Những kết hợp bất thường trong ca từ
Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn sinh ngày 28 tháng 2 năm
1939 và mất ngày 1 tháng 4 năm 2001. Ngày 1-4-2015 là kỷ niệm 14 năm ngày mất của
ông. Nhân dịp này, vanhoahoc.vn đăng bài viết của PGS.TS. ngôn ngữ học Trần
Kim Phượng (khoa Ngữ văn Trường ĐHSP Hà Nội), một tín đồ nhạc Trịnh, đăng trên
tạp chí Ngôn ngữ số 10/2011 nhân 10 năm ngày mất của ông. Bài do tác giả cung
cấp cho vanhoahoc.vn.
PGS.TS Trần Kim Phượng (tác giả bài viết, người chơi ghi-ta)
và NCS Nguyễn Thị Bích Hạnh cùng hát nhạc Trịnh sau khi kết thúc buổi
bảo vệ luận án TS của NCS tại Học viện KHXH năm 2014 về "Ẩn dụ
tri nhận trong ca từ Trịnh Công Sơn" (người hướng dẫn là GS. Đỗ Việt Hùng,
chủ tịch hội đồng là GS. Nguyễn Văn Hiệp - đều là những nhà khoa học mê nhạc Trịnh).
Năm nay là kỉ niệm 10 năm nhạc sĩ Trịnh Công Sơn trở về với
"cát bụi". Bao năm qua, ở mọi miền trên đất nước Việt Nam, người ta vẫn
xao xuyến khi nhắc đến tên ông, say sưa hát những nhạc phẩm của ông và mê mải
viết về ông từ nhiều góc nhìn của văn học, văn hóa, ngôn ngữ, triết học, âm nhạc,
đời sống, tôn giáo…Hình như ở bất kì lĩnh vực nào, người ta cũng có thể dễ
dàng lấy ông làm đề tài nghiên cứu. Theo dòng chảy mãnh liệt đó, chúng tôi thử
liều lĩnh "đọc" những ca khúc của ông dưới góc độ ngữ pháp, trước hết,
để thỏa mãn những khao khát của chính mình, sau nữa hi vọng góp một tiếng nói
làm sáng rõ hơn những tuyệt phẩm mà ông - kẻ du ca về tình yêu, quê hương và
thân phận - đã để lại cho nhân thế.
Người ta đương nhiên thừa nhận Trịnh Công Sơn là một nhạc sĩ,
bởi ông đang sở hữu một kho tàng âm nhạc khổng lồ - hơn 500 ca khúc. Người ta
còn gọi ông là một nhà thơ, bởi ca khúc của ông thấm đẫm chất thơ và đầy vần điệu.
Người ta cũng phải công nhận ông là một triết gia bởi ca từ của ông mang đầy
màu sắc triết lý về cõi đời, về nhân thế…Còn chúng tôi, chúng tôi cho rằng ông
là một phù thủy về ngôn ngữ. Những độc đáo trong cách sử dụng ngôn ngữ của
ông không ai bắt chước được, không ai làm giả được (Lê Hữu). Nó khiến
người ta ngỡ ngàng, hạnh phúc; rồi trăn trở, âu lo; rồi thảnh thơi, siêu thoát…Chúng tôi sẽ nói rõ hơn về những khác lạ của ông trong việc sử dụng các kết hợp
ngữ pháp (từ cụm danh từ, cụm động từ, cụm tính từ cho đến đơn vị câu).
1. Những kết hợp bất thường trong cấu trúc cụm danh từ trong
ca từ Trịnh Công Sơn
Các cụm danh từ xuất hiện trong ca khúc của người nhạc sĩ tài
hoa này không phải lúc nào cũng theo quy chuẩn thông thường. Những nét độc đáo
và những tầng nghĩa mới được nảy sinh từ việc đảo trật tự các thành tố, dùng
danh từ đơn vị mang tính chất “lạ” hóa, hoặc dùng các định ngữ bất thường.
1.1. Đảo trật tự các thành tố trong cụm từ
Cấu trúc một cụm danh từ thông thường theo quan điểm của Nguyễn
Tài Cẩn, gồm 7 thành tố, được sắp xếp như sau:
Tất cả
-4
|
những
-3
|
cái
-2
|
con
-1
|
mèo
0
|
đen
+1
|
ấy
+2
|
Chỉ tổng lượng (đại từ)
|
Chỉ lượng (phụ từ, số từ)
|
Chỉ xuất
|
Chỉ loại
(danh từ đơn vị)
|
Trung tâm (Danh từ sự vật)
|
Từ miêu tả, hạn định
|
Chỉ định (đại từ)
|
Tuy nhiên, trong ca từ của Trịnh Công Sơn, có không ít trường
hợp trật tự các thành tố bị thay đổi. Đôi khi, việc đảo trật tự khiến ta rất
khó minh định ranh giới giữa cụm từ và câu. Dưới đây là một vài thí dụ:
Trật tự của Trịnh Công
Sơn
|
Trật tự thông thường
|
Xuất xứ (Tên bài hát)
|
Sen hồng một nụ
|
Một nụ sen hồng
|
Đóa hoa vô thường
|
Quỳnh hương một đóa
|
Một đóa quỳnh hương
|
Chuyện đóa quỳnh hương
|
Hồng má môi em
|
Má môi em hồng
|
Đoản khúc thu Hà Nội
|
Cọng buồn cỏ khô
|
Cọng cỏ khô buồn
|
Rừng xưa đã khép
|
Mùa xanh lá
|
Mùa lá xanh
|
Dấu chân địa đàng
|
Hoa vàng một đóa
|
Một đóa hoa vàng
|
Hoa vàng mấy độ
|
Hoa vàng mấy độ
|
Mấy độ hoa vàng
|
Hoa vàng mấy độ
|
Tóc xanh mấy mùa
|
Mấy mùa tóc xanh
|
Phôi pha
|
Tất nhiên, trước hết, việc đảo trật tự từ ngữ phụ thuộc vào
giai điệu và nốt nhạc mà từ ngữ đó phải chuyển tải, nhưng đồng thời xét ở lĩnh
vực ngôn ngữ, việc đảo trật tự theo kiểu danh từ sự vật đứng trước danh
từ đơn vị và số từ hoặc lượng từ là để nhấn mạnh danh
từ sự vật. Có trường hợp, nhạc sĩ lại đảo định tố ở vị trí +1 lên trước danh từ
trung tâm: Cọng buồn cỏ khô. Cọng buồnngay lập tức trở thành một kết
hợp độc đáo, bởi người ta thường chỉ nói nỗi buồn, hoặc cùng lắm là sợi
buồn (Sợi buồn con nhện giăng mau - Huy Cận). Kết hợp cọng buồn biến
danh từ trừu tượng nỗi buồn thành một thực thể có thể nắm bắt được, đếm
được. Nói cách khác, nỗi buồn đã hiện hình và mang cảm giác mong manh, vấn
vương, phôi phai, lạc loài.
1.2. Dùng danh từ đơn vị mang tính chất “lạ hóa”
Trong hệ thống các danh từ đơn vị mà Trịnh Công Sơn sử dụng,
chúng tôi nhận thấy ông rất hay dùng từ vùng và từ phiến:
- Tay măng trôi trên vùng tóc dài (Còn tuổi
nào cho em)
- Vùng tương lai chợt xa xôi (Gọi tên bốn mùa)
- Vùng u tối loài sâu hát lên khúc ca cuối cùng (Dấu
chân địa đàng)
- Phiến sầu là tháng ngày (Lời của dòng sông)
- Từng phiến mây hồng / từng phiến băng
dài (Tuổi đá buồn)
- Ru mãi ngàn năm từng phiến môi mềm (Ru em từng
ngón xuân nồng)
Nếu so với khoảng, lát, miếng,... thì vùng và phiến là
những không gian vừa xác định, vừa không định và có độ mở nhiều chiều, nhất là
chiều sâu, độ dày nên dễ gợi liên tưởng đến chiều, độ của cảm xúc, tâm hồn. Trịnh
Công Sơn thực sự đã "không gian hóa" tất cả những sự vật cụ thể cũng
như trừu tượng. Ta có cảm giác sự vật, thực thể nào đối với ông cũng có thể
khuôn lại được, sờ nắn được.
Người ta nói nỗi sầu thì ông nói giọt sầu (Còn
tuổi nào cho em), làm ta liên tưởng tới Sầu đong càng lắc càng đầy của
cụ Nguyễn Du; rồi bãi sầu (Lời của dòng sông), nghe đầy nhức nhối; và
cả trái sầu (Như một vết thương), phiến sầu (Lời của dòng
sông) nữa. Người ta nói bản tình ca thì ông nói ngọn tình ca (Góp
lá mùa xuân), nghe đã thấy dâng đầy sức sống, cảm xúc. Người ta nóimái tóc thì
ông nói dòng tóc (Ru em từng ngón xuân nồng), làm ta cảm thấy ngay được độ
miên man, mềm mại, vương vít của nó. Người ta nói chuyến xe, chuyến đò thì
ông nói chuyến mưa (Diễm xưa); đúng là một tâm trạng đợi chờ khắc khoải,
chờ mưa như nó vốn đến và đi theo chuyến, tức là theo luật lệ nhất định. Rồi
người ta nói chân mây hay cuối ngày thì ông nói chân
ngày (Cỏ xót xa đưa), gợi bước đi thời gian trong những ngẫm ngợi xót xa.
Người ta nói ngón tay hay màn sương, búp xuân hồng thì ông
nói ngón sương mù (Gọi tên bốn mùa), ngón xuân nồng (Ru em
từng ngón xuân nồng), cho những không gian, âm thanh, cảm xúc hiện hình, trinh
nguyên, nuột nà, thánh thiện. Người ta nói sự hoang vu thì ông nói nhánh
hoang vu (Cỏ xót xa đưa), nhánh vốn là danh từ đơn vị thường đi
với cỏ, nỗi cô đơn được định hình đầy mong manh… Người ta nói đôi mắt thì
ông nói vườn mắt (Nắng thủy tinh), làm ta thấy như mình đang lạc vào
một không gian chan chứa nắng, trong veo, đong đầy cặp mắt người tình.
Những khác lạ ấy làm nên một Trịnh Công Sơn hết sức tinh tế
trong cảm nhận sự vật và cũng đầy ưu tư, trăn trở với đời. Người thi sĩ trong
âm nhạc này đã cảm nhận cuộc sống sinh động bằng tất cả các giác quan, bằng trực
giác và linh giác. Về điểm này, Trịnh Công Sơn cũng giống như các thi sĩ có mẫn
cảm nhạy bén, như Xuân Diệu chẳng hạn.
Như vậy, điểm độc đáo của Trịnh Công Sơn là ghép những danh từ
sự vật cụ thể với danh từ đơn vị trừu tượng; và ngược lại, ông lại ghép danh từ
sự vật trừu tượng với những danh từ đơn vị cụ thể. Chính điều này làm cho những
sự vật hữu hình trở nên bớt trần trụi, lung linh hơn, huyền ảo hơn; còn những sự
vật vô hình, trừu tượng thì lại được định hình, đến mức dường như chúng ta giơ
tay ra là có thể nắm bắt được. Tất cả làm cho thế giới sự vật trong ca từ của
ông trở thành một thế giới vừa thực vừa ảo.
1.3. Dùng các định ngữ bất thường
Cách dùng danh từ đơn vị của Trịnh đã độc đáo, cách ông đưa
ra các định ngữ đi kèm với các danh từ của mình còn độc đáo hơn. Dễ dàng tìm thấy
trong ca khúc của ông những định ngữ hoàn toàn bất ngờ với suy nghĩ của người
Việt. Đặc biệt là những định ngữ gắn với tình, thôi thì đủ trọng lượng, đủ
chiều kích: tình dài (Bay đi thầm lặng), tình đầy (Đời cho ta thế), tình
vơi (Lặng lẽ nơi này), tình sâu (Xin trả nợ người)… Ông rất quan tâm
đến sự đầy vơi, hư hao, cho nên mới có ngày tháng vơi (Phúc âm buồn),nắng
đầy (Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui) cơn đau dài (Mưa hồng), những
chen đua lâu dài (Một lần thoáng có)… Hãy đọc thật chậm các kết hợp từ của
Trịnh:
- Những dấu chân ngoan, hố tuyệt vọng (Có những con
đường)
- Ngọn gió hư hao (Có một ngày như thế)
- Chiều bạc mệnh, phút cao giờ sâu (Đóa hoa vô thường)
- Cành thênh thang, cành bão bùng (Gọi tên bốn mùa)
- Ngày yêu dấu, mây vô danh (Hãy cứ vui như mọi
ngày)
- Mây hoang đường (Hai mươi mùa nắng lạ)
- Nắng vô thường / Chút hương nhân từ (Mưa
mùa hạ)
- Hạnh phúc ngu ngơ (Ngày nay không còn bé)
- Màu lá thanh xuân, ngày tháng hoang vu (Người về
bỗng nhớ)
- Màu sương thương nhớ (Nhớ mùa thu Hà Nội)
- Đá ngây ngô (Rồi như đá ngây ngô)
Vậy là với Trịnh Công Sơn, những sự vật vốn vô tri vô giác bỗng
mang tình cảm, tâm trạng con người. Cho nên ta mới gặp phố hoang mang, nhịp chân
bơ vơ, cát bụi mệt nhoài…Đến với Trịnh, ta còn nghe thấy lời tà dương, lời
mộ địa, lời bể sông (Một cõi đi về), như là vật gì trên đời này cũng có thể
cất lên tiếng nói; Từng lời bể sông là lời mộ địa chính là tiếng hấp
hối của một ngày. Danh từ thời gian tháng, ngày thì hay gắn với các
tính từ hoang vu, âm u… bởi cảm giác cô đơn lúc nào cũng bủa vây Trịnh.
Con người Trịnh luôn sống với thiên nhiên, hòa nhập với nhiên nhiên, coi đó như người bạn, như người tình nên sỏi, đá, nắng, phố, cát bụi… cũng nhuốm đầy tâm trạng. Những hình ảnh này xuất hiện dày đặc trong ca từ của người nhạc sĩ lãng du cũng là bởi trong tiềm thức của ông luôn chịu sự ảnh hưởng của triết lí tôn giáo: vũ trụ nguyên sơ, vạn vật hữu tình. Bàn tay xanh xao thì nhiều người nói nhưng bàn tay đói (Cuối cùng cho một tình yêu) thì thật lạ. Nắng vàng mong manh chúng ta cũng đã từng nghe nhưng nắng vàng nghèo hay nắng vàng lạc trên lối đi (Em còn nhớ hay em đã quên) thì chỉ có ở Trịnh mà thôi. Có cái gì man mác buồn trong cách nhìn sự vật ở Trịnh. Đúng là ông chịu lực hút chủ đạo không phải từ sự sinh trưởng - khoẻ khoắn - ấm áp - tươi vui, mà là từ những gì tàn lụi - héo úa - mòn mỏi - u sầu - lạnh lẽo. Nhưng những thứ mà người trần coi là buồn đau thì ông lại nhìn một cách lạc quan, cho nên mới có vết thương hồn nhiên (Tưởng rằng đã quên), trái sầu rực rỡ (Như một vết thương), niềm đau ngọt ngào (Tình xót xa vừa)… Với con mắt trần gian thì các kết hợp ấy thật ngược đời. Song với Trịnh, cảm xúc, tinh thần này có được ở ông bởi ý niệm siêu thoát ảnh hưởng từ tư tưởng tôn giáo. Nhìn xa hơn, những cặp đối lập luôn luôn xuất hiện trong tư tưởng Trịnh, như ông vẫn xem cuộc đời nhị nguyên này vốn bao gồm những cặp phạm trù đối lập nhau, khó dung nạp song cũng khó phân ly. Ông ôm tất cả và không bao giờ tìm cách chia tách chúng. Cho nên ca từ của ông mới tràn ngập các kết hợp sống - chết, nhật - nguyệt, đêm - ngày, buồn - vui, sum họp - chia phôi, khổ đau - hạnh phúc, hay niềm đau - ngọt ngào…
Con người Trịnh luôn sống với thiên nhiên, hòa nhập với nhiên nhiên, coi đó như người bạn, như người tình nên sỏi, đá, nắng, phố, cát bụi… cũng nhuốm đầy tâm trạng. Những hình ảnh này xuất hiện dày đặc trong ca từ của người nhạc sĩ lãng du cũng là bởi trong tiềm thức của ông luôn chịu sự ảnh hưởng của triết lí tôn giáo: vũ trụ nguyên sơ, vạn vật hữu tình. Bàn tay xanh xao thì nhiều người nói nhưng bàn tay đói (Cuối cùng cho một tình yêu) thì thật lạ. Nắng vàng mong manh chúng ta cũng đã từng nghe nhưng nắng vàng nghèo hay nắng vàng lạc trên lối đi (Em còn nhớ hay em đã quên) thì chỉ có ở Trịnh mà thôi. Có cái gì man mác buồn trong cách nhìn sự vật ở Trịnh. Đúng là ông chịu lực hút chủ đạo không phải từ sự sinh trưởng - khoẻ khoắn - ấm áp - tươi vui, mà là từ những gì tàn lụi - héo úa - mòn mỏi - u sầu - lạnh lẽo. Nhưng những thứ mà người trần coi là buồn đau thì ông lại nhìn một cách lạc quan, cho nên mới có vết thương hồn nhiên (Tưởng rằng đã quên), trái sầu rực rỡ (Như một vết thương), niềm đau ngọt ngào (Tình xót xa vừa)… Với con mắt trần gian thì các kết hợp ấy thật ngược đời. Song với Trịnh, cảm xúc, tinh thần này có được ở ông bởi ý niệm siêu thoát ảnh hưởng từ tư tưởng tôn giáo. Nhìn xa hơn, những cặp đối lập luôn luôn xuất hiện trong tư tưởng Trịnh, như ông vẫn xem cuộc đời nhị nguyên này vốn bao gồm những cặp phạm trù đối lập nhau, khó dung nạp song cũng khó phân ly. Ông ôm tất cả và không bao giờ tìm cách chia tách chúng. Cho nên ca từ của ông mới tràn ngập các kết hợp sống - chết, nhật - nguyệt, đêm - ngày, buồn - vui, sum họp - chia phôi, khổ đau - hạnh phúc, hay niềm đau - ngọt ngào…
Trong cấu trúc cụm động từ của Trịnh, những bổ ngữ xuất hiện
cũng đầy khác lạ, đặc biệt là các bổ ngữ đối tượng. Người tatìm anh, tình em thì
Trịnh đi tìm tình (Bống không là bống). Người ta tặng hoa, tặng quà
thì Trịnh lại tặng một phố chờ (Đoản khúc thu Hà Nội). Người ta phơi
áo thì Trịnh phơi cuộc tình (Ru ta ngậm ngùi), thậm chí là phơi
tình cho nắng khô mau / treo tình trên chiếc đinh không (Tình xót xa vừa).
Người ta chọn rau, chọn quả thì Trịnh chọn một niềm vui, chọn ngồi
thật yên, chọn nắng đầy (Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui). Người ta nhặt
lá, nhặt thóc thì Trịnh lại nhặt gió trời (Mỗi ngày tôi chọn một
niềm vui). Người ta đi trong mưathì Trịnh đi trong chuyện cũ ngày
xưa/ đi trong hạnh phúc quê nhà (Hai mươi mùa nắng lạ). Người ta chở
hàng, chở khách thì Trịnhchở ngày hấp hối (Vàng phai trước ngõ). Người
ta ôm người yêu thì Trịnh ôm mịt mùng (Tình xót xa vừa).
Người ta nghiêng mình thì Trịnh lại nghiêng sầu (Mưa hồng),
rồi nghiêng đời xuống nhìn suốt một mối tình (Để gió cuốn đi)…Động
từ đi có thể gắn với rất nhiều bổ ngữ chỉ không gian, song có lẽ chẳng
ai nói đi quanh từng giọt nước mắt (Ru đời đã mất). Nghe đã thấy đời
thật buồn!. Bổ ngữ cách thức, bổ ngữ chỉ mục đích cũng thật đặc biệt, cho nên mới
có yêu em thật thà (Hoa vàng mấy độ), gọi em cho nắng chết trên
sông dài (Hạ trắng),…
Đọc các cụm động từ của Trịnh Công Sơn, ta như lạc bước vào một
công cuộc thể nghiệm ngôn ngữ Việt đầy lí thú. Mỗi một kết hợp ngắn gọn là một
nội dung ngữ nghĩa hết sức dày dặn mà Trịnh muốn chuyển tải. Chẳng hạn kết hợp nghiêng
sầu haynghiêng đời ở trên, vẫn là dự cảm về một cuộc đời đầy bấp
bênh, xuất phát từ tư tưởng nhà Phật: Cuộc đời này vốn là cõi tạm, con người dừng
chân ghé chơi. Hoặc kết hợp của động từ nghe với những thứ không phải
là thanh âm thông thường: nghe sầu lên trong nắng, nghe tên mình vào quên
lãng, nghe tháng ngày chết trong thu vàng (Nhìn những mùa thu đi), nghe
tình đổi mùa (Những con mắt trần gian), thậm chí nghe cả im lặng thở
dài (Tôi đã lắng nghe) và tiếng động nào gõ nhịp khôn nguôi (Cát
bụi)…Ít có nghệ sĩ nào có thính lực kỳ lạ như Trịnh Công Sơn, ông nghe được âm
thanh vô thanh và rỗng nghĩa trong bước đi của thời gian, nghe được sự chết dần
của đời người, nghe được tiếng chuông gọi hồn đều đều nhẫn nại…Tất cả mọi
thanh âm qua thính giác của Trịnh đều gắn với sự cô đơn tận cùng của một con
người lúc nào cũng mang trong mình ý nghĩ sinh ra đã là một kẻ thua cuộc…Môtíp
quen thuộc của Trịnh là gắn những động từ chỉ hoạt động thông thường với những
bổ ngữ trừu tượng. Tất cả thống nhất trong cái nhìn sự vật luôn luôn động, luôn
luôn biến đổi của ông.
3. Những bất thường trong cấu trúc cụm tính từ
3.1. Kết hợp so sánh
Vẫn rất xứng đáng là "kẻ du ca về tình yêu", Trịnh
Công Sơn có những so sánh thật lạ với đối tượng tình: tình xa như trời,
tình gần như khói mây, tình trầm như bóng cây, tình reo vui như nắng… rồi tình
mềm trong tay (Tình sầu). Ngoài ra còn hàng loạt các kết hợp so sánh bất
ngờ với các tính từ hết sức quen thuộc: xanh, trắng, buồn, mong manh,
ngoan,…:
- Có những bạn bè xanh như người bệnh (Bay đi thầm
lặng)
- Rồi một chiều tóc trắng như vôi (Cát bụi)
- Buồn như giọt máu lặng lẽ nơi này (Lặng
lẽ nơi này)
- Thân mong manh như lau sậy hiền (Níu tay nghìn
trùng)
- Mặt đường bình yên nằm ngoan như con suối (Thành
phố mùa xuân)
- Nắng có hồng bằng đôi môi em/ Mưa có buồn
bằng đôi mắt em (Như cánh vạc bay)...
Đứng ở góc độ phong cách học, tất cả những kết hợp nói trên đều
thuộc phép so sánh tu từ. So sánh để làm rõ hơn đối tượng, song đồng thời cũng
mang tới những đặc trưng mới cho đối tượng. Điều đáng quan tâm ở đây là Trịnh
Công Sơn có những so sánh hết sức táo bạo, gây bất ngờ và tạo được những rung động
mạnh cho xúc cảm thẩm mĩ ở người nghe.
Trịnh Công Sơn khá nhạy cảm với một số tính từ nhất định như: lênh
đênh, tiều tụy, hư hao, thênh thang, bão bùng… Đặc biệt, ông rất hay sử dụng
tính từ mong manh, (gió mong manh, cỏ lá mong manh, sống chết mong manh,
tay gối mong manh, tình mong manh, thân mong manh…). Với Trịnh Công Sơn, cuộc
này thật mà hư ảo. Theo Bửu Ý, dường như đây là một ám ảnh lớn trong vũ trụ
quan và nhân sinh quan của nhạc sĩ.
3.2. Sắc màu của Trịnh
Màu sắc của Trịnh cũng thật lạ, nó lại gắn với những sự vật
mà người ta không ngờ tới.
Trước hết là màu hồng. Màu hồng nhạt, hồng đậm,... thì
bình thường nhưng hồng vừa thì chưa ai nói. (Đấy là ta chưa bàn tới
các kết hợp giấc ngủ vừa (Dấu chân địa đàng); tình xót xa vừa (Tình
xót xa vừa). Màu hồng xuất hiện trong câu cũng thật đặc biệt: Em hồng
một thuở xuân xanh; Mê man trời hồng vượt đồi lên non (Ra đồng giữa
ngọ)…
Màu xanh lại càng lạ:
- Chợt hồn xanh buốt cho mình xót xa (Diễm
xưa);
- Nhìn lại mình đời đã xanh rêu (Tình xa);
- Thuở hồng hoang đã thấy đã xanh ngời liêu trai (Xin
mặt trời ngủ yên)
- Xanh yếu làn da, xanh mướt hồng nhan (Góp lá mùa xuân)
- Tiếng hát xanh xao (Lời buồn thánh)
- Em mướt xanh như ngọc mà tôi có đâu ngờ (Hoa xuân
ca)
- Tuổi mười sáu xanh cho mọi người (Môi hồng đào)
Màu tím thì có: Chiều tím loang vỉa hè (Nhìn những
mùa thu đi). Màu vàng là vàng phai (Vàng phai trước ngõ). Rồi xanh đi
vớihồng đến khó hiểu song đầy ám ảnh: Hai mươi giấc mộng xanh hồng quá (Hai
mươi màu nắng lạ)…
Ngoài ra, một số từ ngữ đóng vai trò là bổ ngữ trong cụm tính
từ của Trịnh Công Sơn cũng làm người nghe bất ngờ. Hình như ông chiêm nghiệm cuộc
đời bằng quá nhiều những nhạy cảm: Tóc em dài đêm thần thoại (Gọi tên
bốn mùa); Lá khô vì đợi chờ (Như cánh vạc bay)…Ông đã so sánh cái mướt
dài, huyền diệu của tóc với đêm thần thoại. Ngoài ẩn dụ lá…đợi chờ,
bổ ngữ nguyên nhân ở đây thật lạ với cách lý giải khô vì đợi chờ.
4. Sự chuyển hóa từ loại trong ca từ Trịnh Công Sơn
Sự chuyển hóa từ loại diễn ra trong tiếng Việt không phải hiếm
và quá đặc biệt, nhưng khi nghe ca từ nhạc Trịnh, người ta vẫn cảm thấy ông đã phù
phép cho những từ ngữ của mình. Một số danh từ được dùng như tính từ, chẳng
hạn: Ôi tóc em dài đêmthần thoại (Gọi tên bốn mùa); hay Em đi biền biệt muôn
trùng quá (Còn ai với ai). Và cũng không ít những tính từ lại được
dùng như danh từ: Vàng phai sẽ cuốn đi mịt mù (Vàng phai trước ngõ); Và
tôi đứng bên âu lo này (Này em có nhớ); Ta cười với âm
u (Những con mắt trần gian); Đôi tay vẫn còn ôm mịt mùng (Tình xót xa
vừa); Bàn tay xôn xao đón ưu phiền (Nắng thủy tinh)…
Thậm chí tính từ chỉ màu sắc vốn không kết hợp với phụ từ mệnh
lệnh đi nhé nhưng kết hợp này vẫn xuất hiện trong ca từ Trịnh
Công Sơn: Hồng đi nhé xin hồng với nụ (Vàng phai trước ngõ). Đây là
trường hợp tính từ được dùng như động từ. Cảm giác rằng ông đã hòa nhập tận
cùng với thiên nhiên, nên có thể sai khiến, dụ dỗ cả một nụ hoa. Rồi có động từ
được dùng như danh từ:Nghe những tàn phai (tên một bài hát). Như đã nói, bằng
một thính lực kỳ lạ, ông đã nghe được bước đi của thời gian trong sự
biến chuyển của tạo vật.
5. Những kết hợp bất thường trong cấu trúc câu
5.1. Những cấu trúc dưới dạng định nghĩa
Xét từ góc độ ngôn ngữ, chúng tôi cho rằng Trịnh Công Sơn là
một nhà Từ điển học tinh tế, bởi ông đã đưa ra những định nghĩa mới,
thú vị cho những sự vật quen thuộc:
- Con sông là thuyền, mây xa là buồm (Bốn mùa thay
lá)
- Con sông là quán trọ và trăng tên lãng du (Biết
đâu nguồn cội)
- Tôi thấy tôi là chút vết mực nhòe (Ngày nay không
còn bé)
- Đời mình là những chuyến xe/ Đời mình là những đám
đông/ Đời mình là những quán không/ Đời mình là con nước trôi(Nghe những tàn
phai)
- Có khi mưa ngoài trời là giọt nước mắt em/ Ngoài phố
mùa đông, đôi môi em là đốm lửa hồng (Ru đời đi nhé!)
Từ góc độ phong cách học, có thể xem đây là những so sánh tu
từ. Trịnh Công Sơn đã đem đối chiếu, quy hệ những đối tượng thuộc các phạm trù
quá cách biệt nhau để tạo nên những hiệu quả biểu đạt, tri nhận sự vật và xúc cảm
thẩm mĩ hết sức sâu sắc, gợi nhiều liên tưởng phong phú nơi người nghe. Cho nên
nhìn mưa ngoài trời, ông lại thấy đó là những giọt nước mắt của người tình,
hình như nỗi sầu đang dâng đầy trong ông. Đi trong đêm lạnh mùa đông, ông tưởng
tượng môi em là đốm lửa hồng, sửa ấm lòng người, xua tan băng giá. Với một
người khát sốngnhư Trịnh Công Sơn, ngồi nơi này, nhớ nơi kia, lúc nào cũng
sợ không đủ thời giờ cho kiếp người, ngoảnh lại đã thấy đời xanh rêu, nên
ông luôn luôn thích sự xê dịch, cho nên mới có Đời mình là những chuyến
xe, đời mình là con nước trôi… Với quan niệm cuộc đời là một vấn nạn,
bấp bênh và tình yêu thì mù lòa, Trịnh Công Sơn hay nói tới danh từ vết
thương, và vì vậy mới có Tên em là vết thương khô,…
Không sao có thể diễn tả hết được những ý nghĩa mà Trịnh Công
Sơn muốn khoác cho các sự vật, hiện tượng thông qua các định nghĩa của mình. Chỉ
có thể nói rằng bởi cách nhìn cuộc đời của ông quá độc đáo, quá tinh tế nên những
người đã yêu nhạc Trịnh thì bao giờ cũng yêu cả phần lời ca của ông.
5.2. Những quan hệ bất thường về nghĩa giữa chủ ngữ và vị ngữ
Quan hệ giữa chủ ngữ và vị ngữ trong câu tiếng Việt luôn là mối
quan hệ ràng buộc, hai chiều. Thông thường, vị ngữ phải nêu những đặc trưng vốn
có ở chủ ngữ, phù hợp với chủ ngữ. Song với Trịnh, vị ngữ luôn nêu những đặc
trưng bất ngờ, tự ông gán cho sự vật. Do vậy mới có những lời ca kỳ diệu như ở
dưới đây:
- Đêm chờ ánh sáng, mưa đòi cơn nắng. / Những giọt
mưa, những nụ hoa hẹn hò gặp nhau trước sân nhà. (Bốn mùa thay lá)
- Trăng muôn đời thiếu nợ mà sông không nhớ ra. (Biết
đâu nguồn cội)
- Mùa xuân quá vội, mười năm tắm gội, giật mình ôi chiếc
lá thu phai. (Chiếc lá thu phai)
- Về bên núi đợi ngậm ngùi ôi đá cũng thương thay. (Chiếc
lá thu phai)
- Đồi núi nghiêng nghiêng đợi chờ, sỏi đá trông em từng
giờ (Biển nhớ)
- Bờ vai như giấy mới sợ nghiêng hết tình tôi (Thương
một người)
- Gió đêm nay hát lời tù tội quanh đời (Này em có
nhớ)
- Mùa xuân vừa đến xin mãi ăn năn mà thôi (Ru em từng
ngón xuân nồng)
- Đám rong rêu xếp hàng. (Một ngày như mọi ngày)
- Xin mây xe thêm màu áo lụa. (Còn tuổi nào cho em)
- Một ngày như mọi ngày từng chiều lên hấp hối (Một
ngày như mọi ngày)
- Bàn tay xôn xao đón ưu phiền (Nắng thủy tinh)
Phép nhân hóa là một biện pháp tu từ thường thấy trong ca từ
nhạc Trịnh. Rất nhiều những sự vật vô tri, vô giác mang tâm trạng con người: cỏ
lá biết buồn, biển biết nhớ, gió biết hát, đêm biết đợi chờ, mưa biết đòi cơn nắng,
rong rêu biết xếp hàng… Bởi chính nhạc sĩ đã hóa thân vào những sự vật bình thường
và tầm thường nhất. Dường như ông muốn trốn chạy khỏi cõi đời mà lúc nào ông
cũng thấy chênh vênh, mất mát, bấp bênh. Song khi ông đã yêu thì mọi vật xung
quanh ông cũng biết yêu. Đôi khi, trong Trịnh, dòng chảy tâm tư quá nhanh, quá ồ
ạt đã khiến lời ca của ông bị dồn nén, các từ bị rút ngắn đến độ khó mà có thể
hiểu trọn vẹn từng câu. Đành phải hiểu cảm xúc chung của cả bài. Như trong bài Có
nghe đời nghiêng, cả bài hát giống như tâm sự của người ở lại khi tất cả bỗng
dưng trống vắng: Ngày thu đông phố xưa nằm bệnh, đàn chim non réo bên vườn
hoang, người ra đi bến sông nằm lạnh, này nhân gian có nghe đời nghiêng. Hoặc
trong bài Chiếc lá thu phai có câu: Chiều hôm thức dậy, ngồi ôm
tóc dài, chập chờn lau trắng trong tay, Trịnh Công Sơn muốn chuyển tải những
thông điệp: Cuộc đời thật ngắn ngủi, thật buồn; ngoảnh đi ngoảnh lại, ta đã
già; hãy cố gắng để quên đi những ám ảnh về tuổi tác. Cũng phải là một con người
trải nghiệm trên đường đời nhiều lắm thì mới có thể viết: Có con đường chở
mưa nắng đi (Em còn nhớ hay em đã quên)… Ngôn từ của Trịnh đã kết tinh đến
độ đơn khiết, cô đọng nhất.
5.3.
Đảo trật tự cú pháp (đảo vị ngữ lên trước chủ ngữ)
Hãy đọc những ca từ sau đây và sắp xếp lại theo trật tự của chúng ta - những
người nhìn cuộc đời bằng con mắt trần gian:
- Vừa tàn mùa xuân rồi tàn mùa hạ (Một cõi đi về)->
Mùa xuân vừa tàn, rồi mùa hạ cũng tàn.
- Xôn xao con đường, xôn xao lá (Đoản khúc thu Hà Nội)
-> Con đường xôn xao, lá cũng xôn xao.
- Hồng má môi em hồng sóng xa (Đoản khúc thu Hà Nội)
-> Má môi em hồng, sóng xa hồng.
- Mệt quá đôi chân này/ Mệt quá thân ta này (Ngẫu
nhiên) -> Đôi chân này mệt quá / Thân ta này mệt quá.
- Đừng phai nhé một tấm lòng son (Vườn xưa) -> Một
tấm lòng son đừng phai nhé!
- Đã về trên sông những cánh bèo xanh (Khói trời
mênh mông) -> Những cánh bèo xanh đã về trên sông.
- Hãy yêu ngày tới dù quá mệt kiếp người. (Để gió cuốn
đi) -> Hãy yêu ngày tới dù kiếp người quá mệt …
Cách chúng ta đảo lại như vậy có thể làm ta dễ hiểu hơn, song
hình như nó sẽ làm hỏng nhạc Trịnh.
Còn một kiểu sắp xếp nữa mà ta cũng thường gặp trong ca từ của
Trịnh. Nó không phải là bất thường, mà là đặc biệt. Đó là việc Trịnh sử dụng kiểu
câu đảo bổ ngữ lên trước làm đề ngữ. Cũng có khi thành phần phía trước được xem
là trạng ngữ; tuy nhiên, trạng ngữ này lại quan hệ rất chặt với động từ trong
câu. Câu thường kết thúc bằng một động từ, nghe khá đột ngột. Thí dụ:
- Vườn khuya đóa hoa nào mới nở / Đời ta có ai vừa qua /
Rồi bên vết thương tôi quỳ. / Từ những phố kia tôi về. (Đêm thấy ta là thác đổ)
- Sáng cho em vòm lá me xanh. / Phố em qua gạch ngói
quen tên (Em còn nhớ hay em đã quên)
- Im lặng của đêm tôi đã lắng nghe. (Tôi đang lắng nghe)
- Về trong phố xưa tôi nằm (Lời thiên thu gọi)
- Tuổi buồn em mang đi trong hư vô (Tuổi đá buồn)
Thường thì ta sẽ nói: Đóa hoa nào mới nở trong vườn
khuya/ Có ai vừa qua đời tôi/ Tôi quỳ bên vết thương./ Tôi về từ những phố
kia./ Gạch ngói quen tên phố em qua./ Tôi đã lắng nghe im lặng của đêm./ Em
mang tuổi buồn đi trong hư vô… Kiểu câu không kết thúc bằng thành phần bổ ngữ
mà kết thúc bằng chính động từ trung tâm, như đã nói, luôn khiến người nghe có
cảm giác đột ngột. Song chính điều đó lại làm nên sức hấp dẫn của nhạc Trịnh; để
khi nghe nhạc Trịnh, người ta luôn cảm thấy thiếu, muốn kiếm tìm, muốn nghe
mãi…
Còn có những kết hợp khó có thể sắp xếp lại theo thứ tự thông
thường, cũng khó mà gọi đó là cụm từ hay là câu nữa. Chẳng hạn như: Tuổi
nào vừa thoáng buồn áo gầy vai hay Cuồng phong cánh mỏi hoặc Cỏ
xót xa đưa…Điều này càng làm cho ta thấy nhạc sĩ nhìn sự vật, nhìn cuộc đời bằng
con mắt khác với chúng ta. Lời ca của Trịnh, nói theo Bửu Ý, đã được đặc
cách hóa thành Kinh. Kinh là những lời ước nguyện nhằm chuyển hóa thực tại.
Kinh của Trịnh Công Sơn là do chính ông phát nguyện, dóng tiếng và gởi gắm trở
lại cho chính mình.
Mộ nhạc sĩ Trịnh Công Sơn tại
nghĩa trang Gò Dưa (Thủ Đức - TP. HCM)
Đọc Trịnh Công Sơn dưới góc độ ngữ pháp, chúng tôi không dám
nói nó có giúp ta nhiều không trong việc hiểu nhạc Trịnh. Song chúng tôi ghi nhận
ở người nhạc sĩ tài hoa này một mẫn cảm ngôn ngữ tuyệt diệu. Bằng những kết hợp
lạ lẫm, những so sánh bất ngờ, những sắp xếp độc đáo, thông qua một tri giác
bén nhạy, nhiều tầng, đa chiều kích, và với một tâm hồn lãng mạn của một thi
sĩ, Trịnh Công Sơn đã làm phong phú thêm kho tàng ngôn ngữ Việt. Trịnh Công Sơn
đã sống và đã yêu hết mình, dù cho ông yêu cuộc đời này bằng nỗi lòng của
một tên tuyệt vọng. Mỗi ca từ ông để lại cho đời đều thấm đẫm giá trị nhân bản.
Hãy sống và yêu đi, như ông đã từng viết: Cuộc đời đó có bao lâu mà hững hờ! (Mưa
hồng…
Tư liệu khảo sát: Trịnh Công Sơn, Tuyển tập những bài ca
không năm tháng, Nhà xuất bản Âm nhạc, 1998.
Tài liệu tham khảo
1. Dương Viết Á, 2005, Ca từ trong âm nhạc Việt Nam, NXB
Viện Âm nhạc, HN.
2. Ban Mai, 2008, Trịnh Công Sơn – Vết chân dã tràng, NXB
Lao động, Trung tâm văn hóa và ngôn ngữ Đông Tây, HN.
3. Trần Kim Phượng - Phan Ngọc Ánh, 2011, Danh từ chỉ thời
gian – mùa trong ca từ Trịnh Công Sơn; Ngôn ngữ và
4. Nguồn Internet: http://tuanvannguyen.blogspot.com.
PGS.TS. Trần Kim Phượng
Nghe nhạc Trịnh Công Sơn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét