng" với nó như hồi đầu.
Có thể lão thầm cảm thấy hãnh diện trước mong ước coi lão như người bạn lớn tuổi của nó. Và nữa, giờ Mary cũng đã lễ độ hơn trước rồi. Lão đâu biết rằng lần đầu gặp lão, con bé nói năng với lão như thể với đám gia nhân người địa phương, chẳng cần hay rằng một lão già Yorkshire tráng kiện và cáu kỉnh có bao giờ lại quen cúi đầu trước ông chủ hay nhẫn nhục để người ta sai khiến công kia việc nọ.
- Cô thật giống với con chim ức đỏ, - một buổi sáng lão nói với con bé khi vừa ngẩng đầu đã thấy nó đứng ngay bên cạnh. "Tôi chẳng bao giờ biết khi nào tôi sẽ thấy cô hay là cô từ phía nào đến".
- Bây giờ nó là bạn tôi rồi, - Mary đáp.
- Nó là thế đấy. Kết bạn với phụ nữ thì cũng như đánh bạn với sự phù phiếm, đong đưa. Nó chẳng từ việc gì, chỉ cốt được khoe mã và nghí ngoáy mấy cái lông đuôi. – lão Ben nói giọng gắt gỏng. – Nó lúc nào cũng ra vẻ hãnh diện lắm.
Lão hiếm khi nói nhiều, có lúc lão còn chẳng đáp lại những câu hỏi của Mary, ngoài mấy lời càu nhàu. Nhưng sáng nay lão nhiều lời hơn thường lệ. Lão đứng dậy, ghếch chiếc giày cao cổ tán toàn đinh đầu to lên cán mai trong khi nhìn con bé.
- Cô đã về đây dược bao lâu rồi, - lão nói dằn từng tiếng.
- Tôi nghĩ cũng phải được một tháng.
- Cô đang bắt đầu làm cho Misselthwaite được vẻ vang đấy, - lão nói. – Nom cô có da có thịt hơn trước, và không còn hay quát lác nữa. Hôm đầu bước vào khu vườn này trông cô khác nào con quạ non bị vặt trụi lông. Tôi thì bụng bảo dạ, rằng tôi không khi nào thèm để mắt tới mấy đứa trẻ ranh mặt mày cau có ngốc nghếch.
Mary chẳng phải đứa tự phụ, nó vốn không quan tâm nhiều đến vẻ ngoài của mình, và nó cũng không lấy làm phiền lòng.
- Tôi biết tôi có béo lên. Mấy đôi tất tôi đi càng ngày càng chật, để lại cả nếp hằn trên da. Con chim ức đỏ kìa, ông Ben Weatherstaff!
Quả nhiên là con chim ức đỏ. Con bé cho rằng chưa bao giờ trông nó đẹp mã đến vậy. Bộ lông ức đỏ rực của nó lóng lánh như sa tanh. Nó vỗ cánh, xòe đuôi, nghiêng ngó cái đầu và nhảy nhót với tất cả vẻ duyên dáng sinh động. Có vẻ nó quyết tâm làm ông lão Ben Weatherstaff phải thán phục. Nhưng lão chỉ châm chọc nó.
- Úi cha, ra là máy đấy! – Lão bảo. – Thỉnh thoảng mày hãy gắng chịu đựng tao tí chút, nhất là khi mày không kiếm được ai tốt hơn để bầu bạn. Chỉ mới hai tuần thôi mà cái áo chẽn của mày đã thắm hẳn lên, rồi lông tóc cũng óng ả ra trò. Tao biết mày đang định làm gì rồi. Mày đang theo đuổi một cô ả táo tợn đâu đó quanh đây và xạo rằng mày là con ức đỏ trống đẹp nhất trên đồng hoang Missel này và đang sẵn lòng chảng nhau với tất cả những con trống khác nữa kìa.
- Ôi! Nhìn nó kìa! – Mary thốt lên Con chim ức đỏ rõ ràng đang cao hứng.
Nó nhảy lại gần hơn, gần hơn nữa và ngước nhìn lão Ben Weatherstaff với vẻ mỗi lúc một háo hức. Rồi nó bay vụt lên bụi cây lý chua gần đó, nghí ngoáy cái đầu rồi cất tiếng khe khẽ hót ngay cạnh lão.
- Mày nghĩ mày sẽ gạt được tao bằng cái trò đấy sao? – Lão Ben nói, làm bộ nhăn mặt khiến Mary chắc mẩm lão đang cố tỏ ra không hài lòng. – Mày nghĩ không một ai có thể cự nự mày đúng không? Mày đang nghĩ thế chứ gì?
Con chim ức đỏ giang rộng đôi cánh. Mary khó có thể tin vào mắt mình. Nó liệng mình phía trên cán mai của lão Ben Weatherstaff rồi đậu xuống đầu cán. Khuôn mặt nhăn nhó già nua của lão từ từ giãn ra. Lão đứng lặng người, dường như không dám thở nữa, như thể lão không dám làm kinh đông, sợ rằng chim ức đỏ của lão sẽ bay đi mất. Lão nó gần như thì thầm.
- Chà, tao thật tệ! – Lão nói dịu dàng như thể đang nói về một chuyện hoàn toàn khác. – Mày hiểu để kiếm được một người bạn thì phải thế nào chứ, phải không! Mày thật phi thường, nên mày mới hiểu.
Nói đoạn lão đứng lặng không nhúc nhích, hầu như không cả thở, cho tới khi con chim vỗ cánh bay đi. Lão đứng đó ngắm nghía cán mai, nghĩ rằng chắc hẳn phải có phép lạ nào trong đó, rồi mới lại bắt tay vào xới đất và không nói gì trong mấy phút liền.
Bởi vì chốc chốc lão lại điềm đạm nở một nụ cười rạng rỡ nên Mary không ngại bắt chuyện tiếp với lão.
- Ông có một khu vườn riêng nào không? – Nó hỏi
- Không. Tôi là người độc thân, ở cùng với Martin ngay túp lều ngoài cổng Trang viên.
- Nếu ông có một khu vườn, ông sẽ trồng cây gì?
- Cải bắp, cần tây và hành củ.
- Nhưng nếu ông muốn tạo ra một vườn hoa thì ông sẽ trồng cây gì, - Mary khăng khăng hỏi gặng.
- Các loại củ và các loại cây có hương thơm ngào ngạt, nhưng nhiều nhất phải là hồng. Cả gương mặt Mary bừng sáng.
- Ông cũng thích hoa hồng sao?
Lão Ben Weatherstaff cúi nhặt một cọng cỏ, vứt nó sang một bên, trước khi trả lời.
- Ồ, thích chứ. Tôi đã học được điều đó từ một phu nhân trẻ mà tôi từng là người làm vườn cho bà. Bà có một khoảnh vườn ở nơi mà bà yêu thích nhất, và bà yêu thương cây cối như thể chúng là những đứa trẻ, hay như những con chim ức đỏ vậy. Tôi đã từng tận mắt thấy bà cúi xuống mà hôn chúng.– Lão nhổ những nhánh cỏ dại khác, nhìn chúng vẻ cáu kỉnh. – Cũng phải mười năm về trước rồi.
- Trên trời, - lão vừa đáp, vừa xắn mạnh lưỡi mai sâu xuống đất, - như người ta vẫn nói.
- Còn những bông hồng? – Mary nhắc lại, nó tỏ ra quan tâm hơn bao giờ hết.
- Chúng bị bỏ mặc hoàn toàn.
Mary trở nên kích động ghê gớm.
- Chúng chết sạch rồi sao? Chẳng lẽ các khóm hồng đều chết sạch khi bị người ta bỏ mặc? – Con bé đánh bạo hỏi.
- Chà, tôi đã yêu chúng xiết bao, mà tôi cũng quý bà ấy nữa, còn bà ấy thì yêu chúng vô cùng, - lão Ben miễn cưỡng thú nhận. – Mỗi năm một hai lần tôi lại đến đó chăm sóc chúng tí chút. Tỉa, xén, sửa sang cho chúng, và cũng phải trốc bớt rễ đi nữa. Chúng sống hoang dại, nhưng vì mọc trên đất tốt nên một số trong đó vẫn sống.
- Còn khi chúng đã rụng sạch lá, cành xám nâu khô úa, ông có thể nói liệu chúng đã chết rồi hay còn sống? – Con bé ra sức cật vấn.
- Hãy đợi đến lúc xuân sang, hãy đợi tới khi có nắng chiếu giữa cơn mưa và mưa rơi vào mùa nắng, bấy giờ cô sẽ nhận ra.
- Thế nào, thế nào kia? – Mary kêu lên, quên mất là phải thận trọng.
- Cứ nhìn khắp các nhánh này thì rõ ngay, và nếu cô chịu nhìn kỹ một chút vào cái bướu nâu sậm đang phình lên ở đây và kia nữa, sau cơn mưa ấm áp cô sẽ nhìn thấy điều gì đang xảy ra. – Lão đột ngột dừng lại và liếc nhìn vẻ đầy ngờ vực lên khuôn mặt háo hức của con bé.
– Tại sao cô bỗng chốc lại quan tâm đến những cây hồng như vậy? – Lão gặng hỏi. Cô chủ Mary cảm thấy mặt mũi đỏ bừng. Nó rất sợ phải trả lời.
- Tôi... tôi muốn thử xem... tôi có thể có một khu vườn riêng được không... - con bé lắp bắp. – Tôi... chẳng có gì để làm cả. Tôi chẳng có gì, cũng không có một ai.
- Chà, chà... - lão Ben chậm rãi nói khi nhìn con bé. Đó là sự thật. Cô chẳng có gì cả.
Lão nói câu ấy với một vẻ kỳ quặc đến nỗi Mary tự nhủ có lẽ lão cũng có đôi chút xót thương đối với nó. Con bé chưa bao giờ cảm thấy thương xót hay ngậm ngùi cho bản thân; nó chỉ thấy mệt mỏi và bực bội, bởi vì nó vô cùng chán ghét cả con người lẫn cảnh vật. Nhưng cái thế giới này đây dường như đang thay đổi và trở nên thú vị hơn. Nếu không một ai phát hiện ra khu vườn bí mật ấy thì nó sẽ được một mình tận hưởng mãi mãi.
Con bé nán lại chỗ lão chừng mươi mười lăm phút nữa, chỉ hỏi lão vài câu trong chừng mực nó dám hỏi. Lão đáp lời nó từng câu một với cái vẻ cộc cằn kỳ quặc của lão, không có vẻ bực bội hay lại xách mai lên bỏ mặc nó. Vào lúc Mary sắp sửa ra về, lão nói thêm vài điều về những khóm hồng, khiến nó nhớ tới những gì mà lão bảo lão yêu quý.
- Bây giờ bác có thể đến thăm những khóm hồng đó không ? – Con bé hỏi.
- Không phải năm nay. Bệnh thấp khớp khiến các khớp xương của tôi trở nên cứng ngắc. Lão càu nhàu nói, và rồi bất chợt đâm nổi cáu với con bé, mặc cho nó không hiểu nguyên cớ tại sao.
- Trông đây này! – Lão nói một cách gay gắt. – Cô đừng có hỏi lắm nữa! Cô là cô nàng tệ nhất trong những trò lục vấn mà tôi từng gặp đấy. Cô kiếm chỗ nào khác mà chơi đi. Hôm nay tôi nói thế đủ rồi.
Lão nói câu ây bực tức đến độ con bé hiểu ngay ràng không thể nán lại thêm phút nào nữa. Nó bèn nhảy chầm chậm xuống lại thêm phút nào nữa. Nó bèn nhảy chầm chậm xuống lối đi dạo, luẩn quẩn nghĩ ngợi về lão, trong bụng lại thầm nghĩ chuyện vừa rồi mới kỳ quặc làm sao: lại có thêm một người nữa mà nó thấy quý mến, bất kể cái tính cáu bẳn của lão. Nó quý lão Ben Weatherstaff. Phải, nó đã thấy quý mến lão. Nó lúc nào cũng muốn lão chuyện trò cùng nó, và bắt đầu tin rằng lão biết đủ mọi chuyện trên đời về các loài hoa.
Có một lối đi dạo có hàng nguyệt quế lượn vòng quanh khu vườn bí mật và dừng lại trước một cái cổng, từ đấy dẫn thẳng ra rừng cây trong công viên. Con bé đang tính chuyện nhảy dây vòng quanh lối đó và nhìn vào rừng cây để xem có thấy con thỏ nào đang nhảy quanh đấy không. Nó khoái trò nhảy dây này vô cùng, và khi vừa tới bên cánh cổng nhỏ, chợt nghe thấy một tiếng sáo trầm trầm kỳ lạ nó mở cửa ra rồi đi thẳng vào trong. Nó muốn tìm hiểu xem đó là tiếng gì.
Đó quả là một điều lạ.
Con bé nín thở khi ngừng lại trước cảnh tượng đó. Một thằng bé đang ngồi tựa lưng vào gốc cây, thổi sáo gỗ đơn sơ của nó. Thằng bé nom khá ngộ nghĩnh, tuổi khoảng mười hai, trông rất sạch sẽ, với cái mũi hếch và đôi mà đỏ ửng như đóa hoa anh túc.
Cô chủ nhỏ Mary chưa bao giờ bắt gặp đôi mắt nào trong xanh và to tròn đến thế trên gương mặt bất kỳ thằng con trai nào. Một con sóc nâu đang bấu vào thân cây thằng bé đang tựa vào và ngước nhìn nó, và từ sau bụi cây gần đấy là con gà lôi đực đang vươn cổ ra một cách duyên dáng mà kêu líu ríu, rồi ngay bên cạnh nó, đôi thỏ đang ngồi trên hai chân sau nhíu nhíu cánh mũi phập phồng – như thể tất cả bọn chúng đang xúm lại để nhìn ngắm thằng bé và lắng nghê âm thanh trầm trầm, kì lạ phát ra từ cây sáo.
Vừa nhìn thấy Mary, thằng bé liền ngừng lại và nói với cô bằng một giọng khẽ khàng, giống như tiếng sáo của nó.
- Cô đừng cử động, - nó bảo, - kẻo chúng sợ.
Mary vẫn đứng im phắc. Thằng bé ngừng thổi và đứng dậy. Nó di chuyển chậm đến nỗi khó mà nhận ra được nó đang chuyển động, cuối cùng nó dừng lại, bấy giờ con sóc nâu mới vội lủi vào nấp sau đám cành lá của cái cây nó leo khi nãy, con gà lôi vội rụt cổ lại, đôi thỏ thì hạ hai chân trước xuống và nháy đi chỗ khác, mặc dù chúng chẳng tỏ vẻ gì sợ hãi.
- Tôi là Dickon. – Thằng bé nói. – Tôi biết cô là Cô chủ Mary.
Bấy giờ Mary mới nhận ra, không rõ bằng cách nào; thoạt nhìn nó cũng đoán ra đó là Dickon. Thì còn ai khác có thể thôi miên những con thỏ dễ thương cùng con gà lôi ây nữa, giống như người bản xứ Ấn độ mê hoặc những con rắn của họ?
Thằng bé có cái miệng rộng, đôi môi đỏ hơi cong cong, còn nụ cười thì như bừng lên trên gương mặt.
- Tôi phải đứng dậy từ từ, - thằng Dickon giải thích, - bởi nếu cử động mạnh thì chúng sẽ giật mình.
Người ta phải đi nhẹ nói khẽ khi có động vật hoang dã xung quanh mình. Dickon không nói chuyện như thể hai đứa chưa hề gặp nhau, mà như thể nó đã biết khá rõ về con bé. Mary thì chẳng biết gì về bọn con trai, nó nói với thằng Dickon kia với giọng không được thân mật cho lắm bởi nó cảm thấy hơi xấu hổ.
- Anh đã nhận được bức thư của chị Martha chưa? – Nó hỏi Thằng bé gật cái đầu có mái tóc quăn màu nâu nhạt.
- Vì vậy tôi mới tới đây. Dickon cúi xuống nhặt mấy thứ vẫn đặt trên mặt đất trong lúc thổi sáo.
- Tôi đã kiếm được dụng cụ làm vườn. Đây là mai nhỏ, cào, xiên và cuốc. Hì, chúng đều là thứ tốt cả. Lại thêm một cái xẻng bứng cây nữa chứ. Người phụ nữ trong cửa hàng còn cho thêm một gói hạt hoa anh túc trắng và một gói la lết xanh khi tôi mua các loại hạt giống khác.
- Anh cho tôi xem chỗ hạt giống ấy chứ? – Mary bảo.
Con bé ao ước có thể nói năng như thằng Dickon. Lời lẽ của thằng bé vừa nhanh vừa thoải mái. Âm điệu của giọng nói cho thấy nó quý mến Mary và không mảy may ngại rằng con bé không quý lại nó, dù nó chỉ là một cậu bé nhà nghèo tầm thường nơi cánh đồng hoang, trong bộ quần áo vá víu, với gương mặt ngộ nghĩnh và mái tóc hung bù xù.
Tiến lại gần Dickon, con bé nhận ra mùi thơm tươi mát và thanh khiết của thạch thảo, của cỏ và lá tỏa ra từ thân thể nó, như thể nó bước ra từ hoa cỏ vậy. Mary thích mùi hương ấy lắm, nên khi ngước nhìn khuôn mặt ngồ ngộ có đôi má ửng hồng và đôi mắt xanh to của thằng bé thì nó quên khuấy đi cơn xấu hổ ban nãy của nó.
- Ta hãy ngồi xuống khúc cây đổ này mà xem đi, - con bé nói.
Hai đứa ngồi xuống, thằng bé lấy từ túi áo khoác ra một bọc giấy nho nhỏ màu nâu được gói vụng về. Nó cởi dây buộc, và bên trong là vô số những gói nhỏ gon gàng hơn, mỗi gói đều có hình một bông hoa. Có vô khối lưu ly, anh túc và thạch thảo.
- Thạch thảo có mùi thơm ngọt ngào dễ chịu nhất, chúng có thể mọc ở bất cứ nơi nào cô muốn trồng. Hoa anh túc cũng vậy. Chúng sẽ chóng mọc và đơm hoa nếu cô chịu khó huýt sáo thúc dục chúng. Chúng là thứ đẹp nhất trong các loài hoa.
Dickon ngừng lại, ngoái nhanh về phía sau, khuôn mặt có đôi má như hoa anh túc của nó bừng sáng lên.
- Đâu đây như có con chim ức đỏ đang gọi chúng ta ấy nhỉ? – Thằng bé nói. Tiếng hót vọng ra từ một bụi cây ô rô rậm rạp, Mary thừa biết là tiếng hót của ai.
- Nó đang gọi chúng ta thật sao? – Con bé hỏi.
- Ừ, - Dickon đáp như thể đó là điều tự nhiên nhất đời, - nó chỉ gọi những ai mà nó kết bạn thôi. Tiếng hót ấy như muôn nói: "Tôi đây. Nhìn tôi này. Tôi muốn chuyện gẫu một tí". Kìa nó đang ở trong bụi cây. Nó là của ai đấy?
- Của ông Ben Weatherstaff , nhưng tôi cho rằng nó cũng biết về tôi một chút. – Mary đáp.
- Ấy, nó biết cô đấy chứ, - Dickon đáp, giọng khẽ khàng, - nó cũng mến cô nữa. Nó đã nhận ra cô. Chỉ ít phút nữa nó sẽ kể tôi nghe tất cả về cô. Thằng bé tiến sát tới bụi cây với những cử động chậm rãi mà Mary đã thấy lúc trước, rồi Dickon phát ra một âm thanh gần như tiếng hót của chim. Con chim lắng nghe chăm chú mấy giây, nó đáp lại như thể muốn trả lời một câu hỏi.
- Đó, nó bảo nó là bạn cô. - Dickon cười khẽ. - Anh nghĩ thế sao? – Mary kêu lên náo nức. Con bé muốn biết thật tường tận. – Anh cho rằng nó thực sự thích tôi?
- Nó sẽ không tới gần cô nếu nó không muốn. – Dickon đáp. – Chim chóc là loài kỹ tính hiếm có, và một con ức đỏ có thể coi thường một người còn hơn cả con người. Nhìn kìa, giờ thì nó đang nịnh cô đấy. Nó bảo: "Cô không thể ngắm gã này một lát sao?"
Và điều đó gần như là sự thực. Con chim ức đỏ rón rén, kêu líu ríu và ngọ nguậy cái cổ trong khi nhảy lên nhảy xuống trên bụi cây của nó.
- Anh hiểu được mọi điều loài chim nói à? – Mary hỏi.
Dickon ngoác đôi môi cong và đỏ của nó ra cười hết cỡ, rồi xoa mái đầu bù xù của mình.
- Tôi nghĩ rằng tôi hiểu, và chúng nghĩ rằng tôi hiểu chúng. Tôi đã sống trên đồng hoang với chúng bao năm nay. Tôi đã nhìn chúng mổ vỡ trứng mà chui ra, cho đến khi đủ lông đủ cánh, học bay học hót, cho tời ngày tôi có cảm tưởng mình là một con trong bọn chúng. Có lúc tôi nghĩ biết đâu mình cũng là một con chim trời, một con cáo, một con thỏ hay một con sóc, thậm chí một con bọ cánh cứng. Tôi không rõ có phải vậy không.
Thằng bé cười phá lên, bước về chỗ thân cây đổ và lại nói chuyện về hạt giống của các loài hoa. Nó giảng giải cho Mary cách gieo trồng, quan sát và cả cách chăm sóc, tưới tắm cho chúng.
- Đây nhé, - đột nhiên nó bảo và ngoái sang nhìn Mary,- tự tay tôi sẽ trồng chúng cho cô xem. Vườn của cô ở đâu?
Đôi bàn tay mảnh dẻ của Mary đan siết vào nhau, đặt trên lòng nó. Nó không biết phải nói thể nào, vì thể cả một phút trôi qua mà nó chẳng nói gì hết. Nó chưa bao giờ ngờ tới chuyện này. Nó cảm thấy mình thật khốn khổ. Mặt nó hết đỏ bừng lên rồi lại tái đi.
- Cô có mảnh vườn nhỏ, phải không? – Dickon nói.
Quả thực mặt nó đang đỏ lại tái ngắt. Dickon nhận ra điều đó. Khi nó vẫn không nói gì thì thằng bé bắt đầu thấy bối rối.
- Chẳng lẽ họ không dành đất cho cô, dù chỉ một mảnh nhỏ thôi sao? – Thằng bé hỏi. – Cô không có khoảnh vườn nào à?
Nó siết chặt hai bàn tay hơn trước, ngước nhìn Dickon.
- Tôi chẳng biết gì về đám con trai. – Con bé nói chậm rãi. – Anh có thể giữ kín bí mật không, nếu tôi kể cho anh một câu chuyện? Đấy là cả một bí mật lớn. Tôi không biết phải làm gì nếu ai đó phát hiện ra nó. Tôi nghĩ tôi sẽ chết mất! – Con bé nói câu cuối với vẻ vô cùng dữ dội.
Dickon trông càng bối rối hơn bao giờ hết, đưa tay lên vò vò cái đầu bù xù và rồi nó đáp lại một cách vui vẻ.
- Tôi xin thề sẽ giữ bí mật mãi mãi. Nếu tôi không giữ bí mật khỏi "bọn nhóc", bí mật về các hang cáo, tổ chim và hang ổ của các loài thú hoang thì còn gì là an toàn ngoài cánh đồng hoang. Đó, tôi có thể giữ bí mật được mà.
Cô chủ Mary không có ý đưa tay ra nắm tay áo thằng bé, thế nhưng nó đã làm điều đó.
- Tôi đã đánh cắp cả một khu vườn, - con bé nói nhanh. – Nó không phải của tôi. Nó cũng chẳng phải của ai. Không một ai muốn có nó, chẳng người nào chăm sóc cho nó, chưa từng có người nào bước vào trong đó. Mà có lẽ mọi thứ trong ấy đều tàn lụi cả rồi; tôi không biết nữa.
Con bé bắt đầu nóng mắt và trở nên ương ngạnh như nó vẫn từng như vậy trong đời.
- Tôi không cần biết, tôi không cần biết! Không ai có quyền tước đoạt nó khỏi tôi, chừng nào tôi còn quan tâm tới nó thì họ không được phép. Họ đang bỏ mặc cho nó chết và khóa kín nó lại. – Và nó ngừng lại vẻ đấy xúc cảm, đưa hai bàn tay bưng mặt và khóc nức nở.
Thật tội nghiệp cho Cô chủ Mary bé bỏng. Đôi mắt xanh trong tò mò của Dickon mỗi lúc một tròn xoe.
- Ôi... ôi... ôi! – Nó kêu lên, kéo dài sự kinh ngạc của mình, nó biểu lộ nỗi ngạc nhiên pha lẫn cảm thông.
- Tôi không có việc gì để làm, - Mary nói. – Không có gì là của tôi cả. Chính tôi đã tìm ra nó và chính tôi lọt được vào trong đó. Tôi thì cũng chỉ như con chim ức đỏ, và họ không thể tước đoạt khu vườn khỏi con chim ấy.
- Khu vườn ở đâu? – Dickon dịu giọng hỏi.
Cô chủ Mary lập tức đứng bật dậy khỏi thân cây đổ. Nó biết nó lại tỏ ra ương ngạnh và khó lay chuyển nổi, nhưng nó chẳng bận tâm. Con bé vừa ngạo mạn theo cái kiểu của nó hồi ở Ấn Độ, vừa nóng nảy vừa rầu rĩ.
- Đi theo tôi, tôi sẽ chỉ cho anh. Nó dẫn thằng bé vòng theo con đường mòn trồng nguyệt quế rồi đặt chân lên loois đi dạo nơi có đám thường xuân đang mọc ken dày.
Dickon bước theo nó với vẻ mặt vừa kinh ngạc, vừa thương tình. Nó cảm thấy như đang được đưa tới xem tổ một loài chim lạ và buộc phải đi thật khẽ. Tới khi con bé dừng bước trước bức tường, đưa tay vén các nhánh thường xuân đang đung đưa sang bên thì nó giật nảy mình.
Đằng sau đó là một cánh cửa, Mary đẩy cho cửa từ từ mở ra, hai đứa cùng bước vào trong và rồi Mary ngừng lại, khoát tay vẻ ngang ngạnh.
- Nó đây, - con bé nói, - khu vườn bí mật ấy đây, và tôi là người duy nhất trên đời muốn nó sống lại.
Dickon đưa mắt ngắm quanh khu vườn, ngoảnh đầu nhìn hết lần này tới lượt khác.
- Ầy! – Thằng bé nói gần như thì thầm.
– Đây quả là một chốn lạ lùng, xinh đẹp. Như một người đẹp đang say giấc mộng.
