- Tết Bính Thân đi xông đất,
nói chuyện Khỉ...
-
Đừng làm trò khỉ. Không ai muốn bị giông cả năm đâu!
Tết
con khỉ mà không được nói đến khỉ thì nói gì bây giờ? Chẳng lẽ lại lải nhải những
cái "biết rồi, khổ lắm, nói mãi"?
Thôi
thì, một liều ba bảy cũng liều. Cứ nói chuyện Khỉ. Ai chửi người
ấy nghe...



Khỉ Việt Nam...
Trong
số 12 con giáp của lịch ta thì chỉ có Khỉ là bị mang nhiều tiếng xấu. Vì sao vậy?
Vì khỉ... khỉ lắm. Nhưng... khỉ là cái gì?
Khỉ là
tiếng Việt. Con khỉ có tên trong Từ điển Alexandre de Rhodes (1651).
Dĩ
nhiên là Khỉ không có mặt trong các sách viết bằng chữ hán của ta. Khỉ chỉ
xuất hiện trong văn bản viết bằng chữ nôm hay quốc ngữ.
Có
hai cách viết chữ nôm Khỉ.
1- Khỉ (nôm)
= bộ Khuyển + chữ Khỉ (bộ Đậu).
(Maiorica
(1646) (1), Tự
vị Huỳnh Tịnh Của (1895), Tự điển Génibrel (1898), Tam
thiên tự, Ngũ thiên tự v.v.).
2- Khỉ (nôm)
= bộ Khuyển + chữ Khỉ (bộ Tẩu) (2), (3).
Khỉ (bộ
Đậu) nghĩa là Há (nghi vấn từ, tỏ ý còn ngờ).
Khỉ (hay Khởi,
bộ Tẩu) nghĩa là đứng lên, dấy lên, bắt đầu (khởi nghĩa, khởi công...).
Con
vật biết đứng lên bằng hai chân được tiếng Việt gọi là con Khỉ hay
con Khởi.
Dùng
chữ Khỉ (bộ Đậu) để viết tên con Khỉ không khéo bằng dùng
chữ Khỉ (bộ Tẩu).
Họ
hàng nhà khỉ sinh sống tại Việt Nam khá đông đúc. Có Vượn (đến từ chữ hán
Viên), có Tườu (Tiêu)... Thời Tây, vùng núi Hải Vân có con Voọc (biến âm của Vượn?),
con Douc (khỉ Đột?), miền Bắc có con Bú dù...












Bú dù...
Vào
khoảng những năm 1930, văn học Việt Nam bỗng xuất hiện một con khỉ mới lạ tên
là bú dù.












(Tú Mỡ, Ba kiếp con bú dù, 1934)
Tháng 8 năm 1937, Đông
Dương tạp chí đăng truyện ngắn Đi săn khỉ của Vũ Trọng Phụng.
Truyện có con bú rù:
(...)
Nửa giờ sau chiếc xe đế vương ấy đến động Khao Kỳ (Bắc Cạn). Anh chàng thổ, người
gác am và gác đền, đã đón chúng tôi:
-
Bẩm các quan, mời các quan hãy đi xem động đã, chứ bú rù thì chốc nữa
chúng mới kéo nhau xuống ruộng.
Đoạn
sau, Vũ Trọng Phụng lại viết:
Tôi
hỏi anh chàng thổ thì hắn đáp:
-
Bẩm quan, bây giờ thì khỉ nó xuống ăn trộm ngô rồi còn gì! (4).
Tú
Mỡ và Vũ Trọng Phụng nói rằng bú dù hay bú rù đều là con khỉ.
Người miền Bắc phát âm không phân biệt dù và rù. Bú dù hay bú
rù chỉ là một.
Tên bú
dù từ đâu ra?
Tự
vị Huỳnh Tịnh Của, Tự điển Génibrel xuất bản trong Sài Gòn hay Tự điển
Hội Khai Trí Tiến Đức (1931) xuất bản ngoài Hà Nội đều không có bú
dù.
Tạm
cho rằng năm 1931, Việt Nam chưa có bú dù. Phải chờ đến năm 1937, Tự
điểnGustave Hue mới có từ bu du. Hue chỉ viết bu du là biến
âm (đúng hơn là ghi âm) của từbouzou của tiếng Pháp. Tiếc rằng Hue không
cho biết bu du nghĩa là gì.
Các
từ điển của ta sau này (Đào Đăng Vỹ, Khai Trí, Văn Tân, Hoàng Phê) đều có bú
dù, có nghĩa là con khỉ (macaque).
Bú
dù có phải là bu du không? Bouzou của Hue là cái gì?
Tra
tìm trong từ điển Larousse và Robert thì không thấy từ Bouzou.
Cũng không thấy giống khỉ nào có tên phát âm gần giống Bouzou.
Tra
tìm kĩ hơn nữa thì thấy Robert có từ Boubou (bu bu).
Theo Robert thì Boubou là
tiếng malinké, một thổ âm của vùng xung quanh nước Guinée (châu Phi). Boubou du
nhập vào tiếng Pháp vào cuối thế kỉ 19 và có nghĩa là "con khỉ, hay bộ da
khỉ. Boubou còn có nghĩa (lóng?) là cái áo của người da đen Phi
châu".
(Larousse cũng
có từ Boubou nhưng Boubou của Larousse chỉ có
nghĩa là áo của người da đen Phi châu).
Năm
1884, nước ta bị thực dân Pháp đô hộ. Cuối thế kỉ 19, đầu thế kỉ 20, Pháp đã
đưa nhiều lính Phi châu sang Việt Nam. Mấy ông nhọ nồi, cột nhà cháy này
đã dắt theo Boubousang Viễn Đông. Kể từ ngày ấy, núi rừng Việt Nam bắt
đầu có món boubou, đặc sản ẩm thực của lính Phi châu.
Boubou vốn
là một thổ âm, rất có thể đã được đám lính Phi châu thuộc một bộ tộc nào đó
phát âm thành Bouzou như Hue đã ghi.
Bouzou (bu
du) của Tự điển Gustave Hue là con khỉ Boubou của từ điển Robert.
Bouzouđã được Việt hoá thành bú dù.
Rốt
cuộc, bú dù là con khỉ của... tây đen rạch mặt!
Trở
lại truyện Đi săn khỉ (1937) của Vũ Trọng Phụng.
Anh
chàng người thổ sống ở Khao Kỳ (Bắc Cạn) cũng gọi khỉ là bú rù. Tên Bú
rù đã được phổ biến rộng rãi đến các dân tộc thiểu số Việt Bắc hay Vũ Trọng
Phụng đã cho người thổ dùng ngôn ngữ của người Hà Nội?





















Khỉ của dân gian...
Phong
tục xưa của ta khá kì thị Khỉ.
-
Người buôn bán kiêng nghe người ta nói tiếng "con khỉ" (5).
-
Ngày Tết, kiêng nói "con khỉ" (6),
e làm ăn xúi quẩy (7).
Tại
sao vậy?
Tại
mấy ông đồ đã đem rao giảng mớ chữ nghĩa nửa mùa cho dân quê.
Tự
điển Thiều Chửu có chữ Khỉ (bộ Mịch) nghĩa là:
1-
Các thứ the lụa có hoa bóng chằng chịt, không dùng sợi thẳng, đều gọi là khỉ.
2-
Xiên xẹo, lầm lẫn. Khỉ đạo là đường lối ngoắt ngoéo như vằn tơ xiên xẹo
vậy.
3-
Tươi đẹp.
(Từ
điển Đào Duy Anh đọc chữ Khỉ (bộ Mịch) là Ỷ và định
nghĩa là : Tấm vải nhiều sắc. Đẹp đẽ).
Dân
gian đã hiểu Khỉ là xiên xẹo, lầm lẫn, ngoắt ngoéo.
Người
buôn bán không muốn nghe ai ám chỉ mình là xiên xẹo, ngoắt ngoéo hay lầm lẫn.
Ngày Tết lại càng phải kiêng nói đến những tính xấu này. Sợ bị giông cả năm.
Đoàn
Triển viết An Nam phong tục sách bằng chữ hán. Con Khỉ là Hầu.
Chữ Hầu không
giải nghĩa được những cái "xiên xẹo, ngoắt ngoéo" như chữ Khỉ.
Chỉ cóKhỉ mới giải nghĩa được một phong tục lạ của Việt Nam.


























Khỉ khô, khỉ mốc, khỉ gió...
Khỉ
khô, khỉ mốc là tiếng mắng, nói không có sự chi, không nên sự chi (Huỳnh
Tịnh Của). Khỉ gió là tiếng rủa thân mật khi tức bực hoặc coi thường
(Hoàng Phê).
Khô
nghĩa là khô héo, khô ráo. Mốc là tình trạng bắt đầu hư hỏng, xuống cấp.
Con
gà béo bán bên Ngô, con gà khô bán láng giềng.
Nghĩa
rộng của khô là kém, là xấu.
Tại
sao khỉ khô lại có nghĩa là không có gì?
Chữ Khỉ (bộ
Mịch) cũng có nghĩa là tươi đẹp. Khỉ khô là cái tươi đẹp đã bị khô héo, hết đẹp
rồi. Ví như hoa héo, người hết duyên.
Hỡi
bạn đường xa. Hái hoa (ừ) cho khéo. Hoa nào heo héo, thì hái bỏ đi. Chớ để làm
chi (ứ ư ừ) hoa tàn.
Khỉ
khô bị coi như hết đẹp, không còn gì, "không có sự chi",
"không nên sự chi".
Khỉ
khô không phải là xác con khỉ phơi khô.
Khỉ
gió (nói đủ là Khỉ phải gió) là thành ngữ của miền Bắc dùng để mắng,
chửi.
Phải
gió là bị trúng gió độc. Gà phải gió là gà sắp chết. Khỉ gió là cái
tươi đẹp bị trúng gió độc. Hết đẹp, hết duyên.
Khỉ
gió ngoài Bắc tương đương với Khỉ khô trong Nam.
Miền
Trung cũng có Khỉ khô, Khỉ mốc như miền Nam. Ngoài ra, còn có
thêm Khỉ họ,Khỉ gió. Khỉ họ là tiếng rủa thân mật. Khỉ
gió là con cu li(8).
Thời
Pháp, nước ta có thằng cu li. Không ngờ có cả con cu li.
Con
cu li có phải là con courlis (cuốc li) của Pháp không? (Courlis là
chim chân dài, mỏ cong, sống ven bờ nước, đại khái như con cuốc của ta).















Người Pháp đã đưa vào mấy
thành phố lớn nước ta mốt làm trò khỉ (singer). Được giới thượng lưu
"tân tiến" sốt sắng hưởng ứng.
Làm trò khỉ là làm trò cười, bắt chước một cách lố bịch.
Thành ngữ thường được dùng để phê bình mấy ông "nghị gật " bù nhìn thời Pháp, để chế giễu các cô gái tân thời mặc quần soóc (quần cụt) đánh ten nít, các cậu diện giầy đơ cu lơ (hai màu), phì phèo thuốc lá, đi bát phố (battre le pavé).
Nói
gì thì nói, người làm trò khỉ khó mà vui nhộn bằng khỉ làm trò.
Xem khỉ của bọn Sơn Đông mãi võ bán "thần dược trị bá bịnh"
gánh nước, đẩy xe, đu giây... thích hơn nhiều.
Ngày
nay, du khách có thể lấy tàu ra Đảo Khỉ (Khánh Hoà) xem khỉ làm trò, hát xiệc (cirque).
Thư giãn. Sướng mắt.
Văn
học có một con khỉ (vượn) nổi tiếng.
Sưu
thần ký kể rằng:
-
Có người bắt được hai con vượn con, thường đem ra hiên đùa giỡn. Vượn mẹ ngày
nào cũng đến ở trên cây gần đầu nhà, trông thấy kêu thảm thiết. Ít lâu sau vượn
mẹ chết, xác rơi xuống gốc cây. Người ta đem mổ thì thấy ruột đứt ra từng đoạn.
Văn
học cổ dùng từ đoạn trường (đứt ruột) để nói sự đau đớn, khổ não quá
trong cuộc đời (9).
Điển
hình là truyện Kiều của Nguyễn Du. Truyện có đến 19 tình cảnh đoạn trường.

Ví
đem vào tập đoạn trường

Thì
treo giải nhất chi nhường cho ai.
Truyện
Kiều được người đời sau gọi là Đoạn trường tân thanh.
Làm trò khỉ là làm trò cười, bắt chước một cách lố bịch.
Thành ngữ thường được dùng để phê bình mấy ông "nghị gật " bù nhìn thời Pháp, để chế giễu các cô gái tân thời mặc quần soóc (quần cụt) đánh ten nít, các cậu diện giầy đơ cu lơ (hai màu), phì phèo thuốc lá, đi bát phố (battre le pavé).












Ngày Tết nói toàn chuyện Khỉ vớ
vẩn. Bị giông đừng có... nhăn như khỉ!
(1)-
Vũ Văn Kính, Bảng tra chữ nôm thế kỷ XVII, TP HCMinh, 1992.
(2)- Vũ Văn Kính, Bảng tra chữ Nôm sau thế kỷ XVII,
Hội Ngôn Ngữ Học TP Hồ Chí Minh, 1994.
(3)- Trần Văn Kiệm, Giúp đọc Nôm và Hán Việt, Đà Nẵng, 2004.
(4)- Truyện ngắn Vũ Trọng Phụng, Thanh Niên, 2008, tr.223, 225.
(5)- Mai Viên Đoàn Triển, An Nam phong tục sách (1908), Hà Nội, 2008, tr. 99.
(6)- Nhất Thanh Vũ Văn Khiếu, Đất lề quê thói (1968), Đại Nam, tr. 308.
(7)- Toan Ánh, Phong tục Việt Nam qua Tết lễ, hội hè, Đại Nam, 1997, tr.44.
(8)- Đặng Thanh Hoà, Từ điển phương ngữ tiếng Việt, Đà Nẵng, 2005, tr.120.
(9)- Đinh Gia Khánh, Điển cố văn học, KHXH, 1977, tr.138.
(2)- Vũ Văn Kính, Bảng tra chữ Nôm sau thế kỷ XVII,
Hội Ngôn Ngữ Học TP Hồ Chí Minh, 1994.
(3)- Trần Văn Kiệm, Giúp đọc Nôm và Hán Việt, Đà Nẵng, 2004.
(4)- Truyện ngắn Vũ Trọng Phụng, Thanh Niên, 2008, tr.223, 225.
(5)- Mai Viên Đoàn Triển, An Nam phong tục sách (1908), Hà Nội, 2008, tr. 99.
(6)- Nhất Thanh Vũ Văn Khiếu, Đất lề quê thói (1968), Đại Nam, tr. 308.
(7)- Toan Ánh, Phong tục Việt Nam qua Tết lễ, hội hè, Đại Nam, 1997, tr.44.
(8)- Đặng Thanh Hoà, Từ điển phương ngữ tiếng Việt, Đà Nẵng, 2005, tr.120.
(9)- Đinh Gia Khánh, Điển cố văn học, KHXH, 1977, tr.138.
Nguyễn Dư
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét