Có thể nói, Nguyễn Du là một
trong không nhiều thi sĩ nước ta sớm có tiếng nói đấu tranh cho sự bình đẳng của
người phụ nữ. Chính điều này đã khẳng định tính cách mạng trong tư tưởng của
Nguyễn Du khi ông đã dám vượt lên những rào cản của thời đại mình một cách đầy
thách thức để khẳng định nhân vị của mình như một lựa chọn của tâm thức hiện
sinh…
1. Một đặc điểm nổi bật thơ trong chữ
Hán Nguyễn Du được nhiều nhà nghiên cứu thừa nhận đó là thơ Nguyễn
Du đã bày tỏ tiếng lòng đặc biệt thương cảm đối với người phụ nữ tài
hoa nhưng bất hạnh. Câu chuyện “hồng nhan bạc mệnh” của các mỹ nhân là vấn
đề có căn cứ từ thực tại ở xã hội phong kiến. Câu chuyện này, ngoài Nguyễn Du
cũng còn nhiều tác giả khác quan tâm. Song, có lẽ Nguyễn Du là người quan tâm đặc
biệt nhất. Bởi trong thơ của mình, Nguyễn Du không chỉ quan tâm đến cái đẹp của
người phụ nữ như một thứ nhan sắc người đời thường nghĩ đến mà quan trọng hơn,
ông xem cái đẹp ở người phụ nữ như một thân phận, một hiện hữu, một nhân vị giữa
cuộc đời. Vì vậy, đọc lại thơ Nguyễn Du nói chung và thơ chữ Hán của ông nói
riêng, chúng tôi cho rằng Tố Như không đơn giản chỉ dừng lại ở vấn đề bày tỏ
lòng thương cảm với nỗi bất hạnh của những người phụ nữ đẹp. Đề tài người phụ nữ
đẹp chỉ là cảm hứng khơi gợi để thi nhân bày tỏ những tư tưởng nhân văn tiến bộ,
sâu sắc của mình về thân phận con người mà đặc biệt đó là thân phận người phụ nữ
với những khao khát về quyền sống, quyền làm người khi chính họ dám vượt lên những
rào cản vô hình của những lễ giáo phi lý và hà khắc của đạo đức phong kiến như
một sự chọn lựa hiện sinh. Và tư tưởng nhân văn ấy trong thơ Nguyễn Du dù
cách chúng ta hàng trăm năm, vậy mà vẫn rất hiện đại, rất gần với quan điểm
nhân văn ngày nay, và một trong những phương diện đó là tư tưởng nữ quyền.
2. Khảo sát thơ chữ Hán của
Nguyễn Du, ta thấy số lượng bài viết về đề tài phụ nữ không nhiều và số bài viết
về người phụ nữ vừa đẹp, vừa tài lại càng ít hơn. Trong tổng số 250 bài chỉ có
khoảng 5 bài nhắc đến phụ nữ. Họ có thể là một bà phi, một cô hầu, một cô bé
ngây thơ hay một kỹ nữ... Tuy hình ảnh người phụ nữ xinh đẹp, tài hoa xuất hiện
trong thơ chữ Hán của Nguyễn Du không nhiều nhưng sự xuất hiện của họ luôn để lại
ấn tượng và sự ám ảnh trong lòng người đọc. Đó là nàng Tiểu Thanh trong Độc
Tiểu Thanh ký, là cô Cầm trongLong Thành Cầm giả ca, là người ca nữ đất La
Thành trong Điếu La Thành ca giả.
Chúng tôi đồng ý với ý kiến
của nhiều nhà nghiên cứu cho rằng đây là những thi phẩm bộc lộ rõ nỗi thương
xót chân thành của tác giả về kiếp người bất hạnh, nhất là những phụ nữ khổ
đau, bị vùi dập trong xã hội phong kiến. Song, ở những bài thơ trên theo chúng
tôi còn ẩn chứa nhiều thông điệp nghệ thuật mang giá trị nhân văn sâu sắc.
Không dừng lại ở chỗ chỉ
miêu tả, than vãn, thương cảm cho hoàn cảnh sầu thảm, bi đát, khốn cùng của những
người phụ nữ đẹp, tài hoa hơn người mà đồng thời với việc tái hiện bi kịch
cuộc đời của họ Nguyễn Du luôn bộc lộ thái độ trân trọng, nâng niu nhan sắc và
tài năng của người phụ nữ. Trong thi phẩm của Nguyễn Du người đọc hôm nay có thể
nhận thấy ông luôn đề cao vấn đề dân chủ, bình đẳng đối với phái đẹp.