CHƯƠNG 11 - CHIẾC TỔ CHIM HÉT
Trong khoảng hai ba phút, thằng bé cứ đứng nhìn quanh, còn Mary thì nhìn nó. Rồi Dickon bắt đầu bước thật nhẹ nhàng, nhẹ nhàng hơn cả Mary vào cái lần đầu tiên ở trong bốn bức tường. Đôi mắt thằng bé dường như gắn chặt lấy mọi thứ - đám cây cối xám màu có dây leo xám xịt quấn quýt khắp thân mình và lòa xòa rủ xuống từ trên cành, mở cành rối bám trên tường rồi lan xuống cỏ, những góc vườn có thường xuân mọc, cùng các ghế đá và chậu hoa cao cao ở giữa.
- Tôi không bao giờ nghĩ mình lại thấy một chỗ như thế này, - cuối cùng thằng bé thì thầm bảo.
- Anh có nghe nói gì về nơi này không? – Mary hỏi. Con bé nói khá to nên Dickon phải ra hiệu cho nó.
- Chúng ta nói khẽ thôi, - thằng bé bảo, - nhỡ có người nghe thấy lại thắc mắc mình đang làm gì ở đây.
- Ồ, tôi quên mất! – Mary bảo, nó chợt thấy lo sợ và vội đưa tay lên bịt miệng.
– Anh có biết gì về khu vườn này không? – Nó hỏi lại khi đã trấn tĩnh.
Dickon gật đầu.
- Chị Martha bảo với tôi rằng có một nơi mà chưa từng có ai vào được bên trong. Chúng tôi thường tự hỏi không hiểu nơi đó thế nào.
Dickon ngừng lại, nhìn một lượt đám dây leo màu xám quanh vườn, đôi mắt to của nó ánh lên vẻ hạnh phúc lạ lùng.
- Chà, khi xuân sang thì quanh đây sẽ đầy ắp tổ chim, - thằng bé bảo. – Đây là chốn làm tổ an toàn nhất trên nước Anh này. Chẳng có loài nào chưa từng tới gần đám dây leo và bụi hồng kia làm tổ. Nhưng tôi vẫn không hiểu tại sao tất cả các loài chim trên cánh đồng hoang lại không làm tổ ở đây.
Cô chủ Mary lần nữa bất giác đặt tay lên cánh tay nó.
- Chúng có nở thành những bông hồng không, - con bé thì thào. – Anh có thể cho tôi hay chứ? Tôi cho rằng có lẽ chúng đã chết cả rồi.
- Ấy! Không đâu! Chúng không chết. Chẳng có cây nào chết cả! – Dickon đáp. – Cô trông đây! Thằng bé dấn bước tới cái cây gần nhất – một cái cây nom già cỗi, trên thân bám đầy địa y màu xám và từ trên ngọn rủ xuống cả một bức mành được kết bởi những nhánh dây leo. Nó lấy từ túi quần ra một con dao dày và mở một lưỡi dao.
- Có quá nhiều cành chết cần cắt bỏ, - Dickon nói, - cùng với khá nhiều bụi cây già nữa. Nhưng năm vừa rồi chúng cũng đâm ra được một số cành mới. Đây là một cành mới, - nó chạm tay vào một cành cây màu xanh xám thay vì màu nâu khô khốc.
Mary cũng tự tay chạm vào cành cây với vẻ háo hức, long trọng.
- Cành này sao? – Con bé nói. – Có phải cành này vẫn hoàn toàn sống?
Dickon toét miệng cười.
- Nó còn sống mệt nghỉ như cô và tôi vậy, - thằng bé nói; và Mary vẫn còn nhớ Martha bảo nó rằng "sống mệt nghỉ" có nghĩa là "vẫn sống" hoặc "đầy sức sống".
- Tôi lấy làm mừng vì nó còn sống mệt nghỉ! – Con bé kêu lên khe khẽ. – Tôi muốn bọn chúng cứ sống mệt nghỉ.
Bây giờ chúng ta thử đi vòng quanh vườn này và đếm xem bao nhiêu cây còn sống đi. Con bé thở hổn hển vì háo hức, Dickon cũng phấn khích chẳng kém gì nó. Chúng đi hết cây này sang cây khác, bụi này sang bụi khác.
Dickon cầm sẵn con dao trong tay và chỉ cho Mary những thứ mà con bé cho rằng vô cùng tuyệt vời.
- Chúng sống hoang dại, nhưng những cây khỏe thì vô cùng phát triển. Cây nào yếu thì tàn lụi, nhưng bọn còn lại cứ thế mà lớn lên và vươn xa đến độ làm ta phải kinh ngạc.
- Nhìn này! – Dickon kéo xuống một cành cây xám nâu khô khốc. – Có thể người ta bảo đây là cành chết, nhưng tôi không nghĩ vậy. Nhìn xuống gốc này, tôi sẽ rạch thử xem. Nó quỳ xuống, dùng dao cắt ngọt qua một nhánh cây khô tưởng như không còn sự sống, chỗ không xa mặt đất là mấy.
- Đó, thấy chưa! – Nó nói, vẻ mặt phấn khởi. – Tôi đã bảo cô mà. Có màu xanh bên trong thân gỗ. Cô nhìn vào đây này.
Mary đã quỳ trên hai đầu gối trước khi Dickon bảo, căng mắt ra nhìn.
- Chừng nào còn chút màu xanh và nhựa ứa ra thế này thì còn sống mệt nghỉ, - thằng bé giải thích. – Còn khi nào bên trong khô đét và dễ dàng bẻ gãy được như cái cành tôi vừa bẻ đay thì gay rồi. Nhìn bộ rễ này là ta biết cây còn phát triển, - nó ngừng nói, ngẩng mặt nhìn những nhánh cây đang đung đưa trên đầu, - vào mùa hè nơi đây sẽ là cả một đài phun nước kết bằng hoa hồng.
Chúng tiếp tục đi từ bụi này sang bụi khác, từ cây này sang cây khác. Thằng bé tỏ ra mạnh mẽ và linh lợi với con dao trong tay, nó biết cách cắt bỏ đi những cành khô nhánh chết, và có thể chỉ cho Mary rõ cành nào tưởng chừng chẳng mấy hy vọng mà vẫn còn sự sống xanh rờn bên trong.
Mới chưa đầy nửa giờ mà Mary thấy chính nó cũng tự biết được điều đó. Mỗi khi Dickon cắt ngang một nhành cây trông như đã chết, nó lại cố kìm một tiếng kêu vui sướng khi bắt gặp dấu hiệu nhỏ nhoi thoáng qua của màu xanh ẩm ướt. Mai, cuốc và chĩa tỏ ra rất có ích.
Dickon chỉ cho con bé cách dùng chĩa, trong khi nó dùng mai để xén bớt rễ cây và xới đất cho thoáng khí. Hai đứa miệt mài cắt tỉa quanh một trong những khóm hồng thường lớn nhất, bỗng Dickon nhìn thấy vật gì đó khiến nó kinh ngạc thốt lên.
- Tại sao thế nhỉ! – Thằng bé kêu khẽ và đưa tay chỉ vào vạt cỏ cách đó vài bước chân – Ai đã làm việc ấy?
Thì ra đó là một trong mấy khoảng đất quanh những chấm xanh đã được Mary dọn quang.
- Tôi làm đấy. – Mary bảo. - Sao, tôi cứ ngỡ cô không biết gì việc làm vườn cơ mà, - Dickon kêu lên.
- Tôi không biết, - Mary đáp, - nhưng chúng thì bé tẹo teo, mà cỏ dại thì dày đặc và mọc khỏe quá, tưởng chừng chúng không còn chỗ để thở nữa. Bởi thể tôi dọn chỗ cho chúng. Tôi thậm chí cũng không biết chúng là giống cây gì nữa.
Dickon bước tời quỳ xuống bên đám mầm cây, rộng miệng cười.
- Cô hoàn toàn đúng, - thằng bé bảo. – Một người làm vườn cũng không thể nói đúng hơn cô. Giờ đây chúng sẽ mọc nhanh như thổi. Toàn là nghệ tây, hoa giọt tuyết. Còn đây là thủy tiên, - quay sang khoảnh đất nhỏ khác, nó bảo – và kia là thủy tiên hoa vàng. Hây chúng đều đã nhú lên rồi!
Thằng bé chạy từ khoảnh đất đã dọn sạch này sang khoảnh đất khác.
- Cô làm được hàng núi công việc, thật chẳng kém gì một cô gái trưởng thành, - thằng Dickon vừa nói, vừa đưa mắt nhìn Mary từ đầu đến chân.
- Tôi đang béo lên, - Mary bảo – và cũng thấy khỏe lên. Tôi vốn hay mệt mỏi, vậy mà khi đào xới thì chẳng thấy mệt gì hết. Tôi thích được ngửi mùi đất mới lật lên.
- Điều đó có lợi cho cô đấy, - vừa nói, Dickon vừa gật gù ra vẻ hiểu biết. – Đó là mùi của đất sạch, và còn mùi của cây cối đang đâm chồi nảy lộc sau khi được tưới tắm dưới những trận mưa nữa. Nhiều bận đang lang thang trên cánh đồng hoang thì cơn mưa ập xuống, tôi liền nằm trú dưới một bụi cây, lắng nghe tiếng mưa rơi rả rích trên lá thạch thảo và cứ hít hà mãi. Mẹ tôi thường bảo cái mũi của tôi lúc nào cũng run run chẳng khác nào mũi một con chó.
- Anh không bao giờ bị cảm lạnh à? – Mary hỏi, chằm chằm nhìn thằng bé với vẻ hết sức ngạc nhiên. Con bé chưa từng gặp một đứa con trai nào lại ngộ nghĩnh và cũng dễ thương đến thế.
- Chưa, - Dickon nhe răng cười. – Tôi chưa bao giờ bị cảm lạnh từ khi ra đời, dù tôi chẳng được nuôi dưỡng đầy đủ. Tôi chạy băng băng trên khắp cánh đồng hoang, trong mọi thời tiết, như là bọn thỏ vậy. Mẹ bảo tôi đã hít quá nhiều không khí trong lành trong suốt mười hai năm qua nên một chút khí lạnh cũng chẳng thể làm tôi khụt khịt nổi. Tôi dẻo dai như một sợi dây kết bằng đay trắng.
Thằng bé vẫn làm việc không ngơi tay trong lúc trò chuyện, còn Mary lẽo đẽo theo sau và giúp Dickon khi thì bằng chiếc chĩa ba, khi thì bằng xẻng của nó.
- Còn rất nhiều việc phải làm ở đây!- Dickon nói và nhìn quan, vẻ hân hoan.
- Liệu anh có quay lại cùng làm giúp tôi không? – Mary khẩn khoản
– Tôi dám chắc tôi có thể giúp anh. Tôi có thể xới đất, nhặt cỏ và làm bất kỳ việc gì anh bảo. Ôi! Hãy đến nhé, Dickon!
- Tôi sẽ đến đây hàng ngày, nếu cô muốn, dù mưa hay nắng. – Dickon đáp lại chắc nịch. – Đây quả là chuyện vui nhất mà tôi từng có trong đời: bị nhốt lại đây và đánh thức cả một khu vườn.
- Nếu anh tới, - Mary nói, - nếu anh giúp tôi làm cho nó sống lại thì tôi sẽ ... tôi quả không biết sẽ phải làm gì nữa! - Con bé dừng lại một cách tuyệt vọng. Bạn có thể làm gì nữa với một cậu bé như vậy?
- Tôi sẽ bảo cho cô những việc cô phải làm, - Dickon đáp, nhe răng cười vui vẻ. – Rồi cô sẽ béo tốt lên, sẽ thấy đói ngấu nghiến như một con cáo non, và rồi cô sẽ học được cách nói chuyện với chim ức đỏ chẳng kém gì tôi. Ôi! Chúng ta sẽ có biết bao trò vui.
Thằng bé bắt đầu đi loăng quăng, hết ngước trông các ngọn cây lại nhìn những bức tường và khóm cây với vẻ suy nghĩ.
- Tôi không muốn biến nó thành như vườn của người làm vườn, chỗ nào cũng được xén tỉa gọn ghẽ ngăn nắp, thế còn cô? – nó nói. – Cứ như thế này có khi lại đẹp, cứ để các cành các nhánh bò lan hoang dại, đu đưa rồi xoắn quyện lấy nhau.
- Đừng làm chúng ngăn nắp quá, - Mary nói vẻ lo âu. – Nếu chúng ngay ngắn đâu ra đấy thì còn gì là một khu vườn bí mật.
Dickon đứng vò vò mái tóc nâu bù xù của nó, nom khá bối rối.
- Cứ như thế này trông cũng đủ là một khu vườn bí mật rồi, - nó bảo - nhưng hình như ngoài con chim ức đỏ ra, phải còn ai nữa sống ở đây kể từ ngày nó bị đóng kín cách đây mười năm.
- Nhưng cánh cửa thì bị khóa, còn chìa thì bị vùi kỹ, - Mary bảo. – Không ai có thể vào trong được.
- Sự thật là thế, - Dickon đáp. – Đây quả là một chốn kỳ dị. Tôi thấy hình như sau mười năm thì gần đây có ai đã tỉa xén bớt cây đi thì phải.
-Nhưng làm việc ấy bằng cách nào? – Mary hỏi.
Sau khi xem xét một nhánh hồng bình thường, Dickon lắc đầu.
- Phải rồi! Làm sao có thể làm việc đó được nhỉ? – Thằng bé thì thầm. – Với cánh cửa bị khóa, còn chìa thì bị vùi kín.
Mary luôn cảm thấy rằng dù con bé có sống bao nhiêu năm, nhưng nó sẽ không bao giờ quên cái buổi sáng đầu tiên khi khu vườn của nó bắt đầu sống dậy. Dĩ nhiên rồi, nơi ấy dường như đã bắt đầu sống dậy vì nó kể từ buổi sáng đó. Khi Dickon bắt tay vào dọn chỗ để gieo hạt, con bé nhớ lại những lời thằng Basil đã hát để chọc tức nó.
- Có giống hoa nào nom giống những quả chuông không? – Con bé hỏi.
- Hoa lan chuông, - Dickon đáp, tay vẫn đang cầm xẻng xới đất, - và cả hoa chuông vùng Canterbury.
- Chúng ta trồng thử một ít đi, - Mary bảo.
- Hoa lan chuông thì ta có sẵn ở đây rồi; tôi đã thấy chúng. Chúng sẽ mọc quá gần nhau, ta sẽ phải tách chúng ra. Còn giống kia phải mất tới hai năm mới nở hoa kể từ lúc gieo hạt, nhưng tôi có thể mang cho cô một số cây có sẵn từ vườn nhà chúng tôi. Nhưng tại sao cô lại muốn chúng?
Mary bèn thuật lại cho Dickon nghe về Basil cùng đám anh chị em của nó ở Ấn độ, và con bé đã ghét chúng ra sao, cả việc chúng gọi nó là "Cô chủ Mary quá ư ngang ngược".
- Chúng thường nhảy nhót quanh tôi, nhìn tôi mà hát. Chúng hát rằng: Cô chủ Mary này, thật quá ư ngang ngược Làm sao vườn cô mọc nổi đây? Khi chuông bạc rồi vỏ sò tạp nhạp, Cùng cúc vạn thọ lẫn lộn cả một nơi. - Tôi vừa chợt nhớ tới bài hát đó và tự hỏi không biết có đúng là có những bông hoa trông như những chiếc chuông bạc không. Con bé khẽ cau mày rồi ấn chiếc xẻng của nó cuống đất khá là hằn học.
- Tôi không hề ngang ngược như lời chúng hát. Dickon bật cười.
- Ồ! – Thằng bé tiếp lời, và trong lúc làm cho tơi lớp đất đen màu mỡ, nó hit hà hương thơm của đất, - dường như chẳng ai có thể ngang ngược được nữa khi hoa lá đua nở, muông thú thân thiện, ríu rít đào hang xây tổ và hót ca, phải không nào?
Mary đang quỳ bên Dickon, tay cầm hạt giống, nó nhìn sang thằng Dickon và thôi cau mày.
- Dickon, anh thật tốt, đúng như lời Martha đã nói về anh. Tôi rất thích anh, và anh trở thành người thứ năm rồi đấy. Tôi chưa bao giờ nghĩ rằng mình lại có thể thích những năm người.
Dickon ngồi tì lên gót chân, giống cách Martha vẫn ngồi trong khi đánh bóng chiếc ghi lò. Cậu ấy trông thật ngộ và vui tính, Mary nghĩ bụng, với đôi mắt to xanh biết, hai má đỏ hồng và chiếc mũi hếch đầy mãn nguyện của cậu.
- Cô chỉ yêu quý có năm người thôi sao? Bốn người kia là những ai vậy?
- Mẹ anh và Martha, - Mary đếm họ trên các ngón tay của nó, - rồi chim ức đỏ và ông Ben Weatherstaff.
Dickon cười ngặt nghẽo đến nỗi nó phải vội đưa tay bịt miệng để ngăn tiếng cười lại.
- Tôi biết cô nghĩ tôi là một đứa kỳ quặc, nhưng tôi cho rằng cô mới là cô nàng bé nhỏ kỳ quặc nhất mà tôi từng thấy.
Lúc ấy, Mary đã làm một việc lạ lùng. Nó ngả người về phía trước, hỏi thằng bé một câu mà nó không bao giờ tưởng tượng nó sẽ hỏi ai đó từ trước tới giờ. Nó cố gắng hỏi câu đó bằng giọng Yorkshire bởi đó là ngôn ngữ của thằng bé, và ở Ấn độ một người địa phương thường tỏ ra hài lòng nếu bạn thạo lối nói của anh ta.
- Anh có thích tôi không?
- Ôi! – Thằng bé thành thật đáp. – Tôi thích chứ. Tôi thích cô lắm, và chim ức đỏ cũng thế, tôi tin thế.
- Vậy là có hai. – Mary bảo. – Có tới hai người bạn dành cho tôi.
Từ lúc ấy trở đi, chúng làm việc chăm hơn và cũng vui hơn. Mary giật mình và tiếc nuối khi nghe tiếng chuông đồng hồ lớn trong sân điểm giờ ăn trưa của nó.
- Tôi phải về rồi, - nó buồn rầu nói. – Và anh cũng phải về, đúng không?
Dickon nhoẻn cười.
- Tôi mang theo bên mình bữa trưa của tôi một cách dễ dàng. Mẹ luôn cho phép tôi được nhét một thứ gì đó trong túi áo.
Nó nhặt chiếc áo khoác dưới bãi cỏ rồi lấy từ đó ra cái túi nhỏ, trong đó một vật được bọc giữa chiếc khăn tay màu trắng và xanh rất sạch sẽ. Chiếc khăn gói hai lát bánh mì đầy đặn cùng miếng gì đó kẹp ở giữ.
- Thường là chẳng có gì ngoài bánh mì, - nó nói- nhưng hôm nay tôi lại được thêm một chút thịt lợn xông khói béo ngậy ngon lành.
Mary thấy bữa ăn mới kỳ dị làm sao, nhưng có vẻ như thằng bé sẵn sàng thưởng thức nó.
- Cô về nhà mà ăn trưa đi. Tôi sẽ dùng bữa của tôi trước. Tôi sẽ nán lại thêm một chút trước khi về.
Nó ngồi xuống, tựa lưng vào một gốc cây.
- Tôi sẽ gọi con chim ức đỏ đến, cho nó chút thịt xông khói. Bọn chúng rất thích món ăn béo ngậy tuyệt vời này.
Mary không muốn để thằng bé ở lại. Đột nhiên, nó cảm thấy Dickon như một cậu tiên rừng sẽ biến mất khi nó trở lại khu vườn. Dickon là cậu bé tốt đến không thể tin được. Nó đã đi được nửa đường ra tới chỗ cánh cửa ẩn trong bức tường, nhưng rồi nó liền trở lại.
- Dù bất kể chuyện gì xảy ra, anh... anh cũng không bao giờ nói ra chứ? – Nó nói.
Đôi má ửng màu hoa anh túc của thằng bé lúc này đang phồng lên vì miếng bánh to tướng cùng với thịt xông khói, nhưng nó vẫn cố mỉm cười động viên Mary:
- Nếu cô là một con chim hét tầm gửi và chỉ cho tôi biết tổ ở đâu, cô có nghĩ tôi sẽ kể với ai không? Không đời nào. Cô thì cũng sẽ được an toàn không khác gì một con chim hét.
Và con bé cũng khá chắc chắn là nó sẽ được an toàn như thế.
CHƯƠNG 12 - CHÁU CÓ THỂ CÓ MỘT MẢNH ĐẤT ĐƯỢC KHÔNG?
Mary chạy nhanh đến nỗi tưởng chừng đứt cả hơi khi về tới phòng riêng. Tóc nó xõa ra trên trán, còn hai má lại đỏ hây hây. Bữa trưa của nó đã dọn sẵn trên bàn, Martha đang ngồi ăn gần đó.
- Cô về hơi muộn,- chị nói - Cô ở đâu thế?
- Tôi vừa gặp Dickon! Tôi vừa gặp Dickon!
- Tôi cũng biết nó đến, - Martha nói với vẻ hân hoan - Cô thấy nó thế nào?
- Tôi nghĩ, tôi nghĩ... anh ấy rất đẹp! – Mary nói bằng một giọng cả quyết.
Martha sửng sốt, nhưng vẻ mặt đầy vẻ thích thú. - Chà, - Chị nói, - nó là đứa khá nhất trong những đứa trẻ nhà tôi được sinh ra, nhưng chúng tôi chưa bao giờ cho rằng nó đẹp trai. Mũi nó hếch quá.
- Tôi thì lại thích cái mũi hếch như thế, - Mary đáp.
- Mà đôi mắt nó thì cứ tròn như hai hòn bi, - Martha nói với đôi chút ngờ vực, - mặc dù chúng có màu khá đẹp.
- Tôi lại thích chúng tròn như thế, - Mary bảo, chúng có màu như màu của bầu trời trên cánh đồng hoang.
Martha tươi cười mãn nguyện. - Mẹ vẫn bảo nói có màu mắt ấy bởi cứ luôn ngước nhìn chim chóc và mây bay. Nhưng còn cái miệng rộng ngoác nữa chứ?
- Tôi thì tôi yêu cái miệng rộng của anh ấy, - Mary đáp một cách ngoan cố - Tôi ước miệng của tôi cũng giống hệt như thế.
Martha tủm tỉm vẻ sung sướng.
- Nếu thế thì cô sẽ có một bộ mặt khá ngộ đấy. Nhưng tôi đã biết sự thể sẽ như thế khi cô gặp nó. Thế cô có thích các hạt giống và dụng cụ làm vườn không?
- Làm sao chị biết anh ấy mang chúng cho tôi? – Mary hỏi.
- Ồ! Tôi không bao giờ nghĩ nó không mang cho cô. Có thể tin chắc rằng nó sẽ mang chúng đến, miễn là chúng có ở Yorkshine. Nó là một đứa thật đáng tin cậy.
Mary đang lo sợ chị sẽ hỏi sang những câu mà nó sẽ khó bề trả lời, nhưng Martha đã không làm vậy. Chị quá quan tâm đến chuyện giống má và dụng cụ làm vườn. Vậy mà vẫn có lúc Mary thấy khinh hãi, là khi Martha bắt đầu hỏi nó trồng hoa ở đâu.
- Cô đã xin phép ai chưa đấy? – Chị hỏi.
- Tôi chưa hỏi bất kỳ ai hết. – Mary lưỡng lự trả lời.
- Ừm, tôi sẽ không hỏi người quản vườn đâu. Lúc nào ông ta cũng ra vẻ ta đây, ông Roach ấy mà.
- Tôi chưa bao giờ gặp ông ta. Tôi chỉ gặp những người giúp việc làm vườn và ông Ben Weatherstaff.
- Nếu là cô, tôi sẽ hỏi bác Ben Weatherstaff,- Martha khuyên con bé,- Bác ấy không đến nỗi tệ như vẻ bề ngoài đâu, mặc dầu bác ấy rất hay gắt gỏng. Ông Craven để mặc bác ấy muốn làm gì thì làm, bởi vì bác ấy đã ở đây từ hồi bà Craven còn sống và là người khiến bà ấy vui vẻ bật cười nhiều phen. Bà quý bác ấy lắm. Biết đâu bác ấy chẳng tìm cho cô một góc vườn ở chỗ nào đó hẻo lánh cũng nên.
- Nếu nó làm một nơi xó xỉnh hẻo lánh không ai màng tới thì sẽ không có ai phiền lòng nếu tôi sỡ hữu nó phải không? – Con bé hỏi, giọng đầy lo lắng.
- Chẳng có lý gì mà không cho. Cô có gây thiệt hại gì đâu.
Mary ăn qua quýt cho xong, khi nó vừa rời khỏi bàn ăn và định chạy về phòng riêng lấy mũ đội thì Martha ngăn nó lại.
- Tôi có mấy việc muốn nhắc cô,- chị nói,- tôi nghĩ cứ để cô ăn uống xong xuôi đã. Ông Craven đã trở về sáng nay, và tôi cho rằng ông ấy muốn gặp cô.
Mặt Mary tái nhợt.
- Ôi! – nó thốt lên – Tại sao? Tại sao? Ông ấy đã không muốn gặp tôi hôm tôi tới đây cơ mà. Tôi nghe rõ ông Pitcher nói rằng ông ấy không muốn.
- Chà,- Martha giải thích – Bà Medlock bảo cũng chỉ tại mẹ tôi thôi. Bữa trước mẹ tôi sang bên làng Thwaite và bà đã gặp ông ấy. Trước đây bà chưa bao giờ được trò chuyện với ông ấy, nhưng bà Craven đã từng ghé thăm gian nhà gianh của chúng tôi đôi bà bận. Ông ấy quên rồi, nhưng mẹ tôi thì không, và bà đã đánh bạo cản bước ông ấy. Tôi không rõ bà đã nói gì với ông về cô, nhưng đại loại bà đã nhắc ông để tâm tới việc gặp cô trước khi ông ấy lại lên đường vào ngày mai.
- Ôi! – Mary kêu to,- Ông ấy sẽ đi vào ngày mai sao? Tôi mừng quá.
- Lần này ông đi lâu lắm đấy. Có lẽ mùa thu hoặc đông tới ông ấy mới trở về. Ông sẽ đi du lịch ở nước ngoài. Ông ấy luôn luôn làm vậy.
- Ôi! Tôi mừng quá! Tôi mừng quá! – Mary nói với vẻ biết ơn.
Cho đến mùa đông tới hoặc thậm chí chỉ cần đến mùa thu thôi mà ông ấy chưa trở về thì nó sẽ có đủ thời gian ngắm khu vườn bí mật của mình hồi sinh. Cho dù lúc bấy giờ ông ấy có phát hiện và tước đoạt khu vườn khỏi nó thì ít ra nó cũng đã được ngắm nhìn cảnh tượng ấy.
- Chị nghĩ khi nào ông ấy muốn gặp...
Mary chưa kịp nói hết câu thì cửa mở, bà Medlock bước vào. Bà vận chiếc váy đen đẹp nhất của mình, đội mũ mềm không vành, trên cổ áo có gài chiếc ghim lớn có hình khuôn mặt một người đàn ông. Đấy là bức ảnh màu của ông Medlock đã qua đời mấy năm trước, bà luôn đeo nó mỗi khi ăn diện. Trông bà có vẻ bồn chồn, lo lắng.
- Tóc cô rối quá,- Bà nói vội – Đi chải lại đi. Martha, chị hãy giúp cô đây thay bộ đồ đẹp nhất. Ông Craven bảo tôi đưa cô ấy tới phòng làm việc.
Tất cả vẻ hồng hào vụt biến khỏi hai má Mary. Tim nó đập thình thịch và nó cảm thấy mình lại trở về nguyên trạng một đứa trẻ câm lặng, khó ưa, cứng nhắc. Nó thậm chí không buồn trả lời bà Medlock mà quay bước về phòng riêng, Martha theo sau. Trong lúc thay quần áo và chải tóc, nó chẳng nói chẳng rằng. Sau khi đã hoàn toàn chỉnh tề, nó im lặng theo bà Medlock xuống hành lang. Mà nó còn biết nói gì đây? Nó buộc phải đi gặp ông Craven, ông ấy sẽ không ưa nó, và nó cũng sẽ chẳng ưa ông. Nó thừa hiểu ông ấy sẽ nghĩ gì về nó. Con bé được đưa tới phần tòa nhà mà trước đó nó chưa hề đặt chân tới.
Cuối cùng bà Medlock đưa tay gõ một cánh cửa, và khi có tiếng ai đó bảo "Mời vào", cả hai cùng tiến vào trong phòng. Một người đàn ông đang ngồi trong chiếc ghế bành kê trước lò sưởi, bà Medlock lên tiếng.
- Đây là cô Mary, thưa ngài.
- Bà có thể đi và để cô bé ở lại. Tôi sẽ rung chuông báo cho bà khi tôi muốn bà đến đưa cô bé đi, - Ông Craven bảo.
Lúc bà ta ra khỏi phòng và khép cửa, Mary chỉ còn biết đứng đợi. Đứa con gái bé nhỏ không mấy ưa nhìn đó đứng vặn xoắn hai bàn tay vào nhau. Nó nhận thấy người đàn ông ở trên ghế cũng chẳng đến nỗi gù lắm, với đôi vai cao và không cân đối, và mái tóc đen của ông đã điểm bạc. Ông ngoái nhìn qua bờ vai cao và bảo nó.
- Hãy lại gần đây!
Mary tiến đến gần ông. Ông ấy không hề xấu xí. Khuôn mặt ông hẳn cũng tuấn tú nếu nó không đượm vẻ đau khổ đến vậy. Hình như vẻ ngoài của con bé khiến ông băn khoăn và ông không biết nên làm gì với nó.
- Cháu khỏe chứ? – ông hỏi.
- Vâng. – Mary đáp.
Họ đối xử với cháu có tử tế không?
- Có ạ.
Ông đưa tay xoa vầng trán vẻ đầy lo lắng khi nhìn ngắm nó từ đầu đến chân.
- Cháu gầy quá! – ông bảo.
- Cháu đang béo lên, - Mary trả lời, nó thừa biết vẻ cứng nhắc trong cách nói năng của nó.
Ông có khuôn mặt mới buồn rầu làm sao! Đôi mắt đen của ông như thể không nhìn vào nó mà nhìn vào một cái gì khác, và ông ấy khó mà có thể nghe nhiều về nó.
- Ta quên khuấy mất cháu,- ông nói – Làm sao ta có thể nhớ ra cháu cơ chứ? Ta đã tính đưa tới chỗ cháu một cô gia sư, một bảo mẫu hoặc ai đó đại loại như vậy, thế mà ta lại quên khuấy đi.
- Bác làm ơn, - Mary mở đầu- làm ơn...- Nó cảm thấy cổ họng nghẹn lại.
- Cháu muốn nói gì? – ông hỏi ân cần.
- Cháu...cháu đã quá lớn để cần đến bảo mẫu,- Mary đáp- Và xin bác...xin bác đừng bắt cháu phải có thêm một cô gia sư bên cạnh nữa.
Ông lại xoa trán và chằm chằm nhìn nó.
- Đó là những gì mà người phụ nữ nhà Sowerby đã nói mà,- ông lẩm bẩm.
Mary thu hết can đảm.
- Có phải bà...bà là mẹ của chị Martha không ạ?- Mary lắp bắp.
- Phải, ta cho rằng thế,- ông đáp.
- Bà ấy rất hiểu trẻ con, - Mary bảo – Bà có tới mười hai người con, nên bà hiểu.
Ông như choàng tỉnh. - Thế cháu muốn gì ?
- Cháu muốn được chơi ngoài trời,- Mary đáp, nó hy vọng giọng mình không đến nỗi run, - Cháu chưa bao giờ thích điều đó khi ở Ấn Độ. Còn ở đây, làm thế khiến cháu thấy đói bụng, và cháu đang béo lên.
Ông nhìn con bé. - Bà Sowerby bảo điều ấy sẽ làm cháu khỏe hẳn ra. Có lẽ đúng thế thật. Bà ấy cho rằng tốt hơn hết cháu hãy khỏe lên đã rồi mới cần một gia sư kèm cặp.
- Cháu cảm thấy rất khỏe mỗi khi được chơi đùa, cùng với nắng gió ngoài cánh đồng hoang,- Mary lý sự.
- Cháu thường chơi ở đâu ?
- Ở khắp mọi nơi,- Mary hổn hển đáp, - Mẹ chị Martha gửi cho cháu một sợi dây nhảy. Cháu nhảy dây khắp nơi...và cháu còn ngó quanh xem liệu có gì sắp trời lên khỏi mặt đất không. Cháu chẳng hề làm gì có hại.
- Đừng sợ hãi thế,- ông Craven nói giọng lo lắng – Một đứa trẻ như cháu thì chẳng thể làm gì có hại hết. Cháu có thể làm những gì cháu muốn.
Mary vội đưa tay lên che cổ, nó sợ ông nhìn thấy cái sự nghẹn ngào đầy kích động mà nó sắp rơi vào. Nó bước lại gần ông hơn.
- Cháu có thể, phải không ạ? – Nó nói với vẻ rụt rè.
Khuôn mặt bé nhỏ đầy khắc khoải của nó càng khiến ông lo lắng hơn bao giờ hết.
- Đừng có căng thẳng đến vậy,- ông thốt lên,- Dĩ nhiên là cháu có thể. Ta là người bảo hộ của cháu, vậy nhưng ta lại chẳng viết gì về trẻ con. Ta không thể dành cho cháu thời gian hoặc sự chăm sóc. Ta quá ốm yếu, lại không thể tập trung làm việc gì cho ra hồn, nhưng ta mong cháu được hạnh phúc và thoải mái. Ta quả không hiểu gì về trẻ nhỏ, nhưng bà Medlock được giao phó trách nhiệm phải lo cho cháu tất cả những gì cháu cần. Ta cho gọi cháu tới hôm nay bởi vì và Sowerby bảo ta nên gặp cháu. Bà ấy cho rằng cháu cần không khí trong lành, tự do và được chạy nhảy đây đó.
- Bà ấy hiểu tường tận về trẻ con,- Mary nhắc lại, mặc dù nó không hề có ý làm vậy.
- Hẳn là thế,- ông Craven bảo,- Ta nghĩ bà ấy khá là táo tợn lúc ngăn bước ta giữa cánh đồng, nhưng bà ấy chỉ nói : "Bà Craven đã từng đối xử tốt với tôi.»- Nhắc đến cái tên của người vợ quá cố dường như là điều quá khó khăn với ông,- " Bà nhà là một phụ nữ rất đáng kính.» Bây giờ gặp cháu, ta nghĩ bà ấy đã nói ra những điều có lý. Cháu cứ việc chơi ngoài trời bao lâu tùy thích. Đây là một tòa nhà đồ sộ, cháu có thể vào chỗ nào cháu thích, cứ vui vẻ đùa nghịch nếu cháu muốn. Cháu còn cần gì nữa không? – Và một ý nghĩ tình cờ chợt nảy trong óc ông – Cháu có muốn đồ chơi, sách vở hay búp bê không ?
- Liệu cháu có thể,- Mary rụt rè,- cháu có thể có một ít đất không ạ?
Trong lúc đang háo hức, con bé không nhận ra mấy từ ấy nghe mới kỳ dị làm sao và chúng không phải là những lời mà con bé định nói. Ông Craven giật mình.
- Đất! – ông nhắc lại. – Ý cháu là gì?
- Để gieo hạt...để làm cho chúng sinh sôi nảy nở...để nhìn chúng được sống. – Mary ấp úng.
Ông nhìn chòng chọc vào con bé hồi lâu, rồi đưa tay dụi mắt.
- Cháu...quan tâm chuyện vườn tược đến thế kia à? – Ông nói chậm rãi.
- Hồi ở Ấn Độ thì cháu chẳng biết gì,- Mary đáp,- Cháu lúc nào cũng ốm đau và mệt mỏi, và thời tiết lại quá nóng bức. Đôi khi cháu cũng vun những luống hoa trong cát rồi cắm mấy bông hoa lên đấy. Nhưng ở đây thì lại khác hẳn.
Ông Craven đứng dậy, chậm chạp bước ngang qua gian phòng.
- Một miếng đất,- ông như nói với chính mình. Mary nghĩ nó đã vô tình nhắc ông nhớ lại chuyện gì thì phải. Khi ông dừng bước để nói với nó, đôi mắt đen của ông trông hết sức dịu dàng, hiền hậu.
- Cháu muốn bao nhiêu đất thì cứ tùy thích. Cháu làm ta nhớ đến một người rất yêu quý đất đai và những gì mọc lên từ đấy. Khi cháu thấy mảnh đất mà cháu muốn,- miệng ông thoáng vẻ gì đó tựa như một nụ cười,- thì hãy nhận lấy nó, con gái ạ, và hãy làm cho nó sinh sôi nảy nở.
- Cháu có thể nhận bất kể chỗ nào không có ai dùng tới?
- Bất kể chỗ nào,- ông trả lời.- Thôi! Bây giờ thì cháu đi đi, ta thấy mệt rồi.- Ông rung chuông gọi bà Medlock – Tạm biệt cháu. Ta sẽ phải xa nhà suốt mùa hè này.
Bà Medlock bước vào phòng nhanh đến nỗi Mary có cảm tưởng nãy giờ bà vẫn chực sẵn ngoài hành lang.
- Bà Medlock này,- ông Craven bảo bà,- bây giờ gặp con bé tôi mới hiểu những gì bà Sowerby muốn nói. Cô bé cần khỏe khoắn hơn trước khi bắt tay vào học tập. Hãy dọn cho con bé những món ăn nhẹ nhàng có lợi cho sức khỏe. Cứ mặc nó được chạy thỏa thích trong vườn. Đừng trông nom gò bó con bé quá mức. Mary cần tự do, không khí trong lành Sowerby sẽ tới thăm con bé, đôi khi cô bé cũng được phép tới chơi nhà họ.
Bà Medlock hể hả ra mặt. Bà thầm nhủ trong lòng rằng thể là từ này bà đỡ phải "chăm nom" Mary nhiều cho mệt xác. Bà vẫn cảm thấy con bé là một bổn phận phiền toái và cũng chẳng gặp con bé mấy. Vả lại, bà mẹ Martha là người mà bà vẫn quý mến từ lâu.
- Cám ơn ngài,- bà nói.- Bà Sowerby và tôi đã cùng đến trường với nhau, bà ấy quả là một phụ nữ hiểu biết và nhân hậu, như ngài đã nhận thấy vào hôm đi dạo. Bản thân tôi chẳng có đứa con nào, nhưng bà ấy lại có những mười hai đứa, không đứa nào lại không khỏe mạnh, ngoan ngoãn. Cô Mary có thể tới chơi mà không sợ bị chúng làm hư. Chính tôi đã luôn suy ngẫm những lời khuyên nhủ về con trẻ của bà Sowerby. Bà ấy chính là người ta vẫn gọi là người có cái đầu sáng láng, nếu ngài hiểu ý tôi.
- Tôi hiểu,- ông Craven đáp,- Bà hãy đưa cô Mary đi và bảo ông Pitcher đến gặp tôi.
Khi bà Medlock rời con bé ở cuối hành lang, Mary chạy như bay về phòng. Nó thấy Martha đang đợi sẵn ở đó. Quả thật, Martha cũng đã vội vã trở lại sau khi dọn bàn xong.
- Tôi có thể có một khu vườn riêng! – Mary reo to,- Tôi có thể có nó ở bất cứ đâu tôi muốn! Tôi cũng sẽ chưa bị gia sư kèm cặp một thời gian dài nữa! Mẹ chị sắp tới đây thăm tôi, và có thể tôi cũng được tới thăm nhà chị. Ông ấy còn bảo một đứa con gái bé bỏng như tôi thì chẳng thể làm điều gì có hại hết, ngoài ra tôi có thể làm bất cứ điều gì tôi thích, ở bất kỳ đâu!
- Ôi! – Martha sung sướng nói,- Ông ấy dễ chịu đấy chứ phải không cô?
- Chị Martha này,- Mary nói vẻ trịnh trọng,- ông ấy quả thực là một người tử tế, chỉ có điều sao mặt ông buồn đến thế, và chân thì lúc nào cũng nhíu lại.
Con bé phóng như bay ra ngoài vườn. Nó đã vắng mặt lâu hơn nó tưởng, nó biết Dickon phải cuốc bộ những năm dặm và hẳn cậu ấy đã lên đường từ sớm tinh mơ. Lúc con bé lách qua cánh cửa dưới đám cành thường xuân để vào trong, nó không thấy thằng bé làm việc ở chỗ chúng chia tay lúc trước. Dụng cụ làm vườn được xếp gọn gàng dưới một gốc cây. Nó chạy tới chỗ ấy, đưa mắt nhìn khắp xung quanh, nhưng không thấy Dickon. Thằng bé đã đi, khu vườn bí mật vắng tanh, ngoài con chim ức đỏ vừa bay qua bờ tường và đang đậu trên một khóm hồng liếc nhìn con bé.
- Anh ấy đi rồi,- con bé nói một cách buồn rầu,- Ôi! Liệu anh ấy...liệu anh ấy... liệu có phải anh ấy chỉ lả một nhân vật tưởng tượng?
Ánh mắt nó bắt gặp một vật gì trăng trắng đính trên khóm hồng. Đó là một mẩu giấy, đúng vậy, đó là mẩu giấy con bé đã in chữ nhờ Martha chuyển cho Dickon. Mẩu giấy được cài áo vào một chiếc gai dài, và trong phút chốc con bé hiểu Dickon đã để nó ở đó. Có mấy nét chữ thô kệch in rời rạc trên đó cùng một hình vẽ nghuệch ngoạc.
Thoạt tiên con bé không hiểu đó là cái gì. Rồi nó nhận ra đó là hình vẽ chiếc tổ với một con chim nằm ở bên trong. Bên dưới là mấy chữ in, rằng: "Tôi sẽ trở lại."
CHƯƠNG 13 - TỚ LÀ COLIN
Mary mang hình vẽ về nhà. Đến bữa tối, nó đưa mẩu giấy cho Martha.
- Ồ! – Martha kêu lên hãnh diện.- Không ngờ thằng Dickon nhà tôi lại sáng dạ đến thế. Đây là bức vẻ một con chim hét tầm gửi đang ở trong tổ, to như thực và còn giống hơn cả ngoài tự nhiên.
Bấy giờ Mary mới hiểu Dickon có ý muốn sử dụng bức hình này là một lời nhắn. Ngụ ý rằng con bé có thể tin tưởng nó sẽ giữ kín bí mật của con bé. Khu vườn là cái tổ và con bé chính là con chim hét tầm gửi. Ôi, sao nó thấy thích cái cậu bé con nhà bình dân lạ lùng ấy đến thế. Nó hy vọng ngày hôm sau Dickon sẽ quay lại và đi ngủ trong tâm trạng ngóng đợi cho trời mau sáng. Nhưng không ai biết trước được thời tiết ở Yorkshire sẽ ra sao, đặc biệt vào mùa xuân.
Mary bị đánh thức vào lúc nửa đêm bởi tiếng mưa rơi nặng hạt quất vào cửa sổ. Trời đang mưa như trút, gió thì gào rú tứ bề, cả trong các ống khói của ngôi nhà cổ đồ sộ. Mary ngồi bật dậy trên giường, nó cảm thấy khổ sở và tức giận vô cùng.
- Cơn mưa thật trái khoáy, chẳng khác gì mình đã từng như vậy.
Nó thừa biết mình không thích mà vẫn cứ đến. Nó gieo mình xuống gối và vùi mặt vào đó. Nó không khóc mà chỉ nằm vật ra, cảm thấy căm ghét tiếng mưa rơi nặng hạt đang quất xuống ràn tạt cùng tiếng gió gào rú.
Con bé không tài nào ngủ lại được. Âm thanh thê lương ấy làm nó tỉnh ngủ, cảm thấy trong lòng buồn rầu vô hạn. Nếu đang lúc vui vẻ, tiếng mưa kia còn dễ ru nó vào giấc ngủ. Còn lúc này đây, cớ sao gió cứ phải gào lên, và những giọt mưa to tướng kia thì cứ quất mãi vào ô cửa sổ!
- Nghe như thể có kẻ đi lạc giữa đồng hoang đang lang thang than khóc,- nó nhủ thầm.
Con bé nằm đó không ngủ được, trở mình hết bên này rồi bên kia dễ đến gần tiếng đồng hồ, bỗng có tiếng gì khiến nó ngồi bật dậy trên giường và ngoái đầu về phía cửa, lắng nghe. Nó nghe ngóng một hồi lâu.
- Bây giờ không phải là gió nữa,- nó thầm thì thành tiếng,- Không phải gió, tiếng gió nghe khác hẳn. Đây chính là tiếng khóc mình đã nghe thấy bữa trước.
Cánh cửa phòng nó khép hờ và âm thanh ấy vọng lại từ ngoài hành lang, một tiếng khóc bẳn gắt lúc xa lúc gần. Con bé lắng nghe mấy phút liền, mỗi lúc lại càng thêm tin chắc. Nó cảm thấy nó phải khám phá cho ra đó là cái gì. Chuyện này ven đường còn kỳ quặc hơn cả khu vườn bí mật với chiếc chìa khóa bị vùi kỹ. Và có lẽ đang trong tâm trạng nổi loạn nên nó mới bạo dạn đến vậy. Nó thò chân ra khỏi giường và đứng trên sàn nhà.
- Mình phải tìm cho ra đó là cái gì. Giờ này ai nấy vẫn còn trên giường, mình không cần phải lo tới bà Medlock, không cần!
Sẵn có cây nến cạnh giường, con bé cầm theo rồi rón rén ra khỏi phòng. Hành lang dài dằng dặc và tối mịt, nhưng Mary quá phấn khích để bận tâm đến điều đó. Nó nghĩ nó vẫn nhớ những chỗ ngoặc phải rẽ để tìm ra đoạn hành lang ngắn có cánh cửa ra vào phủ tấm thảm thêu - đoạn hành lang bà Medlock đã rẽ qua vào cái hôm nó bị lạc.
Tiếng khóc lại vang lên dọc lối đi. Nó bước tiếp trong ánh nến lúc mờ lúc tỏ, hầu như chỉ nhận ra đường qua cảm giác của bàn chân, tim đập thình thịch đến nỗi tường chừng nghe rõ từng nhịp một. Tiếng khóc ai oán vẫn tiếp tục và dẫn đường cho nó. Có lúc âm thanh ấy ngưng bặt giây lát rồi lại nổi lên. Liệu đã đến chỗ rẽ chưa?
Con bé dừng chân suy nghĩ. Phải rồi, chính là lối này. Đến cuối đoạn hành lang này thì rẽ trái, rồi bước lên hai bậc rộng thì rẽ phải. Đúng rồi, cánh cửa treo tấm thảm đây rồi.
Nó nhẹ nhàng đẩy cánh cửa rồi khép lại sau lưng, nó nhận ra mình đang đứng giữa một hành lang khác, tiếng khóc nghe còn rõ hơn mặc dầu không to lắm. Chỗ này đã là bên kia bức tường. Ở phía trái con bé, cách mấy mét, có một cánh cửa. Từ đây, nó nhìn rõ mấy tia sáng le lói hắt ra từ dưới khe cửa. Ai đó đang khóc trong phòng, và người đó còn trẻ. Nó bước tới bên cánh cửa và mở ra, và thế là nó đang đứng trong căn phòng đó!
Đó là một gian phòng lớn, bên trong bày toàn đồ đạc cổ rất đẹp. Ngọn lửa leo lét cháy trong lò sưởi, một ngọn đèn ngủ lập lòe bên chiếc giường có bốn cột chạm trổ treo rèm gấm thêu kim tuyến, và trên giường, một thằng bé đang nằm khóc hết sức thương tâm.
Mary ngỡ ngàng không biết phải chăng mình đang ở một nơi có thực, hay mình đã thiếp đi và đang mơ nàng mà không hề hay biết. Thằng bé đó có khuôn mặt dài dài, thanh tú, làn da trắng ngà và đôi mắt dường như quá lớn so với khuôn mặt của nó. Mái tóc buông thành những lọn nặng trước trán khiến khuôn mặt nó trông càng nhỏ hơn. Nó có dáng vẻ của một đứa trẻ bị ốm, nhưng đang gào khóc bởi mệt mỏi và cáu bẳn hơn là vì đau yếu.
Mary đứng ngay bên cửa ra vào, tay cầm cây nến, nín thở. Nó rón rén bước tới, và khi nó đến gần hơn, ánh sáng đã thu hút sự chú ý của thằng bé và thằng bé quay đầu trên gối, nhìn Mary chòng chọc bằng đôi mắt màu xám mở to đến mênh mông của nó.
- Cậu là ai? – Cuối cùng, thằng bé lên tiếng bằng giọng thì thầm pha chút sợ hãi,- Cậu là ma à?
- Không, tớ không phải ma,- Mary trả lời, tiếng thì thầm của chính nó cũng pha lẫn sợ hãi.
- Còn cậu là ma phải không?
Thằng bé vẫn nhìn chằm chằm không chớp, Mary không thể không chú ý đến đôi mắt kỳ lạ của nó. Chúng có màu xám mã não và nom quá to sợ với cả một hàng mi đen sậm viền quanh.
- Không,- thằng bé đáp sau một thoáng chờ đợi,- Tớ là Colin.
- Colin nhà ai? – Con bé ấp úng hỏi.
- Tớ là Colin Craven. Thế cậu là ai?
- Tớ là Mary Lennox. Ông Craven là bác tớ.
- Ông ấy là cha tớ đấy.- Thằng bé bảo.
- Cha cậu ư! – Mary thở hổn hển,- Chưa từng thấy ai bảo tớ ông ấy có một người con trai. Tại sao họ lại làm như thế?
- Lại gần đây,- thằng bé bảo, đôi mắt kỳ lạ của nó vẫn nhìn như dán chặt vào Mary với vẻ lo lắng bồn chồn. Mary tiến lại gần chiếc giường, thằng bé duỗi tay và chạm vào người nó.
- Cậu là người thực, phải không? Tớ rất hay có những giấc mơ giống như y như thực. Cậu có lẽ là một trong số đó.
Mary đã khoác vội một cái áo choàng bằng len trước khi rời khỏi phòng nó, nó liền đặt một mảnh áo vào giữa các ngón tay thằng bé.
- Cậu thử cọ nó vào da xem nó ấm và dầy thế nào,- con bé nói,- hay tớ sẽ véo cậu một cái nếu cậu muốn, để cho cậu thấy tớ thực đến thế nào. Ban nãy, cũng có lúc tớ thoáng nghĩ cậu chỉ là một giấc mơ.
- Cậu vừa từ đâu tới đây? – Thằng bé hỏi.
- Từ phòng tớ. Gió hú ghê quá khiến tớ không sao ngủ nổi, thế rồi tớ nghe có tiếng ai khóc, và muốn xem đó là ai. Cậu khóc cái gì thế?
- Bởi vì tớ cũng không tài nào ngủ được và tớ thấy đau đầu quá. Nói lại cho tớ tên của cậu đi.
- Mary Lennox. Không có ai từng nói cho cậu hay tớ đến sao?
Thằng bé vẫn mân mê trên tay mảnh áo của Mary, và trông nó, có vẻ như đã tin hơn vào sự hiện diện của Mary.
- Chưa,- thằng bé trả lời,- Họ không dám.
- Tại sao?- Mary hỏi.
- Bởi vì chắc chắn tớ sẽ lo sợ là cậu nhìn thấy tớ. Tớ sẽ không để mọi người trông thấy và dỗ dành mình.
- Tại sao?- Mary gặng hỏi lần nữa, mỗi lúc một cảm thấy hoang mang.
- Bởi tớ lúc nào cũng như thế này, ốm đau dặt dẹo và phải nằm suốt ngày. Cha tớ cũng không cho ai dỗ dành tớ. Bọn gia nhân càng không được phép bàn tàn về tớ. Nếu tớ sống, có lẽ tớ sẽ là một thằng gù, nhưng tớ sẽ không sống nổi đâu. Cha tớ ghét cái ý nghĩ rằng rồi tớ cũng sẽ giống như ông ấy.
- Trời ơi, ngôi nhà này mới kỳ dị làm sao! - Mary kêu lên - Một ngôi nhà kỳ dị quá thể! Mỗi một thứ là cả một bí mật. Các căn phòng khóa chặt, những khu vườn cũng khóa kín, và ngay cả cậu nữa! Cậu đã bị nhốt kín trong phòng chăng?
- Không. Tớ ở lì trong này bởi tớ chẳng muốn ra khỏi phòng làm gì. Di chuyển chỉ khiến tớ mệt lử.
- Cha cậu có hay đến thăm cậu không? – Mary đánh liều hỏi.
- Thỉnh thoảng. Thường thì vào lúc tớ đang ngủ. Ông ấy chẳng muốn gặp tớ.
- Tại sao? – Mary không thể không hỏi lại.
Nét mặt thằng bé thoáng vẻ giận dữ.
- Mẹ tớ chết khi tớ vừa sinh ra, và điều đó khiến ông đau khổ mỗi khi nhìn thấy tớ. Ông cứ nghĩ rằng tớ không biết, nhưng tớ nghe thiên hạ bàn tán thế. Ông hầu như căm ghét tớ.
- Ông cũng ghét lây cả khu vườn, bởi vì bà đã chết,- Mary bảo, nửa như nói với chính mình.
- Khu vườn nào? – Thằng bé hỏi.
- Ồ! Chỉ...chỉ là khu vườn mà mẹ cậu ưa lui tới. – Mary thì thào.- Thì ra cậu luôn ở đây thôi sao.
- Gần như luôn luôn. Đôi lần tớ được đưa tới những chỗ nghĩ bên bờ biển. nhưng tớ không muốn ở lại bởi ai ai cũng nhìn tớ chòng chọc. Tớ thường phải mang một vật bằng sắt để giữ cho lưng thẳng, nhưng rồi có lần một vị bác sĩ giỏi từ Luân Đôn đến thăm bệnh cho tớ, ông ấy bảo chuyện đó quả là ngu xuẩn. Ông sai họ gỡ nó ra và bắt tớ phải sống ngoài trời thoáng đãng. Tớ chúa ghét khí trời và chẳng muốn ra ngoài.
- Ngày đầu mới tới đây tớ cũng vậy,- Mary bảo,- Tại sao cậu cứ nhìn tớ chằm chằm như thế?
- Bởi vì những giấc mơ đó lại quá thực,- thằng bé trả lời, hơi có vẻ cáu kỉnh,- Có những lúc mở mắt rồi mà tớ vẫn không tin mình thức.
- Chúng ta đều đang thức đây,- Mary bảo. Nó liếc quanh gian phòng có trần cao, các góc phòng tôi tối trong ánh lửa mờ ảo,- Chuyện này cũng khá giống một giấc mơ. Cũng đã nửa đêm rồi, mọi người trong nhà đang ngủ cả, tất cả mọi người, trừ chúng ta. Chúng ta đang thức rõ rành rành.
- Tớ không muốn đây chỉ là một giấc mơ,- thằng bé nói một cách bồn chồn.
Ngay lập tức, Mary nghĩ ra một điều gì đó.
- Nếu như cậu không muốn ai trông thấy cậu, cậu có muốn tớ đi khỏi đây không?
Thằng bé vẫn cầm mảnh áo choàng của con bé trong tay, và thử kéo cho giãn ra.
- Không,- nó nói,- Tớ sẽ tin rằng cậu chỉ là một giấc mơ nếu cậu bỏ đi. Còn nếu cậu có thực thì hãy ngồi xuống chiếc ghế lớn để chăn này mà nói chuyện. Tớ rất muốn nghe về cậu.
Mary đặt cây nến của nó lên mặt bàn kê gần giường, rồi ngồi xuống chiếc ghế đẩu bọc nệm. Con bé không muốn bỏ đi chút nào. Nó muốn nán lại trong gian phòng bí hiểm được giấu kín này để chuyện trò với một thằng bé cũng bí hiểm không kém.
- Cậu muốn tớ kể cậu nghe chuyện gì?
Thằng bé muốn biết nó đã ở Misselthwaite được bao lâu, phòng con bé nằm ở hành lang nào; nó còn muốn biết con bé đã làm được những gì; và liệu con bé có chán ghét cánh đồng hoang như nó không; và rồi con bé đã sống ở đâu trước khi đến Yorkshire.
Con bé trả lời tất cả các câu hỏi của nó và còn nhiều hơn thế. Thằng bé kia ngã đầu trên gối lắng nghe. Nó bắt con bé kể cho nó nghe hàng lô hàng lốc chuyện về Ấn Độ cũng như chuyến vượt biển của Mary. Con bé nhận ra rằng bởi vì Colin là người tàn tật nên nó không học cùng những thứ với bọn trẻ khác. Một trong những bảo mẫu của nó đã dạy nó đọc từ khi còn rất nhỏ, và kể từ đó nó luôn đọc và ngắm các bức tranh trong các cuốn sách lộng lẫy.
Cho dù cha nó hiếm khi tới thăm lúc nó còn thức, nhưng Colin vẫn có đủ các thứ đồ chơi tuyệt vời để chơi. Mặc dầu vậy, nó dường như chẳng bao giờ thấy vui. Nó có thể có bất cứ thứ gì mà nó đòi hỏi và chưa bao giờ phải làm những gì nó không muốn.
- Ở đây, mọi người buộc phải làm đủ chuyện cho tớ vui,- nó nói một cách thờ ơ,- Tớ sẽ bị ốm thêm nếu tức giận. Không ai tin rằng tớ sẽ sống để mà lớn lên.
Nó nói như thể đã quen với cái ý nghĩ đó đến nỗi chẳng còn bận tâm gì nữa. Nó có vẻ thích giọng nói của Mary. Khi con bé tiếp tục nói, nó chăm chú lắng nghe với vẻ mặt mơ màng. Có lúc Mary tự nhủ có phải nó đang lơ mơ chìm vào giấc ngủ. Nhưng cuối cùng, thằng bé hỏi một câu khiến câu chuyện mở sang một hướng khác.
- Cậu bao nhiêu tuổi rồi?- thằng bé hỏi.
- Mười tuổi,- Mary trả lời, lúc đó nó đã dường như quên khuấy bản thân- bằng đúng tuổi của cậu.
- Làm thế nào cậu biết được điều đó?- thằng bé hỏi vặn bằng giọng ngạc nhiên.
- Bởi vì khi cậu ra đời, cánh cửa khu vườn bị khóa lại, còn chiếc chìa khóa thì người ta đem vùi kín. Khu vườn ấy đã bị khóa suốt mười năm qua.
Colin nhỏm nửa người lên, quay đầu về phía con bé và tựa mình trên hai khuỷu tay.
- Cánh cửa khu vườn nào bị khóa? Ai đã làm việc ấy? Chiếc chìa bị vùi ở đâu? – Thằng bé thốt lên, bỗng nhiên nó tỏ ra hết sức quan tâm.
- Đó...đó chính là khu vườn mà ông Craven căm ghét,- Mary nói vẻ sợ hãi,- Ông đã khóa chặt cửa. Không ai...không ai biết chỗ ông chôn chiếc chìa khóa.
- Cái thứ vườn nào thế không biết? – Colin nhắc lại, vẻ háo hức.
- Không một ai được phép vào trong đó suốt mười năm qua,- Mary thận trọng đáp lời.
Nhưng thận trọng thì cũng quá muộn rồi. Thằng bé tỏ ra thích thú chẳng kém gì Mary. Bao lâu nay chẳng có gì để mà quan tâm tới, cho nên cái ý nghĩ về một khu vườn được giấu kín thu hút nó, hệt như Mary lúc trước. Nó hỏi hết câu này sang câu khác. Khu vườn ở đâu? Mary chưa bao giờ tìm kiếm cánh cửa ấy à? Mary chưa hỏi những người làm vườn về chuyện đó sao?
- Họ chẳng chịu nói đâu,- Mary đáp,- Tớ nghĩ họ đã được dặn không được phép trả lời bất kỳ câu hòi nào.
- Tớ sẽ bắt đám đó phải nói,- Colin bảo.
- Cậu bắt được à? – Mary ngập ngừng, và bắt đầu cảm thấy sợ hãi. Nếu thằng bé có thể bắt được mọi người trả lời, ai mà biết rồi chuyện gì sẽ xảy ra.
- Ở đây mọi người buộc phải làm vui lòng tớ. Tớ đã bảo cậu rồi đó. Nếu tớ sống được thì một ngày nào đó cả chốn này sẽ thuộc về tớ. Họ thừa biết điều đó. Chắc chắn tớ sẽ bắt họ phải nói.
Mary không biết bản thân nó cũng một dạo hư đốn, nhưng nó có thể nhận thấy rõ ràng thằng bé bí ẩn này cũng đang như thế: nó nghĩ rằng cả thế giới này thuộc về mình; nó mới thật là kỳ dị và cứ nhắc tới chuyện thôi không sống nữa mới thản nhiên làm sao.
- Cậu nghĩ cậu không sống nổi à? – Con bé hỏi, phần vì tò mò, phần vì hy vọng làm Colin quên đi chuyện khu vườn.
- Tớ không cho rằng mình có thể sống được,- thằng bé trả lời, vẫn hững hờ y như trước,- Kể từ khi tớ nhớ được mọi chuyện, tớ đã thấy người ta nói rằng tớ sẽ không sống được. Thoạt đầu, họ nghĩ tớ còn quá nhỏ để có thể hiểu được, còn bây giờ thì họ nghĩ tới không nghe thấy gì cả. Nhưng tớ biết hết. Bác sĩ của tớ là em họ của cha tớ. Ông ta nghèo rớt mùng tơi nên nếu tớ chết đi thì ông ta sẽ có cả trang viên Misselthwaite này khi cha tớ qua đời. Tớ vẫn nghĩ ông ta không muốn tớ sống.
- Thế cậu có muốn sống không? – Mary căn vặn.
- Không,- nó đáp lời với vẻ mệt mỏi buồn chán,- Nhưng tớ cũng không muốn chết. Khi cảm thấy ốm yếu, tớ nằm bệt ở đây suy nghĩ về chuyện đó cho tới khi chỉ còn biết khóc và khóc.
- Tớ đã nghe thấy tiếng khóc ba lần, nhưng không biết là ai. Thì ra cậu khóc về chuyện đó hả? – Con bé hỏi, chỉ muốn Colin quên đi chuyện khu vườn.
- Hẳn rồi. Nhưng chúng ta hãy nói chuyện khác đi. Về khu vườn chẳng hạn. Cậu không muốn nhìn thấy nó à?
- Có chứ,- Mary trả lời bằng một giọng trầm hẳn xuống. - Tớ cũng vậy,- thằng bé tiếp tục một cách dai dẳng, - Trước đây tớ không nghĩ mình lại thích ngắm cái này cái nọ, nhưng bây giờ tớ muốn tận mắt thấy khu vườn ấy. Tớ muốn chiếc chìa phải được đào lên. Tớ muốn cánh cửa được mở ra. Tớ sẽ bắt đám gia nhân khiêng tớ trong chiếc ghế bành đó. Ngoài ấy, chắc không khí trong lành lắm. Và rồi tớ sẽ bắt họn họ phải mở cánh cửa ấy ra.
Nó trở nên thật kích động, đôi mắt kỳ lạ của nó lấp lánh như hai vì sao và trông lại càng mênh mông hơn bao giờ hết. - Bọn họ có bổn phận làm tớ hài lòng. Tớ sẽ bắt họ đưa tớ tới đó và tớ sẽ để cậu đi cùng.
Hai bàn tay Mary nắm chặt vào nhau. Mọi việc rồi sẽ hỏng hết cho mà xem, mọi việc. Dickon sẽ chẳng bao giờ quay lại nữa. Bản thân nó rồi cũng không bao giờ còn cái cảm giác của một con chim hét đang ẩn náu trong chiếc tổ an toàn nữa.
- Ôi, đừng...đừng...đừng làm vậy! – Con bé kêu lên. Thằng bé nhìn trừng trừng như thể nó nghĩ con bé đang phát điên!
- Sao thế? Cậu bảo cậu muốn nhìn thấy nó cơ mà?
- Đúng là tớ muốn vậy,- con bé trả lời, gần như đang thổn thức trong cổ họng,- nhưng cậu bắt họ mở cánh cửa ấy và khiêng cậu vào như vậy thì còn gì là một bí mật nữa. Thằng bé ngả hẳn người về phía trước.
- Một bí mật,- nó nói,- Ý cậu định nói gì? Bảo cho tớ biết đi. Lời nói của Mary trở nên lộn xộn.
- Cậu cũng rõ... cậu cũng rõ...- nó thở hổn hển,- nếu không một ai hay biết ngoài chúng ta...nếu có một cánh cửa, ẩn đâu đó dưới đám thường xuân... nếu có... và chúng ta có thể tự tìm thấy nó, và nếu chúng ta cùng lách qua cánh cửa đó rồi khép nó lại sau lưng mình, thì đố ai biết được có người ở bên trong, đến lúc ấy ta sẽ gọi nó là khu vườn của ta và giả vờ rằng... rằng chúng mình là những con chim hét, còn khu vườn là chiếc tổ của chúng mình, và rồi nếu ngày nào chúng mình cũng được chơi đùa ở đó, tha hồ mà đào xới, trồng cây, gieo hạt và chăm cho chúng được sống...
... - Chẳng lẽ nó chết à? – Thằng bé ngắt lời Mary. - Thì cũng chẳng mấy chốc, nếu không có người chăm sóc cho nó,- con bé nói tiếp,- các loại củ thì vẫn sống, trừ các nhánh hồng... Thằng bé ngắt lời và tỏ ra phấn khích chẳng kém gì Mary. - Các loại củ là cái gì?- Nó hỏi rất nhanh. - Chúng là thủy tiên hoa vàng, ly ly và hoa giọt tuyết. Lúc này, chúng đang cựa mình trong đất...nảy ra những mầm non xanh biếc vì mùa xuân đang tới. - Mùa xuân đang tới ư? Nó như thế nào? Tớ không thể thấy nó trong phòng khi đang ốm đau bệnh tật thế này.
- Ấy là lúc mặt trời chiếu sáng trong cơn mưa và mưa rơi trong ánh nắng, muôn vật trở mình cửa quậy dưới lòng đất,- Mary bảo,- Nếu khu vườn còn là một bí mật, thì chúng mình có thể lẻn vào trong ấy mà ngắm mọi thứ mỗi ngày một lớn dần, và xem có bao nhiêu khóm hồng còn sống. Cậu thấy không? Ôi, cậu không thấy sẽ tuyệt biết bao nếu nó còn là một bí mật hay sao?
Thằng bé buông người xuống chiếc gối, nằm thần mặt ra đó. - Tớ chưa bao giờ có một bí mật nào cả, ngoài cái điều là không được sống mà lớn lên. Họ không biết rằng tớ cũng hiểu được điều đó, vì vậy đó cũng có thể coi là một bí mật. Nhưng tớ thích cái kiểu bí mật này hơn.
- Nếu cậu không bắt họ đưa cậu tới khu vườn đó,- Mary khẩn khoản,- thì có thể...tớ cảm thấy gần như chắc chắn rằng có ngày tớ sẽ khám phá ra cách để vào trong đó. Và nếu ông bác sĩ muốn cậu ra ngoài trong chiếc ghế của cậu, và nếu cậu có thể làm những gì cậu muốn làm...thì có lẽ...có lẽ chúng mình sẽ kiếm lấy một cậu bé đẩy xe cho cậu, như vậy chúng mình có thể ra đi một mình với nhau, và khu vườn đó sẽ mãi mãi là một khu vườn bí mật.
- Tớ chắc chắn thích điều đó,- thằng bé nói thật chậm rãi, đôi mắt mơ màng,- Tớ chắc chắn thích điều đó. Tớ sẽ không cảm thấy phiền lòng với cái không khí trong lành trong một khu vườn bí mật đâu.
Mary bắt đầu thở phào, cảm thấy nhẹ cả người. Hình như ý tưởng giữ gìn bí mật đã làm cho thằng bé khoái chí. Nó cảm thấy gần như chắc chắn rằng nếu cứ tiếp tục câu chuyện và làm cho thằng bé mường tượng ra khu vườn như nó đã thấy tận mắt thì thằng bé sẽ thích thú tới mức không thể chịu đựng nổi nếu có kẻ lẹ đột nhập vào trong, một khi chúng đã chọn cho riêng mình.
- Bây giờ tớ sẽ kể cho cậu nghe tớ tưởng tượng nó sẽ như thế nào, nếu ta vào được trong đó nhé,- con bé nói. – Khu vườn đã bị khóa kín lâu đến vậy thì có lẽ mọi thứ mọc lộn xộn lắm...
Thằng bé nằm im thin thít lắng nghe, trong lúc Mary kể tiếp về các khóm hồng. Nó kể rằng biết đâu lúc này chúng chẳng bò từ cây này sang cây khác rồi rủ xuống, chim chóc biết đâu chẳng đang làm tổ ở trên ấy, bởi vì đó là nơi an toàn nhất. Đến đoạn nó kể cho thằng bé về con chim ức đỏ và lão Ben Weatherstaff, và có bao nhiêu chuyện đáng kể về con ức đỏ thì nó nói dễ dàng trôi chảy đến nỗi nó cũng cảm thấy sợ.
Con chim ức đỏ đã làm thằng Colin thích thú quá đỗi, cứ mỉm cười suốt và trông đẹp trai hẳn lên, dù thoạt đầu Mary thấy thằng bé còn xấu xí hơn cả mình, với đôi mắt to và những lọn tóc nặng trĩu rủ trên vầng trán.
- Tớ quả không hình dung nỗi chim chóc lại như vậy. Nhưng, nếu cậu cứ ở lì trong phòng thì cậu sẽ chẳng thấy gì hết. Giờ cậu đã biết được bao thứ trên đời. Tớ có cảm tưởng như cậu đã từng vào trong khu vườn.
Mary không biết nói gì, vì thế nó chỉ im lặng. Thằng bé Colin rõ ràng cũng chẳng đợi câu trả lời, ngay lập tức nó làm Mary ngạc nhiên.
- Tớ định cho cậu xem cái này. Cậu có thấy tấm màn lụa màu hồng treo trên tường, phía trên bệ lò sưởi kia không?
Nãy giờ Mary không để ý tới tấm màn, nó ngước mắt lên và nhìn thấy vật đó. Một tấm màn bằng lụa mềm phủ lên một cái gì tựa như bức tranh.
- Có,- Con bé đáp.
- Có sợi dây treo ở đó đó - Colin bảo,- Cậu tới kéo nó đi.
Mary đứng dậy, vô cùng tò mò. Nó tìm ra sợi dây. Khi nó kéo sợi dây, tấm màn lụa chuyển động, thu lại trên những chiếc khuyên tròn, để lộ ra một bức tranh. Đó là bức chân dung một phụ nữ có khuôn mặt tươi cười. Bà có mái tóc sáng màu được buộc bằng một dải ruy băng xanh. Đôi mắt vui vẻ đáng yêu của bà nom giống hệt đôi mắt bất hạnh của thằng Colin, cũng một màu xám mã não và trông còn to hơn thực với viền mi đen nhánh bao quanh.
- Bà là mẹ tớ,- Colin nói giọng ca thán,- Tớ không rõ tại sao bà chết. Đôi khi tớ thấy hận bà vì việc đó.
- Ôi, kỳ quặc làm sao! – Mary kêu khẽ.
- Nếu bà còn sống, tớ tin rằng tớ sẽ không phải đau ốm liên miên thế này,- nó cáu kỉnh,- Tớ dám nói rằng mình cũng sẽ sống nữa. Và cha tớ hẳn sẽ không ghét phải nhìn thấy tớ. Tớ dám chắc tớ cũng sẽ có một cái lưng, khỏe mạnh. Thôi, cậu kéo tấm màn lại đi.
Mary làm theo lời nó rồi quay về chiếc ghế đẩu. - Bà đẹp hơn cậu nhiều, riêng đôi mắt nom giống hệt mắt cậu, ít ra là về hình dạng và màu sắc. Tại sao phải dùng tấm màn để che bức tranh?
Thằng bé cử động không được thoải mái lắm.
- Tớ bảo bọn gia nhân làm thế,- thằng bé nói,- Đôi khi tớ không muốn bà nhìn tớ. Bà thì luôn mỉm cười trong khi tớ ốm đau khổ sở thế này. Ngoài ra, bà là của tớ và tớ không muốn bất kỳ kẻ nào được ngắm bà. Một thoáng im lặng, rồi Mary lên tiếng.
- Liệu bà Medlock sẽ làm gì nếu bà phát hiện ra tớ đã từng ở đây? – Con bé hỏi. - Bà ấy sẽ làm những gì tớ bảo bà ấy làm. Và tớ sẽ bảo bà ấy rằng tớ muốn cậu tới đây nói chuyện với tớ mỗi ngày. Tớ lấy làm mừng vì cậu đã tới.
- Tớ cũng vậy. Tớ sẽ thường xuyên tới khi nào có thể, nhưng...- con bé lưỡng lự,- hằng ngày tớ còn phải tìm kiếm cánh cửa khu vườn.
- Ừ, cậu phải thế mới được,- Colin bảo,- rồi cậu có thể kể cho tớ nghe về nó sau đó. Nó nằm suy nghĩ mấy phút như lúc trước, rồi lại lên tiếng. - Tớ cho rằng cả cậu cũng là một điều bí mật. Tớ sẽ không kể cho mọi người cho tới khi họ phát hiện ra. Tớ vẫn thường cho cô bảo mẫu ra khỏi phòng, bảo rằng tớ muốn ở một mình. Cậu có biết Martha không?
- Có chứ, tớ biết chị ấy rất rõ là đằng khác, - Mary bảo,- Chị ấy phục vụ tớ mà.
Colin hất hàm về phía ngoài hành lang.
- Chị ấy là người ngủ ở phòng bên cạnh. Cô bảo mẫu đi vắng từ hôm qua và ngủ lại qua đêm với em gái. Cô ấy thường bảo Martha trông nom tớ mỗi khi muốn đi đâu đó. Martha sẽ báo cho cậu khi nào nên đến đây.
Mary bỗng vỡ lẽ buồn rầu của Martha mỗi bận nó hỏi chị về tiếng khóc đó.
- Martha đã biết cậu suốt thời gian qua à? – Con bé hỏi.
- Phải, chị ấy thường xuyên chăm sóc tớ. Còn cô bảo mẫu thì chỉ muốn thoát khỏi tớ, mỗi lần như thế Martha lại tới.
- Tớ ở đây quá lâu rồi,- Mary bảo,- Bây giờ tớ đi được chứ? Mắt cậu díp cả lại kìa.
- Ước gì tớ ngủ được trước lúc cậu bỏ tớ mà đi,- nó nói với vẻ ngượng ngùng.
- Nhắm mắt lại nào,- Mary vừa nói, vừa kéo chiếc ghế đẩu lại gần,- tớ sẽ làm những gì mà Ayah của tớ vẫn làm ở Ấn Độ cho cậu xem. Để tớ vỗ nhẹ bàn tay cậu, vuốt ve thế này rồi hát khẽ cho cậu nghe nhé.
- Chắc tớ sẽ thích lắm đấy,- thằng bé nói trong cơn ngái ngủ.
Không rõ tại sao, Mary cảm thấy thương thằng Colin và không muốn nó phải trằn trọc, thế là con bé liền ngã người vào thành giường và bắt đầu xoa bàn tay nó, miệng khẽ hát một bài thánh ca bằng tiếng Hindu.
- Hay quá,- thằng bé nói trong cơn mơ màng.
Mary vẫn tiếp tục hát và xoa nhẹ tay cho nó. Khi Mary nhìn Colin lần nữa thì đã thấy những sợi lông mi đen của nó rợp xuống đôi má, nó đã nhắm nghiền mắt, chìm nhanh vào giấc ngủ. Con bé bèn nhẹ nhàng đứng dậy, cầm cây nến rồi rón rén đi ra không một tiếng động.
CHƯƠNG 14 - VỊ TIỂU VƯƠNG TRẺ TUỔI
Vào buổi sang, cánh đồng hoang vẫn còn chìm đắm trong sương mù và mưa vẫn không ngừng trút xuống. Thực khó lòng ra khỏi nhà lúc này. Martha thì bận rộn đến nỗi Mary chẳng có dịp mà trò chuyện với chị, nhưng chiều hôm ấy nó gọi chị đến ngồi với nó trong phòng trẻ. Chị tới, mang theo chiếc bít tất chị vẫn đan mỗi khi không có việc gì khác để làm.
- Cô có chuyện gì đấy? – Chị hỏi ngay lúc cả hai vừa ngồi xuống. – Có vẻ cô đang có chuyện muốn nói thì phải.
- Đúng vậy. Tôi đã khám phá ra tiếng khóc ấy là gì. – Mary bảo.
Martha buông đồ đan của chị xuống đầu gối, ngước nhìn con bé bằng đôi mắt hốt hoảng.
- Cô không được! – Chị thốt lên – Không bao giờ được! - Tôi đã nghe thấy nó trong đêm, - Mary tiếp tục. – Tôi bèn ngồi dậy và đi xem nó vọng từ đâu tới. Thì ra là Colin. Tôi đã tìm ra cậu ấy. Khuôn mặt Martha đỏ bừng pha lẫn sợ hãi. - Ôi! Cô Mary! – Chị nói nửa như khóc. – Cô không được phép làm điều ấy, cô không được! Cô sẽ gây cho tôi bao rắc rối. Tôi chưa bao giờ nói với cô về cậu ấy... nhưng cô sẽ đẩy tôi vào rắc rối đấy. Tôi sẽ bị mất việc và rồi mẹ sẽ ra sao! - Chị chẳng việc gì phải mất việc, - Mary bảo. – Cậu ấy còn mừng là đằng khác. Chúng tôi đã nói chuyện suốt, cậu ấy bảo cậu ấy rất mừng vì tôi đã đến.
- Cậu ấy mừng?- Martha kêu tướng lên. – Cô có chắc không đấy? Cô còn chưa biết cậu ấy sẽ như thế nào khi có điều gì làm cậu ấy bực mình. Lớn tướng rồi mà vẫn khóc lóc như con nít, thế nhưng vào những lúc kích động cậu ấy lại gào thét dễ sợ làm mọi người chết khiếp. Cậu ấy thừa biết mọi người không ai dám phàn nàn, ca than.
- Cậu ấy không bực mình đâu. – Mary bảo. – Khi tôi hỏi xem liệu tôi đã đi được chưa, cậu ấy còn bảo tôi ở lại. Cậu ấy đã hỏi tôi rất nhiều, và tôi ngồi vào chỗ chiếc ghế đẩu lớn, kể cho cậu ấy nghe về Ấn Độ, về chim ức đỏ và khu vườn. Cậu ấy vẫn không chịu để tôi ra về. Cậu ấy còn cho tôi xem bức vẽ chân dung mẹ mình nữa. Trước khi đi, tôi còn hát ru cho cậu ấy ngủ.
Martha há hốc miệng vì kinh ngạc.
- Tôi khó mà tin nổi cô! – Chị phản đối. – Chẳng khác nào cô bước thẳng vào hang hùm. Gặp phải lúc cậu ấy nổi cơn tam bành và làm âm ĩ cả nhà thì khốn. Cậu ấy không ưa người lạ nhìn mình đâu.
- Vậy mà cậu ấy đã để tôi nhìn thấy đấy. Suốt thời gian ấy, tôi nhìn cậu và cậu cũng nhìn tôi. Chúng tôi cứ chằm chằm nhìn nhau! – Mary bảo.
- Tôi không còn biết phải làm gì đây! – Martha kêu lên vẻ kích động. – Nếu bà Medlock phát hiện ra, bà ấy sẽ cho rằng tôi dám vi phạm luật lệ mà để cho cô biết, và tôi sẽ được gửi trả lại cho mẹ tôi ngay tức khắc.
- Cậu ấy không có ý định kể cho bà Medlock bất cứ điều gì. Trước hết đây là một bí mật. – Mary nói như đinh đóng cột. – Và cậu ấy bảo mọi người buộc phải làm những gì cậu ấy muốn.
- Hừ, thế là đủ, cái cậu này đến tệ!- Martha thở dài và lấy tạp dề lau vâng trán. - Cậu ấy bảo rằng bà Medlock phải nghe lời. Cậu ấy còn muốn tôi đến thăm hàng ngày và nói chuyện với cậu. Chính chị sẽ là người báo cho tôi khi cậu ấy muốn tôi đến.
- Tôi ư! – Martha kêu. – Để rồi tôi sẽ mất việc... chắc chắn vậy!
- Chị chẳng can hệ gì nếu chị làm những gì cậu ấy muốn chị làm và mọi người đều có bổn phận vâng lời cậu ấy, - Mary lý sự.
- Ý cô muốn nói, - Martha kêu to với đôi mắt tròn xoe, - rằng đối với cô, cậu ấy thật dễ thương!
- Tôi nghĩ cậu ấy hầu như rất thích tôi.
- Hẳn cô đã bỏ bùa mê cho cậu ấy rồi! – Martha cả quyết nói và hít một hơi dài.
- Chị muốn nói đến phép thuật hả? – Mary hỏi vặn – Tôi từng nghe về Phép thuật hồi ở Ấn Độ, nhưng tôi có biết làm đâu . Vừa mới bước vào phòng cậu ấy, tôi đã ngạc nhiên đến nỗi chỉ biết đừng ngây ra đó mà nhìn chòng chọc. Thế rồi cậu ấy quay lại nhìn tôi đăm đăm. Cậu ấy ngỡ tôi là một hồn ma hay một giấc mộng, còn tôi nghĩ có lẽ cậu ấy cũng thế. Và thật kỳ quặc là chúng tôi đã ngồi cùng nhau giữa đêm khuya mà chưa từng biết gì về nhau . Chúng tôi bắt đầu hỏi nhau những chuyện khác , cho tới khi tôi bảo cậu ấy rằng đã đến lúc tôi phải đi thì cậu ấy vẫn ngăn lại.
- Vậy là sắp tới ngày tận thế rồi! – Martha hổn hển.
- Có chuyện gì với cậu ấy thế? – Mary hỏi.
- Không ai rõ nữa, - Martha đáp. – Ông Craven trở nên không bình thường từ khi cậu ấy chào đời. Bác sĩ cho rằng ông ấy có vấn đề về tâm lý. Chỉ vì bà Craven đã chết như tôi đã kể cho cô. Ông ấy không thèm để mắt tới đứa bé nữa. Ông ấy nói năng mê sảng, bảo lại thêm một thằng gù nữa giống ông ra đời và tốt hơn hết là nó chết đi cho rảnh nợ.
- Thì ra Colin là người gù? – Mary hỏi. – Cậu ấy chẳng giống một người gù tẹo nào.
- Cậu ấy đâu đến nỗi thế, - Martha bảo. – Nhưng cậu ấy bắt đầu xuống sức rồi. Mẹ tôi bảo đã có quá nhiều buồn rầu và đau đớn trong ngôi nhà này, khiến bất kỳ đứa trẻ nào cũng phải xuống sức. Họ sợ lưng cậu bé yếu ớt nên luôn để tâm chăm sóc cậu, bắt cậu nằm, không cho đi lại. Có dạo họ còn bắt cậu mang một cái nẹp chống, nhưng cậu ấy khổ sở cáu kỉnh đến nỗi đâm ra đổ bệnh. Rồi một ông bác sĩ có tiếng đến thăm bệnh cho cậu, và bắt họ tháo cái nẹp ra. Ông ấy nói với các thầy thuốc khác khá thô bạo, dù vẫn theo kiểu lịch sự. Ông ấy bảo bây giờ có cơ man là thuốc chữa bệnh, cứ để ông ấy chữa theo cách của mình.
- Tôi cho rằng cậu ấy quá được nuông chiều. – Mary bảo.
- Cậu ấy là đứa trẻ bất hạnh nhất từ trước tới giờ! – Martha tiếp tục. – tôi không định nói rằng cậu ấy không ốm yếu. Đã vài lần cậu ấy bị ho và cảm lạnh suýt chết. Một bận, cậu ấy sốt vì thấp khớp, bận khác thì bị thương hàn. Chà! Bà Medlock sợ xanh cả mặt. Lúc cậu ấy đương bất tỉnh, bà ấy nói với cô bảo mẫu, cứ tưởng cậu ấy không biết gì: "Chắc chắn nó sẽ không qua khỏi lần này, mà như thế lại tốt hơn cho nó và mọi người". Nói xong bà nhìn cậu. Cậu ấy vẫn nằm đó, đôi mắt to liền mở ra, chằm chằm nhìn bà, tỉnh táo. Bà Medlock không biết chuyện gì đã xảy ra, chỉ thấy cậu giương mắt nhìn mình và bảo: "Bà cho tôi ít nước và đừng nói nữa".
- Người ta cho rằng cậu ấy sắp chết à? – Mary hỏi.
- Mẹ tôi vẫn bảo có lý nào một đứa trẻ lại không cần tới khí trời trong lành, và chẳng làm gì ngoài nằm dài lưng, đọc truyện tranh và uống thuốc. Cậu ấy ốm đau quặt quẹo và căm ghét bị mang ra khỏi cửa. Cậu cũng dễ bị nhiễm lạnh đến nỗi cậu bảo đó là nguyên do làm cho cậu ốm.
Mary ngồi nhìn ngọn lửa.
- Tôi vẫn tự hỏi, - con bé chậm rãi nói, - sao cậu ấy không ra ngoài vườn mà ngắm cây cối mọc lên có hơn không. Điều đó đã làm tôi khỏe ra đấy.
- Một trong những lần tồi tệ nhất của cậu ấy, - Martha nói, - là vào cái dịp họ đưa cậu ấy ra chỗ khóm hồng bên đài phun nước. Lúc ấy, cậu đang đọc trong một tờ báo về những người mắc một chứng bệnh mà cậu gọi là "sốt dị ứng do phấn hoa", và thế là cậu bắt đầu hắt hơi và bảo cậu đã bị đúng như thế.
Ngay lúc ấy, một người mới vào làm vườn đi ngang qua, anh ta không biết luật lệ nơi đây nên cứ nhìn cậu hết sức hiếu kỳ. Cậu liền nổi giận đùng đùng và bảo rằng anh ta nhìn cậu vì cậu sắp trở thành một thằng gù. Cậu kêu thét lên, sốt đùng đùng rồi ốm suốt đêm.
- Cậu ấy mà tức giận với tôi, tôi sẽ chẳng đến thăm nữa đâu. – Mary nói.
- Cô sẽ phải đến nếu cậu ấy muốn, - Martha bảo. – Có thể cô chỉ gặp may buổi đầu thôi.
Ngay sau đấy có tiếng chuông rung, chị cuốn đám đồ đan dở lại. - Tôi đoán chắc cô bảo mẫu muốn tôi ở bên cậu ấy một lát đây. Hy vọng cậu ấy đang dễ tính. Chị ra khỏi phòng khoảng mươi phút rồi quay lại với vẻ bối rối.
- Chà, cô đã bỏ bùa cậu ấy hả, - chị nói. – Cậu đang ngồi trên ghế sofa với cuốn truyện tranh. Cậu bảo cô bảo mẫu có thể đi đâu đó cho tới sáu giờ. Tôi đợi ở phòng bên cạnh. Vào lúc cô ấy đi khỏi, cậu ấy gọi tôi tới và bảo: " Tôi muốn Mary Lennox tới đây và nói chuyện với tôi, và nhớ là không được kể lại với bất kỳ ai đâu đấy". Tốt nhất là cô nên đi ngay đi.
Mary cũng muốn đi ngay. Tuy không háo hức gặp Colin như gặp Dickon, nhưng nó cũng thích gặp lại Colin lắm.
Ngọn lửa cháy rừng rực trong lò sưởi khi nó tiến vào phòng thằng bé, và trong ánh sang ban ngày con bé nhận căn phòng quả thực là đẹp. Màu sắc rực rỡ trên các tấm thảm trải sàn, thảm treo tường, các bức tranh và sách trên tường khiến căn phòng trông thật vui tươi và dễ chịu, ngay cả giữa lúc bầu trời xám xịt và mưa rơi sùi sụt.Colin trông cũng khá giống một bức chân dung. Nó được ủ kín trong chiếc áo khoát ngoài bằng nhung, ngồi tựa lưng vào một chiếc nệm bọc gấm thêu to tướng. Hai má nó đỏ lựng.
- Mời cậu vào. Tớ đã nghĩ về cậu suốt buổi sáng.
- Tớ cũng nghĩ về cậu, - Mary trả lời. – Cậu không thể hình dung nổi chị Martha đã sợ hãi đến mức nào đâu. Chị ấy bảo bà Medlock sẽ biết chị ấy kể với tớ vẻ cậu, rồi chị ấy sẽ bị đuổi việc.
Thằng bé cau mày. - Cậu hãy đi ra bảo chị ấy vào đây. Chị ấy đang ở phòng bên.
Mary ra ngoài rồi đưa Martha vào. Chị Martha đáng thương đang run lấy bẩy cả người. Colin vẫn cau mày.
- Chị có muốn làm những việc để tôi hài lòng không? – Nó nói như ra lệnh.
- Tôi phải làm những thứ khiến cậu hài lòng, thưa cậu.- Martha ngập ngừng, mặt đỏ lên. - Thế bà Medlock có phải làm những gì để tôi hài lòng không?
- Mọi người đều phải thế, thưa cậu. – Martha nói.
- Hừ, vậy thì, nếu tôi ra lệnh cho chị đưa Mary tới cho tôi, thì làm sao bà Medlock dám đuổi chị nếu bà ta phát hiện ra việc này ?
- Làm ơn đừng để bà ấy biết, thưa cậu. – Martha khẩn khoản.
- Tôi sẽ đuổi bà ấy ngay tức khắc nếu bà ấy dám nói một lời về những chuyện này, - cậu chủ Craven đĩnh đạc tuyên bố. – Bà ấy chẳng muốn điều đó đâu, tôi có thể khẳng định với chị như vậy.
- Xin cảm ơn cậu, - chị khẽ nhún gối. – Tôi muốn được làm tròn phận sự của mình, thưa cậu.
- Những gì tôi muốn là phận sự của chị. – Colin nói, mỗi lúc một rành mạch đâu ra đấy. – Từ nay tôi sẽ để tâm đến chị. Bây giờ thì đi đi.
Khi cửa đã khép lại sau lưng Martha, Colin nhận thấy Mary đang nhìn nó chằm chằm như thể nó đã khiến con bé ngạc nhiên lắm.
- Tại sao cậu lại nhìn tớ như vậy? Cậu đang nghĩ gì?
- Tớ đang nghĩ về hai điều.
- Điều gì nào? Ngồi xuống kể tớ nghe đi.
- Điều thứ nhất là, - Mary vừa nói vừa ngồi xuống chiếc ghế đẩu to.
– Có lần ở Ấn Độ tớ đã gặp một thằng bé vốn là một tiểu vương. Khắp người nó đính đầy ngọc rubi, ngọc lục bảo và kim cương. Nó nói với thần dân của nó y như cậu nói với Martha vậy. Ai ai cũng phải làm mọi việc mà nó bảo, ngay tức khắc. Tớ nghĩ họ sẽ bị giết nếu họ dám trái lời.
- Tớ sẽ bắt cậu phải kể cho tớ nghe về các vị tiểu vương ngay, nhưng trước hết hãy nói cho tớ điều thứ hai là gì.
- Tớ đang nghĩ, cậu và Dickon mới khác nhau làm sao.
- Dickon là ai? Cái tên nghe kỳ thế!
Nó có thể kể cho thằng bé nghe về Dickon lắm chứ, con bé nghĩ. Nó có thể kể về Dickon mà không hề nhắc tới khu vườn bí mật. Chính nó cũng thích nghe Martha kể về Dickon. Hơn thế, nó thích nói về thằng bé. Điều ấy dường như mang Dickon lại gần nó hơn.
- Cậu ấy là em trai chị Martha. Cậu ấy mười hai tuổi, - nó giải thích, - cậu ấy chẳng giống bất kỳ ai trên thế giới này. Cậu ấy có thể mê hoặc các loài cáo, sóc và chim choc chẳng khác gì những người Ấn Độ mê hoặc lũ rắn của họ. Khi cậu ấy cất tiếng sáo nhẹ nhàng thì chúng kéo tới lắng nghe.
Có mấy quyển sách to tướng trên bàn cạnh chỗ nó, thằng Colin đột ngột kéo một quyển lại phía mình.
- Trong sách này cũng có bức tranh một người dụ rắn. Đến mà xem. Cuốn sách này quả là đẹp tuyệt vời, với những hình minh họa đủ các sắc màu. Thằng bé trở lại câu chuyện của mình.
- Cậu ấy có thể làm được thế kia à? – Nó hỏi một cách háo hức.
- Lúc ấy cậu thổi sáo, chúng đều lắng nghe, - Mary giải thích. Nhưng Dickon không gọi đó là ma thuật. Cậu ấy bảo, sở dĩ được như vậy là vì cậu đã sống trên đồng hoang quá lâu nên hiểu rõ tính nết của chúng. Cậu còn bảo có lúc cậu cảm thấy chính mình như một con chim hoặc con thỏ, bởi đã yêu chúng đến vậy. Tôi nghĩ cậu ấy đã hỏi con chim ức đỏ vài điều. Dường như họ đã dùng những tiếng líu ríu thật nhẹ ngàng để nói chuyện cùng nhau.
Colin ngả lưng trên tấm nệm, đôi mắt nó mỗi lúc một mở rộng và hai má nó ửng hồng.
- Cậu ấy biết tất thẩy mọi điều về trứng chim và tổ chim, - Mary tiếp tục. – Cậu ấy còn rõ bọ cáo, lửng và rái cá sống ở đâu. Cậu ấy giữ bí mật về bọn chúng ghê đến nỗi bọn con trai khác không tài nào tìm ra tổ chúng để làm cho chúng sợ hãi. Cậu ấy còn biết về mọi thứ đang mọc hoặc sống trên cánh đồng hoang.
- Cậu ấy thích đồng hoang đến thế sao? Làm sao cậu ấy thích được khi đó chỉ là một nơi rộng lớn, trơ trụi và thê lương như vậy?
- Đó là nơi tươi đẹp nhất chứ, - Mary phản đối. – Hàng ngàn sinh vật đáng yêu đang mọc trên đó, cùng hàng ngàn con vật bé nhỏ suốt ngày đêm bận rộn xây tổ, đào hang, ríu rít ca hát và la lối cùng nhau. Lúc nào chúng cũng bận rộn đùa vui dưới mặt đất, trên cây hoặc trong bụi rậm. Đó là thế giới của chúng.
- Làm cách nào mà cậu biết được tất cả những chuyện ấy? – Colin hỏi, xoay mình trên khuỷu tay để nhìn con bé.
- Thực ra tớ chưa một lần tới đó, - Mary nói, rồi như chợt nhớ ra điều gì. – Tớ chỉ mới đi xe ngựa qua đó trong màn đêm. Lúc đó, tớ nghĩ nó thật gớm ghiếc. Martha đã kể với tớ về nơi ấy trước, rồi mới đến Dickon. Khi nghe Dickon kể về cánh đồng hoang, ta có cảm tưởng được tận mắt nhìn thấy, nghe thấy mọi thứ, ngỡ như mình đang đứng giữa bụi thạch thảo dưới ánh nắng, trong khi cây kim tước dậy mùi hương mật ong, còn khắp quanh ta, ong bướm rập rờn bay lượn.
- Người ta chẳng thể thấy gì khi đau yếu, - Colin nói vẻ bồn chồn.
Trông nó như thể một người đang lắng nghe một âm thanh xa lạ vọng lại từ xa, lòng phân vân tự hỏi không biết đó là cái gì.
- Cậu không thể nếu cậu cứ ngồi lì trong một căn phòng, - Mary nói.
- Tớ không đủ sức đi trên đồng hoang, - thằng bé nói với giọng uất ức.
Mary im lặng giây lát rồi nó nói bằng vẻ cả quyết.
- Đôi lúc cậu sẽ có thể.
Thằng bé cử động như thể bị giật mình.
- Đi trên cánh đồng hoang! Làm sao được? Tớ sắp chết rồi.
- Sao cậu biết? – Mary đáp lại, vẻ không đồng tình. Nó không ưa cái lối thằng bé nói về cái chết. nó thấy không đồng cảm cho lắm. Nó cảm tưởng thằng kia cứ thổi phồng mọi thứ thì đúng hơn.
- Ôi, tớ đã nghe điều đó từ khi tớ biết nhớ, - Colin trả lời, vẻ cáu kỉnh. – Họ lúc nào cũng thì thì thầm thầm và nghĩ rằng tớ không để ý. Họ cũng mong tớ chết cho rảnh nợ.
Cô chủ Mary liền nổi cơn tam bành. Nó bặm môi, rồi bảo thằng Colin. - Còn nếu họ mong tớ chết ấy à, thì đừng hòng. Vậy ai là người muốn cậu chết?
- Đám gia nhân ấy và, dĩ nhiên, cả bác sĩ Craven nữa, bởi ông ta có thể đoạt lấy Misselthwaire và trở nên giàu có chứ không nghèo xơ xác như bây giờ. Ông ta không dám nói ra, nhưng luôn có vẻ hả hê khi thấy tớ trong tình trạng tồi tệ. Dạo tớ bị ốm gần chết vì thương hàn, mặt ông ta tròn căng hẳn ra. Tớ cho rằng cha tớ cũng mong điều đó nữa.
- Tớ không tin ông ấy lại như thế nữa. – Mary đáp lại khăng khăng. Thế là Colin quay ra nhìn nó lần nữa.
- Cậu không tin ư? – thằng bé nói. Nói đoạn, nó nằm ngả người trên tấm nệm và im lặng, như đang bận suy nghĩ. Yên lặng hồi lâu. Cả hai đứa cùng suy nghĩ về những sự việc kỳ quặc mà lẽ ra bọn trẻ con chẳng mấy khi bận tâm.
CHƯƠNG 15 - XÂY TỔ ẤM
Sau một tuần mưa, bầu trời cao xanh vời vợi lại hiện ra cùng với vầng dương nóng bỏng. Dù không có cơ hội để để ngắm nhìn khu vườn bí mật hay gặp mặt Dickon, vậy mà cô chủ Mary vẫn cảm thấy vô cùng vui sướng. Tuần lễ dường như không kéo dài. Con bé được ở bên Colin vài giờ mỗi ngày trong căn phòng của thằng bé để kể về các vị tiểu vương, các khu vườn hoặc về Dickon và túp nhà gianh trên cánh đồng hoang.
Hai đứa chụm đầu xem những cuốn sách tuyệt đẹp với vô số tranh vẽ bên trong, thỉnh thoảng Mary đọc vài truyện cho Colin và có lúc Colin cũng đọc cho nó nghe chút ít. Vào những lúc thằng bé vui cười và thích thú, Mary không thấy nó có vẻ gì của một người tàn tật, trừ khuôn mặt trằng nhợt nhạt và rằng nó luôn phải ngồi trên chiếc sofa.
- Cô thật láu cá khi cứ gỏng tai lên nghe ngóng rồi xuống giường lần ra mọi chuyện vào cái đêm hôm đó. – Một bữa, bà Medlock vừa tủm tỉm vừa bảo. – Nhưng phải công nhận như thế lại may cho chúng tôi. Từ ngày có cô cùng chơi, cậu ấy không còn cáu bẳn hay khóc than sầu thảm nữa. Cô bảo mẫu đã định bỏ việc vì quá mệt mỏi với cậu ấy đấy. Nhưng giờ cô ấy bảo ở lại cũng không sao vì đã có cô chia sẻ nhiệm vụ.
Trong các buổi trò chuyện với Colin, Mary cố thật thận trọng khi nói về khu vườn bí mật. Còn một số điều nó muốn biết về thằng bé, nhưng nó cảm thấy mình có thể tìm hiểu mà không cần phải hỏi thẳng Colin. Ngay từ buổi đầu, khi bắt đầu thích ở chỗ Colin, nó muốn biết liệu thằng bé có phải loại con trai mà người ta có thể gửi gắm một bí mật.
Thằng bé không có gì giống như Dickon, nhưng rõ ràng nó vô cùng thích thú trước ý tưởng về một khu vườn chưa một ai hay biết, đến độ con bé nghĩ có lẽ sẽ tin tưởng được đó. Nhng vì biết nó chưa lâu, nên Mary cũng không chắc lắm. Và còn điều nữa, đó là nếu thằng bé là người có thể tin cậy, nếu nó thực sự đáng tin, thì liệu có thể đưa nó đến khu vườn mà không sợ bị ai phát hiện?
Ông bác sĩ tốt bụng đã dặn rằng Colin cần được sống trong bầu không khí trong lành, còn thằng bé cũng bảo nó chẳng quản ngại không khí tươi mát trong khu vườn bí mật. Biết đâu khi được hít thở đến thỏa thích khí trời nhẹ nhõm, được làm quen với Dickon và chim ức đỏ, được tận mắt thấy muôn vật sinh sôi nảy nở, thì nó chẳng còn nghĩ nhiều đến cái chết nữa.
Thời gian gần đây, Mary thường ngắm nhìn mình trong gương, nó nhận ra một hình hài khác hẳn đứa trẻ nó từng thấy hôm mới từ Ấn Độ sang. Đứa bé này xinh hơn nhiều. Cả Martha cũng nhận ra những thay đổi đáng kể ở con bé.
- Khí trời ngoài cánh đồng hoang đã khiến cô khỏe hẳn lên. Cô không còn la hét, không còn gấy nhẳng như trước. Thậm chí tóc cô cũng không còn lơ thơ trên trán mà đã dày dặn hơn. Khi tóc mọc dài hơn một chút, cô sẽ có một mái tóc óng ả.
- Tóc tôi cũng giống tôi vậy, - Mary bảo. – Đang khỏe ra và dày dặn hơn. Chắc chắn tóc tôi còn dài ra nữa chứ.
- Cứ nhìn là biết, - Martha vừa nói vừa khẽ rũ những lọn tóc quanh mặt con bé. – Cô sẽ không còn xấu xí khi tóc mọc dài ra, với thêm một chút hồng hào trên đôi má.
Nếu khu vườn và không khí trong lành có lợi cho nó, thì có lẽ cũng sẽ như vậy với Colin. Nhưng có điều, Colin ghét mọi người nhìn mình, có thể cậu chàng chẳng thích thú gì khi gặp Dickon.
- Tại sao cậu lại tức giận khi có ai nhìn mình hả? – Một hôm, con bé vặn hỏi.
- Tớ luôn căm thù chuyện đó, - thằng bé đáp, - ngay cả khi tớ còn bé tí. Dạo họ đưa tớ tới bãi biển, tớ chỉ nằm lì trong xe ngựa của tớ, ai ai cũng nhìn tớ chằm chằm, cả các quý bà cũng chẳng chịu tha, họ bắt chuyện với người vú em rồi quay sang thì thào to nhỏ, và lúc ấy tớ thừa biết họ đang bảo tớ sẽ chẳng sống nổi chứ đừng nói là lớn lên. Thỉnh thoảng có bà còn vỗ vỗ vào hai má tớ mà nói: "Đứa trẻ thật đáng thương!" Có lần, một bà vừa làm thế là tớ khóc ré lên và cắn vào bàn tay bà ta. Bà ta kinh hoàng chạy biến.
- Chắc bà ta cho rằng cậu điên như một con chó, - Mary bảo, tỏ vẻ không thần phục.
- Tớ không cần biết bà ta nghĩ gì, - Colin nhíu mày nói.
- Tớ đang tự hỏi tại sao cậu không kêu lên và cắn tớ hôm tớ bước vào phòng cậu? – Mary nói. Rồi nó khẽ nhỏen miệng cười.
- Lúc đó tớ tưởng cậu là một con ma hay giấc mộng. Người ta không thể đi cắn một con ma hay giấc mộng được, và nếu có kêu gào lên thì cũng chẳng ai thèm quan tâm.
- Liệu cậu có thấy căm ghét không nếu... nếu có một anh bạn nhìn cậu? – Mary ngập ngừng hỏi.
Thằng bé lại ngả người trên tấm nệm và ngẫm nghĩ.
- Một anh bạn, - nó nói hết sức chậm rãi, như đang cân nhắc từng từ, - có một anh bạn mà tớ cho rằng không cần phải băn khoăn. Đó chính là cái cậu bé biết cả chỗ bọn cáo đang sống. Dickon chứ gì?
- Tớ cả quyết rằng cậu không phải lo về anh ấy, - Mary bảo.
- Ngay đến chim chóc và súc vật cũng không phải lo về cậu ấy cơ mà, - Colin nói, vẫn vẻ ngẫm nghĩ, - đó có lẽ là lý do tại sao tớ không lo. Cậu ấy là một tay thu phục được cả thú hoang, và tớ chính là một gã thú hoang chính cống.
Nói đoạn, nó phá lên cười, và con bé cũng cười theo; quả thực, câu chuyện đã kết thúc với cảnh hai đứa cùng cười ngặt nghẽo và thấy rằng cái ý tưởng một gã thú hoang đang náu mình trong cái hang của gã nghe thật ngộ quá.
Rốt cục, Mary cảm thấy nó không cần phải lo lắng gì về Colin nữa. Vào cái buổi sáng đầu tiên khi bầu trời trong xanh trở lại, Mary thức dậy từ rất sớm. Mặt trời đang tỏa những tia nắng xiên xiên qua mấy tấm rèm cửa, và có một cái gì vui tươi trong cảnh tượng ấy đến nỗi con bé nhảy phắt khỏi giường, chạy tới bên cửa sổ. Nó tự tay kéo rèm và mở cửa sổ, một làn khí thơm mát, trong lành thoang thoảng lướt qua.
Cánh đồng hoang đượm một màu xanh ngắt. Tưởng chừng như vừa có một phép màu nào đó vừa xảy đến với thế giới đó vậy. Đây đó mọi nơi vang lên những âm thanh nhè nhẹ xao xuyến, của các loài chim đang bắt đầu dọn giọng cho một buổi hòa nhạc. Mary chìa bàn tay ra ngoài cửa sổ, hong nó trong ánh nắng.
- Ấm quá! Ấm quá! Ấm áp thế này thì các mầm non sẽ chóng nhú, chồi và rễ sẽ chóng mọc lên với tất cả sức mạnh của chúng từ trong lòng đất.
Con bé quỳ xuống và ngả hẳn người ra ngoài cửa sổ, hít một hơi sâu rồi khịt khịt mũi cho tới khi nó cười phá lên khi chợt nhớ tới những gì mà bà mẹ Dickon đã nói về chóp mũi rung rung như mũi thỏ của cậu ấy.
- Còn sớm quá, - con bé thầm nhủ. – Mấy đám mây nhỏ kia toàn một màu hồng, mình chưa từng nhìn thấy bầu trời như vậy bao giờ. Chưa một ai thức giấc. Mình thậm chí còn chưa nghe thấy tiếng của những người làm trong chuồng ngựa nữa.
Một ý nghĩ bất chợt khiến con bé giật mình.
- Mình không thể đợi được! Mình phải ra ngó lại khu vườn bí mật xem sao!
Lúc này, Mary đã có thể tự mặc quần áo được rồi, nó chỉnh tề váy áo trong vòng có năm phút. Nó biết một cửa ngách nhỏ mà nó có thể tự mở lấy, nó chạy như bay xuống tầng dưới, trên đôi chân mới chỉ vội xỏ tất, ra đến gần đại sảnh nó mới xỏ xong giày.
Con bé tháo xích cửa, gạt then cài, tra chìa khóa xong thì cánh cửa mới chịu mở ra. Nó lao xuống bậc thềm chỉ với một cú nhảy, và thế là nó đã đặt chân lên bãi cỏ xanh mơn mởn, nơi ánh nắng chan hòa tỏa xuống thân mình nó, mùi hương thoang thoảng ngọt ngào ấm áp vây quanh nó, cùng tiếng vi vu réo rắt và tiếng hót lanh lảnh từ khắp các bụi râm, lùm cây đang vọng đến bên tai.
Con bé xiết chặt hai bàn tay trước niềm vui thuần khiết rồi ngước nhìn bầu trời, bầu trời ấy vừa xanh ngăn ngắt vừa phơn phớt hồng, pha chút ánh ngọc trai lẫn trong màu trắng nõn nà và rồi tràn ngập ánh sáng của tiết xuân, đến nỗi con bé cảm thấy nó muốn tự mình huýt sáo và hát vang lên, biết rằng các con chim hét, chim ức đỏ và cả chim chiền chiện cũng khó lòng mà nén nổi điều đó. Con bé chạy lần theo các bụi cây và đường mòn dẫn tới khu vườn bí mật.
- Tất cả đều khác rồi, - con bé nói. – Thảm cỏ xanh tươi hơn, các chồi biếc đang nhú lên khắp mặt đất, các búp lá đều mở ra và các mầm xanh đang lấp ló. Mình đoán chắc chiều nay Dickon sẽ đến.
Cơn mưa ấm áp kéo dài đã làm nên điều kì diệu cho những luống cỏ viền quanh lối đi dạo cạnh bức tường thấp.
Có gì đó đang bắt đầu đâm chồi và nhú lên từ bộ rễ của các lùm cây, và đây đó thậm chí đã thấy lóe lên sắc tím vương giả cùng sắc vàng đang trào ra từ những than cây nghệ tây. Sáu tháng trước, cô chủ Mary không tài nào hình dung nổi thế giới sẽ bừng tỉnh thế nào, nhưng giờ đây nó không bỏ lỡ một điều gì hết. Lúc con bé đặt chân đến chỗ cánh cửa ẩn dưới đám dây thường xuân, nó giật nảy mình bởi một âm thanh lớn kì quặc. Thì ra là tiếng kêu quàng quạc của một chú quạ, từ đỉnh bờ tường.
Ngước mắt nhìn lên, nó nhận ra một con chim có bộ lông xanh đen bong loáng – là một con quạ đang ngó nhìn con bé với vẻ khôn ngoan tinh quái. Từ trước tới giờ, Mary chưa từng nhìn thấy một con quạ gần đến thế, khiến nó thấy hơi lo. Nhưng ngay sau đó, con quạ kia trải rộng đôi cánh bay ngang qua khu vườn. Mary hi vọng nó không định ở lại trong đó , liền đẩy cánh cửa ra xem con quạ có còn đó không.
Khi đã vào hẳn trong vườn, con bé nhận ra con chim đã sà xuống đậu trên một cây táo còi, dưới tán cây táo là một con vật bé xíu có bộ lông hung đỏ và chiếc đuôi bông xù – cả hai con vật đều đang ngắm nhìn tấm lưng trần cúi rạp và cái đầu tóc hung hung của thằng Dickon lúc này đang quỳ trên thảm cỏ làm việc cật lực. Mary phóng như bay qua thảm cỏ tới bên thằng bé.
- Ôi, Dickon! Dickon! – Con bé kêu toáng lên. – Sao anh có thể đến đây sớm thế? Hả anh? Mặt trời mới chỉ vừa mọc kia mà!
Thằng bé đứng dậy, nó cười to sôi nổi, rồi đưa tay vò vò cho mái tóc rối bù lên; đôi mắt nó chẳng khác nào một mảng trời xanh.
- Ồ! Tôi thức dậy trước đó từ lâu rồi. Làm sao có thể lần chần trên giường cơ chứ! Mọi thứ của thế giới đều bắt đầu trở lại vào sang hôm nay. Tất cả đang vận động, rì rầm, bới tìm, líu lo, làm tổ, và cùng nhau hít thở làn hương thơm ngát, đến nỗi người ta phải ra ngoài mà sống chứ chẳng ai chịu nằm dài lưng ở nhà. Khi mặt trời thức dậy, lúc ấy tôi đang nằm giữa bụi thạch thảo, bản than cũng tưởng mình sướng đến phát điên lên, tối cứ hét tướng lên rồi lại hát. Rồi tôi tới thẳng đây. Tôi không thể không tới. Tại sao ư: bởi khu vườn nằm đây và đợi tôi!
Mary đưa hai bàn tay lên ngực, hổn hển, như người vừa mới chạy.
- Ôi, Dickon! Dickon! – Nó thốt lên. – Tôi thấy hạnh phúc đến nỗi khó mà thở nổi!
Thấy Dickon chuyện trò với kẻ lạ mặt, con vật tí hon có cái đuôi xù ngóc đầu khỏi chỗ của nó dưới gốc cây và sán lại gần thằng bé, còn con quạ lại cất tiếng kêu quàng quạc lần nữa, tung cánh từ trên cành cây nơi nó đậu đỗ xuống thật êm ru xuống bên vai Dickon.
- Đây là cáo con, - thằng bé nói, xoa xoa lên cái đầu màu đỏ xinh xinh của con vật. – Tên nó là Đại úy. Còn đây là Bồ hóng. Con Bồ hóng ấy à, nó đã bay qua đồng hoang theo tôi, còn Đại úy, nó chạy thục mạng như thể có bầy chó săn đang truy đuổi đằng sau. Cả hai đứa đều có cùng cảm giác với tôi.
Hai con vật đều nhìn Mary không chút sợ hãi. Khi Dickon bước đi, con Bồ hóng vẫn đậu trên vai thằng bé, còn Đại úy thì quấn quýt liền bên nó.
- Trông này! – Dickon kêu lên. – Xem chúng đang nhú lên này, và đây, đây nữa! Ôi! Nhìn kia nữa kìa!
Nó quỳ thụp xuống, Mary chạy lại bên nó. Chúng thấy cả một khóm nghệ tây đang đua nhau khoe những sắc vàng, da cam và tím từ bao giờ. Mary cúi sát mặt xuống và hôn, hôn mãi lên chúng.
- Người ta chẳng bao giời hôn ai như thế này, - con bé nói khi ngẩng đầu lên. – Nhưng với những bông hoa thì là chuyện khác.
Thằng Dickon có vẻ bối rối, nhưng chỉ mỉm cười.
- Ồ! Tôi đã hôn mẹ nhiều lần như vậy khi từ đồng hoang trở về sau một ngày lang thang, và bà đứng đó, bên cánh cửa, trong ánh nắng, thật vui sướng và dễ chịu.
Hai đứa chạy từ góc vườn này sang góc vườn kia và khám phá ra bao điều kì diệu, đến nỗi chúng buộc phải tự nhắc nhau nói khé. Thằng bé chỉ cho Mary xem búp lá quăn tít trên một nhánh hồng mà bề ngoài tưởng chừng đã chết. Nó cũng chỉ cho con bé hàng ngàn chồi xanh non đang nhú lên từ lớp đất mùn. Chúng ghé sát những cái mũi trẻ thơ đầy háo hức của mình xuống mặt đất, rồi hít lấy hít để hơi thở mùa xuân ấm áp của đất, chúng xới đất, nhổ cỏ và cười khẽ trong nỗi sung sướng vô ngần cho tới khi mái tóc cô chủ Mary rối bù như tóc của Dickon và hai má nó đỏ ửng không khác gì thằng bé.
Biết bao niềm vui trần thế đã đến với khu vườn bí mật buổi sáng hôm ấy, trong đó có một niềm vui còn lớn hơn hết thảy, kì diệu hơn hết thẩy. Một cái gì nhanh như ánh chớp bay vụt qua bức tường, rồi phóng qua cả các lùm cây tới một góc vườn sát ngay đó – con chim ức đỏ tựa như ngọn lửa rực rỡ, mỏ ngậm một vật gì, từ đâu xuất hiện. Dickon đứng lặng người, vịn tay vào Mary, như thể hai đứa chợt nhận ra mình vừa phá lên cười trong một nhà thờ.
- Đừng làm náo động, - thằng bé thì thầm bằng thứ giọng Yorkshire thật nặng. – Chúng mình phải tránh cả thở mạnh nữa. Trông thấy nó lần vừa rồi là tôi biết nó đang mùa kết đôi. Đây là con chim ức đỏ của ông Ben Weatherstaff. Nó đang xây tổ của nó đấy. Nó sẽ ở đây, nếu chúng mình không làm nó sợ.
Hai đứa nhẹ nhàng nằm xoài xuống bãi cỏ, không dám cử động.
- Chúng mình đừng nhìn nó gần quá, - Dickon bảo. – Cậu chàng sẽ bay khỏi đây, nếu lúc này mà bị quấy rầy. Chỉ là hơi khó tính một chút thôi cho tới khi tất cả chuyện này qua đi. Nó đang đảm đương gánh nặng gia đình đấy. Nó dễ e dè và không thoải mái. Nó không có thì giờ để chơi bời thăm hỏi hay nói chuyện tầm phào đâu. Chúng mình cần giữ im lặng thêm chút nữa, và cố vờ như mình là cây cỏ hay bụi rậm. Cho tới khi nó quen với chúng mình, tôi sẽ hót một hồi, và rồi nó sẽ hiểu chúng mình chẳng hề cản đường nó.
Cô chủ Mary không chắc có làm nổi như Dickon không: giả vờ bắt chước cỏ cây, bụi rậm cho bằng được. Nhưng thằng bé nói về những điều lạ lung đó như những chuyện đơn giản và tự nhiên nhất đời vậy. Quả thực con bé cảm thấy việc đó hoàn toàn dễ dàng đối với Dickon.
Nó thận trọng quan sát thằng bé mấy phút liền, tự nhủ biết đâu Dickon lại chẳng lặng lẽ mà biến thành cành lá cũng nên. Nhưng thằng bé chỉ ngồi im phăng phắc, và bất chợt buông thấp giọng đến mức cũng lạ là Mary còn nghe được nó, dù rằng con bé đã nghe được.
- Vào cữ này của tiết xuân, chim thường xây tổ ấm, - thằng bé nói. – Tôi dám đánh cược rằng kể từ khi có thế giới thì năm nào chuyện đó cũng đến. Vạn vật có cách nghĩ và cách làm riêng của chúng, và con người tốt hơn hết là đừng có can thiệp vào. Dễ mất một người bạn vào tiết xuân hơn bất kì mùa nào khác, nếu người ta quá tò mò tọc mạch.
- Nếu cứ bàn mãi về nó như vậy, ta sẽ chẳng thể nào ngưng nhìn nó được. – Mary nói khẽ kháng. – Ta nên nói chuyện khác đi. Có điều này tôi muốn nói với anh đây.
- Nó sẽ thích hơn nếu ta nói chuyện gì khác. – Dickon tiếp lời. – Cô định bảo gì tôi?
- Phải rồi. Anh có biết gì về Colin không? – Mary thì thào hỏi.
Dickon ngoái đầu nhìn con bé.
- Thế cô biết những gì về cậu ấy?
- Tôi đã từng gặp cậu ấy. Suốt tuần vừa rồi, ngày nào tôi cũng được nói chuyện với cậu ấy. Cậu ấy rất muốn tôi tới. Cậu ấy bảo tôi đã giúp cậu ấy quên hẳn việc ốm đau chết chóc. – Mary trả lời.
Dickon trông nhẹ nhóm hẳn, ngay khi sự ngạc nhiên trên khuôn mặt bầu bĩnh của nó biến mất.
- Tôi lấy làm mừng vì điều đó, - Dickon thốt lên. – Đáng mừng lắm. Như thế tôi sẽ thấy dễ chịu hơn. Tôi vẫn biết không được phép nói bất cứ chuyện gì về cậu ấy, mà tôi thì lại không thích che giấu điều gì.
- Chẳng lẽ anh không thích giấu chuyện khu vườn bí mật?
- Tôi chưa hề kể với ai về nó, - Dickon đáp. – Nhưng tôi có bảo mẹ: "Mẹ ạ, con có một bí mật buộc phải giấu kín. Đấy không phải là điều xấu, mẹ biết đấy. Chẳng tệ hơn việc che giấu một tổ chim. Mẹ chẳng cần bận tâm làm gì, phải không mẹ?"
Mary lúc nào cũng thích được nghe về người mẹ.
- Vậy bà đã nói gì? – Nó hỏi mà không hề sợ phải nghe câu trả lời.
Dickon tóet miệng cười ngọt ngào.
- Thì cũng giống như bà và những gì bà vẫn nói, - thằng bé đáp. – Bà khẽ xoa đầu tôi rồi cười bảo: "Hừ, anh chàng này, con cứ việc giữ cái bí mật mà con thích. Mẹ biết cái tính của con mười hai năm nay rồi còn gì."
- Anh biết Colin như thế nào? – Mary hỏi.
- Mọi người ai nấy đều biết ông Craven có một đứa con trai sinh ra vốn què quặt, và họ cũng biết ông Craven không thích nó bị đem ra bàn tán. Dân chúng đều lấy làm tiếc cho ông Craven, bởi bà Craven là một phu nhân xinh đẹp và hai người đã yêu thương nhau đến vậy.
Bà Medlock thường dừng chân ở ngôi nhà gianh của chúng tối mỗi bận bà sang bên Thwaite, và lần nào bà cũng nói chuyện với mẹ tôi, trước mặt cả lũ trẻ con chúng tôi, vì bà biết chúng tôi đã được dạy dỗ thành những đứa đáng tin cậy. Làm thế nào mà cô phát hiện ra cậu ấy? Lần vừa rồi về thăm nhà, nom chị Martha lo lắng lắm. Chị ấy kể rằng cô đã nghe thấy cậu ấy khóc, và cô đã hỏi những câu hỏi khiến chị ấy chẳng biết trả lời sao.
Mary bèn thuật lại chuyện tiếng gào của gió giữa đêm khuya đã khiến nó thức giấc, tiếng nức nở xa xăm đã dẫn bước nó tới những hành lang tối tăm với cây nến trên tay, rồi việc nó mở cánh cửa căn phòng có ánh sang lờ mờ với chiếc giường có bốn cột chạm trổ kê ở góc phòng. Đến đoạn nó miêu tả khuôn mặt trắng ngà nhỏ nhắn và đôi mắt có mi đen kì lạ của Colin thì thằng Dickon lắc đầu.
- Chúng giống hệt đôi mắt bà mẹ, chỉ có điều đôi mắt bà luôn biết cười, tôi cũng nghe họ nói vậy. – Thằng bé tiếp, - họ còn bảo ông Craven không thể chịu đựng được việc nhìn cậu ấy khi cậu ấy thức dậy, bởi vì đôi mắt cậu giống bà mẹ quá đỗi, có khác chăng là vẻ đau khổ trên khuôn mặt cậu.
- Anh có cho rằng ông muốn cậu ấy chết cho rảnh nợ không? – Mary thì thầm hỏi.
- Không, nhưng ông ước giá cậu ấy đừng bao giờ sinh ra thì hơn. Còn mẹ tôi, bà bảo rằng đó là điều bất hạnh nhất trên đời đối với một đứa trẻ. Ông Craven đã mua bất kể thứ gì mà tiền bạc có thể mua được cho anh chàng tội nghiệp ấy, chỉ có điều ông muốn quên đi sự hiện diện của cậu ấy trên đời này. Có một việc khiến ông sợ hãi là sẽ tới một ngày ông phải đối mặt với con trai mình, và nhận ra cậu ấy đã lớn lên với cái lưng gù.
- Bản thân Colin khiếp sợ việc ấy đến nỗi cậu ấy không muốn ngồi dậy nữa, - Mary nói. – Cậu ấy bảo cậu ấy luôn nghĩ rằng nếu thấy một cái bướu mọc ra là cậu ấy sẽ phát điên và gào khóc cho tới khi chết.
- Trời ơi! Cậu ấy không nên nằm ì ra mà tưởng tượng những điều như vậy, - Dickon bảo. – Chẳng ai có thể khỏe mạnh được nếu chỉ nghĩ rặt những chuyện vớ vẩn như vậy.
Con cáo nãy giờ vẫn nằm trên vạt cỏ ngay cạnh Dickon, thỉnh thoảng nó ngước lên như muốn được vỗ về, Dickon cúi xuống xoa nhẹ vào cổ nó và im lặng nghĩ ngợi vài phút. Đột nhiên, thằng bé ngẩng đầu và ngó quanh khu vườn.
- Lần đầu chúng ta vào đây, - nó nói – hình như mọi vật đều xám. Bây giờ nhìn xung quanh mà xem, cô không nhận ra có gì đổi khác sao. Mary nhìn quanh và hít một hơi nhẹ.
- Sao thế này! – Con bé kêu lên, - bức tường màu xám đang biến đổi, khác nào có một màn sương màu xanh đang lan tỏa trên đó. Như một tấm mạng che mặt bằng sa xanh.
- Ấy! – Dickon bảo. – Rồi nó sẽ còn xanh hơn, xanh hơn nữa cho tới khi màu xám úa hoàn toàn biến mất. Cô có đoán tôi đang nghĩ gì không?
- Tôi biết phải là cái gì hay lắm, - Mary đáp lại vẻ háo hức. – Tôi tin rằng điều đó có liên quan đến Colin.
- Tôi đang nghĩ nếu cậu ấy được ra đây thì đỡ phải lo chuyện cái bướu mọc trên lưng, thay vào đó cậu ấy được ngắm những nụ bông hé nở trên các khóm hoa hồng, và chắc chắn sẽ khỏe hẳn ra, - Dickon giảng giải. – Tôi tự hỏi nếu ta giúp cậu ấy được vui vẻ, được ra ngoài này mà nằm dưới tán cây thì hay biết mấy.
- Tôi cũng thường tự hỏi về chuyện đó. Hầu như lúc nào tôi cũng nghĩ tới điều đó mỗi khi nói chuyện với Colin, - Mary bảo. – Tôi tự nhủ không biết cậu ấy có giữ được bí mật không, và liệu chúng ta có thể đưa cậu ấy ra đây mà không sợ ai trông thấy không. Tôi nghĩ có lẽ anh sẽ là người đẩy xe giúp cậu ấy. Bác sĩ bảo cậu ấy cần được hít thở không khí trong lành, và một khi cậu ấy muốn chúng ta đưa ra ngoài trời thì đố ai dám không vâng lời. Cậu ấy sẽ không ra ngoài với những người khác, và có lẽ mọi người sẽ lấy làm mừng khi cậu ấy bằng lòng đi với bọn mình. Cậu ấy có thể ra lệnh cho những người làm vườn đi chỗ khác, thế nên họ sẽ không tài nào phát hiện ra đâu.
Dickon đăm chiêu suy nghĩ trong lúc đưa tay gãi lưng cho con Đại úy.
- Được thế thì thật tốt cho cậu ấy, tôi tin chắc như vậy, - thằng bé nói. – Sẽ không ai còn dám nghĩ thà cậu ấy đừng sinh ra trên đời. Trước đây chỉ có hai đứa chúng mình được ngắm cây cối trong vườn mọc lên, giờ thêm cậu ấy nữa là ba. Hai chàng và một nàng cùng nhau ngắm mùa xuân. Tôi dám đánh cược rằng điều đó còn tốt hơn mấy món thuốc của ông bác sĩ.
- Bấy lâu nay, cậu ấy phải nằm bẹp trong phòng và luôn lo sợ cái lưng sẽ khiến mình dị dạng, - Mary bảo.
Cô bé ngừng lại 1 lát rồi nói tiếp.
- Cậu ấy hiểu biết nhiều nhờ sách vở, ngoài ra thì chẳng có gì. Cậu ấy bảo cứ ốm yếu suốt thế thì lấy đâu ra sức lực để nhận biết mọi thứ khác, thành thử cậu ấy ghét ra khỏi nhà, ghét vườn tược và ghét luôn cả người làm vườn. Nhưng cậu ấy lại thích nghe về khu vườn này, bởi nói là cả một bí mật. Tôi không dám kể lể nhiều, nhưng cậu ấy bảo rất thèm được ngắm nó.
- Đợi tới khi thật chắc chắn ta mới đưa cậu ấy ra đây,- Dickon tiếp – Tôi đủ sức đẩy xe cho cậu ấy. Cô có để ý thấy con chim ức đỏ và con mái của nó vẫn mải mê làm việc trong lúc ta ngồi đây không? Hãy xem nó đang đậu trên cái cành kia kìa, nó đang phân vân tự hỏi đâu là chỗ tốt nhất để nó cài cành nhỏ vừa ngậm trong mỏ mang về.
Thằng bé huýt một tiếng trầm ngâm, con chim ức đỏ quay đầu nhìn nó vẻ dò hỏi, mỏ vẫn ngậm cái cành non. Dickon nói với nó theo kiểu lão Ben Weatherstaff vẫn thường làm, nghe như một lời khuyên thân thiện.
- Nơi nào mày chọn để làm tổ, hẳn đó là nơi yên lành. Trước khi rời khỏi vở trứng thì mày đã hiểu phải làm một cái tổ cho gia đình mình ra sao rồi. Tiếp tục đi, anh bạn. Đừng để phí thời gian.
- Ôi, tôi thích nghe anh nói chuyện với nó! – Mary nói và bật cười sung sướng. – Ông Ben Weatherstaff cứ mắng mỏ và trêu chọc nó, còn nó thì nhảy nhót xung quanh và hiểu được từng từ một, và tôi biết nó thích thế lắm. Ông Ben bảo nó tự phụ đến mức thà bị ném đá chứ không thể không được ai để ý.
Dickon nghe thế cũng phải bật cười, thằng bé tiếp tục trò chuyện.
- Mày thừa biết bọn tao không muốn quấy rầy mày, - nó bảo với con chim ức đỏ.– Như bọn tao đây cũng gần như những kẻ sống đời hoang dã. Bọn tao cũng đang xây tổ đấy. Chúa phù hộ cho mày. Coi chừng, đừng nói với ai về bọn tao nhé, nghe không?
Và mặc cho con chim ức đỏ không trả lời, bởi vì nó đang ngậm đầy mỏ, Mary vẫn biết rằng khi nó bay đi cùng với cái cành nhỏ, trở về góc vườn của nó, bóng sẫm trong đôi mắt như giọt sương của nó ngụ ý rằng nó không đời nào đi kể lại bí mật của chúng cho thế giới này.
CHƯƠNG 16 - MARY: "TỚ SẼ KHÔNG TỚI"
Buổi sáng hôm đó, hai đứa trẻ tìm ra vô khối việc để làm. Lúc Mary quay về nhà thì đã muộn, sau đó nó còn vội vã trở lại với công việc đến nỗi quên khuấy cả Colin, cho tới phút cuối.
- Chị bảo với Colin rằng tôi không thể tới thăm cậu ấy được, - nó nói với Martha. – Tôi đang rất bận ngoài vườn. Martha trông có vẻ hoảng hốt.
- Kìa, cô Mary, việc đó có thể khiến cậu ấy bực bội điên lên khi tôi báo tin.
Nhưng Mary đâu có sợ Colin như những người khác, và nó vốn dĩ không phải một người biết hy snh.
- Tôi không thể ở lại. Dickon đang đợi tôi,- đoạn nó chạy ngay đi.
Buổi chiều hôm ấy còn bận bịu và dễ thương hơn cả buổi sáng. Hầu như tất cả cỏ dại đều được dọn sạch và các khóm hồng cùng cây cối trong vườn đều được xén tỉa, vun gốc. Dickon mang mai của mình đến, nó còn dạy Mary cách sử dụng mọi dụng cụ, nên lúc này chốn hoang dại đáng yêu đấy tuy chưa giống một khu vườn của người làm vườn chuyên nghiệp, nhưng sẽ biến thành cả rừng cây vươn lên trước khi mùa xuân trôi qua.
- Hoa táo và hoa anh đào sẽ tới đầu tiên, - Dickon nói trong khi hăng hái làm việc, - kế đến là mùa đào, rồi thì đám mận bên bờ tường cũng thi nhau nở rộ, và bãi cỏ này rồi sẽ biến thành một thảm hoa cho mà xem.
Con cáo nhỏ và con quạ cũng ra điều sung sướng và bận rộn như bọn chúng, còn chim ức đỏ cùng bạn đời của nó thì bay qua bay ại như những vệt sang bé xíu. Thỉnh thoảng con quạ lại vỗ vỗ đôi cánh đen của nó rồi bay vút lên ngọn cây trong vườn. Mỗi lần trở lại đậu gần Dickon, nó kêu lên mấy tiếng quạ quạ như đang kể lại những chuyến phiêu lưu của nó, Dickon bèn trò chuyện với nó như với con chim ức đỏ lúc trước. Một lúc khi Dickon đang bận tay không kịp trả lời nó, Bồ hóng bèn bay ngay lên vai và lấy cái mỏ to tướng véo nhẹ lên vai thằng bé.
Khi Mary muốn nghỉ tay một lát, Dickon bèn ngồi xuống bên con bé dưới một tán cây. Nó rút cây sáo ra khỏi túi, và khi mấy nốt nhạc êm ái vừa mới cất lên thì hai con sóc từ đâu xuất hiện trên bờ tường, nghiêng ngó lắng nghe.
- Trông cô thế mà khỏe hơn tôi tưởng đấy, - Dickon nói trong lúc nhìn con bé xới đất. – Đã bắt đầu khác hẳn xưa rồi, thật đấy.
Cả người Mary hồng rực lên bởi hoạt động chân tay và tinh thần phấn chấn.
- Tôi mỗi ngày một béo ra, - nó hớn hở nói. – Bà Medlock sẽ kiếm cho tôi mấy chiếc áo rộng hơn. Chị Martha thì bảo tóc tôi ngày một dày hơn. Nó không còn mỏng dính và rối tung như trước nữa.
Mặt trời đang lặn dần và chiếu những tia nắng vàng thẫm chênh chếch xuống tán cây khi hai đứa trẻ chia tay nhau.
- Ngày mai trời sẽ đẹp, - Dickon bảo. – Mặt trời mọc là tôi bắt đầu làm việc ngay.
- Tôi cũng sẽ như vậy. – Mary đáp.
Con bé guồng chân chạy hết tốc lực. Nó chỉ muốn kể lại cho Colin nghe về con cáo, con quạ của Dickon và những gì mùa xuân đã và đang mang lại. Nó chắc chắn rằng Colin sẽ thích nghe. Thế nhưng mọi thứ chẳng lấy gì làm vui, khi nó mở cửa phòng và bắt gặp Martha đang đứng đợi với bộ mặt sầu thảm.
- Chuyện gì vậy? – nó hỏi. – Colin nói gì khi chị báo rằng tôi không thể tới được?
- Ôi!- Martha đáp. – Tôi ước gì cô có mặt tại đó mà chứng kiến. Cậu ấy lại lên cơn cáu giận điên cuồng như trước đây. Suốt buổi chiều chẳng có cách nào làm cho cậu ấy yên được. Cậu ấy cứ nhìn đồng hồ suốt.
Đôi môi của Mary bậm lại. Thực ra nó ích kỷ chẳng kém Colin là bao, và nó nhận thấy chẳng có lý nào một thằng bé hay bẳn gắt lại được phép can thiệp vào những thứ nó đang vô cùng thích thú. Con bé không hình dung ra nổi nỗi khổ của những kẻ đang ốm đau rầu rĩ, những kẻ không có ý thức tự kiềm chế mình và bắt người khác cũng mệt mỏi phát ốm theo. Dạo ở Ấn Độ, mỗi khi bị nhức đầu, nó đã cố làm cho những người khác cũng bị đau đầu hay một cái gì tệ hại như thế. Và nó cảm thấy mình hoàn toàn đúng; dĩ nhiên, bây giờ nó cho rằng Colin hoàn toàn sai.
Lúc Mary bước vào phòng riêng của Colin thì thằng bé không còn trên ghế sofa. Nó đang nằm dài trên giường, không thèm ngoái đầu lại nhìn khi con bé bước vào. Đây quả là một sự mở đầu tồi tệ. Mary cũng tiến lại chỗ thằng bé trong dáng điệu cứng nhắc của nó.
- Tại sao cậu không ngồi dậy? - Nó hỏi. - Sáng nay tớ đã dậy vì nghĩ thể nào cậu cũng tới, - thằng bé đáp, mắt không nhìn Mary. – Đến chiều tớ mới sai bọn họ đưa tớ về giường. Tớ đau lưng, nhức đầu và thấy mệt mỏi. Tại sao cậu không tới hả?
- Tớ làm việc trong vườn với Dickon.
Colin chau mày rồi mới chiếu cố nhìn đến nó.
- Tớ sẽ không cho phép thằng nhóc ấy đến đây nếu cậu cứ bỏ đi và ở lại với thằng ấy, trong khi lẽ ra phải đến đây nói chuyện với tớ, - nó nói.
Mary nổi giận lôi đình. Nó có thể giận dữ mà không làm huyên náo. Nó chỉ trở nên gay gắt, ương ngạnh và không cần biết chuyện gì sẽ xảy ra.
- Nếu cậu đuổi Dickon đi, tớ sẽ không bao giờ bước chân tới căn phòng này nữa, - con bé trả miếng.
- Cậu phải đến nếu tớ muốn,- Colin nói.
- Tớ sẽ không đến! – Mary đáp lại.
- Tớ sẽ ép cậu, - Colin bảo. – Bọn họ sẽ kéo cậu vào.
- Họ dám à, ngài tiểu vương! – Mary nói một cách tức giận. – Họ có thể kéo tớ vào, nhưng không thể bắt tớ nói sau khi ép buộc tớ tới đây. Tớ chỉ ngồi im, bịt miệng và không thèm nói với cậu dù chỉ một lời. Thậm chí tớ cũng sẽ không thèm nhìn cậu, mà chỉ nhìn xuống sàn!
Và chúng vẫn cứ là hai đứa trẻ dễ thương khi chúng đưa mắt gườm gườm nhìn nhau. Giả sử là hai thằng nhóc bụi đời ngoài phố thì hẳn chúng đã lao vào và choảng nhau ra trò.
- Cậu là đồ ích kỷ! - Colin gào lên.
- Thế còn cậu? – Mary nói. – Người ích kỷ nào mà chẳng nói vậy. Bất cứ ai cũng thành ích kỷ, nếu không tự mình đi làm những gì họ muốn. Cậu còn ích kỷ hơn tớ. Cậu là thằng nhãi ích kỷ nhất mà tớ từng thấy.
- Tớ không phải thế! – Colin vặc lại. – Tớ không ích kỷ như anh chàng Dickon xinh trai của cậu! Hắn giữ cậu lại mà chơi đùa ở cái nơi bẩn thỉu ấy trong khi hắn thừa biết tớ chỉ có một thân một mình. Hắn quả là ích kỷ, cậu cứ đi mà thích!
Đôi mắt Mary nảy lửa.
- Anh ấy còn tốt đẹp hơn bất cứ đứa con trai nào trên đời! – Nó nói. – Anh ấy... anh ấy giống như một thiên thần!
– Có lẽ nó thật ngốc khi nói ra điều đó, nhưng nó chẳng quan tâm.
- Một thiên thần xinh đẹp! – Colin mỉa mai một cách dữ tợn. – Đấy là một thằng nhóc bình dân trong túp lều gianh ngoài đồng hoang!
- Anh ấy còn hay hơn một gã tiểu vương tầm thường! – Mary trả miếng. – Anh ấy ngàn lần hay hơn!
Bởi vì trong hai đứa, con bé có giọng điệu đanh thép hơn, nên nó bắt đầu thắng thế so với thằng kia. Sự thực là trong đời, thằng Colin chưa bao giờ phải đôi co với bất kỳ đứa trẻ nào giống mình, nhưng tựu chung thì chuyện này cũng tốt cho nó, mặc dù cả nó và Mary đều chẳng hề nhận ra.
Nó trở đầu trên gối, nhắm tịt mắt lại, một giọt nước mắt lớn ứa ra chảy trên xuống má nó. Thằng bé bắt đầu cảm thấy đau đớn xót xa cho thân phận mình.
- Tớ không đến nỗi ích kỷ như cậu nói, bởi tớ lúc nào cũng ốm, tớ dám nói chắc rằng có một cục bướu đang hình thành trên lưng tớ. Hơn thế nữa, tớ sắp chết đến nơi rồi.
- Cậu không hề như vậy! – Mary phủ nhận một cách không thương xót.
Thằng bé mở to đôi mắt phẫn nộ. Từ trước tới giờ, nó chưa từng nghe ai nói một câu tương tự. Nó vừa giận dữ vừa thoáng thấy vui mừng, nếu như người ta có thể cùng lúc có cả hai cảm xúc đó trong mình.
- Tớ mà không hề như vậy sao? – Nó kêu to. – Tớ là thế đấy! Cậu cũng thừa biết tớ như thế mà! Ai ai cũng nói thế.
- Tớ không tin! – Mary gắt gỏng. – Cậu chúa là hay nói vậy để mọi người phải rầu lòng. Tớ chắc cậu tự hào về điều đó lắm. Tớ thì tớ không tin! Nếu cậu là một cậu bé ngoan thì có lẽ đúng vậy, nhưng đằng này cậu quá hư đốn!
Không đếm xỉa tới cái lưng chưa ổn của nó, thằng bé ngồi bật dậy trên giường trong cơn thịnh nộ.
- Cút ngay khỏi phòng! – Nó quát to, đoạn vớ lấy cái gối ném thẳng vào con bé. Nó không đủ sức ném cái gối xa hơn, nên cái gối rớt xuống ngay cạnh chân con bé, nhưng khuôn mặt Mary vẫn rắn đanh như cái kẹp hạt dẻ.
- Tớ về đây. Và sẽ không bao giờ trở lại! Con bé bước thẳng ra cửa, vừa đến đó nó quay lại và mở miệng. - Tớ định bụng sẽ kể cho cậu nghe biết bao chuyện hay. Dickon mang con cáo và con quạ của anh ấy đến, và tớ định kể cho cậu mọi điều về chúng. Bây giờ thì một mẩu chuyện cũng đừng hòng tớ kể!
Con bé chạy vụt ra khỏi phòng rồi khép cánh cửa lại sau lưng, tại đó nó kinh ngạc nhận ra cô bảo mẫu, có vẻ như đã nghe thấy hết câu chuyện và vẫn còn ngạc nhiên, cô cười phá lên. Cô là một thiếu nữ xinh đẹp, vóc người cao lớn và chẳng có vẻ gì là một bảo mẫu chuyên nghiệp cả.
Hơn thế nữa, cô không thể chịu đựng được người tàn tật. Cô luôn kiếm cớ bỏ mặc Colin cho Martha hay bất kỳ ai khác thay chân giúp cô. Mary chưa bao giờ thấy ưa cô nên nó chỉ đứng nhìn cô chằm chằm, trong khi cô cười rúc ríc sau cái khăn tay che miệng.
- Chị cười gì hả? - Nó hỏi cô.
- Cười hai bạn trẻ, - cô bảo mẫu nói. – Đó là điều tốt nhất ta có thể làm cho một kẻ ốm yếu và được nuông chiều thái quá. Hết người nọ đến người kia hầu hạ chỉ tổ làm hỏng cậu ấy mà thôi, - nói đoạn cô lại đưa khăn tay che miệng cười. - Giá mà cậu ấy có một cô em gái đáo để mà choảng nhau, có khi lại cứu được cậu cũng nên.
- Cậu ấy sắp chết thật sao?
- Tôi không biết mà cũng chẳng quan tâm, - cô bảo mẫu nói. – Sự nóng nảy kích động là một nửa những gì đã hại cậu ấy.
- Kích động cái gì? – Mary hỏi.
- Rồi cô sẽ thấy nếu cô đẩy cậu ấy vào một cơn điên giận sau chuyện vừa rồi. Nhưng dù thế nào đi nữa, cô đã làm cho cậu ấy một cái cớ để kích động, và tôi lấy làm mừng vì điều đó.
Mary trở về phòng mà không hề xao xuyến như cảm giác nó đã từng có lúc từ vườn về nhà.
Nó chỉ hơi bực mình và không hề thấy thương xót gì thằng Colin. Nó đã mong đến lúc kể lại cho thằng nhóc ấy biết bao chuyện lạ, và nó cũng đã tính, sẽ quyết định xem liệu có tin cậy mà thổ lộ với Colin cái điều bí mật to lớn ấy không.
Con bé đã bắt đầu tính đến chuyện đó, nhưng bây giờ thì nó suy nghĩ khác hoàn toàn. Nó sẽ chẳng bao giờ nói cho thằng ấy biết, thằng ấy cứ việc nằm dài trong phòng, không khi nào được tận hưởng bầu không khí trong lành và sẽ chết như nó muốn! Thế cũng đáng đời lắm!
Con bé cảm thấy mình cứng rắn và tàn nhẫn đến mức trong giây lát nó hầu như quên hẳn Dickon cũng tấm màn xanh mơn mởn đang dần bao trùm lên thế giới, cùng với cả làn gió dịu dàng đang từ cánh đồng hoang thổi về.
Martha đang đợi con bé, nét buồn rầu trên gương mặt chị lúc này tạm thời chuyển sang vẻ quan tâm pha chút tò mò. Một chiếc hộp gỗ để trên bàn, nắp đã mở sẵn, để lộ những gói buộc gọn gang chật ních.
- Ông Craven gửi nó cho cô đấy, - Martha bảo. – Có vẻ là mấy cuốn truyện tranh.
Mary bỗng nhớ lại những gì ông đã nói với nó vào cái hôm nó đến phòng ông.
" Cháu thích gì nào: búp bê, đồ chơi, sách ?"
Con bé mở gói đồ, tự hỏi không biết ông có gửi cho nó búp bê hay không, và nghĩ bụng nó biết làm gì với con búp bê đây nếu ông gửi.
Nhưng ông không gửi cho nó con búp bê nào cả. Thế vào đó là mấy cuốn sách tuyệt đẹp chẳng kém gì của Colin, hai trong số đó viết và những khu vườn và đầy những tranh minh họa, cùng mấy thứ đồ chơi, một hộp đựng bút bé xinh trên có khắc chữ lồng mạ vàng, cùng một cây bút bằng vàng và cái giá để lọ mực.
Tất cả đều đẹp đến nỗi niềm vui bắt đầu đẩy lùi mọi tức tối ra khỏi tâm trí của nó. Nó không dám mong được ông nhớ đến, trái tim bé nhỏ khô cằn của nó trở nên ấm áp lạ thường.
- Tôi viết chữ thường đẹp hơn chữ in, - nó nói, - và việc trước tiên là tôi sẽ viết, bằng chiếc bút này, một bức thư để nói với ông rằng tôi cảm ơn ông.
Giá như còn là bạn bè với Colin, thì chắc hẳn nó sẽ chạy đến khoe món quà với thằng bé ngay tức khắc, rồi chúng sẽ cùng nhau xem các bức vẽ, đọc mấy cuốn sách về vườn tược, và có thể còn mang đồ chơi ra chơi nữa, và thằng Colin chắc sẽ sung sướng đến nỗi từ nay không bao giờ nghĩ rằng nó sắp chết, hay lại đặt tay lên xương sống để xem cục bướu có mọc lên không.
Nó cứ làm vậy thì Mary không chịu nổi. Việc đó gây cho con bé một cảm giác kinh sợ bất an, bởi vì chính thằng bé trông cũng quá sợ hãi. Nó bảo nếu một ngày nào đó nó cảm thấy có một cái bướu nhỏ thôi thì nó hiểu ra rằng cái lưng của mình bắt đầu gù đi. Những gì bà Medlock thầm thì với cô bảo mẫu đã khiến ý nghĩ ấy hình thành. Nó âm thầm nung nấu ý nghĩ đó đến mức ăn sâu vào tâm trí. Bà Medlock cho rằng cái lưng của cha nó đã lộ vẻ méo mó từ khi ông còn bé tí.
Nó chưa bao giờ thổ lộ với ai khác ngoài Mary rằng "những cơn tam bành" của nó, như thiên hạ thường gọi thế, đã nảy sinh từ nỗi sợ điên cuồng giấu kín đó. Khi nó kể chuyện đó, Mary cũng động lòng thương cảm.
" Cậu ấy luôn nghĩ về điều đó mỗi khi tức giận hay mệt mỏi, - nó thầm nhủ. – Hôm nay cậu ấy cũng đang tức giận thì phải. Có lẽ... có lẽ suốt chiều nay cậu ấy sẽ bị ám ảnh về chuyện ấy".
Con bé đứng lặng người, cúi nhìn tấm thảm và suy nghĩ.
"Mình đã bảo sẽ không bao giờ thèm quay lại đấy nữa cơ mà, - con bé lưỡng lự, cau mày, - nhưng có lẽ, chỉ là có lẽ thôi, mình sẽ tới và xem xem... nhỡ cậu ấy sẽ lại ném chiếc gối vào mình cũng nên, nhưng... mình cho rằng mình sẽ tới."
CHƯƠNG 17 - MỘT CƠN CUỒNG NỘ
Ngày hôm ấy, Mary thức dậy rất sớm và làm việc miệt mài ngoài vườn, nên giờ nó thấy thấm mệt và buồn ngủ. Martha vội dọn bữa cho nó, con bé ăn xong thì hả hê leo lên giường. Vừa ngả đầu xuống gối, nó đã nhủ thấm: "Mình sẽ ra ngoài vào trước bữa sang, làm việc với Dickon rồi sau đấy... mình nghĩ... mình sẽ đi gặp cậu ấy".
Nó cứ tưởng như đã tới nửa đêm, khi những âm thanh khủng khiếp vang lên khiến nó tỉnh giấc, và ngay lập tức nó nhảy phắt ra khỏi giường. Cái gì thế... cái gì thế? Chỉ phút sau nó đã hiểu việc gì vừa xảy ra. Các cánh cửa vừa mở ra rồi lại đóng sập, bước chân ai đang hối hả trong hành lang, cùng lúc đó là tiếng người đang vừa la hét vừa than khóc một cách khủng khiếp.
- Đó là Colin, - con bé bảo. – Cậu ấy đang nổi cơn tam bành mà chị bảo mẫu gọi là chứng kích động cuồng loạn.
Âm thanh mới dễ sợ làm sao. Nghe những tiếng thét lẫn trong tiếng thổn thức đó, nó không lấy làm ngạc nhiên khi thấy mọi người sợ hãi đến đô thà nhượng bộ mọi yêu cầu của thằng bé còn hơn là phải nghe những tiếng ấy. Con bé đưa tay bịt tai, cảm thấy mệt mỏi và run rẩy: " Mình biết làm gì bây giờ. Mình biết làm gì đây. Mình không tài nào chịu nổi nữa."
Có lúc nó tự hỏi không biết Colin có thôi kêu khóc nếu nó dám đến với thằng bé, chính lúc ấy nó nhớ lại cảnh thằng bé đã đuổi mình ra khỏi phòng và nhủ thầm, có lẽ sự có mặt của nó đã đẩy thằng bé vào tình trạng tồi tệ ấy.
Ngay cả khi nó ép chặt hơn nữa hai bàn tay vào hai bên tai, nó vẫn không thể ngăn được âm thanh khủng khiếp nọ. Nó thấy ghét và kinh hoàng thứ âm thanh đó đến độ nó chợt nổi giận, nó cảm tưởng bản thân cũng đang bị cuốn vào một cơn giận điên rồ và muốn đe dọa thằng bé như thằng bé đang đe dọa mình. Mary chưa bao giờ phải chịu đựng cơn nóng nảy của bất kỳ ai, ngoài bản thân nó. Nó buông hai tay ra, ngồi nhổm dậy và thò chân xuống sàn.
- Nó thôi đi được rồi đấy! Ai đó nên bảo nó thôi đi! Ai đó hãy cho nó một trận! – Con bé gào lên.
Đúng lúc ấy, nó nghe có tiếng chân chạy dọc hành lang, cánh cửa phòng nó bật mở, cô bảo mẫu bước vào. Lúc này, chẳng còn thấy cô ta cười cợt gì nữa. Thậm chí mặt cô còn hơi tái đi.
- Cậu ấy đang rơi vào cơn kích động cuồng loạn, - cô nói vội vàng. Như thế chỉ làm hại chính cậu ấy. Chẳng ai có thể làm gì với cậu ấy. Mong cô tới và thử xem sao, cô bé tốt bụng. Cậu ấy chỉ thích mỗi mình cô.
- Sáng nay cậu ấy đã đuổi tôi khỏi phòng, - Mary vừa nói, vừa giậm chân.
Cái giậm chân dường như đã khiến cô bảo mẫu thích thú. Sự thực là trước đó, cô đã lo có thể sẽ thấy Mary đang khóc và vùi đầu dưới tấm phủ giường.
- Đúng như vậy đấy, - cô nói. – Cô đang vui. Cô đi mà quở trách cậu ấy đi. Hãy cho cậu ây cái gì mới mới mà động não. Đi đi, cô bé, nhanh chân lên nào.
Chẳng phải sau này Mary mới nhận ra điều đó vừa buồn cười lại vừa đáng sợ - buồn cười vì tất cả những người lớn ở đây đều kinh hoàng đến nỗi họ phải chạy tới cầu cứu một đứa bé gái mà họ cho rằng cũng tệ hại chẳng kém gì Colin.
Con bé chạy như bay dọc hành lang, càng tới gần tiếng kêu, nỗi tức giận của nó càng dâng cao hơn. Vào lúc chạm tới cánh cửa, con bé mới cảm nhận hết sự nguy hiểm. Nó đưa tay đẩy cánh cửa mở toang, rồi chạy tới bên chiếc giường có bốn cọc chạm trổ.
- Cậu thôi đi cho! – Con bé hầu như quát lên. – Cậu thôi đi! Tớ căm ghét cậu! Ai cũng căm ghét cậu! Tớ ước gì mọi người chạy hết khỏi ngôi nhà này, để mặc cậu gào thét một mình cho tới chết! Cậu sẽ được gào khóc một mình cho tới chết, tớ ước gì cậu sẽ phải thế!
Một đứa trẻ dễ thương có lòng trắc ẩn chẳng thể nào nghĩ hay nói những điều như vậy. Nhưng cú sốc trước những lời nói ấy lại là điều khả dĩ nhất cho một đứa trẻ đang kích động như thằng bé, một kẻ mà không một ai dám ngăn cản hay trái lời. Thằng Colin đang nằm úp mặt, hai tay nện thình thịch xuống gối, nó giật mình quay ngắt về phía giọng nói giận dữ của con bé. Khuôn mặt nó nom thật đáng sợ, trắng bệch và đỏ lựng, sưng vù lên, nó hết thở hổn hển rồi lại ho sù sụ, nhưng Mary bé bỏng độc ác vẫn không mảy may quan tâm.
- Cậu mà gào thêm tiếng nữa thì tớ cũng sẽ gào cùng, mà tớ còn gào to hơn nữa kia, tớ sẽ làm cho cậu phải khiếp sợ, tớ sẽ làm cậu khiếp sợ cho mà xem!
Đương nhiên là thằng bé im bặt, vì Mary đã làm nó sửng sốt. Việc kêu gào cũng khiến nó nghẹt thở. Mấy dòng lệ tuôn trào trên mặt nó.
- Tớ không thể dừng được! – Nó hổn hển, thổn thức. – Tớ không thể ... tớ không thể!
- Cậu có thể! – Mary quát to. – Một nửa bệnh tật chính là sự kích động và tính khí nóng nảy của cậu: kích động, kích động, kích động! – Con bé giậm chân sau mỗi lần nói.
- Tớ cảm thấy rõ cục bướu... tớ cảm thấy nó, - Colin nói như nghẹn thở. – Tớ biết tớ sẽ bị. Rồi tớ sẽ mang một cục bướu trên lưng và sẽ chết, - nó lại bắt đầu rên rỉ, quay mặt đi khóc thổn thức, nhưng không gào lên nữa.
- Cậu chẳng cảm thấy cái bướu nào hết! – Mary phủ nhận một cách giận dữ. – Đấy chỉ là một cái bướu mê sảng mà thôi. Sự kích động đã làm ra những cái bướu. Chẳng có vấn đề gì với cái lưng quá quắt của cậu cả, chẳng có gì hết ngoài sự mê sảng! Quay lưng lại để tớ xem!
Con bé rất thích cái từ "kích động", và không rõ tại sao nó cảm thấy từ ấy đã có hiệu quả nhất định đối với Colin. Thằng bé hình như cũng giống như nó, chưa từng nghe thấy từ ấy trước đây.
- Chị bảo mẫu, - nó ra lệnh, - vào đây và ngay bây giờ vén cho tôi xem lưng cậu ấy.
Cô bảo mẫu, bà Medlock và Martha nãy giờ vẫn cũng nhau đứng gần cửa ra vào đều trố mắt nhìn nó, miệng há hốc ra. Cả ba hổn hển vì sợ hãi hơn bao giờ hết. Cô bảo mẫu tiến về phía trước, có vẻ đã bớt sợ. Colin đang thốt ra những tiếng thổn thức nghẹn ngào.
- Có lẽ cậu ấy... cậu ấy không để tôi, - cô lưỡng lự nói với giọng khe khẽ.
Dù sao thì Colin cũng chịu nghe lời con bé, nó hổn hển nói giữa hai tiếng nức nở.
- Cho... cho cô ấy xem đi... để cô ấy xem!
Lúc nó trần trụi mới thấy rõ một cái lưng gầy nhom tội nghiệp. Có thể đếm được từng chiếc xương sống, mặc dù cô chủ Mary không hề đếm trong lúc cúi xuống xem xét kĩ lưỡng với khuôn mặt nhỏ nhắn vừa nghiêm khắc vừa trịnh trọng. Con bé nom cau có đến nỗi cô bảo mẫu phải quay đầu sang bên để giấu khóe miệng của cô đang giật giật.
Một phút im lặng thoáng qua, Colin nín thở trong khi Mary chăm chú hết nhìn lên lại nhìn xuống cột xương sống của nó như thể con bé chính là ông bác sĩ giỏi đến từ London vậy.
- Chẳng hề có cục bướu cục biếc gì cả, - cuối cùng nó lên tiếng. – Không có lấy một mẩu, dù chỉ bằng cái đầu ghim, trừ những đốt sống, và cậu chỉ cảm thấy thế thôi bởi cậu quá gầy gò. Ngay tớ đây cũng có những cục xương sống, chúng thường lồi lên mỗi lúc ta cử động, cho tới khi tớ béo ra, ấy thế mà tớ vẫn chưa đủ béo để lấp hẳn chúng. Không hề thấy một cục bướu nào dù chỉ bằng đầu ghim. Nếu cậu cứ lải nhải mãi, tớ sẽ cười cho đấy!
Không một ai ngoài bản thân thằng Colin có thể thấy được hiệu quả của những câu nói hết sức trẻ con được nói ra một cách cáu bẳn dường ấy đối với nó. Giá như thằng bé có ai để mà kể về những nỗi hãi hung bí mật của nó, giá như nó dám hỏi han mọi người, giá như nó có mấy đứa nhóc để cùng chơi đùa và không phải nằm dài suốt ngày trong ngôi nhà đồ sộ khép kín ấy, thở hít bầu không khí nặng nề cùng với nỗi sợ hãi của những người mà hầu hết là bọn ngốc đã chán ngấy nó, thì hẳn nó đã nhận ra rằng tất tật nỗi sợ hãi và đau ốm của nó đều do chính bản thân nó tạo ra.
Đằng này nó chỉ biết nằm dài và ngẫm nghĩ về bản thân và nỗi đau cũng âm ỉ kéo dài cũng như sự mệt mỏi buồn chán hết giờ này sang giờ khác, ngày này sang ngày khác, tháng này sang tháng khác, rồi năm này sang năm khác. Thế mà giờ đây, một con bé cáu kỉnh, khó ưa lại cứ khăng khăng bảo rằng nó không hề ốm như nó nghĩ thì mặc dù có vẻ hơi kì lạ, nhưng nó cảm thấy có lẽ con bé đang nói sự thực.
- Tôi không hiểu - cô bảo mẫu đánh bạo nói, - vì lẽ gì cậu ấy lại nghĩ rằng mình có một cái bướu trên sống lưng. Lưng cậu ấy yếu chẳng qua vì cậu ấy không cố ngồi dậy. Tôi cũng có thể thấy là cậu ấy chẳng có bướu biếc nào hết.
Colin nuốt nước bọt rồi khẽ ngoảnh lại nhìn cô.
- Chị... mà cũng nói vậy? – Nó hỏi, nghe thật tội nghiệp.
- Vâng, thưa cậu.
- Thấy chưa! – Mary bảo, và nó cũng ực nước bọ một cái.
Colin ngoảnh mặt lại lần nữa, và như để lấy lại hơi sức sau cơn khóc lóc vừa nãy, nó nằm lịm người đi trong giây lát, mặc dầu mấy giọt nước mắt lớn vẫn trào ra và thấm đẫm xuống gối. Đương nhiên, những giọt nước mắt ấy muốn nói lên rằng một niềm khuây khỏa vô cùng kì lạ đang đến với nó.
Bỗng nó quay lại nhìn cô bảo mẫu, và lạ thay nó chẳng có vẻ một vị tiểu vương chút nào khi nói với cô.
- Chị có cho rằng... tôi có thể... sống v à lớn lên không?
Cô bảo mẫu là người chẳng lấy gì làm thông minh mà cũng không phải người dễ mủi lòng, nhưng cô vẫn biết nhắc đúng từng lời của ông bác sĩ London.
- Cậu sẽ khỏe nếu cậu chịu làm những gì được dặn dò phải làm, bỏ thói giận dữ, và sống cho thỏa thích với khí trời trong lành.
Cơn giận dữ của Colin đã nguôi ngoai và giờ nó thấy mệt lả đi vì gào khóc, nhưng biết đâu điều đó lại giúp nó được yên lòng. Nó khẽ chìa bàn tay về phía Mary, và ta lấy làm mừng mà nói rằng cơn giận của con bé cũng đã qua đi nó thổn thức, bàn tay nó gặp bàn tay thằng bé ở giữa chừng, âu cũng là một sự đền bù cho tổn thất vừa qua.
- Tớ sẽ... tớ sẽ đi ra ngoài với cậu, Mary ạ. Tớ sẽ không cảm thấy ghét không khí ngoài trời nữa nếu chúng mình cùng tìm thấy...
- Đúng lúc ấy, nó sực nhớ ra và kịp không nói hết câu, "nếu chúng mình cùng tìm thấy khu vườn bí mật," nên nó chỉ kết thúc bằng câu – tớ sẽ đi với cậu, nếu Dickon cùng đi đẩy xe giúp tớ. Sao tớ muốn gặp Dickon cùng mấy con quạ và con cáo đến thế.
Cô bảo mẫu xếp lại chiếc giường bừa bộn và đặt lại mấy cái gối cho ngay ngắn. Sau đó, cô bưng cho Colin một bát nước thịt bò hầm, tiện thể cũng bưng cho Mary một bát, con bé thật sự vui mừng nhận lấy món ấy sau cơn náo động vừa qua.
Bà Medlock và Martha mừng rỡ lui khỏi phòng, sau khi mọi thứ đã gọn gang, êm ả đâu vào đó, cô bảo mẫu cũng hớn hở lui ra theo. Cô vốn là một thiếu nữ khỏe mạnh, nên lúc nãy cảm thấy tức giận vì bị mất giấc ngủ đang ngon lành. Cô vừa ngáp dài, vừa nhìn Mary khi con bé kéo chiếc ghế đẩu to tướng lại cạnh giường và cầm tay Colin.
- Chị về mà ngủ tiếp đi, - con bé bảo. – Chỉ lát nữa cậu ấy sẽ ngủ thôi, nếu cậu ấy không cảm thấy khó chịu. Lúc đó, tôi sẽ sang nằm ở phòng bên.
- Cậu có muốn tớ hát cho nghe một bài tớ học được từ Ayah của tớ không? – Mary thì thầm bên tai Colin.
Bàn tay thằng bé khẽ kéo bàn tay Mary, nó hướng đôi mắt mệt mỏi về phía con bé với vẻ đầy thiện cảm.
- Ồ, có chứ! Với bài hát nhẹ nhàng như thế, tớ sẽ ngủ ngay trong ít phút.
- Để tôi ru cho cậu ấy ngủ, - Mary nói với cô bảo mẫu đang ngáp dài. – Chị có thể đi nếu chị muốn.
- Vâng, - cô bảo mẫu nói với một cố gắng miễn cưỡng. – Nếu trong nửa giờ nữa mà cậu ấy chưa ngủ được thì cô cứ gọi tôi.
- Được lắm. – Mary đáp.
Cô bảo mẫu rời khỏi phòng trong chớp mắt; chờ cô đi khỏi, Colin lại cầm tay Mary mà nói.
- Suýt nữa thì tớ đã nói ra, nhưng tớ đã kịp ngậm miệng. Tớ sẽ không khi nào nói ra đâu và tớ sẽ ngủ ngay, nhưng cậu chả bảo cậu có vô số chuyện hay để kể cho tớ cơ mà. Cậu... cậu có cho rằng cậu đã khám phá ra mọi chuyện về con đường dẫn đến khu vườn bí mật ấy không?
Mary nhìn khuôn mặt nhỏ mệt mỏi và tội nghiệp của thằng bé, cả đôi mắt sưng mọng của nó nữa. Nó thấy mủi lòng.
- Ừ... ừ, - nó đáp- tớ cho là có đấy. Nếu cậu chịu ngủ đi, ngày mai tớ sẽ kể cho cậu nghe.
Bàn tay thằng bé run rẩy.
- Ôi, Mary! – nó nói. – Ôi, Mary! Giá như được vào trong khu vườn đó, tớ nghĩ tớ sẽ sống mà lớn lên! Cậu có cho rằng, thay vì hát bài ca của Ayah... cậu có thể kể tớ nghe với cái giọng dịu dàng như hôm đầu, xem cậu đã tưởng tượng ra trong khu vườn ấy như thế nào? Tớ cam đoan nó sẽ làm tớ chóng ngủ.
- Được, - Mary đáp. – Nhắm mắt lại nào.
Thằng bé nhắm mắt, nằm im phăng phắc, con bé cầm bàn tay nó rồi bắt đầu chậm rãi kể bằng một giọng khẽ kháng.
- Tớ cho rằng nó đã bị người ta quên lãng từ lâu... đến nỗi cây cối mọc ngổn ngang thành một mớ rối bù dễ thương. Tớ hình dung ra các khóm hồng cứ leo, leo mãi cho tớ khi cúng buông lơi từ các cành cây, rủ xuống các bờ tường rồi bò lan trên mặt đất... trông chẳng khác nào một màn sương màu xám kỳ lạ. Một số đã chết, nhưng rất nhiều khóm vẫn còn sống, khi mùa hè tới chúng sẽ biến thành những tấm rèm và và dòng chảy tết bằng vô vàn bong hồng.
Tớ hình dung mặt đất lúc ấy sẽ tràn ngập những đóa thủy tiên hoa vàng, hoa giọt tuyết, ly ly và diên vĩ. Bây giờ mùa xuân đã tới,... biết đâu... biết đâu...
Giọng kể đều đều nhè nhẹ của nó khiến thằng bé yên dần, yên dần. Con bé cũng nhận ra điều đó, nó tiếp tục thì thầm:
- Có lẽ chúng sẽ mọc xuyên qua lớp cỏ... có lẽ thoạt đầu sẽ là những khóm nghệ tây màu tía xen vàng... thậm chí ngay lúc này đã thấy chúng xuất hiện. Có lẽ những chiếc lá non sắp nhú và không còn quăn tít nữa... và có lẽ màu xám xỉn đang ngả sang màu khác, và một tấm mạng mỏng màu xanh mướt sẽ lan dần... lan dần... che phủ trên khắp mọi cảnh vật...
Rồi chim chóc sẽ bay về để chiêm ngưỡng... bởi có ở đâu an toàn và yên bình hơn nơi đây. Và, biết đâu... biết đâu... con chim ức đỏ ấy chẳng tìm thấy một bạn tình... để cùng nhau làm tổ.
Colin đã ngủ từ lúc nào không hay.
CHƯƠNG 18 - "TA ĐỪNG ĐỂ LỠ THỜI GIAN"
Dĩ nhiên, Mary không thể dậy sớm vào sang hôm sau Nó đã phải ngủ muộn vì thấy quá mệt. Khi Martha dọn bữa sang lên, chị bảo nó rằng mặc dù Colin hoàn toàn yên lặng nhưng cậu lại đang ốm và ngây ngấy sốt như vẫn thường thế mỗi khi kiệt sức sau cơn gào thét. Mary vừa ăn chậm rãi vừa lắng nghe.
- Cậu ấy bảo mong cô tới gặp cậu sớm chừng nào hay chừng ấy. Quả khó mà tưởng tượng nổi những điều kỳ lạ đã xảy ra. Đêm qua, chính cô là người đã cho cậu ấy thấy điều đó, phải không cô? Chưa một ai dám làm việc ấy. Ôi, anh chàng tội nghiệp!
Cá đã ươn thì có ướp muối vẫn ươn. Mẹ tôi vẫn bảo có hai điều tồi tệ có thể đến với một đứa trẻ, đó là không bao giờ có được điều mình muốn, hoặc là luôn luôn có nó. Nhưng chính bà cũng không hiểu cái nào tệ hại hơn. Giờ cô đang tâm trạng vui vẻ. Vừa nãy, cậu ấy bảo khi tôi vào phòng: "Làm ơn hỏi cô Mary xem liệu cô ấy có vui lòng tới đây nói chuyện với tôi không?" Xin cô nhớ cho là cậu ấy đã phải nói câu làm ơn! Liệu cô có đi không, thưa cô?
- Tôi sẽ chạy đi gặp Dickon trước. –Mary đáp.
- Mà không, tôi đi gặp Colin trước và nói chuyện với cậu ấy, tôi biết mình sẽ nói gì rồi. – Con bé đột nhiên đổi ý.
Mary đội mũ khi xuất hiện trong phòng Colin, và trong một thoáng thằng bé có vẻ tức giận. Nó nằm trong giường, khuôn mặt trắng bệch thảm hại, đôi mắt thâm quầng.
-Tớ lấy làm mừng vì cậu đã đến. Đầu tớ nhức như búa bổ, khắp người mỏi nhừ vì quá mệt. Cậu định đi đâu phải không?
Mary bước tới vịn vào thành giường, nói. - Tớ đi không lâu đâu. Tớ định tới gặp Dickon, rồi tớ sẽ quay lại ngay. Colin này, về việc... về việc khu vườn bí mật ấy mà.
Cả gương mặt thằng Colin sáng bứng lên, một chút hồng ửng trên hai má nó.
- Ồ! Là chuyện đó sao! – Thằng bé kêu to. – Tớ đã mơ thấy nó suốt đêm qua. Tớ đã nghe cậu nói gì đó về màu xám ngả sang màu xanh rờn, thế rồi tớ đã mơ thấy mình đứng giữa một nơi tràn ngập những chiếc lá non run rẩy... và đâu đâu cũng bắt gặp những chú chim non trong tổ, tất cả mới dịu dàng yên tĩnh làm sao. Tớ sẽ nằm mà nghĩ đến điều đó cho tới lúc cậu trở về.
Năm phút sau, Mary đã ở bên Dickon ngay giữa khu vườn của chúng. Con cáo và con quạ vẫn bám theo thằng bé, nhưng lần này nó còn mang theo hai con sóc đã thuần dưỡng.
- Sáng nay tôi cưỡi con ngựa đến đấy. Này, nó là một gã tuy bé nhỏ mà tốt bụng lắm... Nó nhảy kìa! Tôi còn mang theo hai đứa nữa trong túi. Đây là Hạt dẻ, còn kia là Vỏ sò.
Lúc nó vừa bảo " Hạt dẻ", một con sóc leo phắt lên bên vai phải, và khi nó gọi tên "Vỏ sò" thì con kia nhảy phóc lên vai trái. Chúng ngồi bệt xuống bãi cỏ, Đại úy nằm cuộn tròn bên cạnh, còn Bồ hóng thì nghiêm nghị lắng nghe trên cành cao, Hạt dẻ và Vỏ sò đang hếch hếch cái mũi về phía bọn trẻ.
Cứ nhìn Mary thì rõ, nó khó lòng chịu rời xa một niềm vui thích đến nhường này, nhưng khi nó cất tiếng kể lại câu chuyện của nó thì không hiểu sao, những gì hiện lên trên khuôn mặt ngộ nghĩnh của DIckon dần làm con bé thay đổi ý nghĩ. Nó nhận ra Dickon còn xót xa cho Colin hơn cả nó. Dickon ngước nhìn bầu trời, suy nghĩ.
- Hãy lắng nghe tiếng chim hót mà xem... thế giới này dường như đang ngập tràn tiếng líu lo...tất cả chỉ còn là những âm thanh véo von, lảnh lót. Hãy nhìn chúng chao lượn rồi lắng nghe chúng gọi nhau. Mùa xuân đang tới gần, muôn loài đều cất tiếng hát ca. Những chiếc lá đang mở dần ra làm ta thấy chúng được rõ hơn. Muôn vàn làn hương thuần khiết đang lan tỏa khắp không trung! – thằng bé đưa chiếc mũi hếch lên hít một hơi dài.
Thế mà anh chàng tội nghiệp ấy lại phải nằm nhà bó gối nhìn trần mà nghĩ ngợi lung tung rồi gào thét. Ôi! Ông bạn! Chúng mình phải đưa cậu ấy ra ngoài này... chúng mình phải để cậu ấy được nhìn, được nghe và hít thở, bắt cậu ấy phải tắm mình trong ánh nắng mặt trời. Chúng mình đừng bỏ lỡ thời gian.
Hễ tập trung vào điều gì là nó lại nói giọng Yorkshire đặc sệt, dù lúc khác nó thường cố chỉnh cái tiếng địa phương của mình sao cho Mary có thể hiểu được. Vậy mà Mary lại mê cái giọng Yorkshire đặc sệt của nó, và lại còn bắt chước theo. Con bé liền nói thử mấy câu cho vui.
- Ầy, đấy, bọn mình phỏng... - nó nói, (câu này có nghĩa "ừ, thực vậy, chúng ta phải...) – tôi sẽ bảo anh nghe trước tiên chúng ta phải làm gì.
Nghe con bé nói, thằng Dickon nhe răng ra cười, bởi vì khi một cô bé cố uốn lưỡi sang giọng Yorkshire thì nghe thật kỳ khôi.
– Cậu ấy muốn gặp anh và cũng muốn được gặp cả Bồ hóng và Đại Úy nữa. Khi nào trở vào nhà, tôi sẽ lập tức báo cho cậu ấy biết, nếu như anh bằng lòng đến gặp cậu ấy vào sang mai... và mang theo mấy con vật của anh... và rồi... chẳng mấy nữa, chờ khi những cái cây đâm chồi nảy lộc, chúng ta sẽ đưa cậu ấy ra ngoài và anh sẽ đẩy xe cho cậu ấy, và ta sẽ mang cậu ấy đến đây, cho cậu ấy xem mọi thứ.
Con bé dứt lời, thấy vô cùng hãnh diện về bản thân. Xưa nay, nó chưa bao giờ nói được một thôi một hồi bằng giọng Yorkshire như thế, kể ra thì nó có trí nhớ khá tốt.
- Cô hãy thử nói mấy câu giọng Yorkshire như thế với Colin xem sao. – Dickon cười tủm tỉm. – Cô sẽ làm cậu ấy bật cười và chẳng có gò lợi cho một người ốm bằng được cười cho thỏa thích. Mẹ tôi vẫn bảo bà tin rằng một trận cười thỏa thích trong nửa tiếng mỗi sang sẽ chữa lành một gã sắp lên cơn sốt phát ban.
- Từ giờ hằng ngày, tôi sẽ nói giọng Yorkshire với cậu ấy, - Mary nói, ngay cả nó cũng bật cười.
Khu vườn đã đến thời kỳ mà cứ mỗi ngày mỗi đêm trôi qua, dường như nó được lướt qua bởi cac nhà ảo thuật gia và được họ vung những chiếc đũa thần vẽ nên vẻ yêu kiều trên mặt đất và các cành cây.
Chẳng thể nỡ lòng bỏ mặc khu vườn mà đi, nhất là khi con Hạt dẻ đang rón rén bò trên vạt áo Mary, còn Vỏ sò thì đang bám trên thân cây táo có hai đứa ngồi dưới và cứ ở nguyên đó mà nhìn con bé với đôi mắt dò hỏi.
Khi về đến nhà, Mary tới ngồi bên giường của Colin rồi bắt chước cái điệu khụt khịt của Dickon, mặc dù không được giống cho lắm.
- Người cậu toàn hương hoa, và cả hương gì thật tươi mát nữa, - thằng bé kêu toáng lên vì vui thích, - cậu có mùi gì vừa mát vừa ấm vừa ngọt ngào thế ?
- Đấy là bởi gió từ ngoài đồng hoang đưa đến, - Mary bảo. – Tớ đã ngồi trên bãi cỏ dưới một gốc cây với Dickon và Đại úy và Bồ hóng và Hạt dẻ và Vỏ sò. Mùa xuân đang chờ ngay ngoài cửa và cả nắng ấm cũng có mùi ngào ngạt như thế.
Con bé đã nói câu ấy với giọng Yorkshire đặc sệt nhất, và người ta khó mà hình dung được âm điệu Yorkshire ấy nặng ra sao cho tới khi được nghe ai đó nói ra. Colin bật cười.
- Cậu làm cái trò gì thế? Xưa nay có thấy cậu nói thế bao giờ đâu. Giọng gì mà lạ thế.
- Thì tớ đang thử cho cậu nghe mấy câu theo kiểu Yorkshire mà, - Mary trả lời đắc thắng. – Tớ không thể nói trơn tru như Dickon và Martha, nhưng cậu thấy không, tớ có tiến bộ đấy chứ. Chẳng lẽ cậu không hiểu nổi một vài câu Yorkshire? Và bản thân cậu cũng là một gã Yorkshire được sinh ra và lớn lên ở đây kia mà! Ôi! Tớ tự hỏi sao cậu không thấy ngượng nhỉ?
Dứt lời con bé cất tiếng cười, rồi cả hai cùng cười lăn cười lóc, không sao nín được, cười vang khắp căn phòng khiến bà Medlock vội mở cửa bước vào hành lang và lắng nghe, vô cùng kinh ngạc. -
Ủa! – Bà thốt lên bằng thứ giọng Yorkshire nặng trịch của chính bà, phần vì chẳng sợ ai nghe thấy.
Bà tỏ ra hết sức sửng sốt, - chưa từng thấy! Chẳng một ai trên đời có thể ngờ tới điều này!
Thế là có bao nhiêu chuyện để mà tán dóc. Có vẻ trước đó Colin chưa được nghe thỏa thích về Dickon với mấy con Đại úy, Bồ hóng, Hạt dẻ và Vỏ sò, và nay lại thêm chú ngựa con có tên là Nhảy Phốc nữa. Mary đã phải chạy vòng vèo trong rừng cây với Dickon để tìm con Nhẩy Phốc. Đấy là một con ngựa hoang bé tí sống ngoài cánh đồng, bộ lông bờm rậm rì rủ xuống hai bên mắt, với cái mặt xinh xắn dễ thương, cùng hai cánh mũi mượt như nhung lúc nào cũng rung rung.
Con ngựa này khá gầy guộc vì chỉ sống bằng cỏ ngoài đồng hoang nhưng được cái bền bỉ và dẻo dai, như thể những bắp thịt trong các cẳng chân nhỏ xíu của nó được làm từ những chiếc lò xo thép. Nó ngẩng đầu hí lên khe khẽ lúc trông thấy thằng Dickon, nó chạy nước kiệu tới bên rồi ngả đầu lên vai thằng bé. Dickon nói rủ rỉ vào tai con vật, còn nó đáp lại bằng mấy tiếng khe khẽ lạ lùng, vừa phì nhẹ nhẹ vừa khịt khịt. Dickon bảo nó giơ cái móng guốc phía trước của nó cho Mary bắt và hôn vào má con bé bằng cái mũi ươn ướt mịn như nhung của nó.
- Nó có thực sự hiểu những điều Dickon nói không? – Colin hỏi.
- Có vẻ như nó hiểu, - Mary đáo. – Dickon bảo con gì cũng hiểu được nếu người ta thực tâm làm bạn với nó, mà trước hết phải là bạn bè thật sự cơ.
Colin nằm lặng người giây lát, đôi mắt xám kì lạ của nó dường như đang đăm đắm nhìn vào bức tường, Mary nhận ra nó đang suy nghĩ.
- Tớ ao ước được đánh bạn với tất cả, - cuối cùng nó lên tiếng, - vậy mà tớ không thể. Tớ chẳng có gì để làm bạn, mà tớ thì không thể chịu đựng được con người.
- Cậu không thể chịu đựng được tớ?
- Có chứ, - nó đáp, - chuyện này quả thật lạ lùng, tớ thậm chí còn quý mến cậu. Ông Ben Weatherstaff bảo rằng tớ có cái gì đó giống ông ấy. Ông ấy bảo dám đánh cuộc rằng cả tớ với ông ấy đều có những điểm xấu như nhau. Tớ nghĩ cậu thì cũng giống y ông ấy. Cả ba đều giống nhau – cậu, tớ và ông Ben. Ông ấy nói tớ với ông ấy bề ngoài chẳng có gì hay, cũng cáu kỉnh như nhau. Nhưng giờ tớ không còn thấy bực tức như trước, kể từ khi tớ gặp được chim ức đỏ và Dickon.
- Cậu có cảm giác như thể căm ghét mọi người phải không?
- Đúng vậy, - Mary trả lời không chút màu mè kiểu cách. – Tớ sẽ ghét cậu nếu như tớ gặp cậu trước chim ức đỏ và Dickon.
Colin đưa bàn tay gầy guộc chạm vào người con bé.
- Mary ạ, tớ ước gì chưa bao giờ nói tới việc đuổi Dickon đi. Tớ thấy tức khi cậu bảo cậu ấy tựa một thiên thần và tớ đã nhạo báng cậu, nhưng... nhưng có lẽ cậu ấy như thế thật.
- Chà, cũng thật kỳ, - con bé thẳng thắn thừa nhận, - bởi vì mũi cậu ấy thì hếch, miệng thì rộng ngóac, quần áo lại vá chằng vá đụp , còn hễ nói thì đặc một thứ giọng Yorkshire đặc sệt nhưng... nhưng nếu có một thiên thần hạ cánh xuống Yorkshire mà sống trên cánh đồng hoang... nếu có một thiên thần của xứ sở Yorkshire này... thì tớ tin rằng người ấy sẽ hiểu mọi loại cây và biết làm cho chúng đâm chồi nảy lộc, biết cách chuyện trò với những con thú hoang y như Dickon đang làm và chúng sẽ nhận ra đó chính là người bạn đáng tin cậy.
- Tớ không có ý bắt Dickon đến đây gặp tớ, mà tớ muốn gặp Dickon trước.
- Tớ lấy làm mừng vì cậu đã nói thế, - Mary nói, - bởi vì... bởi vì...
Hoàn toàn bất chợt, trong đầu con bé lóe lên ý nghĩ rằng đây chính là lúc để nói cho cậu bạn biết. Colin cảm nhận có điều gì mới.
- Bởi vì cái gì hả? – Thằng bé kêu to một cách háo hức.
Mary lo lắng tới nỗi nó rời khỏi cái ghế đẩu, tiến tới bên Colin và cầm lấy hai bàn tay nó.
- Tớ có thể tin tưởng ở cậu chứ? Tớ đã tin vào Dickon bởi ngay lũ chim chóc cũng tin vào anh ấy. Liệu tớ có thể tin cậu... một cách chắc chắn... một cách chắc chắn? – Con bé khẩn khoản.
Vẻ mặt nó trông nghiêm nghị đến nỗi thằng Colin gần như phải thì thầm khi trả lời nó.
- Có... có chứ! - Được, Dickon sẽ đến gặp cậu sáng mai, và sẽ mang theo mấy con vật của anh ấy.
- Ôi! Ôi!... – Colin kêu lên vui sướng.
- Nhưng thế chưa hết, - Mary tiếp tục, mặt nó tái đi vì xúc động. – Phần còn lại còn hay hơn nhiều. Có một cánh cửa dẫn vào bên trong khu vườn. Tớ đã phát hiện ra nó từ trước đây. Cánh cửa ẩn khuất dưới đám dây thường xuân trên bờ tường.
Giá là một đứa trẻ khỏe mạnh thì có lẽ Colin đã hét tướng lên: "Hoan hô! Hoan hô! Hoan hô!" nhưng nó còn yếu quá, lại vừa trải qua cơn cuồng loạn; mắt nó mở to và nó phải thở hổn hển để lấy hơi.
- Ôi! Mary này! – Nó kêu to, giọng đượm chút nghẹn ngào. – Rồi tớ sẽ được trông thấy nơi ấy chứ? Tớ sẽ được vào bên trong phải không? Tớ sẽ còn sống để vào trong ấy chứ?
Thằng bé túm lấy hai bàn tay Mary và kéo nó lại gần mình.
- Dĩ nhiên, cậu sẽ được trông thấy nó! – Mary gắt gỏng đầy phẫn nộ. – Dĩ nhiên, cậu sẽ sống để vào trong đó! Đừng có mà ngốc thế!
Con bé thật bình thản, tự nhiên và ngây thơ, đến mức khiến thằng bé kia phải trấn tĩnh lại và bắt đầu tự cười mình. Mấy phút sau, Mary tới ngồi bên chiếc ghế đẩu để kể cho Colin, không phải những gì nó tưởng tượng về khu vườn bí mật, mà là những điều có thực. Thằng Colin quên sạch những đau đớn mệt mỏi và say sưa lắng nghe.
- Đó là những gì cậu nghĩ sẽ là như thế, - cuối cùng thằng bé lên tiếng.
– Nghe như thể cậu đã được nhìn tận mắt vậy. Cậu có nhớ tớ đã nói vậy, hôm cậu kể tớ nghe lần đầu ấy. Mary lưỡng lự ít phút rồi đánh bạo nói ra sự thật.
- Tớ đã trông thấy... và tớ đã từng ở trong đó. Tớ đã tìm thấy chiếc chìa khóa, rồi vào hẳn được bên trong khu vườn từ mấy tuần trước. Nhưng tớ không dám kể cậu nghe. Tớ không dám bởi vì tớ e rằng tớ chưa thể tin tưởng ở cậu... hoàn toàn!.

8/9/2014
Frances Hodgson Burnett
Nguyễn Tuấn Khanh dịch
Theo https://www.truyenngan.com.vn/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Giải mã tục cúng Thần Tài vào mùng 10 tháng giêng âm lịch

Giải mã tục cúng Thần Tài vào mùng 10 tháng giêng âm lịch Khoảng hơn 10 năm trở lại đây, trên báo chí và mạng xã hội thường phản ánh chuyệ...