Thứ Tư, 16 tháng 9, 2015

Hà Nội trong sương mù ký ức

Hà Nội trong sương mù ký ức
Cầm bút viết những dòng này nhân kỷ niệm một ngàn năm Thăng Long - Hà Nội, trong biết bao tác phẩm văn học về đất và người thủ đô, không hiểu sao ký ức tôi lại hiện lên những câu thơ Mường Mán viết thời chiến tranh:
                            Hà Nội sương mù, Hà Nội ơi
                            Cho ta về ngủ một đêm thôi,
                            Để nghe trong gió đùa hiu hắt
                            Có ngọn cỏ luồn qua tim đau.
    Trong những năm đất nước bị chia cắt, những người con miền Bắc ly hương và những người con phương Nam xa xôi vẫn từng mơ ước được về ngủ chỉ một đêm trong lòng Hà Nội, ước mơ bình dị mà xa vời như một ảo vọng.
    Vậy mà, như một chớp mắt của lịch sử, chỉ hai năm sau ngày hoà bình, khi giao thông giữa hai miền còn nhiều khó khăn, tôi đã có được diễm phúc về Hà Nội, để rồi sau đó, tính cả những chuyến đi dài ngày lẫn ngắn  ngày, tôi đã ngủ bình yên ở đó gần một ngàn đêm!
     Chuyến tàu hoả trên đường sắt xuyên Việt vừa khép tuyến, sau bốn ngày đêm ì ạch, đưa chúng tôi về ga Hàng Cỏ một chiều đầu thu. Chiếc xe ca của Trường Đại học Tổng hợp đi chầm chậm một vòng để người phương xa ngắm phố phường Hà Nội êm đềm ngày ấy, qua những con đường rợp bóng cây xanh mà tôi ngỡ như chỉ cần đưa tay ra khỏi ô cửa là chạm được những cành lá. Không nhớ nhờ gợi ý của ai đó trên xe mà người tài xế đã đỗ lại bên một quán nước chè phố Hàng Chuối để chúng tôi được thưởng thức hương trà Hà Nội. Từ đó, suốt hai năm ròng, tôi sẽ gắn bó với những quán nước chè Hà Nội, một loại ăng-ten thu phát thông tin xã hội thời hậu chiến, thay cho những quán cà-phê vỉa hè Sài Gòn.
      Nhà trường ưu ái xếp cho chúng tôi ở cùng với du học sinh đến từ Vientiane trong một ngôi nhà lắp ghép năm tầng ở khu tập thể Trung Tự mới xây, gần làng cổ Kim Liên. Tám người trên bốn chiếc giường tầng mỗi phòng, chúng tôi bắt đầu làm quen với chăn bông, áo dạ, thùng phuy hứng nước giữa đêm, những cơn gió muà đông bắc và những bữa ăn thông tằm. Năm giờ sáng tinh mơ gọi nhau dậy tập thể dục, mặc áo ấm quàng khăn đi ra nhà ăn Kim Liên, rồi đạp xe vào trường ở tận Mễ Trì; buổi chiều về lại ghé vào nhà ăn, nhận nụ cười dễ thương cùng bát cơm mì độn bới đầy hơn những người khách vãng lai khác.
    Ngày ấy tàu điện còn chạy trên đường Hà Nội - Hà Đông. Đường vào Mễ Trì, tôi đạp xe song song cùng tiếng leng keng của tàu điện. Thích thú nhìn trẻ con chạy lúp xúp rồi nhảy lên bậc cửa toa tàu, một hôm tôi cũng mua vé theo tàu đi vào trường, suýt nữa thì bị trễ giờ học. Chiếc xe đạp mang từ Sài Gòn ra là bạn đồng hành cùng tôi trong những chuyến viếng thăm cầu Long Biên, thành Cổ Loa, làng Nghĩa Đô, Cổ Nhuế, làng Vẽ và bến phà Chèm…, những địa danh mà thời học sinh tôi chỉ biết qua sách vở. Có đêm đạp xe về qua hồ Thuyền Quang trong mưa phùn lạnh giá, thương những bà cụ trùm khăn ngồi co ro bên cái thúng hàng với ngọn đèn dầu leo lét. Chúng tôi dẫu sao cũng ấm áp trong chiếc áo khoác quá khổ vốn dành cho sinh viên nước ngoài, được nhà trường cho mượn. Tôi dừng lại bên một cụ bà, mua mấy thanh kẹo lạc và vài điếu thuốc lá thay cho một lời xin lỗi.
     Thời bao cấp, 22 đồng học bổng mỗi tháng, phải dè sẻn chi tiêu để dành phần thưởng thức một chút hương vị Hà Nội: gói cốm làng Vòng bọc trong lá sen, quả hồng ngâm dòn tan, ly cà-phê Lâm bốc khói, những que kem Tràng Tiền cắn ngập răng tê buốt…
     Tôi đã ăn hai cái Tết Hà Nội như thế, với phần thực phẩm phân phối theo tem phiếu, với bánh chưng và chè kho…Nhớ nhà, giao thừa, tôi lại hoà vào dòng người xuống phố, tìm xem cái quán ăn mà ngày xưa cha tôi họp mặt bạn bè trước ngày trở về miền Nam hay đứng nhìn vào ngôi trường trung học mà ông ngoại tôi làm việc mấy năm trước khi từ trần. Sáng mùa xuân, một mình lững thững đạp xe, ngẩng chào những tàn cây đâm chồi quanh hồ Gươm, vòng qua quãng trường Ba Đình rồi ra đường Cổ Ngư, nghe lòng mình tan biến trong sương mù còn giăng giăng trên mặt hồ Tây và lãng đãng trên những vòm cây dẫn vào chùa Trấn Quốc. 
     Hơn 30 năm trôi qua, nhiều hình ảnh Hà Nội đã nhạt nhoà trong ký ức. Đồng thời, lại có những hình ảnh như đã chạm khắc vào kỷ niệm. Đó là những dấu vết tàn phá của bom Mỹ ở phố Khâm Thiên và bệnh viện Bạch Mai. Đó là chiếc máy bay B52 rơi trên làng hoa Ngọc Hà được đưa vào vườn Bách Thảo. Là Quang Dũng với dáng người tầm thước, lặng lẽ ở nhà xuất bản Văn học. Là Nguyễn Minh Châu thâm trầm trong căn nhà tập thể nhiều bóng tối…
     Bên kia ngôi nhà chúng tôi, chỉ cách một con đường nhỏ và một khoảng sân, là chỗ ở của Đào Duy Anh và Trần Đức Thảo. Tôi chưa được gặp Đào Duy Anh lần nào, còn Trần Đức Thảo thì vẫn thỉnh thoảng nhìn thấy cắm cúi trên chiếc xe đạp trẻ con với túi xách lòng thòng đeo nặng trên ghi-đông. Tháng hai năm 79, thanh niên Hà Nội lên biên giới, những căn hầm bỏ quên lâu ngày gần bờ hồ được gia cố trở lại. Chúng tôi được lệnh ra đào công sự ngay trên sân cỏ bên khu Kim Liên.
Hôm đó Trần Đức Thảo đi chợ về, thay vì lầm lũi đạp xe như mọi khi, đã dừng lại đứng nhìn chúng tôi đào đất, cái nhìn bần thần và ngơ ngác. Trông ông như từ một thế giới xa xăm nào khác, một thời xa xăm nào khác, đang nhìn về thời này, thế giới lạ lẫm này.
     Về sau, tôi còn nhiều dịp quay trở lại Hà Nội. Trong sân vườn Kim Liên cỏ vẫn lên xanh, những hàng cây bằng lăng toả bóng mát và nở tím dọc lối đi. Dãy nhà Trung Tự chưa thay màu vôi cũ, được nối dài thêm ra gần mặt đường, thành những cửa hiệu giăng mắc hàng hoá. Hà Nội đầy những nghịch lý trong quá khứ nên cũng đầy nghịch lý trong hiện tại. Tôi hiểu, mình nhỏ bé như vậy mà nay cũng đã khác xưa, huống chi Hà Nội rộng lớn nhường kia. Và để học cách nói trong thơ Tế Hanh, dẫu tôi còn giữ cái nhìn hơn 30 năm trước, thì Hà Nội vẫn không thể mãi là Hà Nội như hình ảnh trong sương mù của ký ức tôi.
 Huỳnh Như Phương
Theo http://khoavanhoc-ngonngu.edu.vn/
Nguồn: Báo Sài Gòn tiếp thị Xuân Canh Dần 2010


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  GIÁO SƯ LÊ NGỌC TRỤ MỘT ĐỜI MÀI CHỮ Giáo Sư Lê Ngọc Trụ sinh ngày 15/3/1909 tại Chợ Lớn (Q.6 Tp HCM), trong gia đình nghèo đông anh em...