Phạm Duy, ca nhân chắp cánh
cho những cuộc tình
“…Phạm Duy trở thành người
chắp cánh và an ủi, song hành và tiễn đưa cho những cuộc tình của nhiều thế hệ
thanh niên miền Nam, đặc biệt là trong giai đoạn đất nước phân ly, lòng người
tao loạn...”.
Nhạc sĩ Phạm Duy trong tấm ảnh
gửi các thân hữu
nhân dịp năm mới 2013 - Ảnh: Phong Quang
Ngày đó có em đi nhẹ vào đời
Và mang theo trăng sao đến với lời thơ nuối.
Ngày đó có anh mơ lại mộng ngời
Và se tơ kết tóc giam em vào lòng thôi...
Và mang theo trăng sao đến với lời thơ nuối.
Ngày đó có anh mơ lại mộng ngời
Và se tơ kết tóc giam em vào lòng thôi...
Nhạc phẩm “Ngày đó chúng mình”, sáng tác năm 1959 tại Sài Gòn, với giọng
ca của cố danh ca Duy Quang, là một trong những bản tình ca đẹp nhất của Phạm
Duy, người nhạc sĩ lớn nhất của nền Tân nhạc Việt Nam, mới từ giã cõi trần bên thềm Xuân Quý Tỵ.
Với hơn 90 năm đời người và 70 năm trong nghiệp sáng tác, “người hát rong thế kỷ” Phạm Duy đã cho ra đời hơn 1.200 tác phẩm thuộc mười mấy loại ca khúc với nội dung và cách thể hiện hết sức đa dạng, phong phú và hầu như ở thể loại nào, ông cũng có những kiệt tác về mặt nhạc học hoặc nội dung.
Tuy nhiên, nếu để nhắc đến một thể loại nhạc mà trong đó, bất cứ ai- không phụ thuộc chính kiến - cũng phải thống nhất rằng Phạm Duy là một nghệ sĩ đại tài ít ai sánh kịp, phải kể đến tình ca, với những bài ca bay bổng về giai điệu và tuyệt mỹ về ca từ, từng được một nhà phê bình Canada đánh giá và vinh danh là “sự vươn lên của cánh thiên nga”.
Tự nhận là đã có những cảm xúc thể xác từ năm 7-8 tuổi, mê đọc truyện lãng mạn và thường được người lớn kể cho nghe những truyện tình từ khi còn nhỏ, mới 12 tuổi đã biết yêu - bên cạnh con người xã hội và con người tâm linh thể hiện qua nhiều ca khúc, thì con người tình cảm của Phạm Duy có lẽ là khía cạnh chủ đạo nhất của ông.
Chính con người đó, cùng những cung bậc tình cảm rất mạnh mẽ, đã khiến Phạm Duy trở thành người chắp cánh và an ủi, song hành và tiễn đưa cho những cuộc tình của nhiều thế hệ thanh niên miền Nam, đặc biệt là trong giai đoạn đất nước phân ly, lòng người tao loạn...
Với hơn 90 năm đời người và 70 năm trong nghiệp sáng tác, “người hát rong thế kỷ” Phạm Duy đã cho ra đời hơn 1.200 tác phẩm thuộc mười mấy loại ca khúc với nội dung và cách thể hiện hết sức đa dạng, phong phú và hầu như ở thể loại nào, ông cũng có những kiệt tác về mặt nhạc học hoặc nội dung.
Tuy nhiên, nếu để nhắc đến một thể loại nhạc mà trong đó, bất cứ ai- không phụ thuộc chính kiến - cũng phải thống nhất rằng Phạm Duy là một nghệ sĩ đại tài ít ai sánh kịp, phải kể đến tình ca, với những bài ca bay bổng về giai điệu và tuyệt mỹ về ca từ, từng được một nhà phê bình Canada đánh giá và vinh danh là “sự vươn lên của cánh thiên nga”.
Tự nhận là đã có những cảm xúc thể xác từ năm 7-8 tuổi, mê đọc truyện lãng mạn và thường được người lớn kể cho nghe những truyện tình từ khi còn nhỏ, mới 12 tuổi đã biết yêu - bên cạnh con người xã hội và con người tâm linh thể hiện qua nhiều ca khúc, thì con người tình cảm của Phạm Duy có lẽ là khía cạnh chủ đạo nhất của ông.
Chính con người đó, cùng những cung bậc tình cảm rất mạnh mẽ, đã khiến Phạm Duy trở thành người chắp cánh và an ủi, song hành và tiễn đưa cho những cuộc tình của nhiều thế hệ thanh niên miền Nam, đặc biệt là trong giai đoạn đất nước phân ly, lòng người tao loạn...
Khởi nghiệp âm nhạc trong gánh hát cải lương lưu động Đức Huy – Charlot Miều
trên cương vị một ca sĩ nhạc cải cách từ năm 1944, nhưng trước đó hai năm Phạm
Duy đã có ca khúc hoàn chỉnh đầu tiên, “Cô hái mơ”, phổ thơ Nguyễn Bính, thuộc hàng những bản nhạc
tình của thời kỳ sơ khởi trong Tân nhạc Việt Nam.
Phạm Duy gọi “Cô hái mơ” và hai bản nhạc tình sau đó, “Khối tình Trương Chi” và “Cây đàn bỏ quên”, là loại “tình ca ấp úng”, rất đặc trưng cho nhạc tình giai đoạn đầu của nền Nhạc cải cách, khi người nhạc sĩ phải viện vào nước non, mây trời, cỏ cây... để nói lên tâm sự của mình thông qua những mối tình tưởng tượng, không có thực.
Phạm Duy gọi “Cô hái mơ” và hai bản nhạc tình sau đó, “Khối tình Trương Chi” và “Cây đàn bỏ quên”, là loại “tình ca ấp úng”, rất đặc trưng cho nhạc tình giai đoạn đầu của nền Nhạc cải cách, khi người nhạc sĩ phải viện vào nước non, mây trời, cỏ cây... để nói lên tâm sự của mình thông qua những mối tình tưởng tượng, không có thực.
Đêm năm xưa khi cung đàn lên
tơ
Hoa lá quên giờ tàn
Mây trắng bay tìm đàn
Hồn người thổn thức trong phòng loan
Đêm năm xưa nghe cung đàn gây mơ
Âu yếm nâng tà quạt
Hôn gió đưa về thuyền
Tưởng người trên sóng ru thần tiên.
Êm êm êm dần lan
Cung Nam Thương mờ vang.
Em yêu ai bờ sông nhớ thương ai trong đàn
Xa xa xa rồi tan
Cung Nam Ai thở than.
Ai thương em lầu buồn mỗi lúc khuya tàn cung...
Hoa lá quên giờ tàn
Mây trắng bay tìm đàn
Hồn người thổn thức trong phòng loan
Đêm năm xưa nghe cung đàn gây mơ
Âu yếm nâng tà quạt
Hôn gió đưa về thuyền
Tưởng người trên sóng ru thần tiên.
Êm êm êm dần lan
Cung Nam Thương mờ vang.
Em yêu ai bờ sông nhớ thương ai trong đàn
Xa xa xa rồi tan
Cung Nam Ai thở than.
Ai thương em lầu buồn mỗi lúc khuya tàn cung...
Những bản tình ca đầu tay của Phạm Duy, mặc dù dạo đó tác giả mới chỉ tự mày mò
học nhạc lý, đã cho thấy dấu hiệu của một tài năng lớn sau này. Đặc biệt, phần
ca từ của ông hết sức văn chương và nên thơ, dưới ảnh hưởng của Thơ Mới và thi
ca Việt Nam, mà chính Phạm Duy kể lại là ông đã thuộc lòng và thẩm thấu đại đa
số các tác phẩm chính yếu.
Năm 1946, kháng chiến bùng nổ. Gia nhập phong trào Việt Minh như rất nhiều văn nghệ sĩ khác, là tác giả của chừng ba chục bài Kháng chiến ca, Thanh niên ca, Quân ca và Dân ca mới phục vụ cuộc chiến giành độc lập, nhưng Phạm Duy không “khai tử” nhạc tình, mà vẫn tiếp tục với những sáng tác như “Tình kỹ nữ”, “Tiếng đàn tôi” và “Bên cầu biên giới”.
Trong số đó, ca khúc “Bên cầu biên giới” làm năm 1947 tại Lào Kay trên cơ sở một mối tình có thật được Phạm Duy coi là “một bản nhạc tình giang hồ ẩn chứa một tâm linh”: biên giới ở đây không đơn thuần là ranh giới phân định hai quốc gia, mà còn là “biên giới giữa tình yêu và hận thù, giữa chiến tranh và hoà bình”:
Năm 1946, kháng chiến bùng nổ. Gia nhập phong trào Việt Minh như rất nhiều văn nghệ sĩ khác, là tác giả của chừng ba chục bài Kháng chiến ca, Thanh niên ca, Quân ca và Dân ca mới phục vụ cuộc chiến giành độc lập, nhưng Phạm Duy không “khai tử” nhạc tình, mà vẫn tiếp tục với những sáng tác như “Tình kỹ nữ”, “Tiếng đàn tôi” và “Bên cầu biên giới”.
Trong số đó, ca khúc “Bên cầu biên giới” làm năm 1947 tại Lào Kay trên cơ sở một mối tình có thật được Phạm Duy coi là “một bản nhạc tình giang hồ ẩn chứa một tâm linh”: biên giới ở đây không đơn thuần là ranh giới phân định hai quốc gia, mà còn là “biên giới giữa tình yêu và hận thù, giữa chiến tranh và hoà bình”:
Ôi giấc mơ qua
Mộng đời phiêu lãng giang hồ
Sống trong lòng người đẹp Tô Châu
Hay là chết bên bờ sông Danube
Những đêm sáng sao
Nhưng đường quá xa vời
Hương trời vẫn mê mải
Lòng tôi sao vẫn còn biên giới
Ðời tôi sao vẫn ngừng nơi đây
Ôi dòng tóc êm đềm
Ôi bể mắt đắm chìm
Mộng bền năm xưa chỉ là mơ qua.
Mộng đời phiêu lãng giang hồ
Sống trong lòng người đẹp Tô Châu
Hay là chết bên bờ sông Danube
Những đêm sáng sao
Nhưng đường quá xa vời
Hương trời vẫn mê mải
Lòng tôi sao vẫn còn biên giới
Ðời tôi sao vẫn ngừng nơi đây
Ôi dòng tóc êm đềm
Ôi bể mắt đắm chìm
Mộng bền năm xưa chỉ là mơ qua.
Mùa hạ năm 1951, Phạm Duy cùng gia đình vào thành rồi sau 1 tháng ở Hà Nội, gia
đình ông bay vào Nam sinh sống. Tại miền đất mới, sau những năm đầu theo đuổi
Tình ca quê hương - Tình tự dân tộc, hoặc dòng nhạc Viễn du, Viễn xứ, Viễn mơ với
những tuyệt phẩm như “Tình ca”, “Tình hoài hương”, “Bà mẹ quê”, “Thuyền viễn xứ”...,Phạm Duy trở lại với nhạc tình “sau mười năm ngủ kỹ”, như diễn đạt của chính
người nhạc sĩ.
Đó là lúc Phạm Duy đắm chìm trong mối tình 10 năm ngoài gia đình mà theo lời ông nói: “Tôi đi tìm và tôi đã gặp tình yêu. Tôi không lẩn tránh nó dù biết không giữ được nó suốt đời”. Mối tình với Lệ Lan (Alice), người thiếu nữ đã viết cho Phạm Duy vài trăm bài thơ, khiến ông có được mấy chục bản tình ca đẹp nhất của Tân nhạc Việt Nam mà ông gọi bằng cái tên Nhạc tình cảm tính.
Khởi đầu bằng “Thương tình ca” (năm 1956), đây là dòng nhạc “đã rời khỏi khung cảnh lãng mạn” của nhạc tình giai đoạn đầu Tân nhạc Việt Nam để đến một khúc rẽ mới, khi “bài nào cũng xoay quanh chữ “nhau”: “đôi lứa yêu nhau không cần đến bối cảnh chung quanh - chỉ có anh với em, chỉ có người nam, người nữ dìu nhau đi trên đường tình”.
Đó là lúc Phạm Duy đắm chìm trong mối tình 10 năm ngoài gia đình mà theo lời ông nói: “Tôi đi tìm và tôi đã gặp tình yêu. Tôi không lẩn tránh nó dù biết không giữ được nó suốt đời”. Mối tình với Lệ Lan (Alice), người thiếu nữ đã viết cho Phạm Duy vài trăm bài thơ, khiến ông có được mấy chục bản tình ca đẹp nhất của Tân nhạc Việt Nam mà ông gọi bằng cái tên Nhạc tình cảm tính.
Khởi đầu bằng “Thương tình ca” (năm 1956), đây là dòng nhạc “đã rời khỏi khung cảnh lãng mạn” của nhạc tình giai đoạn đầu Tân nhạc Việt Nam để đến một khúc rẽ mới, khi “bài nào cũng xoay quanh chữ “nhau”: “đôi lứa yêu nhau không cần đến bối cảnh chung quanh - chỉ có anh với em, chỉ có người nam, người nữ dìu nhau đi trên đường tình”.
Dìu nhau đi trên phố vắng
Dìu nhau đi trong ánh sáng
Dắt hồn về giấc mơ vàng, nhẹ nhàng
Dìu nhau đi chung một niềm thương.
Nhịp chân êm êm thánh thót
Ðừng cho trăng tan dưới gót
Chớ để mộng vỡ mơ tàn, dịu dàng
Ðừng cho không gian đụng thời gian.
Dìu nhau đi trong ánh sáng
Dắt hồn về giấc mơ vàng, nhẹ nhàng
Dìu nhau đi chung một niềm thương.
Nhịp chân êm êm thánh thót
Ðừng cho trăng tan dưới gót
Chớ để mộng vỡ mơ tàn, dịu dàng
Ðừng cho không gian đụng thời gian.
Chìm đắm trong nhau, bên nhau như những người đang mơ giấc mộng dài - “Tôi đang mơ giấc mộng dài - Đừng lay tôi
nhé, cuộc đời chung quanh” (trích một thi phẩm của Lệ Lan) - là tinh thần của
loạt tình ca này với những tuyệt phẩm như “Tìm nhau”, “Cho nhau”, “Đừng xa
nhau”, “Kiếp nào có yêu nhau” (phổ thơ Minh Đức Hoài Trinh), “Đường em đì”,
“Nghìn trùng xa cách”...
Nhạc tình cảm tính của Phạm Duy chứa chở những hoài niệm, trải nghiệm của một thời “tình xanh khi chưa lo sợ”, kèm theo mọi sắc thái đam mê và day dứt, hạnh phúc và khổ đau của thân phận những cuộc tình, những cặp tình nhân yêu nhau trong cơn mê sảng và nhức nhối, với tâm thức có thể xa nhau (vĩnh viễn) bất cứ lúc nào.
Người tình Phạm Duy ngay khi đang yêu, mơ mộng “đừng cho trăng tan dưới gót - chớ để mộng vỡ mơ tàn, dịu dàng - đừng cho không gian đụng thời gian”, đã nghĩ tới sự tan vỡ của cuộc tình, “nếu một mai em bước qua thềm”, “ngày đó có em ra khỏi đời rồi - và mang theo trăng sao chết cuối trời u tối”, để rồi phải cất tiếng van lơn, cầu khẩn:
Nhạc tình cảm tính của Phạm Duy chứa chở những hoài niệm, trải nghiệm của một thời “tình xanh khi chưa lo sợ”, kèm theo mọi sắc thái đam mê và day dứt, hạnh phúc và khổ đau của thân phận những cuộc tình, những cặp tình nhân yêu nhau trong cơn mê sảng và nhức nhối, với tâm thức có thể xa nhau (vĩnh viễn) bất cứ lúc nào.
Người tình Phạm Duy ngay khi đang yêu, mơ mộng “đừng cho trăng tan dưới gót - chớ để mộng vỡ mơ tàn, dịu dàng - đừng cho không gian đụng thời gian”, đã nghĩ tới sự tan vỡ của cuộc tình, “nếu một mai em bước qua thềm”, “ngày đó có em ra khỏi đời rồi - và mang theo trăng sao chết cuối trời u tối”, để rồi phải cất tiếng van lơn, cầu khẩn:
Dù mai sau dắt nhau mà qua cầu
Mồ chôn sâu ánh trăng vàng mái lầu
Ðừng xa nhau nhé!
Ðừng quên nhau nhé!
Ðừng chia nhau núi cao vực sâu.
Ðừng xa nhau! Ðừng quên nhau
Ðừng dứt tiếng ngậm sầu
Ðừng im hơi đắng cay rời nhau
Ðừng đi mau để mãi mãi
Là chiếc bóng đậm mầu
Còn theo nhau tới muôn đời sau.
Mồ chôn sâu ánh trăng vàng mái lầu
Ðừng xa nhau nhé!
Ðừng quên nhau nhé!
Ðừng chia nhau núi cao vực sâu.
Ðừng xa nhau! Ðừng quên nhau
Ðừng dứt tiếng ngậm sầu
Ðừng im hơi đắng cay rời nhau
Ðừng đi mau để mãi mãi
Là chiếc bóng đậm mầu
Còn theo nhau tới muôn đời sau.
Nếu Phạm Duy đã phải tìm người tình hết sức gian nan “trong bom lửa”, “trong
mưa bão”, “trên kinh đô xây trong xương máu” (“Tìm nhau”, 1956), thì ông cũng ý thức được rằng, sau khi
đã “cho nhau này dãy Trường Sơn - cho nhau cả bốn trùng dương” (“Cho nhau”,
1957), sẽ có lúc cặp tình nhân phải nói với nhau những lời chua xót, đắng cay:
Còn gì nữa đâu? Mà chờ đón
nhau
Suốt đêm thâu lạnh lẽo
Ngóng trông nhau bạc đầu mà chẳng thấy nhau.
Còn gì nữa đâu?
Còn gì nữa đâu? Mà tưởng nhớ nhau
Bóng dáng yêu, từ lâu
Ðã trôi mau về đâu
Trong giấc mơ nghèo tình đã nhạt mầu...
Suốt đêm thâu lạnh lẽo
Ngóng trông nhau bạc đầu mà chẳng thấy nhau.
Còn gì nữa đâu?
Còn gì nữa đâu? Mà tưởng nhớ nhau
Bóng dáng yêu, từ lâu
Ðã trôi mau về đâu
Trong giấc mơ nghèo tình đã nhạt mầu...
Với những dự cảm âm u như vậy trước cuộc tình mà Nàng Thơ từng được người nhạc
sĩ vinh danh với những ca từ đẹp nhất: “Ðường em có đi, hằng đêm gót hoa - Nở
những đóa thơ, ôi dị kỳ - Ðường êm có khi chờ em bước qua - Là nghiêng giấc mơ
ước thề”, không có gì lạ khi Phạm Duy cho rằng, chủ đề chính yếu khiến ông quan
tâm thời bấy giờ là Tình yêu, Sự đau khổ và Cái chết.
Đi đến tận cùng của cảm xúc trong Tình yêu và Sự đau khổ, Cái chết của Phạm Duy có thể là cái chết trong cuộc tình sau khi đã trải qua mọi cung bậc, “nước mắt đã buông rơi theo tiếng hát qua đời”, hoặc cái chết khi phải vắng xa cuộc đời sớm nở tối tàn mà tác giả đã khắc họa trong một số ca khúc, đặc biệt là bản “Nước mắt rơi” (1961), như phân tích của chính ông:
“Giọt nước mắt ra đi từ bờ mi rồi sẽ chết ở bờ môi, nhưng trong khoảnh khắc ngắn ngủi đó, nước mắt là ngọt bùi của đôi lứa, là mặn đắng của khổ đau, là tình trinh nữ, là hồn thơ, là đời hoa sớm nở tối tàn, là suối lệ nhỏ nhoi hay biển nước mắt của chúng ta. Có cả nước mắt không mùi và nước mắt khô trong một ca khúc ngắn ngủi này...”.
Đi đến tận cùng của cảm xúc trong Tình yêu và Sự đau khổ, Cái chết của Phạm Duy có thể là cái chết trong cuộc tình sau khi đã trải qua mọi cung bậc, “nước mắt đã buông rơi theo tiếng hát qua đời”, hoặc cái chết khi phải vắng xa cuộc đời sớm nở tối tàn mà tác giả đã khắc họa trong một số ca khúc, đặc biệt là bản “Nước mắt rơi” (1961), như phân tích của chính ông:
“Giọt nước mắt ra đi từ bờ mi rồi sẽ chết ở bờ môi, nhưng trong khoảnh khắc ngắn ngủi đó, nước mắt là ngọt bùi của đôi lứa, là mặn đắng của khổ đau, là tình trinh nữ, là hồn thơ, là đời hoa sớm nở tối tàn, là suối lệ nhỏ nhoi hay biển nước mắt của chúng ta. Có cả nước mắt không mùi và nước mắt khô trong một ca khúc ngắn ngủi này...”.
Nước mắt rơi cho tình ra đời
Nước mắt theo duyên về xa vời
Mùa Xuân ngời trôi dòng lệ vui nhỏ bé xanh tươi.
Nước mắt suôi cho người gặp người
Nước mắt len sau từng nụ cười
Lệ ngọt bùi say đời rủ nhau tìm lối ra khơi.
Nước mắt rơi trên tình trinh nữ
Nước mắt đem hương vào hồn thơ.
Nước mắt theo duyên về xa vời
Mùa Xuân ngời trôi dòng lệ vui nhỏ bé xanh tươi.
Nước mắt suôi cho người gặp người
Nước mắt len sau từng nụ cười
Lệ ngọt bùi say đời rủ nhau tìm lối ra khơi.
Nước mắt rơi trên tình trinh nữ
Nước mắt đem hương vào hồn thơ.
Nhạc tình của Phạm Duy có yếu tố lãng mạn, day dứt và khắc khoải như của một số
tác giả khác, nhưng mạnh mẽ và cuồng nhiệt, đắm chìm và đi xa hơn hết thảy. “Kiếp nào có yêu nhau”, ca khúc được phổ theo bài thơ của
người bạn gái Minh Đức Hoài Trinh gửi từ Paris về cho tác giả, là một sáng tác
kịch tính về giai điệu, phần lời được Phạm Duy thêm câu chữ để trở nên một kiệt
tác trong loạt bài hát “thơ phổ nhạc” mà ông là bậc thầy:
Đừng nhìn em nữa anh ơi!
Hoa xanh đã phai rồi, hương trinh đã tan rồi
Đừng nhìn em
Đừng nhìn em nữa anh ơi
Đôi mi đã buông xuôi, môi nhăn đã quên cười.
Hẳn người thôi đã quên ta
Trăng Thu gẫy đôi bờ, chim bay xứ xa mờ
Gặp người chăng
Gặp người chăng, nhắn cho ta
Hoa xanh đã bơ vơ, đêm sâu gối ơ thờ.
Kiếp nào có yêu nhau, thì xin tìm đến mai sau
Hoa xanh khi chưa nở, tình xanh khi chưa lo sợ
Bao giờ có yêu nhau, thì xin gạt hết thương đau
Anh đâu anh đâu rồi?
Anh đâu anh đâu rồi?
Hoa xanh đã phai rồi, hương trinh đã tan rồi
Đừng nhìn em
Đừng nhìn em nữa anh ơi
Đôi mi đã buông xuôi, môi nhăn đã quên cười.
Hẳn người thôi đã quên ta
Trăng Thu gẫy đôi bờ, chim bay xứ xa mờ
Gặp người chăng
Gặp người chăng, nhắn cho ta
Hoa xanh đã bơ vơ, đêm sâu gối ơ thờ.
Kiếp nào có yêu nhau, thì xin tìm đến mai sau
Hoa xanh khi chưa nở, tình xanh khi chưa lo sợ
Bao giờ có yêu nhau, thì xin gạt hết thương đau
Anh đâu anh đâu rồi?
Anh đâu anh đâu rồi?
Đạt được đỉnh cao trong nhạc tình trong 10 năm từ 1956 đến 1966, nhưng tình ca
vẫn là một chủ đề lớn và xuyên suốt của sự nghiệp âm nhạc Phạm Duy trong nhiều
thập niên về sau. Đây là sẽ nội dung của các phần sau của loạt bài viết về nhạc
tình Phạm Duy, như một nén hương muộn màng để từ giã ca nhân chắp cánh cho những cuộc tình của nhiều
thế hệ tình nhân Việt Nam…
“Ngoài con người xã hội, hay
nhạc nhân hòa với mục đích điều hợp con người, xã hội; con người tâm linh, hay
nhạc nhiên hòa để hòa mình vào thiên nhiên, siêu nhiên, Phạm Duy đặc biệt chú
trọng con người tình cảm, tức loại nhạc cho cá nhân, cho riêng mình thông qua
những bản tình ca”.
Bìa một tập nhạc tình của Phạm
Duy (1971) - Ảnh tư liệu
Một người ngồi bên kia sông
im nghe nước chẩy về đâu
Một người ngồi đây trông hoa trôi theo nước chẩy phương nào
Trời thì mưa rơi mưa rơi không ngưng suối tuôn niềm đau
Người thì hẹn nhau sang sông mong cho chóng tạnh mùa Ngâu.
Cuộc đời làm cho đôi bên yêu nhau cách một biển sâu
Hẹn hò tàn Thu sang Xuân bên nhau biết thuở ban đầu
Dù tình không nguôi, đôi ta xin cho hứa vui về sau
Trời còn làm cho mưa rơi mưa rơi cách biệt dài lâu.
Nước vẫn trôi mau! Mắt vẫn hoen mầu
Ðành để hồn theo nước trôi không mầu
Số kiếp hay sao? Không cho bắc cầu
Thì xin sông nước sẽ cho gần nhau...
Một người ngồi đây trông hoa trôi theo nước chẩy phương nào
Trời thì mưa rơi mưa rơi không ngưng suối tuôn niềm đau
Người thì hẹn nhau sang sông mong cho chóng tạnh mùa Ngâu.
Cuộc đời làm cho đôi bên yêu nhau cách một biển sâu
Hẹn hò tàn Thu sang Xuân bên nhau biết thuở ban đầu
Dù tình không nguôi, đôi ta xin cho hứa vui về sau
Trời còn làm cho mưa rơi mưa rơi cách biệt dài lâu.
Nước vẫn trôi mau! Mắt vẫn hoen mầu
Ðành để hồn theo nước trôi không mầu
Số kiếp hay sao? Không cho bắc cầu
Thì xin sông nước sẽ cho gần nhau...
Ca khúc “Hẹn hò” sáng tác năm 1954 tại Sài Gòn, như nhạc sĩ thuật lại, đã được
Phạm Duy dùng âm giai ngũ cung giọng Huế để kể một câu chuyện tình rất buồn,
tương tự như chuyện Ngưu Lang Chức Nữ. Vào thời điểm đó, định cư tại miền Nam
cùng gia đình đã được chừng 3 năm, đời sống đã ổn định, Phạm Duy có thời gian
và điều kiện, phương tiện để học hỏi thêm về nhạc lý. Ông đã du học tự túc gần
hai năm ở Pháp về nhạc ngữ, lý thuyết hòa âm, đối âm và thực hành dương cầm.
Với nhiều kinh nghiệm trong đời sống và sự trưởng thành trong âm nhạc, Phạm Duy đã phác thảo ra ba con người trong sáng tác và trong sự nghiệp của mình. Cụ thể, một cách rất có ý thức, ngoài con người xã hội, hay nhạc nhân hòa với mục đích điều hợp con người, xã hội; con người tâm linh, hay nhạc nhiên hòa để hòa mình vào thiên nhiên, siêu nhiên, Phạm Duy đặc biệt chú trọng con người tình cảm, tức loại nhạc cho cá nhân, cho riêng mình thông qua những bản tình ca.
Vì thế, ngay cả sau quãng thời gian 10 năm, từ năm 1956 tới năm 1966, khi Phạm Duy đắm chìm trong một mối tình lãng mạn đã khiến ông có hàng loạt bản tình ca đỉnh cao trong “dòng nhạc tình cảm tính”, thì thể loại nhạc tình vẫn tiếp tục chiếm tỉ lệ lớn trong những ca khúc của ông thời sau này. Đó là lúc, như Phạm Duy thú nhận, “đã đến lúc mà tôi và Nàng Thơ của tôi phải chia tay nhau”, “bây giờ thì thực sự là chia phôi rồi!”:
“Trước đây, nếu tôi soạn những tình khúc có thật, dành riêng cho một người tình, tạm gọi là những bài tình ca đôi lứa thì bây giờ, tôi soạn tình ca một mình. Có hứa hẹn “đừng xa nhau” thì cũng phải tới lúc có người “qua cầu”, và tôi nghĩ rằng cũng chẳng “còn gì nữa đâu để mà gọi mãi nhau”...Thế nhưng còn nhiều lắm, còn quá nhiều dư âm của cuộc tình, cho nên tôi sẽ khản tiếng kêu lên gọi hồn người bằng những tình khúc đầy ắp kỷ niệm xưa...”.
Do vậy, nếu trước đó, tình yêu trong nhạc Phạm Duy nhiều khi được hòa vào tình cảm thiên nhiên như trong các bản “Dạ lai hương” (1953), “Chiều về trên sông” (1956), “Mưa rơi” (1960)..., hoặc thấm đượm cảm xúc tìm nhau, có nhau, bên nhau, “bài nào cũng xoay quanh chữ “nhau” như ông hồi tưởng, thì thời gian sau, ông đã dồn nhiều cảm xúc vào những nhạc phẩm đầy hoài niệm và những ký ức của một thời “tình xanh khi chưa lo sợ”, như trong bài “Nghìn trùng xa cách” (1969):
Với nhiều kinh nghiệm trong đời sống và sự trưởng thành trong âm nhạc, Phạm Duy đã phác thảo ra ba con người trong sáng tác và trong sự nghiệp của mình. Cụ thể, một cách rất có ý thức, ngoài con người xã hội, hay nhạc nhân hòa với mục đích điều hợp con người, xã hội; con người tâm linh, hay nhạc nhiên hòa để hòa mình vào thiên nhiên, siêu nhiên, Phạm Duy đặc biệt chú trọng con người tình cảm, tức loại nhạc cho cá nhân, cho riêng mình thông qua những bản tình ca.
Vì thế, ngay cả sau quãng thời gian 10 năm, từ năm 1956 tới năm 1966, khi Phạm Duy đắm chìm trong một mối tình lãng mạn đã khiến ông có hàng loạt bản tình ca đỉnh cao trong “dòng nhạc tình cảm tính”, thì thể loại nhạc tình vẫn tiếp tục chiếm tỉ lệ lớn trong những ca khúc của ông thời sau này. Đó là lúc, như Phạm Duy thú nhận, “đã đến lúc mà tôi và Nàng Thơ của tôi phải chia tay nhau”, “bây giờ thì thực sự là chia phôi rồi!”:
“Trước đây, nếu tôi soạn những tình khúc có thật, dành riêng cho một người tình, tạm gọi là những bài tình ca đôi lứa thì bây giờ, tôi soạn tình ca một mình. Có hứa hẹn “đừng xa nhau” thì cũng phải tới lúc có người “qua cầu”, và tôi nghĩ rằng cũng chẳng “còn gì nữa đâu để mà gọi mãi nhau”...Thế nhưng còn nhiều lắm, còn quá nhiều dư âm của cuộc tình, cho nên tôi sẽ khản tiếng kêu lên gọi hồn người bằng những tình khúc đầy ắp kỷ niệm xưa...”.
Do vậy, nếu trước đó, tình yêu trong nhạc Phạm Duy nhiều khi được hòa vào tình cảm thiên nhiên như trong các bản “Dạ lai hương” (1953), “Chiều về trên sông” (1956), “Mưa rơi” (1960)..., hoặc thấm đượm cảm xúc tìm nhau, có nhau, bên nhau, “bài nào cũng xoay quanh chữ “nhau” như ông hồi tưởng, thì thời gian sau, ông đã dồn nhiều cảm xúc vào những nhạc phẩm đầy hoài niệm và những ký ức của một thời “tình xanh khi chưa lo sợ”, như trong bài “Nghìn trùng xa cách” (1969):
Nghìn trùng xa cách người đã
đi rồi
Còn gì đâu nữa mà khóc với cười
Mời người lên xe về miền quá khứ
Mời người đem theo toàn vẹn thương yêu
Ðứng tiễn người vào dĩ vãng nhạt mầu
Sẽ có chẳng nhiều đớn đau (...)
Nghìn trùng xa cách người đã đi rồi
Còn gì đâu nữa mà giữ cho người...
Nghìn trùng xa cách đời đứt ngang rồi
Còn lời trăn trối gửi đến cho người...
Nghìn trùng xa cách người cuối chân trời
Ðường dài hạnh phúc, cầu chúc cho người..
Còn gì đâu nữa mà khóc với cười
Mời người lên xe về miền quá khứ
Mời người đem theo toàn vẹn thương yêu
Ðứng tiễn người vào dĩ vãng nhạt mầu
Sẽ có chẳng nhiều đớn đau (...)
Nghìn trùng xa cách người đã đi rồi
Còn gì đâu nữa mà giữ cho người...
Nghìn trùng xa cách đời đứt ngang rồi
Còn lời trăn trối gửi đến cho người...
Nghìn trùng xa cách người cuối chân trời
Ðường dài hạnh phúc, cầu chúc cho người..
Những bản nhạc tình của Phạm Duy cuối thập niên 60, đầu thập niên 70 thể kỷ trước
là như vậy. Người nhạc sĩ có tài hóa thân, đã biến những cảm xúc cá nhân của
mình thuở nào thành cảm xúc, tâm trạng chung của giới thanh niên, sinh viên thị
thành thời chiến, hàng ngày thả bộ, tiễn đưa nhau trên những con đường tình đô
thị bên mái trường, mà nghĩ tới ngày mai không biết sẽ ra sao:
Con đường nào ta đi, với bàn
chân nhỏ bé
Con đường chiều thủ đô, con đường bụi mờ
Con đường tuổi măng tre, nắng vàng tươi đẹp đẽ
Bóng người dài trên hè, con đường tình ta đi.
Con đường trời mưa êm, chiếc dù che mầu tím
Môi tìm làn môi ngon, nhưng còn thẹn thùng
Con đường về ban trưa, tới nhà hay vào lớp
Con đường của đôi mình, ôi chuyện tình thư sinh.
Thế rồi cuộc đời là những cuộc tình chia xa
Ði lạc vào những phía không đường về...
Con đường chiều thủ đô, con đường bụi mờ
Con đường tuổi măng tre, nắng vàng tươi đẹp đẽ
Bóng người dài trên hè, con đường tình ta đi.
Con đường trời mưa êm, chiếc dù che mầu tím
Môi tìm làn môi ngon, nhưng còn thẹn thùng
Con đường về ban trưa, tới nhà hay vào lớp
Con đường của đôi mình, ôi chuyện tình thư sinh.
Thế rồi cuộc đời là những cuộc tình chia xa
Ði lạc vào những phía không đường về...
Ngày vui chóng tàn, “đời phong sương cũ, chỉ là thương nhớ - mộng bền năm xưa,
chỉ là mơ qua”, rồi cũng có ngày những chàng trai phải lên đường, ra trận, để lại
cho người tình ở hậu phương tất cả quá khứ tươi đẹp, êm đềm, tất cả “khung trời
đại học”, “con đường Duy Tân cây dài bóng mát”, và cả những “buổi chiều khuôn
viên mây trời xanh ngát - vết chân trên đường vẫn chưa phai nhạt”, như trong ca
khúc “Trả lại em yêu” (1971):
Trả lại em yêu, khung trời mùa Hạ
Ngọn đèn hiu hiu nỗi buồn cư xá
Vài giọt mưa sa hôn mềm trên má
Tóc em thơm nồng, dáng em hiền hoà.
Anh sẽ ra đi về miền cát trắng
Nơi có quê hương mịt mù thuốc súng
Anh sẽ ra đi về miền mênh mông
Cơn gió cao nguyên, từng đêm lạnh lùng
Anh sẽ ra đi nặng hành trang đó
Ðem dấu chân soi tuổi đời ngây thơ
Ðem nỗi thương yêu vào niềm thương nhớ
Anh sẽ ra đi chẳng mong ngày về.
Ngọn đèn hiu hiu nỗi buồn cư xá
Vài giọt mưa sa hôn mềm trên má
Tóc em thơm nồng, dáng em hiền hoà.
Anh sẽ ra đi về miền cát trắng
Nơi có quê hương mịt mù thuốc súng
Anh sẽ ra đi về miền mênh mông
Cơn gió cao nguyên, từng đêm lạnh lùng
Anh sẽ ra đi nặng hành trang đó
Ðem dấu chân soi tuổi đời ngây thơ
Ðem nỗi thương yêu vào niềm thương nhớ
Anh sẽ ra đi chẳng mong ngày về.
Tuy nhiên, Phạm Duy sẽ không phải là Phạm Duy, nếu ông chỉ dừng lại ở những cảm
xúc hiền hòa như thế. Nhạc tình Phạm Duy ở thời điểm cuộc chiến Việt Nam lên tới
mức khốc liệt nhất còn có cả những ca khúc mang hơi hướng nhục tính, kèm những
cung bậc dữ dội về cảm xúc, mà Phạm Duy cho rằng mang dấu ấn của thời đại thì
đúng hơn là vết tích của cuộc tình lý tưởng mà ông đã trải qua. Bản “Cỏ hồng”
(1970) với những hình ảnh một Đà Lạt hoang dã, một tình yêu nguyên sơ và giao
hòa với thiên nhiên là một ví dụ:
Rước em lên đồi, cỏ hoang ngập lối
Rước em lên đồi, hẹn với bình minh
Ðôi chân xinh xinh như tình thôi khép nép
Hãy vứt chiếc dép, bước đi ôm cỏ mềm
Ðồi êm êm, cỏ im im, ngủ yên yên, mộng rất hiền
Giọt sương đêm còn trinh nguyên
Nằm mê man chờ nắng sớm lên, rước em lên đồi tiên
Đồi nghiêng nghiêng, cỏ lóng lánh,
Rồi rung rinh, bừng thoát giấc lành
Trời mông mênh, đồi thênh thênh
Cỏ chênh vênh chờ đôi nhân tình
Rước em lên đồi xanh! Rước em lên đồi trinh.
Rước em lên đồi, hẹn với bình minh
Ðôi chân xinh xinh như tình thôi khép nép
Hãy vứt chiếc dép, bước đi ôm cỏ mềm
Ðồi êm êm, cỏ im im, ngủ yên yên, mộng rất hiền
Giọt sương đêm còn trinh nguyên
Nằm mê man chờ nắng sớm lên, rước em lên đồi tiên
Đồi nghiêng nghiêng, cỏ lóng lánh,
Rồi rung rinh, bừng thoát giấc lành
Trời mông mênh, đồi thênh thênh
Cỏ chênh vênh chờ đôi nhân tình
Rước em lên đồi xanh! Rước em lên đồi trinh.
Sự sâu sắc trong tình yêu, nét day dứt, dằn vặt thiết tha trong cảm xúc được hội
tụ và thăng hoa đầy đủ và nâng lên mức cao độ trong một sáng tác nổi tiếng khác
của Phạm Duy năm 1969, bản “Nha Trang ngày về”:
Nha Trang ngày về, mình tôi trên bãi khuya
Tôi đi vào thương nhớ, tôi xây lại mộng mơ năm nào
Bờ biển sâu, hai chúng tôi gần nhau
Ðêm xưa biển này, người yêu trong cánh tay.
Đêm nay còn cát trắng, đêm nay còn tiếng sóng
Đêm nay còn trăng soi, nhưng rồi chỉ còn tôi
Trên bãi đêm khóc người tình.
Cát trắng thơm tho, lùa vào trong nắm tay
Nào ngờ cát úa tuôn ra dần dà chẳng có hay.
Ân tình trong lúc đôi mươi
Bao giờ cũng vẫn mau phai
Cho ngàn thông réo tên ai, từ đó
Lớp sóng mơn man thịt mềm, da ngát hương
Nào ngờ sóng cuốn trôi đi lầu vàng trên bãi hoang...
Tôi đi vào thương nhớ, tôi xây lại mộng mơ năm nào
Bờ biển sâu, hai chúng tôi gần nhau
Ðêm xưa biển này, người yêu trong cánh tay.
Đêm nay còn cát trắng, đêm nay còn tiếng sóng
Đêm nay còn trăng soi, nhưng rồi chỉ còn tôi
Trên bãi đêm khóc người tình.
Cát trắng thơm tho, lùa vào trong nắm tay
Nào ngờ cát úa tuôn ra dần dà chẳng có hay.
Ân tình trong lúc đôi mươi
Bao giờ cũng vẫn mau phai
Cho ngàn thông réo tên ai, từ đó
Lớp sóng mơn man thịt mềm, da ngát hương
Nào ngờ sóng cuốn trôi đi lầu vàng trên bãi hoang...
Là một nhạc sĩ sáng tác rất có chủ ý thành những cụm ca khúc, nếu Phạm Duy từng
đã có một bản tình ca mùa Thu hết sức lãng mạn dành cho nữ danh ca Lệ Thu (bản
“Nước mắt mùa thu”, 1970), thì bản tình ca mùa Hạ của ông, ca khúc “Phượng yêu”
(1970), cũng hết sức thắm thiết, ca từ chứa nhiều hình ảnh so sánh ẩn dụ, thoảng
yếu tố dục tính, và như ông giới thiệu, “mùa Hạ là mùa hoa phượng - vào lúc trời
đất ấm áp nhưng lòng mình thì giá lạnh, tôi soạn “Phượng yêu” cũng là để kể lại
cuộc tình vừa qua của tôi”:
Yêu người như lá đổ chiều đông
Như mây hồng chưa tím
Như con chim khóc trong lồng
Như cơn giông đêm hè
Tình ta nức nở canh khuya
Yêu người như suối cuộn rừng sâu
Như con tầu say gió
Như con giun ngước lên trời
Yêu trăng sao vời vợi
Làm sao sao nói được tình tôi.
Yêu người! Yêu Phượng!
Yêu hoa đầu mùa
Yêu mầu rực rỡ, yêu em mù lòa
Yêu bằng tiếng nói đơn sơ.
Yêu người, yêu cả cơn mơ rụt rè
Yêu bằng gió núi qua khe gập gềnh
Yêu bằng tiếng hát yêu tinh.
Như mây hồng chưa tím
Như con chim khóc trong lồng
Như cơn giông đêm hè
Tình ta nức nở canh khuya
Yêu người như suối cuộn rừng sâu
Như con tầu say gió
Như con giun ngước lên trời
Yêu trăng sao vời vợi
Làm sao sao nói được tình tôi.
Yêu người! Yêu Phượng!
Yêu hoa đầu mùa
Yêu mầu rực rỡ, yêu em mù lòa
Yêu bằng tiếng nói đơn sơ.
Yêu người, yêu cả cơn mơ rụt rè
Yêu bằng gió núi qua khe gập gềnh
Yêu bằng tiếng hát yêu tinh.
Mở đầu sự nghiệp sáng tác với một bài tình ca, “Cô hái mơ”, Phạm Duy khép lại
quãng đời ở Sài Gòn trước khi ra ngoại quốc với một chùm tình khúc mà ông coi
là “cuối cùng của đời tôi”, đượm màu sắc tăm tối, chua chát và ma quái, như
“Tình hờ”, “Ta yêu em lầm lỡ”, hoặc “Chỉ chừng đó thôi”, một bản tình ca có lẽ
là nhẹ nhàng nhất trong số những bản nhạc đề tài tình yêu ở thời điểm ông sắp
xa nước:
Chỉ chừng một năm trôi
Là quên lời trăn trối
Ai nuối thương tình đôi
Chỉ chừng một năm thôi
Chỉ cần một năm qua
Là phai mờ hương cũ
Hoa úa trong lòng ta
Chỉ cần một năm xa...
Khi xưa em gầy gò
Ði ngang qua nhà thờ
Trông như con mèo khờ
Chờ bàn tay nâng đỡ
Ta yêu em tình cờ
Như cơn mưa đầu mùa
Rơi trên sân cỏ già
Làm rụng rơi cánh hoa. (...)
Là quên lời trăn trối
Ai nuối thương tình đôi
Chỉ chừng một năm thôi
Chỉ cần một năm qua
Là phai mờ hương cũ
Hoa úa trong lòng ta
Chỉ cần một năm xa...
Khi xưa em gầy gò
Ði ngang qua nhà thờ
Trông như con mèo khờ
Chờ bàn tay nâng đỡ
Ta yêu em tình cờ
Như cơn mưa đầu mùa
Rơi trên sân cỏ già
Làm rụng rơi cánh hoa. (...)
Biến cố 1975 là một khúc rẽ lớn trong sự nghiệp âm nhạc của Phạm Duy, khiến ông
và gia đình phải mất một khoảng thời gian đáng kể để thu xếp nơi ăn chốn ở và
sinh kế. Hai mươi lăm năm sống ở hải ngoại, bắt tay vào nhiều thể loại như Tổ
khúc “Bầy chim bỏ xứ”, Rong ca, Thiền ca, Hàn Mạc Tử ca, v.v..., tình ca trong
giai đoạn này chỉ xuất hiện rải rác trong nhạc Phạm Duy, nhưng cũng để lại dấu ấn,
chẳng hạn với nhạc phẩm “Rồi đây anh sẽ đưa em về nhà” (năm 1981) đầy tính an ủi,
một trong những ca khúc sẽ còn đọng lại trong ký ức những người yêu giọng ca đằm
thắm Duy Quang:
Rồi đây anh sẽ đưa em về nhà
Nhà của đôi ta, xinh xinh nhỏ bé
Có vườn rau xanh ngát ngoại ô
Có mùa mưa hay nắng mộng mơ
Cây me già trong ngõ
Hoa lá đổ về khuya
Mùi hương lối xóm bay đi tràn trề.
Rồi đây anh sẽ đưa em trở về
Về nơi công viên yên vui lặng lẽ
Hãy ngồi đây, ghế đá ngày xưa
Dưới hàng thông có gió lửng lơ
Con chim nào thường hay hót
Con bướm nào thường hay bay
Về đây với những thương yêu hàng ngày.
Nhà của đôi ta, xinh xinh nhỏ bé
Có vườn rau xanh ngát ngoại ô
Có mùa mưa hay nắng mộng mơ
Cây me già trong ngõ
Hoa lá đổ về khuya
Mùi hương lối xóm bay đi tràn trề.
Rồi đây anh sẽ đưa em trở về
Về nơi công viên yên vui lặng lẽ
Hãy ngồi đây, ghế đá ngày xưa
Dưới hàng thông có gió lửng lơ
Con chim nào thường hay hót
Con bướm nào thường hay bay
Về đây với những thương yêu hàng ngày.
Bảy năm sau, trong loạt những ca khúc “Hát cho năm hai ngàn” mà Phạm Duy gọi bằng
cái tên “Mười bài Rong ca”, bài “Rong ca” số 6 mang tựa đề “Nắng chiều rực rỡ”
(1988) có thể coi là bản tình ca duy nhất trong loạt 10 bài Rong ca. “Rong ca”
6 nói về những tình cảm của con người ở tuổi hoàng hôn thông qua hình ảnh nắng
chiều “chạng vạng”, từ dùng của cụ Phan Khôi mà người nhạc sĩ rất tâm đắc và
hay nhắc lại, cho rằng chính cái nắng về chiều mới là đẹp nhất:
Ước nguyện thầm cho đôi lứa ân cần
Nuôi thật dài hoàng hôn ái ân
Ước nguyện rằng khi đêm chết chưa về
Nắng chiều hồng tươi hơn nắng trưa.
Em có thấy không nắng chiều rực rỡ
Em có thấy không nắng đẹp còn đó
Nắng còn nắng lê thê
Thì đêm ơi, vội gì?
Nắng còn nắng bao la
Thì xin đêm đợi chờ!
(...) Cuộc tình anh với em
Chỉ còn giây phút thôi
Thì tình, xin cứ coi
Là nghìn tia nắng rọi.
Nuôi thật dài hoàng hôn ái ân
Ước nguyện rằng khi đêm chết chưa về
Nắng chiều hồng tươi hơn nắng trưa.
Em có thấy không nắng chiều rực rỡ
Em có thấy không nắng đẹp còn đó
Nắng còn nắng lê thê
Thì đêm ơi, vội gì?
Nắng còn nắng bao la
Thì xin đêm đợi chờ!
(...) Cuộc tình anh với em
Chỉ còn giây phút thôi
Thì tình, xin cứ coi
Là nghìn tia nắng rọi.
Nhạc tình Phạm Duy, tất nhiên không phải chỉ có vậy: trong hai phần đầu về “Phạm Duy, ca nhân chắp cánh cho những cuộc tình”, chúng
tôi chỉ mới điểm qua những sáng tác mà Phạm Duy đảm trách cả phần nhạc điệu lẫn
ca từ. Bên cạnh đó, còn có rất nhiều những tình khúc xuất sắc của Phạm Duy là
do ông phổ thơ những tác giả khác, hoặc đặt lời Việt trên nền các nhạc phẩm quốc
tế - đây là hai đề tài mà có thể nói, không nhạc sĩ Việt Nam nào có biệt tài đến
độ được suy tôn là “phù thủy” như ông.
Đó sẽ là đề tài cho phần cuối
loạt bài viết của chúng tôi…
Nghìn Thu, anh là suối trên ngàn
Thành sông anh đi xuống
Anh tuôn tràn biển mơ
Nghìn Thu, em là sóng xô bờ
Vào sông em đi mãi
Không bao giờ biển vơi
Em là cõi trống
Cho tình đong vào
Anh là nơi vắng
Cho tình căng đầy
Cuộc tình đi vào cõi Thiên Thu
Em là cơn gió
Anh là mây dài
Ði về bên nớ
Ði về bên này
Rồi trở về cho hết cái đong đưa.
Nghìn Thu, em lặng lẽ ươm mầm
Cành mai, không ai biết
Em âm thầm nở hoa.
Nghìn Thu, trăng chợt sáng hay mờ
Lặng im, anh lên xuống
Không ai ngờ, hiển nhiên.
(...) Nghìn Thu, ta bù đắp không ngừng
Tình âm dương chan chứa
Xoay trong vùng tử sinh.
Thành sông anh đi xuống
Anh tuôn tràn biển mơ
Nghìn Thu, em là sóng xô bờ
Vào sông em đi mãi
Không bao giờ biển vơi
Em là cõi trống
Cho tình đong vào
Anh là nơi vắng
Cho tình căng đầy
Cuộc tình đi vào cõi Thiên Thu
Em là cơn gió
Anh là mây dài
Ði về bên nớ
Ði về bên này
Rồi trở về cho hết cái đong đưa.
Nghìn Thu, em lặng lẽ ươm mầm
Cành mai, không ai biết
Em âm thầm nở hoa.
Nghìn Thu, trăng chợt sáng hay mờ
Lặng im, anh lên xuống
Không ai ngờ, hiển nhiên.
(...) Nghìn Thu, ta bù đắp không ngừng
Tình âm dương chan chứa
Xoay trong vùng tử sinh.
Xin để “Bài hát nghìn thu”, hay “Rong ca 7”, khép lại phần hai của loạt bài viết
về nhạc tình Phạm Duy, nhân sự ra đi của người nhạc sĩ lớn này.
“Phạm Duy - con người mà về
cá nhân ông có thể có những ý kiến đánh giá khác biệt, nhưng sự nghiệp âm nhạc
đồ sộ của ông - trong đó có mảng tình ca bất tử - sẽ mãi mãi là một phần của di
sản văn hóa Việt Nam...”.
Phạm Duy và Trịnh Công Son,
những
ông hoàng của nhạc tình Việt Nam - Ảnh tư liệu
ông hoàng của nhạc tình Việt Nam - Ảnh tư liệu
Mùa thu Paris
Trời buốt ra đi
Hẹn em quán nhỏ
Hẹn em quán nhỏ
Rượu rưng rưng ly đỏ tràn trề
Mùa thu đêm mưa
Phố cũ hè xưa
Công viên lá đổ
Công viên lá đổ
Chờ mong em gắng khổ từng giờ
Mùa thu âm thầm
Bên vườn Lục Xâm
Ngồi quen ghế đá
Ngồi quen ghế đá
Không em ôi buốt giá từ tâm
Mùa thu nơi đâu
Người em mắt nâu
Tóc vàng sợi nhỏ
Tóc vàng sợi nhỏ
Chờ mong em chín đỏ trái sầu...
Trời buốt ra đi
Hẹn em quán nhỏ
Hẹn em quán nhỏ
Rượu rưng rưng ly đỏ tràn trề
Mùa thu đêm mưa
Phố cũ hè xưa
Công viên lá đổ
Công viên lá đổ
Chờ mong em gắng khổ từng giờ
Mùa thu âm thầm
Bên vườn Lục Xâm
Ngồi quen ghế đá
Ngồi quen ghế đá
Không em ôi buốt giá từ tâm
Mùa thu nơi đâu
Người em mắt nâu
Tóc vàng sợi nhỏ
Tóc vàng sợi nhỏ
Chờ mong em chín đỏ trái sầu...
Kinh thành Paris, với những nét tráng lệ và ám ảnh trong thơ của Nguyên Sa,
Thanh Tâm Tuyền, nhạc của Phạm Trọng Cầu, Ngô Thụy Miên, một lần nữa được Phạm
Duy khắc họa rất bay bổng và trữ tình trong ca khúc “Mùa thu Paris”, sáng tác
năm 1959 dựa trên một thi khúc của Cung Trầm Tưởng.
Trong hai phần trước của loạt bài viết, khi điểm qua sự nghiệp sáng tác tình ca của Phạm Duy, chúng tôi đã nhắc tới “Cô hái mơ”, ca khúc đầu tiên của người nhạc sĩ, phổ thơ Nguyễn Bính, và “Kiếp nào có yêu nhau”, một bản nhạc tình nổi tiếng phổ thơ Minh Đức Hoài Trinh. Thật ra, trong kho tàng ca khúc của Phạm Duy và nhạc tình nói riêng của ông, có không ít những tác phẩm mà phần lời là thơ của các tác giả khác, đã nổi danh hoặc chưa được biết đến khi Phạm Duy phổ nhạc.
Như lời chia sẻ của Phạm Duy, “khởi sự là một người soạn ca khúc, (...) tôi cứ mãi mãi là người soạn ca khúc (...) và tôi chỉ nghĩ rằng nếu tiếp tục soạn ca khúc thì phải thăng hoa nó lên, nghĩa là phải làm sao cho cả hai phần nhạc và lời càng ngày càng tiến bộ”. Ca từ của Phạm Duy rất giàu chất thơ, và có lẽ cũng là một may mắn của ông khi trong mỗi giai đoạn sáng tác, mỗi loại ca khúc, ông đều có những người bạn tri âm - những thi sĩ mà thơ của họ đã được ông chắp cánh trong những nhạc phẩm.
Lý giải về việc đã phổ (và phổ rất thành công) rất nhiều thi phẩm, Phạm Duy cho hay: “Ca khúc của tôi, như mọi người đã biết, về phần lời ca, đa số là do tôi soạn, còn một số là những bài thơ (...) khi được tôi phổ nhạc. Lý do tôi thích phổ thơ cũng rất là giản dị. Trước hết, tôi yêu thơ từ ngày còn bé. Lớn lên, tôi có nhiều bạn là thi sĩ làm thơ hay và làm cho tôi càng yêu thơ hơn lên. Cuối cùng, tôi có một người tình rất yêu thơ tiền chiến và làm 300 bài thơ tình tặng tôi”.
Và rốt cuộc, trong hành trình phổ nhạc những bài thơ hay mà chính Phạm Duy cho rằng “xét ra cũng thật là dài”, ông đã có nhiều duyên nợ với những tác giả Thơ Mới lừng danh như Nguyễn Bính, Lưu Trọng Lư, Thế Lữ, Huy Cận, Xuân Diệu, Hàn Mạc Tử, Đoàn Phú Tứ, Bích Khê...Kết quả là không ít bản tình ca hết sức lãng mạn và thành công đã được ra mắt thính giả yêu nhạc, như bản “Hoa rụng ven sông” Phạm Duy sáng tác năm 1958 trên cơ sở thi phẩm “Còn chi nữa” của Lưu Trọng Lư:
Trong hai phần trước của loạt bài viết, khi điểm qua sự nghiệp sáng tác tình ca của Phạm Duy, chúng tôi đã nhắc tới “Cô hái mơ”, ca khúc đầu tiên của người nhạc sĩ, phổ thơ Nguyễn Bính, và “Kiếp nào có yêu nhau”, một bản nhạc tình nổi tiếng phổ thơ Minh Đức Hoài Trinh. Thật ra, trong kho tàng ca khúc của Phạm Duy và nhạc tình nói riêng của ông, có không ít những tác phẩm mà phần lời là thơ của các tác giả khác, đã nổi danh hoặc chưa được biết đến khi Phạm Duy phổ nhạc.
Như lời chia sẻ của Phạm Duy, “khởi sự là một người soạn ca khúc, (...) tôi cứ mãi mãi là người soạn ca khúc (...) và tôi chỉ nghĩ rằng nếu tiếp tục soạn ca khúc thì phải thăng hoa nó lên, nghĩa là phải làm sao cho cả hai phần nhạc và lời càng ngày càng tiến bộ”. Ca từ của Phạm Duy rất giàu chất thơ, và có lẽ cũng là một may mắn của ông khi trong mỗi giai đoạn sáng tác, mỗi loại ca khúc, ông đều có những người bạn tri âm - những thi sĩ mà thơ của họ đã được ông chắp cánh trong những nhạc phẩm.
Lý giải về việc đã phổ (và phổ rất thành công) rất nhiều thi phẩm, Phạm Duy cho hay: “Ca khúc của tôi, như mọi người đã biết, về phần lời ca, đa số là do tôi soạn, còn một số là những bài thơ (...) khi được tôi phổ nhạc. Lý do tôi thích phổ thơ cũng rất là giản dị. Trước hết, tôi yêu thơ từ ngày còn bé. Lớn lên, tôi có nhiều bạn là thi sĩ làm thơ hay và làm cho tôi càng yêu thơ hơn lên. Cuối cùng, tôi có một người tình rất yêu thơ tiền chiến và làm 300 bài thơ tình tặng tôi”.
Và rốt cuộc, trong hành trình phổ nhạc những bài thơ hay mà chính Phạm Duy cho rằng “xét ra cũng thật là dài”, ông đã có nhiều duyên nợ với những tác giả Thơ Mới lừng danh như Nguyễn Bính, Lưu Trọng Lư, Thế Lữ, Huy Cận, Xuân Diệu, Hàn Mạc Tử, Đoàn Phú Tứ, Bích Khê...Kết quả là không ít bản tình ca hết sức lãng mạn và thành công đã được ra mắt thính giả yêu nhạc, như bản “Hoa rụng ven sông” Phạm Duy sáng tác năm 1958 trên cơ sở thi phẩm “Còn chi nữa” của Lưu Trọng Lư:
Giờ đây trên sông hoa rụng
tơi bời!
Giờ đây em ơi cơn mộng tan rồi!
Lòng anh tan hoang thôi vỗ tình ơi
Ngày như theo sông bóng xế chiều rơi..
Còn đâu em ơi! Còn đâu ánh trăng vàng
Còn đâu ánh trăng vàng, mơ trên làn tóc rối?
Còn đâu em ơi! Còn đâu bước chân người
Còn đâu bước chân người, mơ trên đường chiều rơi?
Còn đâu đêm sang lá đổ rộn ràng!
Còn đâu sương tan trăng nội mơ màng?
Còn đâu em ngoan, tóc rối ngổn ngang
Tuổi em đôi mươi, xuân mới vừa sang...
Còn đâu em ơi! Còn đâu giờ nhung lụa?
Mộng trùm trên bông, tình nồng trong gối...
Còn đâu em ơi! Còn đâu mùi cỏ dại?
Chút tình thơ ngây, Không còn trên đôi má...
Giờ đây em ơi cơn mộng tan rồi!
Lòng anh tan hoang thôi vỗ tình ơi
Ngày như theo sông bóng xế chiều rơi..
Còn đâu em ơi! Còn đâu ánh trăng vàng
Còn đâu ánh trăng vàng, mơ trên làn tóc rối?
Còn đâu em ơi! Còn đâu bước chân người
Còn đâu bước chân người, mơ trên đường chiều rơi?
Còn đâu đêm sang lá đổ rộn ràng!
Còn đâu sương tan trăng nội mơ màng?
Còn đâu em ngoan, tóc rối ngổn ngang
Tuổi em đôi mươi, xuân mới vừa sang...
Còn đâu em ơi! Còn đâu giờ nhung lụa?
Mộng trùm trên bông, tình nồng trong gối...
Còn đâu em ơi! Còn đâu mùi cỏ dại?
Chút tình thơ ngây, Không còn trên đôi má...
“Ngậm ngùi”, một thi phẩm nổi tiếng của Huy Cận cũng được Phạm Duy phổ nhạc vào
năm 1961. Bản phổ rất sát lời và dung dị, nhưng hết sức thành công và bất chấp
việc hai tác giả ở hai đầu chiến tuyến đối nghịch, nhạc phẩm này đã được nhiều
thế hệ ca sĩ miền Nam thể hiện như một lời an ủi, thương yêu đằm thắm của cặp
tình nhân trong cảnh chiến chinh leo thang, với mộng ước về những ngày thanh
bình “trăm con chim mộng về bay đầu giường”:
Nắng chia nửa bãi chiều rồi
Vườn hoang trinh nữ xếp đôi lá rầu
Sợi buồn con nhện giăng mau
Em ơi hãy ngủ anh hầu quạt đây
Lòng anh mở với quạt này
Trăm con chim mộng về bay đầu giường.
Ngủ đi em - mộng bình thường...
Ngủ đi em - mộng bình thường...
Ru em sẵn tiếng, thùy dương đôi bờ
Ngủ đi em, ngủ đi em.
Tay anh em hãy tựa đầu
Cho anh nghe nặng trái sầu rụng rơi.
Vườn hoang trinh nữ xếp đôi lá rầu
Sợi buồn con nhện giăng mau
Em ơi hãy ngủ anh hầu quạt đây
Lòng anh mở với quạt này
Trăm con chim mộng về bay đầu giường.
Ngủ đi em - mộng bình thường...
Ngủ đi em - mộng bình thường...
Ru em sẵn tiếng, thùy dương đôi bờ
Ngủ đi em, ngủ đi em.
Tay anh em hãy tựa đầu
Cho anh nghe nặng trái sầu rụng rơi.
Cũng trong những năm tháng ấy, một nhạc phẩm nổi tiếng khác của Phạm Duy cũng
được ra đời phỏng theo một bài thơ mà ông được người tình - Lệ Lan (Alice) - gửi
tặng, ca khúc “Tôi đang mơ giấc mộng dài”. Bài hát rất điển hình cho cảm hứng của
loạt “nhạc tình cảm tính” thời kỳ 1956-1966 của Phạm Duy, khi cặp trai gái sau
khi đã tìm nhau, có nhau, mê man trong cuộc tình bên nhau trong một giấc mộng
dài bất tận, nhưng đã lo lắng, ái ngại trước viễn cảnh phải xa nhau để rồi phải
van vỉ đừng xa nhau:
Tôi đang mơ giấc mộng dài
Ðừng lay tôi nhé, cuộc đời chung quanh.
Tôi đang nhìn thấy màu xanh ở trên cây cành trôi xuống thân mình
Tôi đang nhìn thấy màu hồng ở khắp nẻo đường nhẹ thấm vào hồn
Từ bình minh tươi mát, về hoàng hôn thơm ngát
Làn gió đưa hương đời vào chứa chan lòng tôi.
Tôi nghe từ cõi đời vui vượt qua đêm dài lên tới sao trời
Tôi nghe từ cõi lòng người lời nói bồi hồi tìm kiếm ngọt bùi
Và nhìn thấy trong tim, tình yêu nở những con chim
Nở những con chim tuyệt vời.
Ðừng lay tôi nhé cuộc đời,
Tôi còn trẻ dại, cho tôi mơ mộng.
Ðừng lay tôi nhé, cuộc đời chung quanh.
Tôi đang nhìn thấy màu xanh ở trên cây cành trôi xuống thân mình
Tôi đang nhìn thấy màu hồng ở khắp nẻo đường nhẹ thấm vào hồn
Từ bình minh tươi mát, về hoàng hôn thơm ngát
Làn gió đưa hương đời vào chứa chan lòng tôi.
Tôi nghe từ cõi đời vui vượt qua đêm dài lên tới sao trời
Tôi nghe từ cõi lòng người lời nói bồi hồi tìm kiếm ngọt bùi
Và nhìn thấy trong tim, tình yêu nở những con chim
Nở những con chim tuyệt vời.
Ðừng lay tôi nhé cuộc đời,
Tôi còn trẻ dại, cho tôi mơ mộng.
Trong hồi tưởng, Phạm Duy đã đặc biệt có nhiều cảm xúc với ca khúc trên, gọi nó
là bài ca mà ông có được khi “tình yêu đã đem trăng sao đến” cho cuộc đời ông.
Tạ Tỵ, trong tác phẩm “Phạm Duy còn đó nỗi buồn” (năm 1971) nói về cuộc đời Phạm
Duy, đã cho rằng “Tôi đang mơ giấc mộng dài” là “bài tình ca hoan lạc nhất”
trong đời sáng tác đến đầu thập niên 70 của người nhạc sĩ lớn.
Thế hệ trí thức miền Nam du học tại Pháp thập niên 50 đã mang về nước hình ảnh một Paris mà như lời một nhà văn, không đặt chân tới nơi đó, không thể lãng mạn, không thể làm thơ và sáng tác được. Từng có dịp theo học nhạc lý ở Kinh thành Ánh sáng, Phạm Duy hẳn rất tâm đắc và chia sẻ được với những sắc thái tình cảm của thi sĩ Cung Trầm Tưởng, khi đó còn chưa được biết đến nhiều, với chùm thơ của ông về cảm hứng Paris, trong đó những “mối tình dị chủng” (chữ Phạm Duy) giữ vai trò không nhỏ.
Như chính ông thú nhận: “Đã có dăm ba cuộc tình với những cô em xanh mắt bồ câu... thứ tình dị chủng rất nhẹ, dễ vào dễ ra, dễ bén dễ tan. Tôi không ngờ những cuộc tình tạm bợ này, về sau, giúp tôi rất nhiều khi tôi phổ nhạc những bài thơ của Cung Trầm Tưởng. Tôi chỉ cần nhớ lại hình ảnh tôi và những mỹ nhân tóc vàng sợi nhỏ đó là có thể dễ dàng gợi ra cảnh “Mùa thu Paris, trời buốt ra đi, hẹn em quán nhỏ”...hay cảnh “tiễn em về xứ mẹ”...tại nhà “ga Lyon đèn vàng, cầm tay em muốn khóc, nói chi cũng muộn màng”...
Thế hệ trí thức miền Nam du học tại Pháp thập niên 50 đã mang về nước hình ảnh một Paris mà như lời một nhà văn, không đặt chân tới nơi đó, không thể lãng mạn, không thể làm thơ và sáng tác được. Từng có dịp theo học nhạc lý ở Kinh thành Ánh sáng, Phạm Duy hẳn rất tâm đắc và chia sẻ được với những sắc thái tình cảm của thi sĩ Cung Trầm Tưởng, khi đó còn chưa được biết đến nhiều, với chùm thơ của ông về cảm hứng Paris, trong đó những “mối tình dị chủng” (chữ Phạm Duy) giữ vai trò không nhỏ.
Như chính ông thú nhận: “Đã có dăm ba cuộc tình với những cô em xanh mắt bồ câu... thứ tình dị chủng rất nhẹ, dễ vào dễ ra, dễ bén dễ tan. Tôi không ngờ những cuộc tình tạm bợ này, về sau, giúp tôi rất nhiều khi tôi phổ nhạc những bài thơ của Cung Trầm Tưởng. Tôi chỉ cần nhớ lại hình ảnh tôi và những mỹ nhân tóc vàng sợi nhỏ đó là có thể dễ dàng gợi ra cảnh “Mùa thu Paris, trời buốt ra đi, hẹn em quán nhỏ”...hay cảnh “tiễn em về xứ mẹ”...tại nhà “ga Lyon đèn vàng, cầm tay em muốn khóc, nói chi cũng muộn màng”...
Lên xe tiễn em đi
Chưa bao giờ buồn thế
Trời mùa đông Paris
Suốt đời làm chia lỵ
Tiễn em về xứ Mẹ
Anh nói bằng tiếng hôn
Không còn gì lâu hơn
Một trăm ngày xa cách
(...) Hôn nhau phút này
Chia tay tức thì
Em ơi khóc đi em, khóc đi em, khóc đi em
Sao rơi rớt rụng
Vai em ướt mềm
Em ơi khóc đi em, khóc đi em, khóc đi em.
(...) Hỡi em người xóm học
Sương thấm hè phố đêm
Trên con đường anh đi
Lệ em buồn vương vấn.
Tuyết rơi phủ con tầu
Trong toa em lạnh đầy
Làm sao em không rét
Cho ấm mộng đêm nay?
Nơi em có trăng soi
Anh một mình ở lại
Trời mùa đông Paris
Suốt đời thèm trăng soi...
Chưa bao giờ buồn thế
Trời mùa đông Paris
Suốt đời làm chia lỵ
Tiễn em về xứ Mẹ
Anh nói bằng tiếng hôn
Không còn gì lâu hơn
Một trăm ngày xa cách
(...) Hôn nhau phút này
Chia tay tức thì
Em ơi khóc đi em, khóc đi em, khóc đi em
Sao rơi rớt rụng
Vai em ướt mềm
Em ơi khóc đi em, khóc đi em, khóc đi em.
(...) Hỡi em người xóm học
Sương thấm hè phố đêm
Trên con đường anh đi
Lệ em buồn vương vấn.
Tuyết rơi phủ con tầu
Trong toa em lạnh đầy
Làm sao em không rét
Cho ấm mộng đêm nay?
Nơi em có trăng soi
Anh một mình ở lại
Trời mùa đông Paris
Suốt đời thèm trăng soi...
Sống trong cảnh đất nước phân ly, lòng người ly loạn, trong những tháng năm dài
của đời sáng tác, Phạm Duy đã có không ít ca khúc phổ thơ về những cuộc tình khổ
đau chồng chất trong chiến chinh, mà có lẽ cảm xúc mãnh liệt nhất và bi tráng
nhất đã được ông đặt ở “Áo anh sứt chỉ đường tà”, phổ thơ “Màu tím hoa sim” của
Hữu Loan. “Người nghệ sĩ còn phải nói lên tiếng nói con tim của những người
đang hy sinh hạnh phúc cá nhân và hạnh phúc gia đình để đi chiến đấu”, Phạm Duy
hồi tưởng như vậy về bài ca trong hồi ký của ông.
Từng là bạn hữu thân thiết của nhau trong những tháng năm kháng chiến, quá thấu hiểu nét đau thương của chiến tranh, nên Phạm Duy đã có một tác phẩm xác tín nhất trong số các bản phổ thơ “Màu tím hoa sim” của nhiều nhạc sĩ khác, mà ông vẫn tự hào là, đồng thời nó là bài hát khó hát nhất, đã được nhiều giọng ca lớn thể hiện, trong đó, có lẽ nam danh ca Elvis Phương đã có cách thể hiện dữ dội nhất, biến ca khúc - và cả thi phẩm gốc - trở nên bất tử trong lòng người hâm mộ:
Từng là bạn hữu thân thiết của nhau trong những tháng năm kháng chiến, quá thấu hiểu nét đau thương của chiến tranh, nên Phạm Duy đã có một tác phẩm xác tín nhất trong số các bản phổ thơ “Màu tím hoa sim” của nhiều nhạc sĩ khác, mà ông vẫn tự hào là, đồng thời nó là bài hát khó hát nhất, đã được nhiều giọng ca lớn thể hiện, trong đó, có lẽ nam danh ca Elvis Phương đã có cách thể hiện dữ dội nhất, biến ca khúc - và cả thi phẩm gốc - trở nên bất tử trong lòng người hâm mộ:
Nhưng không chết người trai
chiến sĩ
Mà chết người gái nhỏ miền xuôi
Nhưng không chết người trai chiến sĩ
Mà chết người gái nhỏ miền xuôi
(…) Tôi về không gặp nàng
Má ngồi bên mộ vàng
Chiếc bình hoa ngày cưới
Đã thành chiếc bình hương
Nhớ xưa em hiền hoà
Áo anh em viền tà
Nhớ người yêu mầu tím
Nhớ người yêu mầu sim.
Giờ phút lìa đời
Chẳng được nói một lời
Chẳng được ngó mặt người...
(…) Ôi một chiều mưa rừng trên chiến trường Đông Bắc
Ba người anh được tin người em gái thương đau
Và tin dữ đi mau, rồi tin cưới đi sau.
Chiều hành quân qua những đồi sim
Những đồi sim, những đồi sim, đồi tím hoa sim
Tím cả chiều hoang biền biệt...
Mà chết người gái nhỏ miền xuôi
Nhưng không chết người trai chiến sĩ
Mà chết người gái nhỏ miền xuôi
(…) Tôi về không gặp nàng
Má ngồi bên mộ vàng
Chiếc bình hoa ngày cưới
Đã thành chiếc bình hương
Nhớ xưa em hiền hoà
Áo anh em viền tà
Nhớ người yêu mầu tím
Nhớ người yêu mầu sim.
Giờ phút lìa đời
Chẳng được nói một lời
Chẳng được ngó mặt người...
(…) Ôi một chiều mưa rừng trên chiến trường Đông Bắc
Ba người anh được tin người em gái thương đau
Và tin dữ đi mau, rồi tin cưới đi sau.
Chiều hành quân qua những đồi sim
Những đồi sim, những đồi sim, đồi tím hoa sim
Tím cả chiều hoang biền biệt...
Trong những năm cuối của cuộc chiến Việt Nam, vẫn đề tài ấy, Phạm Duy tiếp tục
có những sáng tác rất động lòng phổ thơ nhiều tác giả khi đó còn ít được biết đến,
như “Tưởng như còn người yêu” (thơ Lê Thị Ý), “Còn chút gì để nhớ” (thơ Vũ Hữu
Định), “Chuyện tình buồn” (thơ Phạm Văn Bình), “Thầm gọi trên nhau trên trên
chiến trường tồi tệ” (thơ Ngô Đình vận)... Nhưng có lẽ tang thương nhất, khắc
nghiệt và đánh động lương tâm nhất vẫn là “Kỷ vật cho em”, phổ từ bài thơ “Để
trả lời một câu hỏi” của Linh Phương:
Em hỏi anh. Em hỏi anh bao
giờ trở lại
Xin trả lời, xin trả lời mai mốt anh về
Anh trở lại với kỷ vật viên đạn đồng đen
Em sang sông cho làm kỷ niệm
Anh trở về anh trở về trên đôi nạng gỗ
Anh trở về, anh trở về bại tướng cụt chân .
Em một chiều dạo phố mùa Xuân,
Bên nguời yêu tật nguyền chai đá.
Em hỏi anh, em hỏi anh bao giờ trở lại
Xin trả lời, xin trả lời mai mốt anh về
Anh trở về nhìn nhau xa lạ
Anhh trở về dang dở đời em
Ta nhìn nhau ánh mắt chưa quen
Cố quên đi một lần trăn trốị..Em ơi!
Em hỏi anh em hỏi anh bao giờ trở lại
Xin trả lời, xin trả lời mai mốt anh về...
Xin trả lời, xin trả lời mai mốt anh về
Anh trở lại với kỷ vật viên đạn đồng đen
Em sang sông cho làm kỷ niệm
Anh trở về anh trở về trên đôi nạng gỗ
Anh trở về, anh trở về bại tướng cụt chân .
Em một chiều dạo phố mùa Xuân,
Bên nguời yêu tật nguyền chai đá.
Em hỏi anh, em hỏi anh bao giờ trở lại
Xin trả lời, xin trả lời mai mốt anh về
Anh trở về nhìn nhau xa lạ
Anhh trở về dang dở đời em
Ta nhìn nhau ánh mắt chưa quen
Cố quên đi một lần trăn trốị..Em ơi!
Em hỏi anh em hỏi anh bao giờ trở lại
Xin trả lời, xin trả lời mai mốt anh về...
Tuy nhiên, dầu sao đi nữa, nhạc tình phổ thơ của Phạm Duy đọng lại cho đến ngày
nay và có lẽ mãi mãi, về căn bản vẫn là những ca khúc chất chứa tình cảm thuần
túy mà người nhạc sĩ đã phổ thơ một cách xuất thần, khiến có người đã dùng từ
“phù thủy” khi nhắc tới nghệ thuật thơ phổ nhạc của ông. Đặc biệt, mối giao
tình của ông với thi sĩ Phạm Thiên Thư, đã khiến ông có những bản tình ca thấm
đượm chất “Đạo” như “Ðưa em tìm động hoa vàng”, “Gọi em là đóa hoa sầu”, hoặc rất
được giới trẻ ưa thích như “Ngày xưa Hoàng Thị” (năm 1970):
Như phai nhạt mờ
Ðường xanh nho nhỏ
Như phai nhạt mờ
Ðường xanh nho nhỏ
Hôm nay tình cờ
Ði lại đường xưa đường xưa
Cây xưa còn gầy
Nằm quay ván đỏ
Áo em ngày nọ
Phai nhạt mây màu
Âm vang thuở nào
Bước nhỏ tìm nhau tìm nhau
Xưa tan trường về
Anh theo Ngọ về
Nay trên đường này
Ðời như sóng nổi
Xóa bỏ vết người
Chân người tìm nhau tìm nhau
Ôi con đường về
Ôi con đường về
Bông hoa còn đẹp
Lòng sao thấm mềm
Ngắt vội hoa này
Nhớ người thuở xưa thuở xưa...
Ðường xanh nho nhỏ
Như phai nhạt mờ
Ðường xanh nho nhỏ
Hôm nay tình cờ
Ði lại đường xưa đường xưa
Cây xưa còn gầy
Nằm quay ván đỏ
Áo em ngày nọ
Phai nhạt mây màu
Âm vang thuở nào
Bước nhỏ tìm nhau tìm nhau
Xưa tan trường về
Anh theo Ngọ về
Nay trên đường này
Ðời như sóng nổi
Xóa bỏ vết người
Chân người tìm nhau tìm nhau
Ôi con đường về
Ôi con đường về
Bông hoa còn đẹp
Lòng sao thấm mềm
Ngắt vội hoa này
Nhớ người thuở xưa thuở xưa...
Cũng trong thời gian ấy, khi Phong trào Nhạc Trẻ nở rộ ở miền Nam, Phạm Duy lập
tức có được một loạt bản nhạc tình trẻ trung, nhẹ nhàng, trên nền những thi phẩm
ngộ nghĩnh, lạ cả về ý lẫn tứ của tác giả trẻ Nguyễn Tất Nhiên. “Thà như giọt
mưa”, “Em hiền như ma-soeur”, “Hai năm tình lận đận”, “Cô Bắc kỳ nho nhỏ”...dường
như được dành riêng và trước hết cho cố danh ca Duy Quang, với phong cách trong trẻo nhưng truyền
cảm, có khi sâu lắng và đầy trải nghiệm, đi vào lòng nhiều thế hệ khán thính giả.
Này cô em Bắc Kỳ nho nhỏ
Này cô em tóc demi garcon,
Chiều hôm nay xuống đường đón gió,
Cô có tình cờ,
Nhìn thấy anh không?
Này cô em Bắc Kỳ nho nhỏ
Này cô em có nụ cười ngây thơ
Thành khi không quãng đường im gió,
Không gió lấy gì lang thang,
Cô có thương thầm anh không?...
Này cô em tóc demi garcon,
Chiều hôm nay xuống đường đón gió,
Cô có tình cờ,
Nhìn thấy anh không?
Này cô em Bắc Kỳ nho nhỏ
Này cô em có nụ cười ngây thơ
Thành khi không quãng đường im gió,
Không gió lấy gì lang thang,
Cô có thương thầm anh không?...
Những thập niên cuối đời, khi Phạm Duy thử nghiệm nhiều dòng nhạc khác và tình
ca không còn là một trong những ưu tiên hàng đầu của ông, thì đâu đó, vẫn có thể
thấy hình bóng những cuộc tình trong thơ phổ nhạc của Phạm Duy. Chẳng hạn,
trong “Tình cầm”, phổ thơ thi sĩ Hoàng Cầm, nói về mối tình ở tuổi hoàng hôn -
“Nếu anh còn trẻ như năm cũ - Quyết đón em về sống với anh - Những khi chiều
vàng phơ phất đến - Anh đàn em hát níu xuân xanh”, mà Phạm Duy đã sáng tác thêm
một khổ thơ rất đồng điệu với bài thơ gốc:
Có mây bàng bạc gây thương
nhớ
Có ánh trăng vàng soi giấc mơ
Có anh ngồi lại so phím cũ
Mong chờ em hát khúc Xuân xưa.
Nhưng thuyền em buộc trên sông hận
Anh chẳng quay về với trúc tơ
Ngày tháng tỳ bà vương ánh nguyệt
Mộng héo bên song vẫn đợi chờ.
Nếu có ngày nào em quay gót
Lui về thăm lại bến Thu xa
Thì đôi mái tóc không còn xanh nữa
Mây bạc trăng vàng vẫn thướt tha...
Có ánh trăng vàng soi giấc mơ
Có anh ngồi lại so phím cũ
Mong chờ em hát khúc Xuân xưa.
Nhưng thuyền em buộc trên sông hận
Anh chẳng quay về với trúc tơ
Ngày tháng tỳ bà vương ánh nguyệt
Mộng héo bên song vẫn đợi chờ.
Nếu có ngày nào em quay gót
Lui về thăm lại bến Thu xa
Thì đôi mái tóc không còn xanh nữa
Mây bạc trăng vàng vẫn thướt tha...
Hoặc, tình yêu khi “những ngày âu yếm đã phai rồi - sao mang trở lại một trời
oan khiên” và những vết thương lòng chưa lành, vẫn “chưa liền vết sâu”, như
trong bản “Vết sâu”, phổ thơ Nguyên Sa:
Khi em
Khi em mở cửa bước vào
Em bước vào
Hồng non trên má
Hồng đào, hồng đào trên môi.
(...) Mang anh
Mang anh trở lại ưu phiền
Nỗi ưu phiền.
Ngày em đem tới một trời
Một trời oan khiên.
Mang anh trở lại ưu phiền
Nỗi ưu phiền.
Chỗ nhăn hạnh phúc chưa liền vết sâu
Hãy còn vết đau
Chưa liền vết sâu...
Khi em mở cửa bước vào
Em bước vào
Hồng non trên má
Hồng đào, hồng đào trên môi.
(...) Mang anh
Mang anh trở lại ưu phiền
Nỗi ưu phiền.
Ngày em đem tới một trời
Một trời oan khiên.
Mang anh trở lại ưu phiền
Nỗi ưu phiền.
Chỗ nhăn hạnh phúc chưa liền vết sâu
Hãy còn vết đau
Chưa liền vết sâu...
Sẽ là một thiếu sót lớn nếu không nhắc tới vài trăm ca khúc do Phạm Duy đặt lời
Việt trên nền những giai điệu nổi tiếng của ngoại quốc, từ những bản nhạc cổ điển,
bán cổ điển, tới những bản tình ca đi cùng năm tháng của nước ngoài. Cần nói rằng,
nhiều thế hệ giới trẻ Việt Nam đã tiếp cận nhạc ngoại quốc qua phần ca từ rất đẹp
và sát ý, trung thành với bản gốc và đi vào lòng người yêu nhạc của Phạm Duy.
Một trong những bản nhạc đó, dù đã ra đời cách đây chừng sáu chục năm nhưng tới giờ vẫn là khúc ca nằm lòng của những cặp trai gái yêu nhau - đó là “Chủ nhật buồn” của nhạc sĩ Hungary Seress Resző, được coi là “bản tình ca buồn nhất của thế kỷ 20”, được Phạm Duy đặt lời Việt hết sức trung thực và tài tình từ đầu thập niên 50, khi ông qua Pháp du học và được nghe bản Pháp ngữ của ca khúc.
Đây cũng là bài hát đã được vang lên trong ngày đưa ông về nơi yên nghỉ cuối cùng, từ giã cuộc đời dài hơn 9 thập niên trên cõi tạm, với những hỉ, nộ, ái ố của kiếp người:
Một trong những bản nhạc đó, dù đã ra đời cách đây chừng sáu chục năm nhưng tới giờ vẫn là khúc ca nằm lòng của những cặp trai gái yêu nhau - đó là “Chủ nhật buồn” của nhạc sĩ Hungary Seress Resző, được coi là “bản tình ca buồn nhất của thế kỷ 20”, được Phạm Duy đặt lời Việt hết sức trung thực và tài tình từ đầu thập niên 50, khi ông qua Pháp du học và được nghe bản Pháp ngữ của ca khúc.
Đây cũng là bài hát đã được vang lên trong ngày đưa ông về nơi yên nghỉ cuối cùng, từ giã cuộc đời dài hơn 9 thập niên trên cõi tạm, với những hỉ, nộ, ái ố của kiếp người:
Chủ nhật buồn, đi lê thê
Cầm một vòng hoa đê mê.
Bước chân về với gian nhà,
Với trái tim cùng nặng nề.
Xót xa gì? Oán thương gì?
Đã biết nuôi hương chia ly.
Trót say mê đã yêu thì
Dẫu vô duyên còn nặng thề.
Ngồi một mình, nghe hơi mưa,
Mặc lệ tràn câu thiên thu.
Gió hiên ngoài nhắc một loài
Dế giun hoài ru thương ru.
Ru hỡi ru hời!...
Cầm một vòng hoa đê mê.
Bước chân về với gian nhà,
Với trái tim cùng nặng nề.
Xót xa gì? Oán thương gì?
Đã biết nuôi hương chia ly.
Trót say mê đã yêu thì
Dẫu vô duyên còn nặng thề.
Ngồi một mình, nghe hơi mưa,
Mặc lệ tràn câu thiên thu.
Gió hiên ngoài nhắc một loài
Dế giun hoài ru thương ru.
Ru hỡi ru hời!...
“Chủ nhật buồn” với lời Việt của Phạm Duy kể như khép lại loạt bài gồm ba phần để tưởng nhớ và tiễn biệt người
nhạc sĩ lớn của nền nhạc Việt Nam. Con người mà về cá nhân ông có thể có những
ý kiến đánh giá khác biệt, nhưng sự nghiệp âm nhạc đồ sộ của ông - trong đó có
mảng tình ca bất tử - sẽ mãi mãi là một phần của di sản văn hóa Việt Nam...
Nguyễn Hoàng Linh
Theo http://nhipcauthegioi.hu/
Theo http://nhipcauthegioi.hu/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét