Thứ Tư, 27 tháng 7, 2016

Bờ biển mênh mang

Bờ biển mênh mang
Biển hào hiệp, nhưng vẫn luôn khó hiểu. Chỉ bờ biển mênh mang là gần gũi người đời...
Những lần xuống núi, lững thững dọc theo miền duyên hải, từng ngày dừng lại ở những xóm làng ven biển, nhận ra đất nước như cái bao lơn khổng lồ ngun ngút nhìn ra biển Đông. Được ở bên biển là may mắn, ân huệ, sở hữu một sự vĩ đại và  diễm lệ của thiên nhiên, nhưng ấy cũng là món quà nham hiểm, đánh đố và thách thức khắc nghiệt của Thượng đế mỗi khi gió trùng khơi kéo vào...
BÃO TỐ VÀO GIỌNG NÓI
Đặc sản của đại dương là hải sản. Còn đặc sản của bờ biển là nắng gió cùng sự khắc nghiệt kéo đến tận cùng. Nắng gió cao nguyên là thứ nắng gió lững thững liếm qua núi đồi, lúc ve vuốt lúc lại thênh thang. Còn nắng gió đồng bằng châu thổ của cây lúa là thứ mênh mông, bàng bạc. Nắng gió duyên hải là keo lại, thốc vào xóm làng, vào con người, cây cỏ, lúc lại lồng lộng. Chính vì thứ nắng gió keo lại đó mà thảo mộc thì hoá gai, lá dày lên, cây thu mình lại, gan lì, bền bỉ, gai góc, phũ phàng. Ở đấy, dừa là cây "tráng sĩ" nhất, giỏi chịu đựng khắc nghiệt của trời đất, nên cứ ưỡn ngực ra trước nắng gió, bão tố từ đại dương. Nhưng mỗi cây dừa cũng là mỗi nỗi trầm tư. Mỗi lần đi giữa những dải rừng dừa ven biển ở Tam Quan (Bình Định), Cam Ranh (Khánh Hoà)..., lặng thinh, sẽ cảm nhận được sự bát ngát của bản "sonata thiên nhiên man dại" miền duyên hải. Biết bao nhiêu là nghệ sĩ nhiếp ảnh đã "gặt" được những bức ảnh chơi vơi, thẫn thờ nhất về hình dáng những cây dừa uốn cong mình đỡ lấy bờ biển, che chở đất liền... Biển Đông "phân phát" nắng, gió, cũng như cả bão tố về cho cao nguyên, thị thành, hay các miền châu thổ xa trong dải lục địa hình chữ S trầm luân thân thương.
Làng nỗi của biển Ô Loan,Tuy An Phú Yên.
Ảnh Nguyễn Hàng Tình
Bờ biển là tấm chắn của đại dương với lục địa, là dải kết nối của rừng với biển. Thế mà gầy gò nhất đích thị là dải đất đai nằm ven biển miền Trung. Ở đó, con trai dạn dày, da dẻ quánh lại, hừng hực màu của phong ba, nâu thẩm. Sự gan lì đi biển trong mỗi thằng con trai là một " giá trị" lớn nhất. Còn con gái, nhan sắc cũng ngào ngạt thứ hương của đại dương, biển dã, dồn hết sự mảnh mai, hiền dịu, yếu đuối vào sự chân thật. Nhưng gái hay trai, già hay trẻ đều chung một nếp sống phóng khoáng, tự do, tin cậy, nhân ái, bao dung nhưng ngoan cường. Trước thiên nhiên khắc nghiệt, phong ba bão tố đã đi vào cả giọng nói người duyên hải, nên trầm nặng, nặng đến thô kệch, chúa chát.
Chịu khốn khổ, đau thương nhiều thế, nhưng những làng thôn lâu đời ven biển bao giờ cũng là hình ảnh về thứ làng mạc có nhà cửa tạm bợ, dã chiến, sinh hoạt đơn sơ, con người lam lũ, đến đường sá đi luôn xoá nhoà ngay_ chỉ toàn cát mà!... Thế đó, nhưng trước mặt họ, áp sát họ, là đại dương, nơi luôn được hiểu là dồi dào sản vật, vô tận. Còn nhà cửa cứ sát nhau, không phải vì để tiết kiệm đất mà bởi cần sự nương tựa. Không gian sống hồn nhiên với nếp thương mại "chợ chồm hổm", sản vật thì đơn sơ, nhưng hễ cứ gặp mỗi lối rẽ đường làng là thấy chợ. Cứ như những làng chài ven biển sinh ra là để chấp nhận, an phận, ngàn năm vẫn vậy.
ĐỔI THAY NƠI BỜ
Ở đó nhịp sống trong từng tổ người theo một qui luật miên man: mỗi chiều tà người đàn ông, trai tráng ra khơi, phụ nữ ở nhà chăm con, lo chuyện "vặt" hậu phương và... ngóng đợi sáng mai(hoặc nhiều ngày hơn) chồng cùng hải sản về bờ. Họ chỉ cần căn cốt: dầu(chạy ghe tàu), thương lái(thu mua hải sản), và biển lặng...  là cuộc sống êm trôi. Cái chất của những người luôn đối mặt tự nhiên, sống chết, khiến nhịp sống an nhiên, tha thiết, nhưng lại rất "bất cần", như bất cần xe hơi đời mới, thị trường chứng khoán, siêu thị, địa ốc, phân lô bán nền, qui hoạch dân cư, rồi hững hờ luôn với những làng resort của ai đó ngày càng liên tục, liên tục "rơi" xuống dải bờ biển máu thịt. Những năm gần đây bỗng  sốc, vì người ta mang những dải bờ biển máu thịt đó giao cho giới Tư Bản "phân lô", chặt ra từng khúc, dưới danh nghĩa "nhà đầu tư", vì đại cuộc phát triển du lịch. Con dân ngư phủ quen nghề "đi bạn", rành theo con cá con tôm, nói năng như sóng vỗ; còn con gái  lại  thô như hộ pháp thì làm gì có cửa để mà vào làm việc ở những khu du lịch xa hoa như thế, mượt mà, "văn minh" đấy. Rồi có còn bãi biển hiền lành, thanh bình nào cho gái trai ra tắm, cho hồn Xuân Quỳnh mơ về, Khổng Vĩnh Nguyên ra biển làm thơ, cho Phạm Duy, Dương Thụ... về viết nhạc? Resort là thực thể không gian xa lạ, là "thế giới mới"; với dân chài nó là "người khách" trên bờ biển... nhưng ở lì mà không thể đuổi đi, gồng mình chấp nhận chung sống. Những dải bờ biển đẹp nhất, cát trắng nhất, sóng êm ái nhất, an toàn nhất là dành cả cho các nhà Tư bản rửa tiền, cất Resort. Dân chài chỉ nhận ra rằng, khi cái anh "resort" bành trướng dọc ngang, ấy là lúc không còn không gian để nhìn ra biển, biến mất lối để đi ra biển thế. Vậy là đến ngọn gió ven bờ cũng không còn nẻo lang thang, cũng cạn chỗ cho con dã tràng xe cát, cho loài rau muống biển tha hồ bò như bao đời nay. Nhưng vẫn phải chung sống với "resort", không để ý, hoặc gia tăng  mặc cảm, hoặc sự bất cần.
Nhưng chính nhờ sự "bất cần", vô tư đặc trưng đó mà những làng ngư phủ vững chãi trước biển, không bỏ bờ biển mà đi, không để ý nhiều, toan tính chuyện thời thế... Nhưng hai năm trở lại đây, Chính quyền ngày nay của Trung Quốc(dù cùng theo Chủ nghĩa đại đồng Xã hội Chủ Nghĩa ) ở phương Bắc vốn dân thảo nguyên du mục liên tục tràn xuống ức hiếp, đoạt giật ngư trường, biển cả quê hương, xua đuổi ngư dân, tịch thu tàu bè, bắt bớ người Việt... thì  làm sao không để tâm đến thế sự. Láng giềng của ta đang tiến hành "rào" biển Đông ngàn đời của người người Chăm, người Việt lại. Chưa bao giờ những làng người sống lâu đời bên chiếc "bao lơn biển hình chữ S" thiêng liêng này hàng ngày phải ngay ngáy lo chuyện "thời cuộc biển khơi", nghĩ về thân phận mình nhiều như thế. Ngày xưa người ngư phủ ta chỉ lo hiểm hoạ bao tố từ trùng khơi, thì nay những chuyến ra khơi  phập phồng trước với người du mục phương Bắc. Lời tình ca dáng hình duyên hải từ Phạm Duy: "... Đất nước tôi, nằm phơi phới bên bờ biển xanh/ Ruộng đồng vun sóng ra Thái Bình (dương)/ Nghìn trùng dương hát câu lành" liệu có gợi về dấu yêu thiêng liêng mà đốt lửa ý chí bảo vệ đến cùng. Và các người em gái da nâu của tôi, vốn sinh ra bên bờ biển khi lớn lên đã như những " hòn vọng phu dự bị", nay có càng thêm than trách: "Lấy chồng làm ruộng em thương/ Lấy chồng đi biển hồn treo cột buồm" (ca dao dân gian của  biển miền Trung Việt Nam)!?.
Biển Đông ở nơi giáp ranh giữa Khánh Hòa và Phú Yên.
Ảnh Nguyễn Hàng Tình
Vậy đấy, bám biển bao đời, nhưng  không thấy nhà nào giàu sang, sung túc ? Biển cả của cải như vô tận, hào phóng, nhưng không dễ dàng gom lấy những gì từ nó. Vì vậy, cư dân ven biển chọn một cuộc sống giống nhau về sự giản đơn, mong manh, chênh vênh, phù phu, nhưng an nhiên với kiểu hạnh phúc rất riêng của mình. Vì thế mà người cứ thương người, thứ tình thương đôn hậu, thật, không nhiều lời, không son phấn ứng xử. Còn niềm tin, vẫn cứ sừng sững, nên ở đó nhà thường không cổng, tường vách không xây, hàng rào nếu có chỉ dùng "thực vật", thực vật không gai, trồng thâm thấp là là để không sát thương ai...
TÂM LINH BIỂN
Những cuộc đời nối tiếp cuộc đời, những thế hệ nối tiếp thế hệ bên bờ biển. Sống đơn sơ, và hạnh phúc cũng đơn sơ, quen vậy, thích nghi vậy, nên luôn hiện lên sự mãn nguyện, bền chắc. Vì vậy, có thấy xóm chài, làng ngư phủ nào kéo nhau rời bỏ bờ biển mà đi đâu_hay tìm lên cao nguyên mà sinh sống chẳng hạn?. Thường cho đến khi "biển gặm"(sóng nuốt đất liền, làng mạc) sát nách mới chịu đi. Có nơi chính quyền thấy biển đã tiến sát mép làng, kêu gọi "di tản" vào trong sâu an toàn hơn, họ vẫn cứ cố bám bờ mà sống. Thứ tình yêu biển định hình, vĩ đại, máu thịt, coi biển dã là "quê hương", là "nhà". Đã ra khơi, thì mặt nước kia là không bờ không bến, không thể có thứ  thước kẻ nào vạch nổi cái đường biên hình học lên mặt đại dương hoang dại, cứ lênh đênh theo đàn cá. Họ "hiểu" biển, và có cách tồn tại trước biển một cách kỳ diệu.
Cứ mỗi người thiệt mạng vì biển, họ lại dùng cái từ nghe rất "hiểu biển", tôn trọng biển dã, coi biển là "bề trên": biển lại "lấy" người! Và cứ thế màu nhiệm hoá "quê hương mình"(biển). Bao giờ cũng vậy, khi sống trong khắc nghiệt của thiên nhiên, thường xuyên đối mặt với hoang dã, con người càng kiêng nể tự nhiên. Vì vậy, bà con rất hay cúng, cúng nhiều lắm, ngày thường cũng vái, cũng thắp nhang. Khởi động đóng  một chiếc ghe, tàu: cúng. Đóng xong: cúng. Thả xuống nước: cúng. Ra giữa khơi: cúng. Đánh được mé cá đầu tiên: cúng. Đi chuyến đầu tiên về: cúng. Nước lên, nước ròng: cúng. Cưới hỏi con cái: cúng. Sinh nở cháu con: cúng. Người chết: cúng...Vv... và ...vv. Nhìn hình ảnh những người phụ nữ "hồn treo cột buồm", đứng trước biển trông ngóng những người đàn ông nơi nghìn trùng khơi vào mùa biển động mà không cần đến "tâm linh" mới lạ.  Không cần thờ "ông địa", hay ông "thần tài" như dân đô thị, mà cứ thờ biển, cùng với thờ cúng ông bà, tổ tiên. Cho dù thi thoảng có "lấy" đi chàng dân chài nào thì biển vẫn là "ân nhân", nuôi họ sống, chia sẻ họ buồn vui. Ân nhân vĩ đại đó hiện thân qua "cá Ông"(cá heo, tức cá Voi). Dẫu có là con cá heo cái vẫn cứ gọi là "Ông". Khi cá heo tấp vào bờ để chết thì gọi là "Ông luỵ". Cả làng hôm ấy khỏi đi đánh cá. Dành thời gian, tình cảm để lo cái chết của "Ông". Đi chôn "Ông" tử tế. Có nghĩa địa riêng, trang trọng nhất dành để chôn "các Ông". Bất cứ bờ biển nào, tồn tại làng chài nào, và nếu có lập nên đền thờ nào lớn nhất, thiêng liêng nhất thì đó là đền thờ dành cho "cá Ông". Mọi sinh hoạt của cộng đồng dân biển đều diễn ra ở đền thờ "cá Ông". Đền thờ cá Ông(cá Voi), dày đặc miền duyên hải, suốt từ Quảng Ninh vào đến Cà Mau. Gia đình nào có chuyện trọng, hay sự cố nào... cũng đến đền thờ "Ông" mà cầu lạy, vì "Ông" mới thật sự là người hết mình vì ngư dân, thường trực ở biển dã, xuất hiện  trước hết, "người hành hiệp", khi  bão tố xảy ra, tàu  chìm, người trôi ....
Thế đấy, thứ lễ hội cổ xưa và sống động nhất cho đến bây giờ ở dọc theo miền duyên hải vẫn cứ là "cầu ngư". Đó là thứ lễ hội thiêng liêng, cho chuyện sống-chết, là từ nhu cầu sinh tồn, nên đố mà... đưa lên sân khấu hay ra đường phố để làm du lịch. Ngay đến chiếc thuyền, con tàu để đi biển, còn kẻ đôi mắt cá để soi sáng cuộc mưu sinh và làm bình an lòng người ra khơi kia mà.
Dân biển quí phận người, yêu biển, vắng tiếng sóng biển thấy cô đơn, nên sống thì bám sát bờ biển, thế nào cũng không rời, nhưng người chết thì cứ tìm chỗ cao nhất, thật xa biển, thật an toàn để gìn giữ xương cốt.
SỢI DÂY BỂ - NGÀN
Cơ thể đất nước cứ nghiên mình về với biển, lạ thật. Vì thế sông nhiều chi mà nhiều, tha hồ, lớp lớp. Những con sông thượng nguồn dồn nước cho đại dương. Sông là sợi dây kỳ diệu nối rừng già sâu thẳm với đại dương mênh mông. "Giọt nước"(người trên cao nguyên còn có cả tục làm lễ, cúng vái "giọt nước"/ bến nước_nơi các các khe hoặc suối đoạn chảy qua chỗ họ thường hay lấy nước về dùng) đi lang thang, bền bỉ ngày này qua ngày nọ cho đến khi đến biển, như hoà vào chân không, vào vô tận. Có cửa biển nào ở dưới kia mà không liên hệ, nợ nần với con sông thượng nguồn trên cao nguyên.
Biển nhớ rừng, nhớ kẻ "tiếp máu", nước. Rừng nhớ biển, nhớ "giọt nước". Bờ biển cứ vậy thi thoảng lại ngắt nhịp bởi những cửa sông. Vì vậy bờ biển quê hương cứ chồng lên những bất ngờ, hấp dẫn, thú vị, đoạn trường. Bờ biển mà cũng có giai điệu, số phận..._khác lắm bờ biển xứ người. Người bên này sông âm giọng đã khác bên kia. Cửa sông là nơi mưu sinh, để giao lưu, để đi ra, đi về, nhưng cũng là nơi kẻ xấu dòm ngó, thèm thuồng, tìm cách "đi vào". Bờ biển lại là nơi đón nhận đầu tiên những thứ nguy hiểm khác, ngoài bão tố thiên tai. Lịch sử đã chỉ ra những hải thuyền của người Hà Lan, Bồ Đào Nha, Anh, Pháp, Mỹ, Ấn, Tàu, Nhật, Mã Lai... cứ nhắm bao bận các cửa sông miền Trung của đất nước này mà xộc vào.
Nhưng dù có lùi xa bao nhiêu vào lục địa thì miền cao nguyên cũng có sự liên kết sâu nặng với biển, không chỉ cuộc tình của rừng với biển trong thiên nhiên. Những già làng cao nguyên hay nhắc về "con đường muối" xa xưa của cha ông họ từ cao nguyên xuống miền duyên hải Nam Trung Bộ, bởi không có muối, chất mặn, thì con người, thực thể sinh học nhỏ bé mà rắc rối_ cũng không sống được... Biển nợ nần với núi rừng như núi rừng nợ nần với biển. Đó là những chứng cứ  hằn trong những sử thi Tây Nguyên về nguồn gốc biển (những tộc người có hệ ngữ Nam Đảo_Austronesian/Malayo Polynésien), nổi nhớ biển, của nhiều tộc người miền Thượng ngày nay. Rồi hình ảnh chiếc K'Pan_tấm gỗ rộng và dài hàng chục mét có công năng như chiếc thuyền lớn không thể vỡ được đẽo từ nguyên thân cây gỗ để thả xuống đại dương, nổi trên mặt nước, và người(tổ tiên) ngồi lên đấy vượt thoát vào buổi xưa khi biển dâng ngập dìm những lục địa trong quá khứ_ vẫn đặt chỗ  thiêng liêng nhất trên các căn nhà sàn Ê Đê, Jrai... Rồi huyền sử truyền thuyết "Trăm trứng" của người Việt cũng réo gọi về cái sự kết nối sâu nặng thiêng liêng biển -rừng_ và hình như hiếm dân tộc nào trên trái đất có thế. Đâu đó trong dân gian miền Trung phổ biến về cuộc tình giữa biển và đại ngàn rằng: "Ai về nhắn với thượng nguồn, mít non gửi xuống cá chuồn gửi lên"... Tuy nhưng, chặt một cây rừng nguyên sinh ở miền Thượng là rách đi ngay một mảnh duyên hải. Một xác người bị lũ cuốn trôi ra cửa (Đà Rằng) Phú Yên, cửa sông Cái (Nha Trang)... thì sự nhói đau ai bảo không vọng về nơi miền thượng.
Trước biển, đất liền thật nhỏ bé, những làng ngư phủ  thật  bọt bèo.
Nguyễn Hàng Tình
Theo http://www.vanchuongviet.org/



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Sợi thơ vút lên vỡ ráng chiều mộng mị

Sợi thơ vút lên vỡ ráng chiều mộng mị Đèo Prenn ngun ngút sắc trời// Hờ hững ngang chiều dải lụa nàng tiên rơi mùa hội trẩy/ Lả lướt theo ...