Nguồn gốc, bản chất của văn nghệ
Văn
chương, cũng như các loại hình nghệ thuật khác, không phải là của cải vật chất
của xã hội, cũng không phải là một lực lượng trực tiếp trực tiếp sản sinh ra
một giá trị vật chất nào cho đời sống xã hội. Nhưng chúng ta sẽ không hình dung
nổi một xã hội mà ở đó không có sự tồn tại của văn chương nghệ thuật.. Chỉ bởi,
văn chương nghệ thuật chiếm giữ một vai trò cực kỳ to lớn trong đời sống tinh
thần của con người. Ðể tồn tại và phát triển, con người không chỉ cần "ăn
ở" mà còn cần cả "múa hát". Ý thức được vai trò, giá trị của văn
nghệ trong đời sống của mình, con người từ xa xưa đã muốn tìm hiểu để nắm được
bản chất, quy luật, đặc trưng đặc điểm của văn nghệ hầu làm chủ nó, thúc đẩy nó
phát triển.
Mối
quan tâm trước nhất của con người đối với văn nghệ là nguồn gốc, bản chất của
nó.
Tìm
hiểu nguồn gốc của văn nghệ là tìm hiểu tác nhân chủ yếu đầu tiên nào đã làm
cho văn nghệ này sinh và phát triển. Tức là xác định khởi điểm những mâu chuẩn
đối lập nội tại và ngoại tại nào làm cho văn nghệ này sinh và phát triển.
Từ
hàng nghìn năm nay, loài người đã có nhiều cách giải thích khác nhau về nguồn
gốc văn nghệ. Nhưng tựu trung, đều có thể quy về hai loại quan điểm: quan điểm
duy tâm và quan điểm duy vật về nguồn gốc văn nghệ.
a. Quan niệm tôn giáo về nguồn gốc nghệ thuật.
Các
quan niệm tôn giáo về nguồn gốc nghệ thuật rất đa dạng nhưng đều thống nhất ở
một điểm là cho rằng : cái đã làm cho văn nghệ nảy sinh là một lực lượng siêu
nhiên, thần kỳ ngoài đời sống con người.
-
Quan niệm thần thoại
Thần thoại Phương Ðông (Ấn Ðộ, Trung Quốc…) Thần thoại Phương Tây
(Hy Lạp…) đều giải thích nguồn gốc thơ ca là do các vị thần nhà trời tạo ra. Từ
quan niệm các thần trên thiên đình tạo ra nghệ thuật đã đưa đến quan niệm khá
phổ biến trong sáng tác là "thần hứng" , được nhiều người tán đồng.
Theo quan niệm này thì các nghệ sĩ bỗng dưng cảm xúc trào dâng đã sáng tác được
những tác phẩm nghệ thuật tuyệt vời. Ấy chính là lúc "thần hứng" đã
nhập vào người họ, "nàng thơ" đã đến với họ. Chứng cớ là có nhiều tác
phẩm nghệ thuật tuyệt diệu ra đời trong những giấc mơ như các bản nhạc của Tác
- ti - ni, của Sô - panh …
-
Thuyết ma thuật
Một quan niệm có tính chất tôn giáo nữa là
thuyết ma thuật. Ma thuật là một hình thức của tôn giáo nguyên thủy. Ma thuật
là những nghi lễ nhằm tác động hư ảo vào tự nhiên khi con người bất lực trước
tự nhiên. Người nguyên thủy gán cho các hiện tượng tự nhiên khó hiểu ma lực. Họ
thường hay cầu nguyện, tế lễ, ca hát, nhảy múa để cầu mong sự phù hộ của lực
lượng siêu phàm nào đó. Chẳng hạn, người nguyên thủy cho rằng nhật thực là điềm
báo tai họa, vì vậy, phải nổi trống, chiêng lên để xua đuổi ác quỷ. Ðể cầu mong
thần linh và tạ ơn thần linh giúp đỡ trước và sau lúc săn bắt, họ có lễ cầu
nguyện tế các thần. Tục đeo móng vuốt, răng, da của các loài thú dữ là để làm
bùa hộ mệnh. Một số học giả cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, tiêu biểu là Reinach
ở Pháp và Nga, đã căn cứ vào nghi tiết phù chú của ma thuật nguyên thủy để cho
rằng nghệ thuật ra đời từ ma thuật.
Như
đã nói, sai lầm cơ bản của quan niệm tôn giáo về nguồn gốc nghệ thuật là ở chỗ
cho rằng nghệ thuật nảy sinh do yếu tố siêu nhiên cách xa đời sống con người.
Việc
các nhà nghệ thuật và khoa học sản sinh ra được những tác phẩm, những công
trình xuất sắc từ giấc mơ là có thật. Nhưng đó không phải do ma lực mà chính là
do năng lực của chính người sáng tác. Khoa học đã chứng minh rằng, trong khi
ngủ một vùng nào đó của bộ óc các nhà nghệ sĩ và khoa học vẫn hoạt động.
Ma
thuật nguyên thủy là có thật. Người nguyên thủy do chưa làm chủ được tự nhiên
và bản thân mình trên thực tế, nên đã phải làm chủ nó, chiến thắng nó bằng ảo
tưởng. Thế giới quan thần linh chủ nghĩa đã chi phối mạnh mẽ đời sống người
nguyên thủy. Thế giới quan thần linh chủ nghĩa là sự phản ánh hư ảo trong đầu
óc con người những lực lượng bên ngoài thống trị họ, trong sự phản ánh đó những
lực lượng trần thế mang hình thức các lực lượng siêu phàm. Ðiều đó đã phản ánh
tình trạng bất lực của con người trước các lực lượng khủng khiếp và bí ẩn của
tự nhiên.
Như
vậy, tôn giáo ra đời là do con người khiếp nhược trước tự nhiên. Còn nghệ
thuật, như mọi người đều biết là phương tiện khẳng định cuộc sống. Nghệ thuật
đưa lại cho con người những cảm xúc trái ngược với tôn giáo. Hơn nữa, cần phải
thấy rằng tôn giáo thời nguyên thủy khác xa với tôn giáo trong xã hội có giai
cấp. Trong xã hội có giai cấp, tôn giáo bị lợi dụng làm phương tiện ru ngủ và
áp bức quần chúng. Thời nguyên thủy, đằng trong bộ áo duy tâm ấy là cả hạt nhân
thực tiễn: vì cuộc sống thực sự của chính người nguyên thủy. Cầu nguyện tế lễ
là mong cho các cuộc săn bắt đạt được kết quả hơn ; Ðeo móng vuốt hổ, gấu là để
mong có sức mạnh như chúng, là chiến tích; xâm mình là để ngụy trang.
b. Quan niệm bản năng về nguồn gốc nghệ thuật.
- Thuyết bản năng du
hí.
Ðây là thuyết duy tâm về nguồn gốc nghệ thuật
thịnh hành và có ảnh hưởng nhất ở Tây Âu. Kant (1724 - 1801), nhà triết học duy
tâm chủ quan Ðức, cho rằng tác phẩm nghệ thuật là một cứu cánh nội tại, không
có mục đích ý nghĩa nào ngoài bản thân nó, nghệ thuật là một trò chơi không vụ
lợi. Schiller (1759 - 1805), nhà văn Ðức, cũng cho rằng đặc trưng của cảm thụ
thẩm mĩ là xu hướng tự do vui vẻ. Yếu tố kích thích thứ nhứt và quyết định của
sáng tác nghệ thuật là xu hướng du hí bẩm sinh của con người. Spencer (1820 -
1903), nhà triết học và xã hội học Anh, bổ sung vào học thuyết của Schiller lí
luận về sự phát tiết của sinh lực thừa. Theo ông, ở động vật bậc cao và
ở con người, sinh lực rất dồi dào, nó không thể tiêu hao hết cho nhu
cầu sinh tồn, phần dư thừa phải phát tiết ra ngoài. Con hổ vồ mồi, con mèo chạy
vờn theo cuộn len, con mèo vờn chuột… là những hình thức của sự tiêu hao sinh
lực thừa. Những cái đó là vô mục đích. Nghệ thuật ở mức độ cao hơn, nhưng xét
nguồn gốc thì thực chất cũng là một thứ trò chơi vô mục đích, là sự phát tiết
sinh lực thừa.
Một
số học giả duy vật dung tục lại dựa trên một số nhận xét của Darwin (1809 -
1882), nhà bác học sinh vật Anh về bản năng tự làm đẹp của động vật để đề ra
thuyết bản năng mỉ cảm ở con người. Bản năng mỉ cảm ở con người vốn là bản năng
bẩm sinh, bản năng sinh vật chứ không phải là ý thức xã hội.
Như
vậy, tóm lại là, các ý kiến của Kant, Schiller, Spencer là để sống, con người
cần lao động. Nhưng lao động là ách đè nặng lên con người. Con người chỉ có
niềm vui khi thoát khỏi lao động, sống trong vui chơi. Nghệ thuật là một loại
hoạt động vui chơi. Nghệ thuật làm cho người ta thoát khỏi mọi ràng buộc của
đời sống.
Cách
lí giải của những người theo thuyết bản năng du hí trên đây có những yếu tố khả
dĩ chấp nhận được. Ví dụ: Yếu tố vui chơi là một đặc trưng quan trọng của văn
nghệ. Nhưng nếu xem vui chơi là mục đích là "cứu cánh" thì lại không
đúng. Ðiều đó sẽ tạo nên sự đối lập giữa văn nghệ và lao động. Cũng tức là đối
lập văn nghệ với con người và xã hội loài người. Thuyết bản năng mĩ cảm đã vô
hình trung hạ thấp con người xuống hàng con vật. Con người khác con vật ở chỗ
là có ý thức. Theo cứ liệu của khảo cổ học, dân tộc học, thì ý kiến mĩ cảm là
bản năng bẩm sinh của con người, lại càng không có chỗ đứng. Con người với công
cụ bằng đã đã xuất hiện cách đây 2 triệu rưỡi năm. Nhưng các hiện tượng nghệ
thuật nguyên thủy xuất hiện cách đây dưới 4 vạn năm, còn những hiện tượng nghệ
thuật đích thực xuất hiện cách đây dưới 18.000 năm. Ðiều đó có nghĩa là nghệ
thuật chẳng những không xuất hiện đồng thời với con người mà còn xuất hiện cách
xa hàng triệu năm so với sự xuất hiện con người. Nếu là bản năng bẩm sinh thì
con người và nghệ thuật đã xuất hiện cùng một lúc.
- Thuyết
bản năng bắt chước.
Thuyết này do các nhà bác học cổ đại đề xướng.
Démocrite (460 - 370 trước CN), nhà triết học duy vật cổ đại Hy Lạp cho rằng
con người bắt chước tiếng chim hót để làm ra tiếng hát, bắt chước ong xây tổ để
làm ra nhà cửa. Aristote (384 - 322 trước CN) cũng là nhà triết học duy vật Hy
Lạp, cho rằng bắt chước đem lại nhận thức và niềm vui. Ông cho rằng, có 2
nguyên nhân là nguồn gốc thơ ca. Một là thiên tính bắt chước của nhân loại, hai
là thiên tính hiểu biết của nhân loại. Ông khẳng định : "nghệ thuật là sự
bắt chước tự nhiên". Sau này, người ta xuyên tạc ý kiến của Aristote, chủ
trương văn nghệ bắt chước máy móc, lệ thuộc vào bề mặt sự vật, rồi từ đó đi đến
giải thích nguồn gốc nghệ thuật là sự bắt chước có tính chất bản năng của con
người.
Thuyết
"bắt chước" của các nhà triết học Hy Lạp cổ đại đã chỉ ra được nguyên
nhân khách quan của nhận thức, sáng tạo nghệ thuật. Nhưng đã xem nhẹ tính tích
cực sáng tạo của nghệ sĩ. Nghĩa là chưa thấy nguyên nhân chủ quan. Còn những
người sau này xem văn nghệ là sự bắt chước giản đơn các hiện tượng tự nhiên thì
họ đã hạ thấp nhận thức và sáng tạo nghệ thuật ở con người xuống hàng bản năng
sinh vật.
Mĩ
học tư sản hiện đại cũng đề xướng nhiều học thuyết khác nhau về nguồn gốc nghệ
thuật. Chẳng hạn, thuyết bản năng tính dục. Thuyết này do bác sĩ tâm thần người
Ðức là Freud (1856 - 1939) đề xướng. Ông cho rằng sự ẩn ức về tính dục đến mức
nào đó sẽ thăng hoa thành động lực sáng tạo nghệ thuật ở nghệ sĩ.
Ðiều
hiển nhiên mọi người đều nhận thấy là con người trực tiếp làm ra nghệ thuật.
Cho nên tìm hiểu nguồn gốc nghệ thuật sẽ là tìm hiểu nguyên nhân nào kích thích
con người làm ra nghệ thuật. Do đó, việc truy tìm nguồn gốc nghệ thuật khiến
chúng ta đi cùng đường với việc truy tìm nguồn gốc loài người.
Truy
tìm nguồn gốc nghệ thuật là một việc làm hết sức khó khăn. Bởi vì nguồn gốc
nghệ thuật là chuyện đã lùi quá xa xăm vào dĩ vãng. Phương pháp của chúng ta là
căn cứ vào cứ liệu của dân tộc học, khảo cổ học, kết hợp với phép phân tích
biện chứng Mác - xít.
a. Lao động sáng tạo ra con người như là chủ thể
của thế giới.
Con người trong thời kỳ mông muội xa xưa nhất
chỉ là con vật, một bộ phận của tự nhiên. Nhưng để cạnh tranh sinh tồn với tự
nhiên con người đã tác động vào tự nhiên để cải tạo nó. Trong quá trình đó, con
người đồng thời tự cải tạo mình. Trong Tư bản, Mác viết: "Lao động trước
tiên là hành động diễn ra giữa người với tự nhiên. Trong hành động đó,
bản thân con người đóng vai trò một lực lượng tự nhiên đối với tự nhiên. Con
người vận dụng những lực lượng sẵn có trong thân thể, cánh tay và chân, đầu và
bàn tay để chiếm hữu vật chất, bằng cách sáng tạo cho những vật đó một hình
thái có ích cho đời sống của mình. Do sự vận động đó, con người tác động vào tự
nhiên bên ngoài và thay đổi tự nhiên , đồng thời cũng thay đổi bản tính của
chính mình và phát triển những năng lực tiềm tàng trong bản thân mình. Như thế,
từ chỗ là một lực lượng của tự nhiên con người đã trở thành chủ thể
của tự nhiên; từ chỗ phải cải tạo tự nhiên con người đã đi đến chỗ tự cải tạo
mình. Chính lao động đã làm nên con người và xã hội loài người.
b.Lao động sáng tạo ra con người như là chủ thể
thẩm mĩ.
Nhưng vậy thì, lao động có liên quan gì đến việc làm ra nghệ thuật
của con người? Quá trình lao động sáng tạo ra con người là một quá trình diễn
ra từ từ và rất lâu dài, hàng chục triệu năm: từ chỗ con vượn đến, vượn người,
đến người vượn, đến con người bầy đàn, đến con người xã hội. Quá trình đó, con
người phát triển và hoàn thiện, không chỉ kỉ năng lao động - khả năng to lớn
tác động vào tự nhiên để kiếm sống mà còn khả năng đáng giá tự nhiên về cái đẹp
và sáng tạo ra cái đẹp cho tự nhiên - tức là khả năng làm chủ thế giới về mặt
thẩm mĩ.
Chính
lao động làm cho các "khí quan" của con người phát triển và hoàn
thiện, tư duy và ngôn ngữ hình thành, từ đó, tạo tiền đề cho cho văn nghệ ra
đời. Ðể làm ra văn nghệ con người còn có bàn tay kì diệu.
- Lao động đã làm ra bàn tay nghệ sĩ của con
ngườiù.
Ăngghen viết: "Bàn tay không những là khí
quan dùng để lao động mà còn là sản phẩm của lao động nữa. Chỉ nhờ có
lao động, nhờ thích ứng với động tác ngày càng mới, nhờ sự di truyền của sự
phát triển đặc biệt đã đạt được bằng cách đó của các bắp thịt, của các gân cốt,
sau những khoảng thời gian dài hơn, của cả xương nữa, và cuối cùng nhờ tinh
luyện thừa hưởng được của các thế hệ trước mà áp dụng nhiều lần liên tục vào
những động tác ngày càng mới, ngày càng phức tạp hơn, chỉ nhờ có thế, bàn tay
con người mới đạt được trình độ hoàn thiện rất cao đó, khiến nó có thể, như một
sức mạnh thần kỳ, sáng tạo ra các bức tranh của Rafael, các pho tượng của
Thorwaldsen, và các điệu nhạc của Paganini". Bàn tay nghệ sĩ
thoát thai từ bàn tay lao động là như vậy.
-
Lao động sáng tạo ra bộ óc và các giác quan ngệ sĩ của con người.
Ðể
làm ra nghệ thuật, không chỉ có bàn tay mà cần phải có bộ óc và các giác quan.
Chính lao động đã làm cho bộ óc con người phát triển, ngôn ngữ phát triển, các
giác quan ngày một tinh tế. Aêngghen nói: "Trước hết là lao động; sau lao
động và đồng thời lao động là ngôn ngữ; đó là hai sức kích thích chủ
yếu, đã ảnh hưởng đến bộ óc của con vượn người, làm cho bộ óc dần dần chuyển
thành bộ óc người (…) khi bộ óc phát triển, thì các công cụ trực tiếp của bộ
óc, tức là các giác quan cũng song song phát triển theo (…) Bộ óc và các giác
quan phụ thuộc bộ óc càng phát triển lên, ý thức càng sáng suốt hơn, năng lực
trừu tượng hóa và năng lực suy lí càng phát triển hơn, tất cả những cái đó tác
động trở lại lao động và ngôn ngữ, đã không ngừng thúc đẩy lao động và ngôn ngữ
không ngừng phát triển thêm (…) Nhờ hoạt động phối hợp của bàn tay, của các khí
quan phát âm và bộ óc, chẳng những ở mọi cá nhân mà ở cả trong xã hội nữa, loài
người đã có đủ khả năng hoàn thành những công việc ngày càng phức tạp hơn".
Rõ
ràng là, cùng với việc sáng tạo ra bàn tay kì diệu, lao động đã sáng tạo ra bộ
óc kì diệu cùng các giác quan, tức là sáng tạo ra năng lực cảm giác của con
người và thế giới tâm hồn con người. Mác viết :
"Chỉ
nhờ sự phong phú của sinh thể người được mở ra trong thế giới vật chất thì mới
phát triển , và phần nào, phần đầu tiên mới nảy sinh ra sự phong phú của con
người về mặt cảm tính chủ quan: cái tai biết nghe nhạc, con mắt cảm thấy được
vẻ đẹp của hình thức, nói tóm lại, làø những giác quan có khả năng hưởng thụ
theo kiểu người và tự khẳng định mình như là những sức mạnh bản chất của con
người. Bởi vì, không chỉ năm giác quan bên ngoài, mà cả giác quan được gọi là
giác quan tinh thần, giác quan thực tiễn (ý chí, tình yêu …) tóm lại là giác
quan con người, tính người của giác quan đã xuất hiện nhờ sự có mặt của một đối
tượng phù hợp, có một tự nhiên đã được người hóa".
Như
vậy giác quan của con người đã không chỉ là giác quan người lao động mà còn là
giác quan nghệ sĩ.
c. Lao động sáng tạo ra những giá trị thẩm mĩ
Lao động không chỉ sáng tạo ra chủ thể thẩm mĩ
mà còn trực tiếp sáng tạo ra những giá trị thẩm mĩ, hiện tượng thẩm mĩ. Con
người đầu tiên không phân biệt được cái đẹp và cái có ích. Chỉ dần dần về sau
cái đẹp mới được tách ra. Plékhanov (1856 - 1918) đã nói: "Lao động có
trước nghệ thuật, nói chung, con người trước hết xuất phát từ quan điểm
cái có ích để quan sát sự vật và hiện tượng rồi sau mới đứng trên quan điểm
thẩm mĩ để nhìn nhận chúng".
Plékhanov
đã đưa ra một ví dụ: "Những bộ lạc da đỏ miền Tây Bắc Mĩ ưa chuộng nhất
là trang sức bằng vuốt gấu xám là kẻ thù hung dữ nhứt của họ","thoạt
đầu những thứ ấy được đeo với nghĩa tượng trưng cho lòng dũng cảm, sự nhanh
khéo và sức mạnh, Và chỉ sau đó, và chính chúng tượng trưng cho lòng dũng cảm
sự nhanh khéo và sức mạnh mà chúng bắt đầu khêu gợi mĩ cảm và trở thành đồ
trang sức".
Lao động đã làm nảy sinh những yếu tố thiết yếu
của nghệ thuật:
-
Lao động và hình tượng nghệ thuật. Giác quan là những khí quan của bộ óc. Khi
chúng phát triển phong phú và tinh tế thì cũng có ý nghĩa là năng lực suy lí,
trừu tượng hóa và hình tượng hóa của bộ óc phát triển tinh tế và phong phú. Trí
tưởng tượng phong phú, bay bổng của bộ óc đã khiến cho những hình tượng nghệ
thuật nguyên thủy ra đời. Gorky đã nói: "Ngay từ thời tối cổ, con người đã
mơ ước có thể bay lên không trung như ta có thể thấy qua chuyện
Phaêtôn, truyện Ðê - đan và con trai là Icaro, cũng như chuyện Tấm thảm biết
bay.
Họ mơ ước tìm cách di chuyển nhanh hơn trên mặt đất - truyện cổ tích về Ðôi hài vạn dặm- họ thuần phục giống ngựa, ý muốn di chuyển trên sông nhanh hơn nhờ dòng nước đã đưa đến sự phát minh ra mái chèo và buồm, ý muốn giết kẻ thù hay săn thú từ xa là nguyên do phát sinh ra cung nỏ. Họ mơ tưởng có thể dệt xong trong một đêm một số vải vóc thật lớn, xây xong một đêm một ngôi nhà thật tốt, hay thậm chí cả một tòa lâu đài, tức là một chỗ ở kiên cố có thể chống chọi với kẻ thù, họ sáng tạo ra xa quay sợi, một trong những công cụ cổ xưa nhất, sáng tạo ra khung cửi dệt bằng tay và sáng tạo ra chuyện cổ tích nàng Va xi li xa khôn ngoan tuyệt trần…".
Họ mơ ước tìm cách di chuyển nhanh hơn trên mặt đất - truyện cổ tích về Ðôi hài vạn dặm- họ thuần phục giống ngựa, ý muốn di chuyển trên sông nhanh hơn nhờ dòng nước đã đưa đến sự phát minh ra mái chèo và buồm, ý muốn giết kẻ thù hay săn thú từ xa là nguyên do phát sinh ra cung nỏ. Họ mơ tưởng có thể dệt xong trong một đêm một số vải vóc thật lớn, xây xong một đêm một ngôi nhà thật tốt, hay thậm chí cả một tòa lâu đài, tức là một chỗ ở kiên cố có thể chống chọi với kẻ thù, họ sáng tạo ra xa quay sợi, một trong những công cụ cổ xưa nhất, sáng tạo ra khung cửi dệt bằng tay và sáng tạo ra chuyện cổ tích nàng Va xi li xa khôn ngoan tuyệt trần…".
-
Lao động và ngôn ngữ: Ngôn ngữ ra đời do nhu cầu trao đổi tư tưởng, tình cảm
trong quá trình lao động. Mác viết: "Sau lao động và đồng thời với lao
động là ngôn ngữ". Do muốn tổ chức tốt lao động, con người cần có
tín hiệu để trao đổi tư tưởng, để thông tin cho nhau. Maiakovsky đã
hình dung: "Cứ một động tác tay hay chân của đoàn người lao động
đều kèm theo những âm thanh không rõ ràng, do đoàn người nhất trí phát
ra". Không có sự phối hợp âm thanh thì không thể tiến hành lao
động chung được. Ngôn từ yếu tố thứ nhất của văn chương, đầu tiên như là một bộ
phận của sản xuất thực tế, đã ra đời như thế.
-
Lao động và tiết tấu: Lao động cũng đã khám phá ra giá trị thẩm mĩ của tiết
tấu. Lúc đầu cảm giác về tiết tấu mang tính chất sinh lí và tâm lí. Nghĩa là
một hoạt động tự nhiên, nhưng lao động đã làm cho cảm giác tiết tấu mang tính
chất xã hội. Bucher lập luận: "Lao động mà có tiết tấu thì đời mệt mỏi,
nhất là khi lao động tập thể, động tác có tiết tấu càng có hiệu
lực". Tiết tấu đã được con người sử dụng như là phương tiện để tổ
chức động tác, thống nhất ý chí, hành động, tình cảm… làm giảm cường độ lao
động, tăng hiệu quả. Tiết tấu còn làm người ta say sưa lao động. Bước phát hiện
ra cảm xúc tiết tấu là bước quan trọng để từ đó con người sáng tạo ra tiết tấu
trong nghệ thuật.
-
Lao động và vũ thuật. Người nguyên thủy khống chế tự nhiên bằng 2 cách: hoặc bằng thực tế, hoặc bằng ảo tưởng. Vũ thuật
là kỹ thuật ảo tưởng của người nguyên thủy - cách tác động vào tự nhiên một
cách hư ảo. Kết quả là qua vũ thuật con người đã sáng tạo ra những điệu múa. Về
sau, ý thức tôn giáo phai nhạt đi, nghệ thuật biểu diễn với tư cách là phương
tiện biểu hiện tình cảm phát triển.
d. Nghệ thuật khẳng định mình bằng tác động trở
lại lao động.
Nghệ thuật nảy sinh không phải một sớm một chiều
và cũng không phải là sản phẩm thụ động của lao động. Quá trình nghệ thuật hình
thành là quá trình nó tự khẳng định mình bằng tác động trở lại lao động và
thông qua lao động mà tác động trực tiếp vào đời sống xã hội. Những cái đẹp
như: hài hòa, cân đối, êm tai, đẹp mắt của các sự vật rõ ràng là có tác dụng
tăng hiệu quả lao động. Con người lúc đầu còn sống đơn độc hoặc bầy đàn, chứ
chưa thành xã hội. Nhưng để chống chọi với tự nhiên, để làm chủ tự nhiên con
người cần tập hợp nhau thành xã hội. Chính nghệ thuật có vai trò không nhỏ
trong việc thống nhất loài người lại với nhau thành xã hội (thống nhất hành
động, thống nhất tư tưởng). Chẳng hạn: mỗi khi săn bắt được con thú, người ta
tụ tập nhau lại, đốt lửa lên, nướng con thú, mổ thịt chia nhau rồi nhảy múa ca
hát chung quanh đống lửa để ăn mừng thắng lợi. Ðồng thời, qua đó họ hiểu nhau
hơn, qua đó mà truyền đạt kinh nghiệm cho nhau, động viên nhau. Nghệ thuật đã
tham gia vào nhu cầu thống nhất xã hội, giữ gìn lưu truền hoạt động đời sống xã
hội, nhu cầu tự điều chỉnh xã hội. Ngược lại, những nhu cầu này lại thúc đẩy
nghệ thuật phát triển.
Tóm
lại, không phải bản năng, không phải lực lượng siêu nhiên thần kỳ, cũng không
phải là hoạt động cá nhân trực quan tự biểu hiện mà chính là quá trình lao động
xã hội lâu dài đã sáng tạo ra khả năng nhu cầu sáng tạo nghệ thuật ở con người.
Nhu cầu tất yếu của xã hội hình thành dưới tác dụng của lao động sáng tạo ra
nghệ thuật. Ngay từ đầu, văn nghệ chưa bao giờ là sản phẩm tự nhiên của bản
năng hay của hoạt động cá nhân riêng lẻ mà bao giờ cũng là hoạt động xã hội, có
tính chất xã hội, luôn luôn gắn với lao động xã hội.
Trong
cơ cấu đời sống xã hội, văn chương có vị trí như thế nào? Cái gì đã quyết định
chiều hướng phát sinh và phát triển của nó? Từ lâu, người ta đã có những kiến
giải khác nhau về vấn đề này. Có người tìm nguyên nhân ở thượng đế, có người
tìm trong "kết cấu chủ quan của trí tuệ" người sáng tác, có người tìm
ngay trong bản thân văn chương.
Chủ
nghĩa Mác không giải thích văn chương bằng thượng đế, đã đành, mà cũng không
giải thích nó bằng chính nó. Xem văn chương là một hiện tượng xã hội, chủ nghĩa
Mác xuất phát từ những mối liên hệ thực tế giữa nó với toàn bộ các hiện tượng
xã hội để giải thích văn chương: văn chương là một hình thái ý thức xã hội
thuộc thượng tầng kiến trúc, nảy sinh từ cơ sở hạ tầng, do cơ sở hạ tầng quyết
định, đồng thời, có tác dụng năng động với cơ sở hạ tầng.
Xem
văn chương là một hình thái ý thức xã hội thuộc thượng tầng kiến trúc và lí
giải nó trong mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng
tầng, lần đầu tiên trong lịch sử mĩ học nhân loại, mĩ học Mác - Lênin đã đem
đến cho nhân loại một kiến giải duy nhất đúng đắn về bản chất của văn chương
nghệ thuật. Và cũng chính nhờ quan niệm đúng đắn và khoa học đó, mĩ học Mác -
Lênin đã có khả năng thâm nhập sâu vảo bản chất, quy luật, đặc trưng của văn
chương nghệ thuật.
Chủ nghĩa Mác - Lênin chia cơ cấu đời sống xã
hội thành 2 bộ phận. Toàn bộ kết cấu kinh tế của xã hội là cơ sở hạ tầng. Tất
cả những hiện tượng xã hội hình thành và phát triển trên cơ sở kinh tế bao gồm
những tư tưởng xã hội và những thiết chế tương ứng với những tư tưởng ấy là
kiến trúc thượng tầng.
Mác
viết: "Toàn bộ những quan hệ sản xuất ấy hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội,
tức là cơ sở thực tại, trên đó dựng lên một kiến thức thượng tầng pháp lí và
chính trị, và tương ứng với những cơ sở thực tại đó thì có những hình thái ý
thức xã hội nhất định.[1]
Những
tư tưởng xã hội và những thiết chế tương ứng thuộc thượng tầng kiến trúc bao
gồm: những tư tưởng chính trị, pháp luật, đạo đức, khoa học, triết học, tôn
giáo, nghệ thuật (trong đó có văn chương)… và các thiết chế tương ứng: Nhà
nước, chính đảng, giáo hội, các tổ chức văn hóa…
Như
thế văn chương nghệ thuật là một hình thức ý thức xã hội thuộc thượng tầng kiến
trúc.
- Cơ
sở kinh tế quyết định văn nghệ
Tương quan giữa kiến trúc thượng tầng và cơ sở
hạ tầng là tương quan giữa ý thức và tồn tại. Marx và Engels viết: "Không
phải ý thức con người quyết định tồn tại của con người; ngược lại,
chính tồn tại xã hội của con người quyết định ý thức của con người".[1]
Kiến
trúc thượng tầng của xã hội do quan hệ kinh tế tức là cơ sở hạ tầng hạ tầng
sinh ra và bị cơ sở hạ tầng quyết định. Cơ sở kinh tế nào sẽ có kiến trúc
thượng tầng ấy. Khi cơ sở hạ tầng có sự biến đổi căn bản thì kéo theo sự biến
đổi cơ bản trong kiến trúc thượng tầng.
Mác
chỉ rõ: "Cơ sở kinh tế thay đổi thì tất cả cái kiến trúc thượng tầng đồ sộ
ấy cũng đảo lộn ít nhiều nhanh chóng."[1]
Là
một hình thái ý thức xã hội thuộc thượng tầng kiến trúc, như bất kỳ một hình
thái ý thức xã hội nào khác, văn chương do cơ sở kinh tế sinh ra, bị cơ sở hạ
tầng quyết định. Do đó, đi tìm hiểu văn chương không phải tìm ở thượng đế, cũng
không phải tìm ngay trong bản thân nó, mà trước hết là tìm ngay ở cái đã sinh
ra nó, đã quyết định nó. "Nghệ thuật là một hình thái ý thức xã hội, cho
nên cần phải tìm nguyên nhân đầu tiên - tạo nên tất cả sự biến đổi của
nghệ thuật - trong tồn tại của con người, trong cơ sở kinh tế của xã hội"
(Mác).
Trên
bình diện tổng quát, ta thấy, cơ sở kinh tế quyết định sự nảy sinh và phát
triển của văn chương. Cơ sở kinh tế là nền tảng của xã hội, nó quyết định nội
dung và tính chất của xã hội, vì thế, nó quyết định nội dung và tính chất của
kiến trúc thượng tầng do nó tạo nên, trong đó có văn chương. Như thế, cơ sở
kinh tế quyết định nội dung và tính chất của nền văn chương xã hội. Nền kinh tế
xã hội chủ nghĩa đã quyết định nội dung và tính chất của nền văn chương xã hội
chủ nghĩa. Ðó là nền văn chương có nội dung xã hội chủ nghĩa tức là cuộc sống mới,
con người mới; có tính dân tộc đậm đà tính Ðảng và tính nhân dân sâu sắc.
Nhân
tố kinh tế là nhân tố khách quan quyết định tiền đề lịch sử về vật chất cũng
như về tinh thần của đời sống xã hội trong đó có văn chương. Nền kinh tế tư bản
chủ nghĩa với đại sản xuất công nghiệp đã tạo ra một "giai cấp công
nhân", là người làm chủ lịch sử trong thời đại mới, thời đại xã hội chủ
nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Vậy là, chính nền kinh tế tư bản chủ nghĩa đã vô
tình tạo ra yếu tố dân chủ và xã hội chủ nghĩa của văn chương xã hội chủ nghĩa
nảy sinh từ trong giai cấp công nhân.

Trong
thời kỳ này, yếu tố kinh tế hàng hóa đã xuất hiện, vai trò đồng biến đã có tác
dụng mạnh. Ðồng tiền, với sự tác oai, tái quái của nó đã bắt đầu bị lên án: "làm
cho khốc hại chẳng qua vì tiền". Nhưng hiện tượng trong Truyện Kiều vẫn
chưa thoát khỏi khuôn khổ của cuộc sống xã hội phong kiến, với chế độ
người bóc lột người theo kiểu phong kiến. Vì vậy, tính chất của cuộc đấu tranh
giai cấp trong Truyện Kiều là tính chất của cuộc đấu tranh giai cấp
giữa một bên là các tập đoàn phong kiến và một bên là những người bất
hạnh, quyền sống bị chà đạp.
Cơ
sở kinh tế quyết định trình độ tư duy, quyết định tính chất của thế giới quan, quyết
định mọi phong tục, tập quán… Cơ sở kinh tế cũng tạo điều kiện khách quan cho
sự nảy nở các tài năng, tạo điều kiện cho sự tiếp thu các tư tưởng, kinh tế còn
quyết định tính chất lịch sử và xã hội và do đó quyết định tính chất lịch sử và
xã hội của văn chương.
- Kinh
tế là nguyên nhân quyết định suy tới cùng.
Qua
trên, ta thấy kinh tế quyết định mọi phương diện của văn chương nghệ thuật. Vì
vậy, khi tìm hiểu nội dung và tính chất của bất kỳ một nền văn chương nào cũng
phải chú ý đến cơ sở kinh tế đã sản sinh ra nó. Nhưng lại sẽ phạm sai lầm nếu
quá say mê về thống kê kinh tế để cố tìm một sợi dây liên hệ trực tiếp giữa các
hiện tượng kinh tế và hiện tượng nghệ thuật. Ở Liên Xô, trước đây, đã có thời
kỳ sách giáo khoa văn chương xác định một mối quan hệ nhân quả giữa những con
số xuất cảng và nhập cảng lúa mì ở Nga đầu thế kỷ XIX với thơ ca Puskin. Ðây là
biểu hiện một cách hiểu dung tục quan điểm chủ nghĩa Mác - nghĩ là nghệ thuật
lệ thuộc một cách trực tiếp, máy móc vào các hiện tượng kinh tế. Vì sao vậy?
Ðiều này có gì mâu thuẫn với những luận điểm đã nêu trên không? Thực ra, cơ sở
kinh tế chỉ quyết định một cách gián tiếp đối với văn chương nghệ thuật, bản
thân nó không trực tiếp đẻ ra một giá trị văn chương nào. Về vấn đề này, chủ
nghĩa Mác - Lênin đã vạch ra một cách rõ ràng về các mối liên hệ trực tiếp và gián
tiếp của các loại hình thái ý thức xã hội với cơ sở kinh tế. Trong các hình
thái ý thức xã hội, có loại liên hệ trực tiếp với cơ sở hạ tầng như tư tưởng
chính trị, Nhà nước, pháp quyền … loại này cơ sở kinh tế trực tiếp sản sinh ra
nó và khi cơ sở kinh tế thay đổi thì lập tức chúng thay đổi theo. Lại có loại
hình thái ý thức liên hệ gián tiếp với cơ sở kinh tế, cách xa cơ sở kinh tế, bị
cơ sở kinh tế quyết định gián tiếp như: triết học, khoa học, tôn giáo, văn
chương nghệ thuật. Ăngghen đã vạch rõ "văn chương một hình thái ý thức xã
hội cách xa cơ sở kinh tế" là "lĩnh vực ý thức bay cao hơn hết trong
không trung" và Người giải thích: "Ở đây cơ sở kinh tế không
sáng tạo ra một cái gì mới cả, nó chỉ quy định phương hướng cải biền phát triển
thêm của các tài liệu thực tế hiện có, nhưng cả đến điều này cũng chỉ là tác
động một cách gián tiếp.[1]
Như
thế, kinh tế không trực tiếp sáng tạo ra một cái gì mới cho nghệ thuật cả, nó
chỉ là cơ sở để mở đường cho cái mới hình thành và phát triển. Giữa cơ sở kinh
tế và văn chương là toàn bộ đời sống xã hội (vật chất và tinh thần) với tất cả
những quan hệ nhân sinh vô cùng phức tạp và thiên hình vạn trạng, với tất cả
những lĩnh vực khác nhau, tác động lẫn nhau. Văn chương chính là sản phẩm của
toàn bộ đời sống xã hội. Bác Hồ đã khẳng định Xã hội nào, văn nghệ ấy. Ðiều đó
thật là chí lí. Văn nghệ ra đời và phát triển trong những điều kiện vật chất và
tinh thần nhất định. Nó là con đẻ của một hình thái xã hội, một hình thái kinh
tế xã hội tức lá chế độ kinh tế và toàn bộ kiến trúc thượng tầng tương ứng với
nó.
Cho
nên, cơ sở kinh tế không phải là nhân tố duy nhất quyết định đối với văn
chương. Chúng ta không được vì xem trọng nhân tố kinh tế mà bỏ qua các nhân tố
khác rất quan trọng như đấu tranh giai cấp, truyền thống văn hóa … ảnh hưởng
trực tiếp tới văn chương. Nhân tố kinh tế chỉ là nhân tố quyết định xét đến
cùng. Ăngghen đã nhấn mạnh: "Theo quan niệm duy vật lịch sử, thì trong
lịch sử, nhân tố quyết định cuối cùng là sức sản xuất và tái sản xuất đời
sống kinh tế. Cả Mác và tôi, chúng tôi không khẳng định điều gì hơn cả. Nhưng
nếu người nào muốn xuyên tác lời nói đó đến nỗi bảo rằng câu ấy có ý nói nhân
tố kinh tế duy nhất quyết định , thì người đó biến câu ấy thành một câu trống
rỗng, trừu tượng, phi lí."[1]
Chính
và vậy mà "Sự phồn vinh của nghệ thuật" thì không nhất thiết lúc nào
cũng tương ứng với sự phồn vinh của cơ sở kinh tế.
- Quy
luật về sự phát triển không đều giữa văn nghệ với kinh tế
Tuy là không trực tiếp, nhưng kinh tế là nguyên
nhân quyết định tới văn chương. Vậy, có thể lập được chăng một biểu đồ về sự
tương ứng song song giữa sự phát triển kinh tế và phát triển văn chương? Phải
chăng một xã hội có cơ sở kinh tế phát triển cao thì đương nhiên sản sinh ngay
ra một nền văn chương có chất lượng cao, và ngược lại? Thực sự thì, giữa cơ sở
kinh tế và văn chương nghệ thuật, phải lúc nào cùng có sự phát triển tương ứng.
Trái lại, trong lịch sử, thường có sự không ăn khớp giữa sự phát triển của văn
chương nghệ thuật của thời đại với sự phát triển của cơ sở hạ tầng - tức chế độ
kinh tế. Khi nghiên cứu nghệ thuật của quá khứ, Mác đã chỉ ra: "Ðối với
nghệ thuật thì có những thời kỳ phồn vinh lại tuyệt nhiên không tương
ứng với sự phát triển chung của xã hội, và do đó, cũng tuyệt nhiên không tương
ứng với cơ sở vật chất tức là xương cốt của tổ chức xã hội, nếu có thể nói được
như thế. Vì, người Hy Lạp so với người thời nay hay như Shakespeare chẳng
hạn."[1]
Về
phương diện kinh tế thì thời Hy Lạp cổ đại thấp kém thời kỳ tư bản chủ nnghĩa
và thời kỳ kinh tế tư bản chủ nghĩa thế kỷ XVI cũng thấp kém hơn thời kỳ phát
triển cao của chủ nghĩa tư bản về sau này. Nhưng tình hình này không nhất thiết
dẫn tới chỗ văn chương nghệ thuật thời Home và Shakespeare phải thấp kém hơn
thời chủ nghĩa tư bản phát triển. Sự thực thì ngược lại, chẳng hạn, những tác
phẩm của Home ra đời trong điều kiện kinh tế thấp kém nhưng vẫn là những tác
phẩm "mẫu mực" của nghệ thuật của lịch sử văn hóa nhân loại. Chính Mác
đã khẳng định điều này: " … nghệ thuật Hy Lạp, thể anh hùng ca, vẫn cho ta
một sự thỏa Mácn về thẩm mĩ, và về một phương diện nào đó, chúng vẫn
còn được dùng làm tiêu chuẩn, làm cái mẫu mực mà chúng ta chưa đạt
tới."[1]
Sự
phát triển không tương ứng của nghệ thuật đối với kinh tế đã được xem như là
một trong những quy luật cơ bản của sự phát triển văn nghệ. Chúng ta giải thích
thế nào về quy luật này.
Trước
hết, đứng về phía kinh tế mà xét thì, văn chương là một hình thái ý thức xã hội
cách xa cơ sở kinh tế, do đó cơ sở kinh tế quyết định một cách gián tiếp. Cơ sở
kinh tế không trực tiếp sản sinh ra một giá trị văn chương nào. Về phía văn
chương, là một hình thái ý thức xã hội, nó có tính chủ thể, tính độc lập tương
đối có quy luật phát sinh và phát triển riêng. Ý thức xã hội có thể lạc hậu so
với tồn tại xã hội, và trong những điều kiện nào đó có thể vượt lên trước tồn
tại xã hội. (đặc biệt là trong khoa học - sự phát hiện những quy luật khách
quan của sự phát triển của sự vật). Văn chương nghệ thuật có thể đi sau hoặc đi
trước ít nhiều so với cơ sở kinh tế. Văn chương có thể dự báo một thời đại mới
sắp ra đời. Ví dụ hiện tượng Gorky (Bài ca con chim ưng, Bài ca con chim báo
bão) chẳng hạn.
Mặt
khác, ý thức xã hội có quy luật kế thừa và phát triển. Ý thức xã hội tuy là
phản ánh tồn tại xã hội nhưng nó vẫn có giá trị tư thân… Nó kế thừa mạnh mẽ
những giá trị tinh thần của thời đại trước, tiếp thu tinh hoa tinh thần của mọi
dân tộc.
Lại
nữa, giữa các hình thái ý thức xã hội bao giờ cũng có sự tác động lẫn nhau,
trong khi kinh tế là yếu tố quyết định gián tiếp tới văn chương thì văn chương
lại chịu ảnh hưởng trực tiếp của hàng loạt yếu tố khác như chính trị, triết
học, đạo đức, khoa học, nghệ thuật …
Văn
chương nghệ thuật chịu ảnh hưởng trực tiếp và dữ dội nhất của chính trị và đấu
tranh giai cấp. Có thể khẳng định rằng đấu tranh giai cấp là nguyên nhân có ý
nghĩa quyết định to lớn và quan trọng đối với văn chương nghệ thuật. Trong xã
hội có giai cấp và nảy sinh đấu tranh giai cấp, nội dung chủ yếu của tời đại
được biểu hiện trong đấu tranh giai cấp. Văn chương, sản phẩm của thời đại, dĩ
nhiên mang trong mình nó nội dung giai cấp đó của thời đại. Ðây cũng là một lí
do quan trọng để giải thích vì sao để nghiên cứ văn chương đạt kết quả tốt
người ta cần thiết phải phân tích mối tương quan giai cấp trong xã hội ở thời
kỳ văn chương đó ra đời. Nền văn chương Việt Nam đạt được thành tựu xuất sắc
lại rơi vào thế kỷ XVIII đầu XIX lúc kinh tế suy bại. Lôgic của vấn đề là ở chỗ
xã hội có thối nát, kinh tế suy vong dẫn đến đấu tranh giai cấp bùng lên. Thế
kỷ XVIII - Nửa đầu XIX là thời kỳ bão táp của dân tộc. Cuộc đấu tranh giai cấp
biến động dữ dội - một bên là sự sụp đổ không gì cứu vãn nổi - và một bên là sự
vùng dậy mạnh mẽ không thể gì dập tắt của phong trào quần chúng mà đỉnh cao là
khởi nghĩa Tây Sơn. Chính bão táp đó của cuộc sống đã dội vào nghệ thuật, tác
động mạnh mẽ và sâu sắc tới tư tưởng , tình cảm của người sáng tác để rồi có
những kiệt tác như Truyện Kiều của Nguyễn Du, Hoàng Lê nhất thống chí của Ngô
Gia Văn phái …
Một
nguyên nhân không kém phần quan trọng là bản chất tự do sáng tạo của nghệ
thuật. Nghệ thuật không chỉ là hành động nhận thức, phản ánh đơn thuần mà là
một hoạt động có tính chất thực tiễn vật chất, hoạt động sáng tạo. Mà, sự phát
triển tài năng sáng tạo của con người không phải bất kỳ thời nào cũng giống
nhau. Có chế độ xã hội trong đó tài năng của con người được phát triển tự do,
có chế độ xã hội thì ngược lại, tài năng bị kìm hãm, bị mai một. Chế độ tư bản
chủ nghĩa mặc dù sức sản xuất phát triển cao nhưng nhân cách con người bị què
quặt, tự do và sáng tạo của nghệ sĩ bị đèn nén, con người trở thành hàng hóa
nên không thể có nghệ thuật tốt đẹp. Chính Marx đã khẳng định: "… Nền sản
xuất tư bản chủ nghĩa thù địch với một số ngành nhất định trong sản
xuất tinh thần, như nghệ thuật và thi ca chẳng hạn." [1]Nguyên nhân
quan trọng dẫn đến tình trạng này là nền sản xuất hàng hóa đã biến con
người thành hàng hóa.
"Nền
sản xuất sản sinh ra con người không những với tính cách là hàng hóa, không
những với tính cách là con người hàng hóa, con người với sự quy định của hàng
hóa; nó sản xuất ra con người theo sự quy định ấy, như một thực thể mất tính
chất người cả về mặt tinh thần lẫn thể xác (…) sản phẩm của nền sản xuất đó là
hàng hóa có một ý thức và có một hoạt động độc lập, … là con người hàng
hóa."[1]
Chế
độ xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa sẽ đưa cơ sở kinh tế phát triển đến
mức thỏa mãn mọi nhu cầu của các thành viên trong xã hội, con người sẽ được
giải phóng khỏi mọi sự ràng buộc và "Người nào mang trong mình mộtRapphael
thì đều có điều kiện tự do phát triển."[1]
Mối
quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là mối quan hệ biện chứng.
Nếu như hạ tầng cơ sở quyết định kiến trúc thượng tầng, thì đến lượt mình, kiến
trúc thượng tầng lại tác động tích cực đến hạ tầng cơ sở. Nó có nhiệm vụ bảo
vệ, duy trì, củng cố và phát triển hạ tầng cơ sở.
- Sự
tác động trở lại kinh tế của văn nghệ
Do
hạ tầng cơ sở sinh ra nhưng văn chương không phụ thuộc một cách máy móc thụ
động, đơn giản một chiều. Nó có tính độc lập tương đối, tính chủ thể, nó cũng
tác động trở lại hạ tầng cơ sở. Nó có thể góp phần trực tiếp hoặc gián tiếp củng
cố hoặc cản trở sự phát triển đời sống xã hội. Mác - Ăngghen đã chỉ rõ tính
năng động của ý thức xã hội, trong đó có văn chương:
"Sự
phát triển về chính trị, pháp luật, triết học, tôn giáo, văn chương và nghệ thuật
… đều dựa vào sự phát triển kinh tế. Nhưng tất cả các lĩnh vực đó ảnh hưởng lẫn
nhau và ảnh hưởng đến cơ sở kinh tế."[1]
Vậy
tác động trở lại của văn chương nghệ thuật đối với cơ sở kinh tế là như thế
nào? Nói văn chương nghệ thuật tác động trở lại kinh tế thì không có nghĩa là
xem văn chương như một thứ lịch sử có thể trực tiếp làm ra của cải vật chất cho
xã hội, hay một yếu tố có khả năng tạo tiền đề cho đời sống xã hội loài người.
Văn chương là một hình thái ý thức, có nghĩa là nó là một hoạt động của ý thức,
tinh thần (chứ không phải hoạt động thực tiễn vật chất). Cho nên, tác động của
nó là tác động về mặt ý thức tư tưởng , thông qua ý thức, tư tưởng. Nếu hạ tầng
cơ sở quyết định sự ra đời của văn chương và sự phát triển của nó thông qua
chính trị, thông qua đấu tranh giai cấp đấu tranh xã hội, thì đến lượt mình,
văn chương có thể ảnh hưởng trở lại cơ sở cũng thông qua đấu tranh giai cấp và
đấu tranh xã hội với tư cách là một thứ vũ khí đấu tranh giai cấp, đấu tranh tư
tưởng, đấu tranh xã hội. Văn chương phản động phục vụ cho chính trị của giai
cấp thống trị thì có tác dụng củng cố quan hệ bóc lột và trật tự xã hội của
giai cấp địa chủ phong kiến, tư sản phản động. Ngược lại, văn chương cách mạng,
phục vụ cho cuộc đấu tranh giai cấp của quần chúng cách mạng, phục vụ cho lợi
ích nhân dân, cho trật tự xã hội mới.
Quần
chúng là người làm nên lịch sử, là lực lượng trực tiếp, làm ra của cải vật chất
cho xã hội. Văn chương tác động đến cơ sở kinh tế qua con đường đấu tranh tư
tưởng, cải tạo tư tưởng của họ bằng phương tiện nghệ thuật.
Bản
thân ý thức, tư tưởng không trực tiếp cải tạo được thế giới vật chất, nhưng khi
nó được con người nhận thức và biến thành hoạt động thực tiễn thì lại có sức
mạnh cải tạo to lớn như một sức mạnh vật chất. Mác khẳng định:
"Cố
nhiên vũ khí phê phán không thể thay thế sự phê phán bằng vũ khí, lực lượng vật
chất phải do lực lượng vật chất đánh đổ, nhưng ngay cả lí luận nữa cũng sẽ trở
thành lực lượng vật chất một khi nó thâm nhập sâu vào quần chúng."[1]
Văn
chương cũng nằm trong quy luật ấy. Nó có thể tác động mạnh mẽ đến kinh tế như
một lực lượng vật chất khi nó xây dựng được những hình tượng nghệ thuật sinh
động sâu sắc, dội mạnh vào tư tưởng, tình cảm, đạo đức, trí tuệ và nhận thức
của quần chúng, mà nói như Hugo là "làm cho tư tưởng biến thành những cơn
lốc".
Ý
thức xã hội có tác động hai chiều, có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển
kinh tế. Vai trò của ý thức tư tưởng được xác định cụ thể ở chỗ chúng thuộc
giai cấp nào, đáp ứng nhu cầu của ai. Văn chương cách mạng thì có tác dụng thúc
đẩy xã hội tiến lên, văn chương phản độngthì kìm hãm sự phát triển của xã hội.
Nó tác oai, tác quái, đầu độc tư tưởng con người. Nó trói tay, bịt mắt, bưng
tai con người. Thứ văn chương dâm ô, đồi trụy, kiếm hiệp … cùng với đường lối
văn hóa giáo dục phản động, tồi bại sẽ tạo ra một lớp người lấy hưởng lạc làm
mục đích, lấy bóc lột, tiền tài, lợi nhuận, giành giật cướp đoạt làm đối tượng.
Cần
thiết phải thấy tác dụng ngược lại, kìm hãm của văn chương để ngăn ngừa loại
nghệ thuật đồi bại, đến nay, vẫn còn được lén lút lưu truyền.
Trong
cơ cấu đời sống xã hội, chúng ta đã xem xét văn chương trong mối quan hệ với cơ
sở kinh tế. Nhưng sẽ phiến diện, sai lầm, nếu chúng ta chỉ dừng tại đây mà
không xem xét thấu đáo mối quan hệ giữa văn chương với kiến trúc thượng tầng.
Bởi, tuy cơ sở hạ tầng quyết định tới văn chương nhưng là nguyên nhân gián tiếp
và suy tới cùng, trong lúc đó, nhiều hình thái ý thức khác thuộc tầng - tuy là
tinh thần - nhưng lại là nguyên nhân trực tiếp và nhiều khi là nguyên nhân rất
quan trọng.
Văn
chương, chính trị, triết học, khoa học, luân lí, tôn giáo … đều nằm trên thượng
tầng kiến trúc và do cơ sở kinh tế sinh ra. Tuy vậy, chúng có quy luật phát
sinh, phát triển riêng, có quan hệ không giống nhau với cơ sở kinh tế, sự tác
động qua lại và quan hệ không như nhau đối với văn chương.
Xác
định mối quan hệ giữa văn nghệ và chính trị, đồng chí Trường Chinh nói: "Quan
hệ giữa chính trị và văn nghệ là chính trị lãnh đạo văn nghệ, văn nghệ phục vụ
chính trị."[1] Ý kiến này đã xác định một cách đầy đủ đặc điểm và
tính chất của mối quan hệ giữa văn nghệ và chính trị. Quan hệ giữa
chúng, trước hết, là quan hệ nội tại, quan hệ bên trong, bản chất, chứ không
phải quan hệ bên ngoài, hình thức, gán ghép "từ trên đưa xuống, từ ngoài
đưa vào". Mặt khác, quan hệ đó là sự quan hệ phụ thuộc của văn nghệ và
chính trị chứ không phải quan hệ độc lập, càng không phải là quan hệ đối lập
kiểu "hai bên vỗ tay nhau cùng đi lên, hai bên cùng có lợi".
Tại
sao có quan hệ đặc biệt này?
"Văn
chương là một hình thái ý thức xã hội cách xa cơ sở kinh tế" Cơ sở kinh tế
không quyết định trực tiếp mà nó phục vụ trở lại cơ sở bằng con đường gián
tiếp. Vậy khâu trung gian đó là gì? Ðó là chính trị. Cơ sở kinh tế muốn ảnh
hưởng đến văn chương phải thông qua chính trị và ngược lại văn chương muốn tác
động vào kinh tế thì phải tác động vào chính trị. Bởi vì, tuy thuộc kiến trúc thượng
tầng, do cơ sở kinh tế sinh ra, nhưng chính trị là sự thể hiện trực tiếp và tập
trung nhất của yêu cầu kinh tế. Lênin đã chỉ rõ "chính trị là biểu hiện
tập trung của kinh tế". Vì thế, khi nói văn chương phục vụ kinh tế
thì có nghĩa là văn chương phục vụ chính trị, phục vụ cho một hình
thái ý thức mà ở đó là biểu hiện tập trung của kinh tế. Ngược lại, nói văn nghệ
phục vụ chính trị thì tức là nó đã phục vụ kinh tế. Như thế, đã thừa nhận kinh
tế quyết định văn chương thì đương nhiên phải thừa nhận chính trị quyết định
tới văn chương - chính trị lãnh đạo văn nghệ.
Theo
Lênin, chính trị là "tham gia công việc nhà nước, là chỉ đạo nhà nước, là xác
định những hình thức, những nhiệm vụ và nội dung hoạt động của nhà nước".
Hiểu rộng ra, chính trị là biểu hiện những lợi ích căn bản của các
giai cấp và quan hệ lẫn nhau giữa các giai cấp, các dân tộc, chính trị là sự
thể hiện tập trung những đòi hỏi, những nhu cầu nguyện vọng của giai cấp nhân
dân. nói khác đi, chính trị là tổng hóa những quan hệ và tư tưởng và tình cảm,
tâm lí, tổ chức, thể hiện tập trung trong những quan hệ kinh tế, chính quye
quốc gia dân tộc. Như thế, chính trị bao trùm và chi phối toàn bộ đời sống của
xã hội. Không có thành viên nào có thể đứng ngoài sự chi phối đó, không có lĩnh
vực nào của đời sống lại không liên quan đến chính trị. Văn chương là một trong
những hình thức của đời sống xã hội, đời sống tinh thần, đương nhiên văn chương
chịu sự chi phối của chính trị. Mặt khác, bản thân văn chương là một hình thức
nhận thức, phản ánh xã hội, là sự thể hiện những tư tưởng tình cảm, ước mơ,
nguyện vọng… của con người xã hội nên tất yếu nó gắn liền với chính trị.
Trong
thực tế, văn chương nghệ thuật phục vụ chính trị dưới hai hình thái: hình thái
tự phát vô ý thức và hình thái tự giác, có ý thức. Nghĩa là có loại văn nghệ
phục vụ chính trị, đi theo một xu hướng chính trị nào đó một cách vô ý thức.
Lại có loại văn nghệ phục vụ cho chính trị một cách tự giác có ý thức,
"dùng cán bút làm đòn xoay chế độ". Hình thái này trong văn chương là
phổ biến và ngày càng trở nên sâu sắc.
Trung
thành với những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Marx - lénine về văn nghệ và
chính trị, Ðảng ta luôn luôn coi văn nghệ là một bộ phận không thể thiếu được,
không thể tách rời của sự nghiệp cách mạng, và luôn luôn có chủ trương và chính
sách đối với văn nghệ. Năm 1943, Ðề cương văn hóa của Ðảng ghi "mặt
trận văn hóa là một trong 3 mặt trận (kinh tế, chính trị, văn hóa) ở đó người
cộng sản phải hoạt động". Năm 1951, trong thư gởi các họa sĩ, Hồ Chủ tịch
khẳng định: "Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận. Anh chị em
(văn nghệ sĩ) là chiến sĩ trên mặt trận ấy". Năm 1957, trong bài
nói chuyện tại Ðại hội văn nghệ toàn quốc lần thứ 2, thay mặt trung
ương Ðảng, Trường Chinh xác định "Quan hệ giữa văn nghệ và chính
trị là chính trị lãnh đạo văn nghệ và văn nghệ phục vụ chính trị" và
đồng chí giải thích: "Chính trị lãnh đạo văn nghệ là lãnh đạo về đường lối (bao
gồm cả đường lối nghệ thuật) về phương châm, chính sách, tổ chức … Chứ không
can thiệp vào những vấn đề cụ thể có tính chất quá chuyên môn. Chính trị lãnh
đạo văn nghệ không phải bằng mệnh lệnh hành chính gò ép tình cảm và sự suy nghĩ
… tìm tòi của văn nghệ sĩ cũng không phải bằng rập khuôn, san bằng sự sáng tác,
mà phải thông qua sáng tác chủ quan của văn nghệ sĩ, tôn trọng tính chủ động và
óc sáng tạo của văn nghệ sĩ: càng không phải ép văn nghệ sĩ nhai lại những khẩu
hiệu chính trị một cách máy móc khô khan, gượng gạo, vụng về".Về
phương diện văn nghệ phục vụ chính trị , đồng chí Trường Chinh chỉ rõ : "Văn
nghệ phục vụ chính trị là phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân, phục vụ cuộc đấu
tranh thực hiện hòa bình thống nhất tổ quốc, và phục vụ sự nghiệp cải tạo xã
hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội".
Từ
xa xưa, khi trình độ tư duy của con người còn đang thấp kém thì đời sống tinh
thần của con người có hiện tượng "văn chiết bất phân". Ở phương Tây,
trước đây, triết học được xem là khoa học của mọi khoa học. Nghĩa là nó bao gồm
toàn bộ sự hiểu biết của con người về thế giới, nó thay thế cho toàn bộ các
khoa học. Nhưng dần dần nó nhờ sự tiến bộ của tri thức cụ thể của con người dẫn
tới có sự phân ngành khoa học thì triết học không còn là khoa học của mọi khoa
học. Nó trở thành khoa học độc lập.
Tuy
vậy, ngay cả khi triết học trở thành một khoa học độc lập và văn chương trở
thành một loại hình nghệ thuật độc lập thì giữa chúng vẫn tồn tại một quan hệ
khăng khít. Triết học và văn chương là những hình thái ý thức xã hội thuộc kiến
trúc thượng tầng do cơ sở kinh tế quyết định. Marx : "Triết học không đứng
ngoài thế giới" Bởi vì "các nhà triết học không phải mọc từ dưới đất
lên như nấm, họ là con đẻ của thời đại họ, cả nhân dân nước họ, và những tinh
hoa tốt đẹp nhất, quý báu nhất và khó trông thấy nhất của thời đại và của nhân
dân nước họ, đều thể hiện trong tư tưởng triết học. Cái tinh thần đã xây dựng
nên các hệ thống triết học trong bộ óc những nhà triết học, cũng là cái tinh
thần đã xây dựng đường sắt với những bàn tay công nhân".
Cũng
như văn chương, triết học là hình thái ý thức xã hội nhằm mục đích nhận thức
thế giới, nhận thức, khám phá chân lí cuộc sống để cải tạo thế giới, cải tạo
cuộc sống. Triết học chẳng qua là hệ thống tri thức chung nhất của con người về
thế giới. Mặt khác, tác phẩm văn chương xuất sắc, đạt được tầm nhận thức và
phản ảnh sâu sắc, có ý nghĩa khái quát cao về những vấn đề lớn, vấn đề chung
của xã hội thì cũng có nghĩa đạt được những kết luận mang tính triết học, là
những tư tưởng triết học. Tác phẩm văn chương chẳng qua là sự thể hiện qua một
cơ cấu hình tượng nghệ thuật những quan điểm, quan niệm của nghệ sĩ về cuộc
sống. Những quan điểm, quan niệm của nhà văn đó là những kết luận triết học.
Nói đến triết học là nói đến thế giới quan và nhân sinh quan, tức là nói
đến ý thức tư tưởng. Nói đến văn chương là nói đến nghệ thuật
miêu tả, phản ánh. Quan hệ giữa triết học và văn chương nghệ thuật là quan hệ
giữa ý thức tư tưởng với nghệ thuật miêu tả, phản ánh. Nói đến triết học là nói
đến vấn đề lí trí, nói đến nghệ thuật là nói đến vấn đề tình cảm. Tình cảm và
lí trí là nhất trí. Lê Duẩn nói: "thường thường triết học giải quyết vấn
đề lí trí, nghệ thuật xây dựng tình cảm, cả hai đều phải nhất trí với
nhau".
Triết
học cung cấp cho văn chương lối nhìn cách nghĩ, cách rút ra những kết luận về
hiện tượng và sự vật. Văn chương bằng tình cảm nêu lên được những vấn đề cuộc
sống, con người, những mối quan hệ giữa người và người, giữa người với tự nhiên
và văn chương đạt được tầm triết học. Những tư tưởng triết học thường có ý
nghĩa chỉ đường cho văn chương, làm cơ sở tư tưởng cho văn chương, làm chỗ dựa
tinh thần cho văn chương. Triết học Mác - Lênin là một khoa học chân chính đã
thực sự soi đườngcho văn chương nghệ thuật. Các nghệ sĩ hiện thức xã hội chủ
nghĩa được chủ nghĩa Mác - Lênin vũ trang cho nhận thức khách quan, chính xác
các quy luật phát triển của thế giới. Những quy luật này giúp họ chẳng những
đường hướng đi mà còn giúp họ vạch ra đúng đắn những gì quan trọng nhất, chủ
yếu nhất trong quá trình phát triển của thế giới, và chỉ giúp họ xử lí một cách
đúng đắn những sự kiện những hiện tượng phức tạp trong đời sống. Triết học Mác
- Lênin được các nghệ sĩ hiện thực xã hội chủ nghĩa coi như là một vũ khí tư
duy và tư tưởng. Với triết học Mác - Lênin, phương pháp nghệ thuật hiện thực xã
hội chủ nghĩa đã đánh dấu một bước ngoặc, một sự thay đổi về chất trong phương
pháp nghệ thuật.
Triết
học và văn chương gần gũi và ảnh hưởng lẫn nhau như vậy. Nhưng triết học là một
khoa học, còn văn chương là một nghệ thuật. Những tác phẩm văn chương dù có tầm
khái quát cao về cuộc sống đến đâu cũng chỉ đạt đến tầm nhận thức có tính chất
triết học, chứ bản thân nó không phải và không thể trở thành tác phẩm triết
họcvới tư cách là một khoa học. Ngược lại, các tác phẩm triết học dù viết có
sinh động đến đâu cũng không trở thành một tác phẩm văn chương với tư cách là
một nghệ thuật được. Sự khác nhau giữa triết học văn chương nghệ thuật là ở
phương pháp khái quát chân lí cuộc sống và ở phương thức nhận thức và biểu hiện
cuộc sống. Triết học dùng tư duy logic để nhận thức, nghiên cứu các hiện tượng
đời sống và khái quát lại thành những quy luật, khái niệm. Văn chương nghiên
cứu cuộc sống cũng đạt tới những nhận thức khái quát về hiện tượng cuộc sống,
nhưng văn chương thể hiện nó dưới những hình tượng sinh động. Phương pháp biểu
hiện của văn chương là phương pháp hình tượng hóa, điển hình hóa. Hình thức của
nghệ thuật là "hình thức hình tượng" , ở nghệ thuật điển hình tồn tại
trong cái cá biệt. Phương pháp biểu hiện trong triết học là phương pháp trừu
tượng hóa, khái quát hóa. Mọi hiện tượng ngẩu nhiên, cá biệt đều bị loại bỏ.
Có
thể nói, quan hệ giữa triết học và văn chương là quan hệ giữa ý thức tư tưởng
(đã được quy lại thành thế giới quan, nhân sinh quan) với nghệ thuật miêu tả,
phản ánh.
Khoa
học và nghệ thuật là hai hình thức nhận thức cơ bản của con người.
hai hình thức đó không hề có mâu thuẫn, không hề đối lập, trái lại ảnh hưởng
lẫn nhau. Tuy vậy, những người chủ trương nghệ thuật thuần túy hoàn toàn bác bỏ
ý kiến này, phủ nhận vai trò nhận thức của nghệ thuật. Chúng cho rằng thà gán
nghệ thuật với bất cứ cái gì cũng được , trò chơi vô mục đích, không tư tưởng,
biểu hiện cảm tính chứ không thể gán nghệ thuật với chân lí. Cái đẹp của nghệ
thuật và chân lí khoa học là hoàn toàn thù địch nhau.
Trái
hẳn với lí luận đó, Phạm Văn Ðồng khẳng định : "Văn chương nghệ thuật là
công cụ hiểu biết, để khám phá, để sáng tạo lại thực tại xã hội. Nó là một khoa
học. Người làm văn học nghệ thuật phải hiểu biết nhiều lắm. Nghệ thuật là một sự
hiểu biết, khoa học là một sự hiểu biết, văn học là một sự hiểu biết, hiểu biết
cao sâu lắm. Và đồng thời khám phá, sáng tạo. Hiểu biết sâu đến chừng nào, thì
khám phá, sáng tạo, cao đến chừng ấy. Bởi vì, nó là một nghệ thuật, nó là khoa
học". Khẳng định văn học là một khoa học là không hề đánh đồng khoa học
với văn chương nghệ thuật, mà trái lại, đó là sự đánh giá hết sức đúng đắn bản
chất nhận thức của văn chương nghệ thuật, là sự nhận chân khả năng to lớn của
văn chương trong việc nhận thức và phản ánh đời sống, là sự khẳng định tính
chất khoa học của văn chương trong quá trình nhận thức và phản ánh đời sống.
Nghệ
thuật và khoa học không hế đối lập nhau. Trước hết là ở chỗ: chúng đều là những
công cụ nhận thức hiện thực khách quan. Khoa học là hệ thống tri thức của con
người về tự nhiên và xã hội. Mục đích của khoa học là phát hiện những quy luật
khách quan của các hiện tượng và giải thích các hiện tượng đó. Như thế, khoa
học và nghệ thuật thống nhất với nhau ở chỗ là phát hiện, nhận thức thế giới.
Con người không chỉ sử dụng một hình thức nhận thức đơn nhất nào. Vì bản chất
thế giới là vô cùng phức tạp, vô cùng vô tận. Nhưng có thể nói nghệ thuật là
khoa học là 2 hình thức nhận thức cơ bản của con người. Với mục đích nhận thức
bản chất thế giới, con người sử dụng công cụ nhận thức khoa học để hiểu biết
nó, nắm bắt nó dưới dạng những công thức định lí, định luật, khái niệm … trừu
tượng. Nhưng , cũng với mục đích nhận thức thế giới, con người sử dụng công cụ
nhận thức nghệ thuật thì kết quả đạt được lại là những hình tượng nghệ thuật. Ở
đây bản chất, quy luật của đời sống được phát hiện, tồn tại dưới dạng thức đời
sống.
Nghệ
thuật và khoa học không đối lập nhau còn là ở chỗ mục đích và tác dụng nhận
thức của chúng. Cả khoa học và nghệ thuật đếu có mục đích là phát hiện ra những
quy luật của thế giới, vũ trang cho con người những hiểu biết về thế giới để
con người tiến hành cải tạo thế giới. Những người chủ trương nghệ thuật thuần
tú, phủ nhận giá trị nhận thức của văn chương nghệ thuật, cho rằng: "Nếu
nghệ thuật là một phương tiện để nhận thức thì nó thấp hơn nhiều so với hình
học" (G. Maritin). Hoặc cho rằng: "Tác phẩm nghệ thuật sống và phát
sinh không phải là hồi quang của một cái gì khác mà là một cấu trúc ngôn ngữ khép
kín trong bản thân nó". Nhưng thực tiễn nghệ thuật đã chứng tỏ rằng nó có
thể cung cấp và thực sự cung cấp cho con người một nhận thức to lớn. Biélinski
đã đánh giá: "Chỗ khác nhau giữa khoa học và nghệ thuật không phải là ở
nội dung mà ở phương pháp sáng tạo ra nội dung". Nghệ thuật, mà đặc biệt
là nghệ thuật hiện thực chủ nghĩa, nó không phải là sự tái hiện giản đơn những
hiện tượng, sự kiện trong cuộc sống mà sự phát hiện chân lí cuộc sống, sự khái
quát, bộc lộ ý nghĩa bản chất cuộc sống. Cũng như khoa học, nghệ thuật không
được phép dừng lại ở việc đúc kết, thống kê, hệ thống hóa máy móc vật liệu
sống, cũng không chỉ nhằm mức độ chính xác có tính chất tài liệu mà chủ yếu ở
chỗ nghệ sĩ sáng tạo tác phẩm bằng cách lựa chọn có ý thức những nét bản chất
nhất, những mặt điển hình của cuộc sống là khái quát hóa. Không có sự lựa chọn
đó, thì tác phẩm nghệ thuật giỏi lắm chỉ tạo ra sự tương tự bên ngoài của chân
lí chứ chưa đạt tới tính chân thực, trung thực. Nghệ thuật, vì vậy, không chỉ
hiểu biết mà còn khám phá, phát hiện. Trong quá trình khái quát hóa cuộc sống,
nghệ sĩ phải phát hiện một cách trung thực ý nghĩa chân chính của cuộc sống,
làm cho những gì là tính chất, bản chất quy luật của đời sống đang bị che phủ
trong sự rối bời, ngổn ngang của cái ngẩu nhiên, cá biệt, không bản chất được
sáng tỏ.
Nghệ
thuật và khoa học còn thống nhất với nhau ở tính cộng đồng về nhận thức luận,
phản ánh luận và phương pháp của nó. Nghệ thuật không phải là một cuộc phiêu
lưu của tâm hồn. Cũng như khoa học, nghệ thuật có phương pháp của nó. Ðó là
phương pháp nghệ thuật - những nguyên tắc tư tưởng - thẩm mĩ bao quát các mối
quan hệ giữa nghệ sĩ và hiện thực trong quá trình nhận thức, phản ánh cuộc
sống. Nghệ thuật và khoa học có tính cộng đồng về nhận thức luận và phản ánh
luận duy vật biện chứng. Biện chứng của quá trình nhận thức là từ trực quan
sinh động, đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn. Quá trình
đó đúng với cả nhận thức nghệ thuật.
Khoa
học và nghệ thuật liên hệ với nhau còn ở chỗ chân lí khoa học thâm nhập sâu vào
nội dung nghệ thuật một cách hữu cơ. Với tư cách là công cụ nhận thức cuộc
sống, lúc này khoa học cũng nằm trong đối tượng của văn chương. Vì, khoa học
cũng là cuộc sống. Những chân lí mà khoa học đã đạt được sẽ tạo điều kiện cho
nhà văn phản ánh cuộc sống đúng đắn hơn, chính xác hơn. Những thành tựu và hiểu
biết về tâm lí học , xã hội học … sẽ làm cho nhà văn phản ánh con người và cuộc
sống đúng đắn hơn, sâu sắc hơn, và có dựa trên những chân lí khoa học đó, quá
trình quan sát thế giới nội tâm của nhà văn mới chính xác và "phép biện
chứng tâm hồn" sự phân tích, thể hiện tâm lí con người mới được phong phú
đúng đắn và có tính thuye phục cao.
Hiện
thực của thời đại ngày nay là hiện thực của thời đại khoa học kỹ thuật, văn
chương phải lấy hiện thực đó làm trung tâm. Thi sĩ ngày nay không chỉ là thi sĩ
của "cô hàng xóm" "dậu mùng tơi xanh rờn" của nông thôn cổ
xưa. Nghệ sĩ ngày nay là nghệ sĩ của những người làm chủ nhà máy, công trường,
bầu trời, mặt đất và biển cả. Hơn nữa, ngày nay có xu hướng xâm nhập của khoa
học kỹ thuật vào các lĩnh vực khác của con người trong đó có nghệ thuật.
Dỉ
nhiên, tất cả những điều trên không hề chứng tỏ sự đồng nhất của khoa học và
nghệ thuật. Ngày nay có người lo ngại sự bành trướng của khoa học đối với nghệ
thuật, làm cho nghệ thuật có nguy cơ tiêu diệt. Thực ra, khoa học phát triển
chỉ có thể làm cho nghệ thuật phát triển mà thôi. Vì nói đến khoa học là nói
đến lí trí, nói đến nghệ thuật là nói đến tình cảm, thẩm mĩ. Con người càng văn
minh thì tình cảm phát triển càng cao đẹp, ý thức thẩm mĩ càng phong phú, thời
gian để thưởng thức cái đẹp càng dồi dào, vì vậy, nghệ thuật càng cần thiết cho
cuộc sống.
Nghệ
thuật gắn bó với đạo đức tới mức được Gorky cho rằng: "luân lí là mĩ học
của tương lai". Sự gắn bó này trước hết thể hiện ở chỗ: đạo đức là nội
dung quan trọng của hình tượng nghệ thuật. Con người được thể hiện, xác định
trong các mối quan hệ mà chủ yếu là quan hệ xã hội - quan hệ giữa người này với
người khác và giữa với xã hội. Trong quan hệ giữa người và người có quan hệ đạo
đức. Quan hệ đạo đức là điều không thể thiếu được, thậm chí rất quan trọng và
chủ yếu để tạo nên các tính cách. Phong thái đạo đức, cảm nghỉ đạo đức của nhân
vật thường khi là một nguồn sức mạnh của nghệ thuật.
Ðạo
đức là quy tắc sinh hoạt chung của xã hội và của hành vi con người, quy định
nghĩa vụ của người này đối với người kia và đối với xã hội nói chung. Như thế,
đạo đức là việc không thể thiếu được ở con người. Văn chương nghệ thuật miêu tả
con người không thể không miêu tả nó trong quan hệ đạo đức, trong hành động đạo
đức, trong lí tưởng đạo đức. Con người xã hội khác với con người phi xã hội và
loài vật là ở chỗ đạo đức.
Ðạo
đức là biểu hiện của lí tưởng thẩm mĩ. Nói đến nghệ thuật là nói đến ý nghĩa
thẩm mĩ. Nhưng cái đẹp ở trong nghệ thuật trước hết là con người đẹp - những
nhân vật lí tưởng - lí tưởng thẩm mĩ. Sẽ không phải là con người đẹp nếu người
đó không bao giờ có đạo đức. Một tính cách mà về đạo đức là ác quỷ thì không
thể đẹp được. Do đó, khi xây dựng các nhân vật lí tưởng, nhà văn không lấy việc
miêu tả cái đẹp hình dáng làm mục đích mà lấy cái đẹp trong hành động , suy
nghĩ mang phẩm chất đạo đức làm chính.
Ðạo
đức là nội dung trọng yếu của văn chương xưa nay. Có thể khẳng định rằng lịch
sử văn chương là lịch sử phong thái đạo đức của các tính cách. Từ xưa tới nay,
nghệ thuật tường thuật về tính cách đạo đức của con người.
Nội
dung đạo đức của tác phẩm là một phẩm chất của nghệ thuật. Người đọc đồng tình
hay phản đối không chỉ với hành động đạo đức của nhân vật mà còn với cách thể
hiện hành động đạo đức của nhân vật bởi nhà văn.
Tác
phẩm nghệ thuật không chỉ tái hiện phạm vi đạo đức mà còn giải quyết những vấn
đề đạo đức bằng cách khẳng định lí tưởng đạo đức. Người nghệ sĩ chân chính luôn
luôn có khát vọng không chỉ tái hiện cuộc sống mà còn chỉ cho con người biết
cuộc sống nào đáng sống.
Ðạo
đức không chỉ là nhân tố thiết yếu của cái đẹp, mà bản thân cái đẹp cũng là một
phương tiện giáo dục đạo đức cho con người.
đặt vé máy bay eva air
vé máy bay đi mỹ hãng eva
hang may bay han quoc
mua vé máy bay đi mỹ
vé máy bay đi canada tháng nào rẻ nhất
Nhung Chuyen Di Cuoc Doi
Du Lich Tu Tuc
Kien Thuc Du Lich