Phải chăng vì thế, những bài thơ chữ Hán của Nguyễn Du viết về người đẹp là những
bài thơ hay nhất trong di sản thơ chữ Hán của ông. Bởi mỗi bài thơ đều lắng sâu
những suy tư, trăn trở của Thi nhân về thân phận con người bị đọa đầy trong một
xã hội mà mọi giá trị đều bị đảo lộn.
Đọc thơ chữ Hán của Nguyễn
Du chúng ta thấy nàng Tiểu Thanh trong Độc Tiểu Thanh ký, cô Cầm
trong Long Thành Cầm giả ca, người ca nữ không tên đất La Thành trong Điếu
La Thành ca giả mỗi người mang một vẻ đẹp khác nhau. Chỉ qua một vài
nét chấm phá, vẻ đẹp ngoại hình của những người phụ nữ trong thơ chữ Hán Nguyễn
Du hiện lên thật quyến rũ. Đó là vẻ đẹp phong nhã, kiêu sa, trong sáng ở cô Cầm
đang độ tuổi hoa niên:
Áo hồng ánh lên mặt hoa đào,
Má hừng rượu, vẻ ngây thơ, rất
dễ thương
(Long
Thành Cầm giả ca)
Hay vẻ đẹp vừa e ấp, vừa
rực rỡ, cuốn hút, rung động lòng người ở người ca nữ La Thành
Như cánh hoa thắm từ
cõi tiên xuống,
Sắc đẹp uyển chuyển làm rung
động cả sáu thành.
(Điếu
La Thành ca giả)
Còn nàng Tiểu Thanh, Nguyễn
Du chỉ nhắc đến hình ảnh “Tây hồ hoa uyển” cũng làm người đọc mấy
trăm năm sau xúc động, nhớ đến một vẻ đẹp phong lưu, ngọc ngà, kiều diễm được
lưu truyền trong dân gian như huyền thoại. Thế nhưng những người phụ nữ
tài hoa ấy có khi nào được sống hạnh phúc! Cho nên trong Truyện Kiều,
Nguyễn Du đã hơn một lần nói về sự bất hạnh của những người phụ nữ đẹp mà tiếng
kêu đau thương của nó vang lên như một nỗi đoạn trường làm đau nhói tâm can biết
bao người trên cõi nhân gian khốn khổ và đầy bất an này:
-“Rằng hồng nhan tự thuở xưa
Cái điều bạc mệnh có
chừa ai đâu?”
-“Phận sao bạc chẳng vừa
thôi
Khăng khăng buộc mãi lấy người
hồng nhan”
-“Đầu xanh có tội tình gì
Má hồng đến quá nửa thì chưa
thôi”
Có một vấn đề gần như là quy
luật của muôn đời trong cuộc sống đó là người đàn bà đẹp bao giờ cũng gian
truân. Vì vậy, đã xuất hiện trong nhân gian những cụm từ “hồng nhan đa truân”,
“hồng nhan bạc mệnh” như một tâm thức hiện sinh ám ảnh biết bao người, nhất
là đối với phụ nữ. Người đẹp, đặc biệt là người tài sắc luôn chịu một số
phận gian nan, bi kịch mà cái bi kịch rõ nhất là luôn bị lệ thuộc vào người
khác theo những nguyên tắc lễ giáo khắc nghiệt đến phi lý của tư tưởng Nho giáo
đó là “tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử”. Vì thế, người phụ
nữ hoàn toàn không chủ động được cuộc sống của mình, họ không có quyền lựa chọn
cho mình cách sống, cách ứng xử, hay thậm chí là không có quyền làm chủ thân
xác và tâm hồn của mình. Nhiều khi nhan sắc của người phụ nữ đã biến thành một
trò mua vui, một thứ tiêu khiển của những kẻ lắm tiền nhiều của hay một phương
tiện để mua quan bán tước của những kẻ có quyền hành trong xã hội. Thế nên, những
người phụ nữ đẹp đã trở thành một lớp người đặc biệt trong xã
hội. Họđược gọi là đào nương, ả đào, cô đào (điều này lý giải vì sao những người
đẹp trong các tác phẩm của Nguyễn Du và một số tác giả khác đa số đều là kỹ nữ).
Trong khi xã hội phong kiến vốn được xây dựng trên nền tảng tư tưởng Nho giáo
coi khinh vai trò của người phụ nữ, nhất là những mỹ nhân thì Nguyễn Du cảm nhận
nhan sắc của những người phụ nữ mà ông tình cờ gặp gỡ trong cuộc đời với một tấm
lòng trân trọng, nâng niu. Những phụ nữ mà Thi nhân không hề quen biết đã lưu lại
trong cảm thức của ông những nét đẹp độc đáo - đó là vẻ đẹp thiên phú mà không
phải ai cũng có. Khác với nhiều nhà nho trong xã hội đương thời, Nguyễn Du
không coi vẻ ngoài của phụ nữ là thứ mua vui, tiêu khiển, ông coi nhan sắc
của người phụ nữ như là một giá trị, một nhân vị. Vì vậy, vẻ đẹp của họ
qua cảm thức của Nguyễn Du lại thêm phần lung linh lộng lẫy. Điều đó xuất phát
từ sự trân trọng, ngưỡng mộ và cảm thông của ông đối với những mỹ nhân, tài hoa
nhưng “phận mỏng”.
Qua cách đặc tả của Nguyễn Du, chúng ta nhận thấy ông coi nhan sắc của những người phụ nữ như sự kết tinh của văn hóa - họ là những mỹ nhân mang vẻ đẹp bí ẩn, thấm đẫm hồn cốt văn hóa phương Đông: vừa e ấp, dịu dàng vừa rực rỡ, cuốn hút, quyến rũ đến mê hồn (Quan niệm này nhất quán trong tất cả các sáng tác cả chữ Nôm và chữ Hán của Nguyễn Du mà Truyện Kiều là đỉnh cao nhất – C.T.H). Dù Nguyễn Du hiểu chính ông cũng rơi vào cảnh ngộ “lực bất tòng tâm”, không thể làm gì để giúp những kẻ “hồng nhan” tránh được kết cục “bạc phận” nhưng như một lẽ tự nhiên, sức mạnh của tình yêu thương vô hạn đối với con người vốn thường trực trong ông đã giúp ông vượt qua trường thành kiên cố, nghiệt ngã của hệ hình tư tưởng phong kiến. Thi nhân đã bày tỏ thiện chí, thể hiện thái độ vô cùng trân trọng nâng niu vẻ đẹp mong manh của những kẻ hồng nhan, dẫu họ chỉ là những người thuộc tầng lớp “dưới đáy” của xã hội, là những kiếp người hẩm hiu, thấp cổ, bé họng, luôn bị đọa đày, khinh rẻ. Và qua mấy trăm năm đã minh định: với cảm quan thẩm mỹ tinh tế, với trái tim nghệ sĩ đa tình Nguyễn Du đã thành công trong việc bất tử hóa cái Đẹp bằng nghệ thuật. Vẻ duyên dáng, kiêu sa, quyến rũ mê hồn của cô Cầm, nàng Tiểu Thanh, và ca nương đất La Thành… mãi mãi được tôn vinh trong tâm thức văn hóa của nhiều thế hệ bạn đọc khi tiếp nhận thơ Nguyễn Du. Bởi lẽ muôn đời nay, trong sự phát triển của nhân loại, ở những xã hội mà tư tưởng nhân văn được đề cao thì đối với phụ nữ, nhan sắc bao giờ cũng là một trong những giá trị quan trọng nhất, là thứ “của cải” tinh thần quý giá, nó không chỉ là niềm hãnh diện, tự hào mà còn là cội nguồn mang đến sức mạnh, sự tự tin để phụ nữ luôn được sống là chính mình, khẳng định mình trên hành trình hướng đến chân trời ánh sáng văn minh, tiến bộ của nhân loại.
Qua cách đặc tả của Nguyễn Du, chúng ta nhận thấy ông coi nhan sắc của những người phụ nữ như sự kết tinh của văn hóa - họ là những mỹ nhân mang vẻ đẹp bí ẩn, thấm đẫm hồn cốt văn hóa phương Đông: vừa e ấp, dịu dàng vừa rực rỡ, cuốn hút, quyến rũ đến mê hồn (Quan niệm này nhất quán trong tất cả các sáng tác cả chữ Nôm và chữ Hán của Nguyễn Du mà Truyện Kiều là đỉnh cao nhất – C.T.H). Dù Nguyễn Du hiểu chính ông cũng rơi vào cảnh ngộ “lực bất tòng tâm”, không thể làm gì để giúp những kẻ “hồng nhan” tránh được kết cục “bạc phận” nhưng như một lẽ tự nhiên, sức mạnh của tình yêu thương vô hạn đối với con người vốn thường trực trong ông đã giúp ông vượt qua trường thành kiên cố, nghiệt ngã của hệ hình tư tưởng phong kiến. Thi nhân đã bày tỏ thiện chí, thể hiện thái độ vô cùng trân trọng nâng niu vẻ đẹp mong manh của những kẻ hồng nhan, dẫu họ chỉ là những người thuộc tầng lớp “dưới đáy” của xã hội, là những kiếp người hẩm hiu, thấp cổ, bé họng, luôn bị đọa đày, khinh rẻ. Và qua mấy trăm năm đã minh định: với cảm quan thẩm mỹ tinh tế, với trái tim nghệ sĩ đa tình Nguyễn Du đã thành công trong việc bất tử hóa cái Đẹp bằng nghệ thuật. Vẻ duyên dáng, kiêu sa, quyến rũ mê hồn của cô Cầm, nàng Tiểu Thanh, và ca nương đất La Thành… mãi mãi được tôn vinh trong tâm thức văn hóa của nhiều thế hệ bạn đọc khi tiếp nhận thơ Nguyễn Du. Bởi lẽ muôn đời nay, trong sự phát triển của nhân loại, ở những xã hội mà tư tưởng nhân văn được đề cao thì đối với phụ nữ, nhan sắc bao giờ cũng là một trong những giá trị quan trọng nhất, là thứ “của cải” tinh thần quý giá, nó không chỉ là niềm hãnh diện, tự hào mà còn là cội nguồn mang đến sức mạnh, sự tự tin để phụ nữ luôn được sống là chính mình, khẳng định mình trên hành trình hướng đến chân trời ánh sáng văn minh, tiến bộ của nhân loại.
Song, những người phụ nữ
chúng ta bắt gặp trong thơ Nguyễn Du không chỉ đẹp ở ngoại hình, họ còn là những
phụ nữ mang vẻ đẹp nội tâm, là những người thực sự có tài năng nghệ thuật.
Mỗi người có một tài riêng: Tiểu Thanh có tài thơ, cô Cầm có tài đàn, cô gái đất
La Thành có tài ca hát. Và đặc biệt, tài năng của những người phụ nữ này trong
cái nhìn của Nguyễn Du luôn là tài năng xuất sắc hơn người. Câu danh
ngôn “Sự thông minh và tinh tế ở người đàn bà là thứ nhan sắc không bao
giờ tàn phai”, có lẽ rất xứng đáng dành tặng cho những người đẹp trong thi phẩm
của Nguyễn Du.
Xưa nay, khi bàn về trước
tác của Nguyễn Du, nhiều học giả cho rằng chính những bài thơ chữ Hán của Thi
nhân đã cho hậu thế thấy phần sâu kín nhất trong tâm tư tình cảm của ông. Chúng
tôi cho rằng nhận xét trên là hoàn toàn xác đáng. Tuy nhiên xem xét những bài
thơ chữ Hán của Nguyễn Du về đề tài người đẹp, thiết nghĩ cần phải bàn rộng
thêm một số giá trị khác như bên cạnh tiếng lòng xót thương thân phận người phụ
nữ thì tiếng nói thể hiện quan niệm về quyền dân chủ, bình đẳng cho họ
đã hiện diện trong thơ Nguyễn Du như thế nào?
Bài thơ Độc Tiểu Thanh
ký của Nguyễn Du từng gây ra nhiều tranh luận nhất là về vấn đề tư liệu và
hướng nghiên cứu. Để hiểu bài thơ này người đọc thường phải gắn nó cùng
câu chuyện như một huyền thoại về cuộc đời của một giai nhân họ Phùng tên
Tiểu Thanh mà chúng ta đã từng biết. Như vậy, khác với cô Cầm và ca nữ đất La
Thành là những người sống cùng thời, Nguyễn Du từng gặp đó đây trên mọi nẻo đường,
Tiểu Thanh là người đẹp mà Nguyễn Du chỉ được ngưỡng vọng qua trang sách. Ở đây
không nên quá quan trọng việc xem xét Tiểu Thanh có thật hay không có thật, sống
trước Nguyễn Du ba trăm năm hay mấy trăm năm như nhiều người đã tranh luận,
theo tôi bi kịch của nàng Tiểu Thanh chỉ là cái cớ nghệ thuật để Nguyễn Du
giãi bày quan điểm của ông về kiếp người mong manh trong cõi trần ai đầy bất trắc,
nhất là thân phận của những người phụ nữ vừa có nhan sắc vừa có tài năng. Nguyễn
Du tưởng nhớ Tiểu Thanh và ngưỡng mộ nàng là bởi nàng đoan trang, kiều diễm,
cao quý, ngọc ngà, nhưng hơn hết còn bởi nàng là một phụ nữ thông minh, thơ phú
tài hoa, tâm hồn phong phú. Di cảo thơ của nàng còn sót lại như tiếng vọng xa
xăm kể về câu chuyện bi thương của cuộc đời nàng. Thương tiếc Tiểu Thanh, xót
xa cho nỗi oan khổ của nàng, Nguyễn Du đã thốt lên:
Cổ kim hận sự thiên nan vấn/
Phong vận kỳ oan ngã tự cư
Dịch nghĩa: Những mối hận cổ
kim, khó mà hỏi trời được. Ta tự coi như người cùng một hội với kẻ mắc nỗi oan
lạ lùng vì nết phong nhã (Vũ Tam Tập dịch).
Nguyễn Du tự coi nàng Tiểu
Thanh là người cùng “một hội với kẻ mắc nỗi oan lạ lùng”. Chưa dám bàn đến
vấn đề Nguyễn Du đấu tranh vì quyền dân chủ, tự do, bình đẳng cho phụ nữ nhưng
rõ ràng ở đây sự cảm thông, chia sẻ với nỗi đau khổ, oan trái mà người phụ nữ
tài hoa, xinh đẹp phải gánh chịu đã đạt đến độ kết tinh sâu sắc về tư tưởng: đó
là tư tưởng nam nữ bình đẳng, bình quyền. Không hề ngần ngại trước quan niệm
“nam tôn nữ ti”, Tố Như tiên sinh đã nâng đỡ Tiểu Thanh – một phụ nữ yếu đuối,
bất hạnh lên ngang bằng với chính mình, coi Tiểu Thanh như người tri âm,
tri kỷ, đồng điệu với mình. Nguyễn Du - đường đường một đấng nam nhi và
hơn nữa lại là một quan chức sống trong xã hội bị bao phủ nặng nề bởi quan niệm
trọng nam khinh nữ, khẩu hiệu “nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô” được đề cao
như lẽ đương nhiên, vậy mà ông đã có một ứng xử trái ngược với “đám đông” đương
thời. Ông đã dám vượt ra / lên khỏi hệ thống tư tưởng nho giáo để làm một cuộc
cách mạng trong tư tưởng của mình, một cuộc cách mạng như một lựa chọn hiện
sinh mà Thúy Kiều là một biểu tượng đẹp đẽ của sự chọn lựa ấy… Có lẽ hơn ai hết,
xuất phát từ chính sự nghiệm sinh của cuộc đời cô độc đầy ưu tư dằn vặt của
mình, Nguyễn Du thấm thía sâu sắc nỗi đau trước những bất công, phi lý luôn xảy
ra với những kẻ hiền tài mà ông đã xót xa xác quyết trong Truyện Kiều bất hủ:
“chữ tài liền với chữ tai một vần”. Và với phụ nữ tài hoa mà bất hạnh, tôi đồ rằng
trái tim đầy yêu thương, nhạy cảm của Nguyễn Du đã đau đớn vô cùng khi ông thấu
hiểu về Tiểu Thanh và tấn bi kịch của đời nàng. Thi nhân đã lấy nỗi đau của
mình để thấu hiểu nỗi đau của người, coi nỗi đau của người như nỗi đau của
mình. Với ông, phụ nữ nhan sắc, trí tuệ, tài năng, phẩm hạnh… được coi như một
cá thể hiện hữu. Họ không phải chỉ là chiếc xương sườn của A Đam như người đời
thường nghĩ. Khát vọng, ước mơ về sự bình đẳng, bình quyền, tự do, dân chủ cho
phụ nữ và vì sự phát triển của phụ nữ cho đến hôm nay vẫn luôn là vấn đề quan
tâm hàng đầu của nhân loại… Xuất phát từ bi kịch của nàng Tiểu Thanh để suy ngẫm
và bộc bạch quan điểm của bản thân về thế thái nhân tình, quên mình để nghĩ cho
người phải chăng đó chính là hồn cốt làm nên hệ giá trị nhân văn sâu sắc trong
sự nghiệp lớn lao của Nguyễn Du. Cho nên hai câu cuối của bài thơ vẫn là sự tiếp
nối dòng cảm hứng đau đáu khát vọng của Thi nhân:
Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?
Đã có nhiều người khi bàn về
hai câu kết trên cho rằng Nguyễn Du đã thương khóc nàng Tiểu Thanh, người sống
cách ông ba trăm năm trước và ông cũng chờ mong sau mấy trăm năm có người lại
khóc ông như thế. Những theo tôi, có lẽ trái tim nhân hậu bao dung, vị tha,
giàu lòng trắc ẩn của một nghệ sĩ lớn như Nguyễn Du không thể dừng lại ở chỗ chỉ
âu lo, băn khoăn về sự lưu danh thiên cổ cho riêng mình. Trong tột cùng của nỗi
cô độc, không tìm đâu người tri âm, tri kỷ, Nguyễn Du hướng đến một dự báo: Mai
sau liệu có ai là người khóc cùng ông những điều đáng khóc? Khóc cùng ông nỗi
đau về thế thái nhân tình? Khóc cùng ông về những đau khổ bất công, đọa đày phi
lý mà con người (đặc biệt là những giai nhân yếu đuối, mong manh, xinh đẹp, tài
hoa như nàng Tiểu Thanh, hay những thi nhân một đời chỉ biết sáng tạo và trân
quí cái đẹp như ông) phải gánh chịu? Tại sao một người con gái xinh đẹp, đức hạnh,
tài hoa như Tiểu Thanh lại phải chết oan ức đến vậy!?
Với ý nghĩa ấy, thông điệp
mà bài thơ “Độc Tiểu Thanh ký” của Nguyễn Du ký thác cho đời sau có thể coi là
một thông điệp vươn đến tầm tư tưởng nhân văn sâu sắc của nhân loại. Xét từ góc
độ thuyết nữ quyền luận hiện đại Nguyễn Du đã tiệm cận đến vấn đề mà cả nhân loại
đã, đang và sẽ tiếp tục luận bàn, đó là: quyền được làm vợ, được hưởng cuộc sống
hạnh phúc không bị trói buộc, lệ thuộc vào đàn ông và quyền được bình đẳng, dân
chủ, tự do trong mọi sáng tạo dành cho người phụ nữ.
Nếu qua số phận bi kịch của
người đẹp Tiểu Thanh, bên cạnh tiếng kêu thương cho số phận bất hạnh của nàng,
Nguyễn Du hé lộ cho chúng ta thấy tiếng nói khát khao về quyền bình đẳng, tự
do, dân chủ và hạnh phúc cho người phụ nữ thì trong Long Thành Cầm giả ca,
và Điếu La Thành ca giả ông lại có một góc nhìn khác về nhân vị của
người những người đẹp, có tài năng hơn người.
Khác với Tiểu Thanh, cô Cầm
và người ca nữ đất La Thành là những kỹ nữ. Trong quan niệm của xã hội, loại
người này bị coi là “xướng ca vô loài”, luôn hứng chịu những thiệt thòi, bị xem
thường, khinh miệt, coi rẻ. Song trong con mắt của Nguyễn Du, họ là những
nghệ sĩ tài hoa điêu luyện chứ không phải đơn thuần chỉ là những kẻ
mua vui cho thiên hạ.
Trong lần đầu gặp gỡ tình cờ
nhưng Nguyễn Du đã nhận ra “chất ngọc” của người đẹp đất Long thành, ông
trân trọng ví cô như “báu vật vô giá đất Trường An”:
Riêng thạo đàn Nguyễn
Người trong thành bèn lấy chữ
Cầm mà đặt tên.
Nàng học được khúc Cung Phụng
trong cung tiền triều
Đó là những khúc đàn hay nhất
trời đất.
(Long Thành
Cầm giả ca)
Nguyễn Du đã đặc tả một cách
tài tình ngón đàn tuyệt diệu của kỹ nữ Long Thành trong một đêm tiệc lớn của
các tướng lĩnh Tây Sơn. Tiếng đàn của nàng là sự tuyệt vời nơi thượng giới cũng
như trong chốn nhân gian:
Khoan như gió nhẹ lướt qua rừng
thông
Trong như tiếng hạc kêu nơi
xa xăm
Mạnh như tiếng sét đánh vào
bia Tiến Phúc vỡ tan
Buồn như tiếng rên của Trang
Tích,
Ốm nhưng giọng quê vẫn không
quên
(Long Thành cầm giả ca)
Trong cảm thức của Nguyễn
Du, đây là tiếng đàn độc đáo, nó là sự kết tinh của trí tuệ mẫn tiệp tuyệt vời
và tâm hồn phong phú, tiếng đàn lắng đọng bao cung bậc thăng trầm của cảm xúc
diệu kỳ, vừa tinh tế, vừa da diết nồng nàn, vừa bay bổng thiết tha. Chính vì tiếng
đàn “tuyệt kỹ” như vậy nên nó mê hoặc lòng người, có sức quyến rũ lạ thường khiến
cho:
Các quan Tây Sơn trong tiệc
đều ngả nghiêng
Vui không biết chán thâu đêm
Bên này bên kia tranh nhau
khen thưởng
Tiền bạc quăng ra như đất
bùn
Hào hoa lấn át cả công hầu
Bọn trẻ Ngũ Lăng có đáng kể
vào đâu
(Long Thành cầm giả ca)
Nàng Cầm được những
người Tây Sơn quí trọng, hâm mộ chính là nhờ tài đàn những bản nhạc “hay
nhất ở trên trời cũng như giữa cõi người”. Ngón đàn ấy không tàn phai theo năm
tháng. Nó luôn trường tồn. Nhưng không phải lúc nào cũng có những
khách tri âm hiểu và trân trọng. Nguyễn Du đau lòng “bồi hồi không yên, ngẩng
lên, cúi xuống, ngậm ngùi cho cảnh xưa và nay” là vì vậy!? Trong âm vang lời
thơ chúng ta như thấy vọng lại muôn câu hỏi nhức nhối xung quanh số phận hẩm
hiu của người kỹ nữ. Nguyễn Du nhận thấy những người phụ nữ xinh đẹp, có tâm hồn
tinh tế như cô Cầm, đã dâng tặng cho cuộc sống tiếng đàn điêu luyện, mê hồn – kết
tinh những giá trị tinh thần cao khiết, họ kiếm sống bằng tài năng, bằng sức
lao động chân chính, họ hoàn toàn tự lập, không dựa dẫm vào đàn ông, họ cũng là
những con người luôn khát khao hạnh phúc và có ý thức về bản thân rất cao trên
con đường đi tìm hạnh phúc vậy hà cớ gì mà họ luôn phải gánh chịu thiệt thòi,
đau khổ, bi kịch? Phải chăng trong sự xót xa cho số phận ca nữ, cho “người ta
trong cõi trăm năm, những sự vinh, nhục, buồn, vui thật không lường trước” được,
bao hàm cả sự xót xa cho chính bản thân mình của nhà thơ? Sự ngưỡng mộ đối với
tài năng cô Cầm đạt đến độ đồng cảm, tri âm sâu sắc của Nguyễn Du
cho thấy ở ông xuất hiện một tư duy khác xa với nhiều kẻ đương thời. Với Nguyễn
Du bên cạnh nhan sắc, tài năng của người phụ nữ cũng là một hệ giá
trị để khẳng định nhân vị của họ. Những phụ nữ có tài năng xuất chúng cũng hoàn
toàn xứng đáng được hưởng sự vinh danh của xã hội và cộng đồng; tài năng không
phân biệt giới tính, đẳng cấp sang hèn. Nguyễn Du đã tạc vào lòng người đọc
hình ảnh người đẹp gảy đàn đất Long Thành như một biểu tượng của cái Đẹp và Tài
năng con người.
3. Không phải ngẫu nhiên
trong Truyện Kiều bất hủ Nguyễn Du đã tái tê lòng hạ bút đúc kết một
sự thật tồn tại như quy luật trong cuộc sống: “Đau đớn thay phận đàn bà/ Lời rằng
bạc mệnh cũng là lời chung”. Với quá trình nghiệm sinh sâu sắc về cuộc
đời, Nguyễn Du – một nhà Nho dù sống trong sự kiềm tỏa của tư tưởng
phong kiến nhưng bằng sự tinh tế của một tâm hồn thấu “đến sáu cõi” hồng
trần, thi nhân đặc biệt thấu hiểu và cảm thương thân phận đàn bà nói chung và đặc
biệt những “khách má hồng” vốn tài hoa, xinh đẹp nhưng luôn chịu bao nỗi
truân chuyên. Trong sự nghiệp văn chương Nguyễn Du, bên cạnh tuyệt tác Truyện
Kiều, thơ chữ Hán của ông cũng luôn có sức “vẫy gọi” người đọc bởi giá trị nhân
bản và giá trị nghệ thuật đặc sắc. Ngày nay, từ góc nhìn nữ quyền luận kết hợp
triết học hiện sinh, đọc thơ chữ Hán Nguyễn Du, chúng ta thấy rõ hơn
tính nhân văn cao cảtrong thơ ông, đó là tinh thần đấu tranh cho quyền sống,
quyền làm người của những mỹ nữ tài hoa nhưng bạc mệnh. Trong cảm thức
nghệ thuật của Nguyễn Du, những mỹ nữ ấy đã hiện hữu với tư cách là một nhân
vị. Họ không chỉ có nhan sắc tuyệt trần mà còn là người đa tài, đa cảm, đa
tình, biết yêu cái đẹp và dẫu bi kịch đến đâu vẫn luôn khát vọng hướng đến tự
do trong tình yêu và cuộc sống.
Có thể nói, Nguyễn Du là một
trong không nhiều thi sĩ nước ta sớm có tiếng nói đấu tranh cho sự bình đẳng của
người phụ nữ. Chính điều này đã khẳng định tính cách mạng trong tư tưởng của Nguyễn
Du khi ông đã dám vượt lên những rào cản của thời đại mình một cách đầy thách
thức để khẳng định nhân vị của mình như một lựa chọn của tâm thức hiện sinh. Phải
chăng vì thế, cùng với Truyện Kiều bất hủ, những bài thơ chữ Hán viết
về số phận người phụ nữ đẹp trong thơ chữ Hán của Nguyễn Du như Độc Tiểu
Thanh ký, Điếu La Thành ca giả, Long Thành Cầm Giả Ca,... luôn tìm được sự
đồng vọng trong lòng người đọc và tư tưởng đấu tranh cho nữ quyền của ông đến
nay vẫn còn nguyên giá trị.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Trương Chính (giới
thiệu), Thơ chữ Hán Ng Du, Nxb. Vhọc, 1978
2. Trần Thái Đỉnh, Triết
học hiện sinh, Nxb. Văn học, H., 2008.
3. Thanh Lãng, Bảng
lược đồ văn học Việt Nam (quyển thượng), Nxb. Trình bày SG.1967.
4. Phạm Thế Ngũ, Việt
Nam văn học sử giản ước tân biên, quyển 2, Quốc học Tùng thư xuất bản, SG.1963
5. Thảo Nguyên, Đọc
và dịch thơ chữ Hán của Nguyễn Du, Nxb. Hội Nhà văn, 2007.
6. Raman Selden, Phê
bình nữ quyền, Hồ Thị Dương dịch, Nguyễn Tiến Văn hiệu đính, Tạp chí Sông Hương
(số 277/ 2012), tr. 3-12
7. Trần Nho Thìn, Văn học
Trung đại Việt Nam từ góc nhìn văn hóa, Nxb. Giáo dục Việt Nam, Hà Nội, 2003
8. Chris Weedon, Lý thuyết
và phê bình nữ quyền ( từ 1990 đến nay), Thái Hà dịch, Tạp chí Sông Hương
(số 320/2015), tr.35 – 43.
Cao Thị Hồng
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét