Thầy Tuệ Sỹ là viên ngọc quý
của Phật giáo và của Việt Nam
HÒA THƯỢNG THÍCH NHƯ ĐIỂN
LỜI GIỚI THIỆU
Tuyển tập
"THẦY TUỆ SỸ LÀ VIÊN NGỌC QUÝ
CỦA PHẬT GIÁO VÀ CỦA VIỆT NAM"
do Đạo Hữu Nguyên Tánh
Nguyễn Hiền Đức biên tập
Nói và viết cũng như ca tụng Thầy Tuệ Sỹ thì lâu
nay đã có quá nhiều bài viết về nhiều thể loại khác nhau như: Văn Hóa Phật
Giáo, Văn Chương, Thi Ca, Âm Nhạc v.v… nhưng để hiểu về tư
tưởng của Thầy Tuệ Sỹ thì cần phải đọc hết tuyển tập này, chúng
ta sẽ có được nhiều nhận xét hơn. Đã là "Viên Ngọc Quý" như cố Hòa
Thượng Thích Trí Thủ nhận xét về Thầy Tuệ Sỹ, Thầy Trí Siêu
Lê Mạnh Thát và Cố Ni Trưởng Thích Nữ Trí Hải, thì còn gì quý
hơn ngọc trên đời nầy nữa mà chúng ta phải viết về những vị Danh Tăng,
Danh Ni nầy; nhưng hôm nay Đạo Hữu Nguyên Tánh Nguyễn Hiền Đức muốn
tôi viết lời giới thiệu tuyển tập nầy về Thầy Tuệ Sỹ thì tôi xin có
vài lời trang trọng giới thiệu như sau.Từ những năm 1969 đến năm 1971 khi tôi ở miền Trung vào Sài
Gòn để học Trung Học đệ nhị cấp tại trường Văn Học và Cộng Hòa thì Thầy
Tuệ Sỹ đang là Chủ Bút tờ Tư Tưởng và là Giáo Sư của Viện Đại Học Vạn
Hạnh rồi. Tôi đã đọc Tư Tưởng của Viện Đại Học Vạn Hạnh từ
dạo đó, mà Thầy Tuệ Sỹ là một Tăng Sĩ trí thức đương thời, khi ai
nghe qua Đạo Hiệu này cũng đều phải thán phục.Rồi những năm sau đó tôi sang Nhật Bản du học, việc
đọc tờ Tư Tưởng không có điều kiện nữa, nên cũng không biết
về sinh hoạt của Thầy Tuệ Sỹ nhiều. Mãi đến những năm 1975 đến 1981
là giai đoạn dầu sôi lửa bỏng của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất phải
đương đầu với sự đàn áp của người cộng sản Việt
Nam thì hình ảnh của chư Tôn Hòa Thượng: Thích Thiện
Minh, Thích Quảng Độ, Thích Huyền Quang, chư Thượng Tọa Tuệ Sỹ,
Trí Siêu, Ni Sư Trí Hải v.v… lại hiện lên rất rõ nét với chúng
tôi, với những Tăng Ni vẫn còn một lòng kiên trinh với Giáo Hội Mẹ
tại quê nhà. Nhất là khi hay tin Thầy Tuệ Sỹ, Thầy Lê Mạnh
Thát bị án tử hình thì hầu như không có cuộc biểu
tình nào tại Bonn (lúc ấy thủ đô của Tây Đức vẫn còn đóng tại Bonn)
mà chúng tôi không tham gia. Cũng từ đó chúng tôi quen
biết được người em gái duy nhất của Thầy Tuệ Sỹ đã từ
Pháp sang Đức tham gia và phát biểu trong những cuộc biểu
tình đối với cộng sản Việt Nam về việc đàn áp này trước
sứ quán của họ. Kể từ đó cho đến nay tôi có được nhân
duyên chỉ để nghe Thầy Tuệ Sỹ qua cặp vợ chồng em gái của Thầy Tuệ Sỹ mà
thôi.
Rồi một hôm nhân đọc quyển "Thần Chú trong Phật Giáo" của
Giáo Sư Lê Tự Hỷ, mà trong đó đa phần giải thích về Phạn Ngữ;
nhưng ngôn ngữ này hầu như tôi không đọc cũng như viết được chữ nào;
nên tôi đã viết E Mail và sau đó là lần đầu tiên trực tiếp điện thoại với Thầy
Tuệ Sỹ, đã được Thầy giải thích cho những từ ngữ về Phạn
Ngữ của bậc “Quảng Học Đa Văn”; nên từ đó đến nay tôi lại
có nhân duyên biết về Thầy Tuệ Sỹ nhiều hơn, mặc dầu Thầy
đang ở tại thất Hương Tích, Việt Nam, trong khi tôi vẫn đang cư
ngụ tại Đức.Nhân duyên khác nữa là tôi phát nguyện đọc bộ Đại
Tạng Kinh bằng chữ Việt, nhan đề là Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng
Kinh. Bộ này có tất cả là 203 tập mà cố Hòa Thượng Thích Tịnh Hạnh đã
cho dịch ra Việt Ngữ từ “Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh” bằng chữ
Hán. Trong đó bộ Tạp A Hàm cũng như nhiều phần khác trong phần đầu của Đại
Tạng Việt này Thầy Tuệ Sỹ đã bỏ công ra phiên dịch từ Hán Văn ra
Việt Ngữ và chú thích rất mạch lạc, hầu như không có một lỗi nào cả.
Thật là quá tuyệt vời. Với công đức to lớn như vậy Thầy Tuệ Sỹ
đã để lại cho Đời và cho Đạo không biết bao nhiêu là giá trị Vô Ngôn.Nay Đạo Hữu Nguyên Tánh Nguyễn Hiền Đức hiện
cư trú tại Nam California Hoa Kỳ, thời trước năm 1975 cũng đã có cơ duyên cộng
tác hỗ trợ Thầy Tuệ Sỹ ở nhiều phương diện qua tạp chí Tư
Tưởng của Đại Học Vạn Hạnh, đã có công sưu tập lại những bài viết
của chính Thầy Tuệ Sỹ và của những học giả, văn nhân, thi sĩ ở trong
cũng như ngoài nước, trước và sau năm 1975 cũng như mãi đến trong hiện tại,
là một việc làm quá sức nhọc nhằn; nhưng đầy ý nghĩa. Do vậy
tôi xin trang trọng cung kính giới thiệu tuyển tập nầy viết về
Thầy Tuệ Sỹ như là một nén tâm hương xin gửi đến để tri ân vị
Thầy vĩ đại của Dân Tộc và của Phật Giáo Việt Nam. Đó là Hòa Thượng Thích
Tuệ Sỹ trong hiện tại của năm 2020 nầy.THÍCH NHƯ ĐIỂNViết xong vào ngày rằm tháng tư năm Canh Tý,nhằm ngày 7 tháng 5 năm 2020, Phật Lịch 2564,Phật Đản Sanh lần thứ 2644tại Phương Trượng Đường Tổ Đình Viên Giác Hannover, Đức Quốc.Nguyễn Hiền ĐứcLỜI THƯAVới Thầy Tuệ Sỹ tôi có những kỷ niệm không thể quên được. Những
kỷ niệm này, sau hơn 50 năm vẫn tươi xanh, vẫn làm tôi bồi hồi xúc động như
ngày nào chỉ có điều nó lắng đọng một cách sâu sắc và âm vang mãi trong tôi. Nó
khiến tôi tha thiết mong được là người học trò bé nhỏ của Thầy. Tôi thấy
mình rất đỗi may mắn và hãnh diện vì có được một người
Thầy, một Ân Sư như thế.Tôi làm việc ở Tòa Viện Trưởng Viện Đại Học Vạn Hạnh,
có thời gian làm thư ký cho Ôn Minh Châu - Viện
trưởng, rồi làm Trưởng phòng Tu Thư, có mấy năm giúp việc cho Thầy Nguyên
Tánh Phạm Công Thiện, rồi Thầy Tuệ Sỹ với nhiệm vụ là Thư ký Tòa
soạn tạp chí Tư Tưởng mà hai vị Thầy này là Chủ bút.Những năm ở Viện Đại Học Vạn Hạnh, (1966-1975) cũng
như nhiều người khác, chúng tôi gọi bằng “Chú” các Sư còn rất trẻ như
Chú Sỹ, Chú Chiến (cố Hòa thượng Trung Hậu), Chú Cư (Hòa thượng Phước
An), Chú Lạc (Hòa thượng Chơn Nguyên)…Tôi thường tìm một lý do nào đó để tò mò đến "coi"
Chú Tuệ Sỹ đang đứng trên bục giảng của Phân khoa Phật Học. Lúc này “Chú”
mới 22 tuổi đời với vầng trán cao rộng, đôi mắt sâu rực sáng và nụ cười hồn hậu,
trẻ thơ và vô tư đến lạ. Sau đó thì Chú Tuệ Sỹ là Khoa trưởng Phân
khoa Phật Học Viện Đại Học Vạn Hạnh. đó là một Khoa trưởng trẻ
nhất của tất cả các đại học trong nước. Rồi đến năm 1970, Hội Đồng Viện Đại
Học Vạn Hạnh - cũng xin thưa thêm rằng Hội Đồng Viện Đại
Học Vạn Hạnh là tổ chức cao nhất của Trường gồm có Viện trưởng,
hai Phó Viện trưởng, các Khoa trưởng, Phó khoa trưởng của các phân khoa và Thư
Viện trưởng, Giám đốc các Trung tâm như Trung Tâm An Sinh
- Xã Hội, Trung tâm Sinh Viên Vụ, Trung tâm Ngoại ngữ,
Giám đốc Ấn Quán Vạn Hạnh - đã biểu quyết 100% đặc
cách phong Thầy Tuệ Sỹ là Giáo sư Thực thụ. Giáo sư Thực thụ là học hàm học vị
cao nhất của Trường. Quyết định quan trọng và đáp ứng yêu cầu nghiêm
ngặt về học thuật này của Hội Đồng Viện Đại Học Vạn
Hạnh là căn cứ vào những công trình nghiên cứu và
những khảo luận triết học có giá trị rất cao, như Đại
Cương Về Thiền Quán, Triết Học Về Tánh Không của
Thầy Tuệ Sỹ - ngay từ hồi còn rất trẻ, quá trẻ, Thầy Tuệ Sỹ là một học giả uyên
bác về Phật Giáo Nguyên Thủy và Đại Thừa. Thầy rất giỏi về
chữ Hán và biết nhiều ngoại ngữ như Anh, Pháp, Đức, thông thạo tiếng
Pali và tiếng Phạn.Và, ở vào độ tuổi chưa đến ba mươi, sau khi Cụ Trúc Thiên, dịch
xong cuốn Thiền Luận - tập Thượng mất thì Thầy Tuệ Sỹ là người có đủ
"thẩm quyền" nhất để dịch tiếp tập Trung và tập Hạ của bộ sách nổi tiếng này.
Năm 1973, Thầy Tuệ Sỹ tặng tôi tập Hạ cuốn Thiền Luận; Thầy ghi: Bản
Nguyễn Hiền Đức - Tuệ Sỹ với hàng gạch phía dưới. [Đức là tên vợ
tôi, hồi đó là nhân viên Phân khoa Giáo Dục Đại Học Vạn Hạnh].
Tôi vui mừng và cảm động lắm nên sau này khi làm các bộ tuyển
tập hoặc tập tễnh viết lách gì đó tôi đều ghi tên là Nguyễn Hiền Đức.Ôn Mãn Giác - Phó Viện trưởng Điều hành Đại
học Vạn Hạnh rất quý trọng Thầy Tuệ Sỹ nên có lần đã nói: "Tuệ
Sỹ đã tu từ ngàn kiếp trước, Phật Giáo Việt Nam phải đợi tới 350
năm mới có một Thiền sư uyên bác như Tuệ Sỹ".Cách đây mấy năm tôi mới làm Tuyển tập Tuệ Sỹ. Xin niệm ân
bài viết ngắn gọn mà sâu sắc, rất đáng tin cậy của Thầy Phước
An, rồi bài của Văn Công Tuấn và đoạn này của Giáo sư Nguyễn Minh Cần, trong
bài "Đọc Thơ Tù Của Thầy Tuệ Sỹ" đã viết:"Vừa qua, được đọc mấy bài thơ chữ Hán của thầy Tuệ Sỹ đăng
trên tờ Khánh Anh ở Paris (10.1996) với lời giới thiệu của Huỳnh Kim
Quang, lòng tôi rất xúc động. Nghĩ đến thầy, nghĩ đến một tài năng của
đất nước, một niềm tự hào của trí tuệ Việt Nam, một nhà Phật học uyên
bác đang bị đầy đọa một cách phi pháp trong cảnh lao tù kể từ
ngày 25.3.1984, lòng tôi trào dậy nỗi bất bình đối với những kẻ đang tay vứt
"viên ngọc quý" của nước nhà (xin phép mượn từ này trong lời nhận
xét của học giả Đào Duy Anh, sau khi ông đã tiếp xúc với
thầy tại Nha Trang hồi năm 1976: "Thầy là viên ngọc quý của Phật giáo và
của Việt Nam") để chà đạp xuống bùn đen... Đọc đi đọc lại, tôi
càng cảm thấy rõ thi tài của một nhà thơ hiếm thấy thời nay và đặc
biệt là cảm nhận sâu sắc tâm đại từ, đại bi cao thượng,
rộng lớn của một tăng sĩ với phong độ an nhiên tự tại,
ung dung bất chấp cảnh lao tù khắc nghiệt... Đạo vị và thiền
vị cô đọng trong thơ của thầy kết tinh lại thành những hòn ngọc báu của
thơ ca".Về Cụ Đào Duy Anh có lẽ không cần phải giới thiệu nhiều.
Ai cũng biết Cụ đã có những đóng góp to lớn, đã rực sáng về nhiều lĩnh vực. Cụ
là một trong những người có công xây dựng nền khoa học xã hội -
nhân văn hiện đại của Việt Nam; Cụ là một nhà từ điển học đặt cơ
sở cho nền từ điển học hiện đại Việt Nam. Tác phẩm "Việt
Nam Văn Hóa Sử Cương" của Cụ cùng với "Văn Minh
An Nam" (La Civilization Annamite, 1944) của Giáo sư Nguyễn Văn Huyên
là những công trình khoa học đặt nền tảng cho sự hình thành nền văn
hóa học hiện đại Việt Nam một cách khoa học. Về lĩnh vực sử
học, Cụ đã tiến hành nhiều đề tài nghiên cứu rất cơ bản về lịch
sử Việt Nam, nhất là về lịch sử cổ đại và trung đại… Nói tóm
lại, Cụ xứng đáng được tôn vinh là nhà văn hóa lớn, nhà bách
khoa, nhà giáo dục lớn của Việt Nam.Trong nhiều "nhận định" về Cụ Đào Duy Anh, tôi chọn ý kiến này
của GS Phan Ngọc: "Đào Duy Anh là học giả lớn nhất Việt
Nam thế kỷ XX và có uy tín quốc tế. Ông là người thực sự mở đầu
cho nhiều ngành khoa học xã hội và nhân văn Việt Nam theo quan
điểm duy vật… Có thể nói không một người nào trong nước hay ngoài nước nghiên
cứu văn hóa, xã hội, lịch sử Việt Nam mà lại không đọc
những công trình của ông, thậm chí không dựa vào những kiến
giải của ông để làm việc".Tâm đắc về những cảm nhận như đã nêu nên tôi làm Tuyển tập: "THẦY TUỆ SỸ LÀ VIÊN NGỌC QUÝ CỦA PHẬT GIÁO VÀ CỦA VIỆT NAM".Xin trở lại với bài của Thầy Thích Phước An về cuộc
hội ngộ lịch sử kỳ tuyệt giữa Cụ Quách Tấn, Cụ Đào Duy Anh và Thầy Tuệ
Sỹ tại Nha Trang, tháng 6 năm 1976. Và sau đó, Cụ Đào vào Sài Gòn gặp học
giả, nhà văn Nguyễn Hiến Lê. Sự chọn lựa này của Cụ Đào Duy Anh đã nói
lên ý nghĩa và tầm vóc của hai người mà mình cần gặp, phải gặp. Tôi
thầm nghĩ rằng nay Cụ Đào đang bay ở chân trời xa xăm, cao rộng ấy, Cụ
đã mỉm cười thỏa lòng khi đã gặp Thầy Tuệ Sỹ và học giả Nguyễn
Hiến Lê năm nào.Thầy Phước An viết: "Khi tiễn Đào Duy Anh xuống núi, ông cứ
đi một đoạn là dừng lại bắt tay anh Tuệ Sỹ, những cái bắt tay rất chặt. Cứ như
vậy ông bắt tay cho đến khi xuống cuối giốc chùa mới thôi. Điều ấy chứng
tỏ rằng Đào Duy Anh rất trân trọng về cuộc gặp gỡ này.Có một bài thơ của Quách Tấn, mà tôi nghĩ có thể tạm giải
thích được. Ít nhất là trong trường hợp Quách Tấn và
Tuệ Sỹ. Bài thơ ấy như thế này:Bao phen bến hẹn đổi dời,
Làng phong tao vẫn con người thủy chung.
Gió lau thổi lạnh sóng tùng,
Hương xưa thắm lại cụm hồng ngày xưa.
Phải chăng chỉ vì muốn "thủy chung" với "cụm hồng ngày
xưa" ấy, mà Quách Tấn và Tuệ Sỹ phải chấp nhận số phận lao đao của
mình?".Xin thưa thêm rằng, Cụ Đào Duy Anh cũng đã phải gánh chịu cái
số phận lao đao, nghiệt ngã của mình từ năm 1957, qua vụ án "Nhân Văn Giai
Phẩm"!Cuộc hội ngộ lịch sử và tuyệt đẹp giữa Cụ
Đào Duy Anh - Thầy Tuệ Sỹ diễn ra năm Cụ Đào đã 72 tuổi và Thầy Tuệ Sỹ mới 33
tuổi. Một già một trẻ cách nhau gần 40 năm, thế mà đối đãi như
hai người bạn chí cốt, tri kỷ tri âm tự thuở nào. Chỉ có những Thiền
sư, những kẻ sĩ, những bậc trượng phu, những bậc quân tử của Đông
phương trầm mặc mới tương kính nhau, mới quý trọng nhau một cách
khiêm cung và sâu sắc đến thế.Bộ Tuyển tập Thầy Tuệ Sỹ chúng tôi đã hoàn
thành từ hơn hai năm qua, gồm có 4 cuốn mang tên "Tuệ Sỹ - Những
Phương Trời Viễn Mộng" đã có trên một số Trang Nhà Phật giáo. Còn tập
thứ 5 này chúng tôi là Nguyên Tánh Nguyễn Hiền Đức và Nguyên Đạo Văn
Công Tuấn giữ lại vì sợ nội dung có vẻ như "tán thán", "ca tụng" này sẽ làm Thầy
Tuệ Sỹ ngại ngùng, phiền trách. Bản thân tôi trong nhiều năm được
gần gũi, được giúp việc cho Thầy, còn Văn Công Tuấn thì được Thầy gọi là "Người
Em Nhỏ" nên hai chúng tôi thấu hiểu và kính phục phong cách sống "Vô
cầu" của Thầy. Nhưng nay thì "Duyên" đến, tôi liền bổ sung một số bài viết mới
để dần hoàn chỉnh tập này và mong muốn được chia sẻ với các chư vị. Cái "Duyên"
đó đến từ việc tôi đọc tác phẩm thứ 67 của Thầy Như Điển: "Vua Là Phật,
Phật Là Vua" trong đó có đoạn Thầy Như Điển viết về các "nhân vật lịch sử" của
Viện Đại học Vạn Hạnh như cố Ni trưởng Thích Nữ Trí
Hải, Thầy Tuệ Sỹ, Thầy Lê Mạnh Thát mà cố Hòa thượng Thích Trí
Thủ gọi là những viên Kim Cương quý giá của Phật giáo Việt
Nam, Xin dẫn đoạn về Thầy Tuệ Sỹ:Về Thầy Tuệ Sỹ:
"… Còn Thầy Tuệ Sỹ với mình hạc xương mai; nhưng tư tưởng của
Thầy thì cao hơn núi Thái và vững hơn bàn thạch, sáng giá hơn kim cương, dầu
cho Thầy có sống ở dưới bất cứ hoàn cảnh nào. Những bộ kinh như: Trường
A Hàm, Trung A Hàm, Tạp A Hàm, Tăng Nhất A Hàm, Duy Ma Cật Sở
Thuyết v.v… là những tài liệu, dịch phẩm có giá trị muôn đời
về sau nầy cho Phật giáo cũng như cho Dân Tộc.”Vâng, Thầy Tuệ Sỹ thật sự là một viên ngọc quý của Phật
giáo và của Việt Nam. Ai trong chúng ta mà không kính
trọng và ngưỡng mộ Thầy và chúng ta luôn tin chắc rằng
Thầy sẽ tồn tại lâu dài ở một vị trí rất cao, rất sáng
trong lòng nhiều người, nhiều thế hệ trong và ngoài nước.Tôi tạm dừng ở đây để đọc lại bài Tựa cuốn "Thắng Man Giảng
Luận" của Thầy Tuệ Sỹ. Một bài Tựa rất ngắn, như không thể nào ngắn
hơn, nhưng âm vang của nó thì khôn cùng những tâm, những tình, những chí
nguyện. Tôi rất thích câu kết dưới đây trong bài Tựa đó: “Từ đó cho đến nay,
một hoặc nhiều thế hệ đã ra đi, biến mất trong bóng tối của đêm
dài sinh tử; nhiều thế hệ mới ra đời. Phôi bào trong Như
Lai tạng vẫn liên tục kết rồi rã, thành rồi hoại. Dòng tương
tục vẫn tiếp nối không ngừng.Năm tháng vẫn như nụ cười trong mộng".Tập này là bản thứ hai tôi gửi để xin ý kiến Thầy
Như Điển. Trong thời gian thực hiện Tuyển tập này, tôi cung
kính niệm ân về sự quan tâm đặc biệt của Thầy Như Điển, như
Thầy đã viết trong thư:"Rất cảm phục Anh đã dày công nghiên cứu,
sưu tầm những bài viết của các học giả, Văn, Thi nhân nổi tiếng của Việt
Nam ở trong cũng như ngoài nước, Tăng cũng như Tục. Đồng thời Anh
cũng đã trích nhiều bài viết của Thầy Tuệ Sỹ. Như vậy theo tôi nghĩ cũng đã
có giá trị rất cao cho tuyển tập này rồi.Những bài được chọn đăng trong tuyển tập nầy về Thầy Tuệ Sỹ
do Anh thực hiện, tôi đã đọc rải rác đó đây khi có dịp xem sách báo. Do vậy
những giá trị thực tiễn nầy thiết nghĩ không có gì để luận
bàn thêm nữa. Tuy nhiên, Anh nên nhờ người xem kỹ lại, trước khi cho
xuất bản. Vì lẽ còn nhiều lỗi chính tả… [Ghi chú thêm: bản này đã nhờ
cô Hoa Lan dò lại rất kỹ (NHĐ)]. Khi nào hoàn chỉnh, xin Anh gửi lại cho
tôi một lần nữa để cho đi trên trang nhà viengiac.de".Còn Bác Sĩ Đỗ Hồng Ngọc thì viết: "Đúng là bài Tuệ
Sỹ viết về Cõi Phật Đâu Xa rất tuyệt vời. Anh Ngọc đọc lại
mà cứ giựt mình. Ổng hiểu mình còn hơn cả mình".Rồi các Anh, Chị Nguyên Giác Phan Tấn Hải, Bác Sĩ Thân
Trọng Minh, Nguyễn Minh Tiến, Lương Thư Trung, Nguyễn Thị Khánh Minh, Nguyễn Thị Thanh
Lương, Trần Thị Nguyệt Mai… đã ân cần khích lệ tôi rất nhiều.Tôi muốn nói lời đặc biệt cám ơn chí tình đến Nguyên
Đạo Văn Công Tuấn - là người đã cùng tôi thực hiện 4 Tuyển tập
"Tuệ Sỹ - Những Phương Trời Viễn Mộng"; và Tuyển tập thứ năm này cũng do
anh dày công biên tập, chỉnh lý, trình bày mặc dầu anh rất
bận rộn. Tôi thực sự vui mừng và an tâm về điều này.Tôi lại quá đỗi vui mừng khi thông qua Sư
huynh chúng tôi là anh Phù Vân, nhà văn Hoa Lan đã
"vào cuộc" để biên tập 450 trang của Tuyển tập này. Hoa Lan
đã mất biết bao thời gian, công sức, trí tuệ kể cả sự đam
mê khi chỉnh lý Tuyển Tập Thầy Tuệ Sỹ là viên ngọc quý của Phật
giáo và của Việt Nam này.Khi làm Tuyển tập này, tôi đã có rất nhiều niềm hỷ lạc,
những lợi lạc làm cho tâm hồn tôi thanh thản, thư
thái, bình an. Thử hỏi còn gì quý hơn trong những ngày đầy lo toan
và phiền muộn của cơn đại dịch CoViD 19 này.Tháng 3-4 năm 2016Nguyễn Hiền Đức
Rồi những năm sau đó tôi sang Nhật Bản du học, việc
đọc tờ Tư Tưởng không có điều kiện nữa, nên cũng không biết
về sinh hoạt của Thầy Tuệ Sỹ nhiều. Mãi đến những năm 1975 đến 1981
là giai đoạn dầu sôi lửa bỏng của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất phải
đương đầu với sự đàn áp của người cộng sản Việt
Nam thì hình ảnh của chư Tôn Hòa Thượng: Thích Thiện
Minh, Thích Quảng Độ, Thích Huyền Quang, chư Thượng Tọa Tuệ Sỹ,
Trí Siêu, Ni Sư Trí Hải v.v… lại hiện lên rất rõ nét với chúng
tôi, với những Tăng Ni vẫn còn một lòng kiên trinh với Giáo Hội Mẹ
tại quê nhà. Nhất là khi hay tin Thầy Tuệ Sỹ, Thầy Lê Mạnh
Thát bị án tử hình thì hầu như không có cuộc biểu
tình nào tại Bonn (lúc ấy thủ đô của Tây Đức vẫn còn đóng tại Bonn)
mà chúng tôi không tham gia. Cũng từ đó chúng tôi quen
biết được người em gái duy nhất của Thầy Tuệ Sỹ đã từ
Pháp sang Đức tham gia và phát biểu trong những cuộc biểu
tình đối với cộng sản Việt Nam về việc đàn áp này trước
sứ quán của họ. Kể từ đó cho đến nay tôi có được nhân
duyên chỉ để nghe Thầy Tuệ Sỹ qua cặp vợ chồng em gái của Thầy Tuệ Sỹ mà
thôi.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét