Thứ Năm, 21 tháng 7, 2016

Nguyễn Du, Người tráng sĩ


Nguyễn Du, Người tráng sĩ
Thuở trời đất nổi cơn gió bụi
Từ 1783 dưới triều Lê Trịnh, Nguyễn Du làm quan võ tại Thái Nguyên. Năm 1786, lần thứ nhất Tây Sơn Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ ra Bắc diệt Trịnh, trả ngôi lại cho vua Lê Cảnh Hưng. Cả nước chưa bị loạn lạc, Thăng Long và nhà Lê vẫn còn, chỉ phủ chúa Trịnh bị dẹp mất hẳn và một số cận thần tâm phúc như các anh của thi hào: Nguyễn Khản, Nguyễn Điều,...rút lui vì không chịu hợp tác với Nguyễn Huệ mà thôi. Dân chúng còn sống bình yên được gần ba năm, còn hân hoan cử hành lễ cưới công chủa Ngọc Hân được vua cha gả cho Nguyễn Huệ. Riêng Nguyễn Du tại nhiệm sở Thái Nguyên, chắc chưa bị luân lạc ngay lúc này. Nhưng tới mùa xuân năm Kỷ Dậu 1789 thì khác hẳn: Vua Quang Trung Nguyễn Huệ đạiphá quân Thanh tại Đống Đa, chiếm Thăng Long. Đó là một trận đại chiến kinh hoàng, 29 vạn quân Thanh đại bại chạy trối chết về Tầu. Vua Lê Chiêu Thống và vài cận thần chạy theo. Nguyễn Du cũng chạy theo nhưng không kịp, đã bỏ trốn, sợ bị truy đuổi. Đó là cái mốc rất quan trọng trong đời thi sĩ: Đang là quan chức nhà Lê, con em đại thần đầu triều, bỗng nhiên thành kẻ chạy trốn không nhà, đói rét trơ trọi một mình. Thi hào nghèo đói tới nỗi phải nhận lòng thương hại của người đời, trong bài Khất Thực (Xin Ăn):
Cơ hàn bất giác thụ nhân liên...
Đói rét bất ngờ nhận của cho
Thoạt đầu Nguyễn Du chạy trốn về phía nam kinh đô. Là một cậu chiêu (tên gọi con quan đại thần nhà Lê) nổi tiếng văn học, thi sĩ chế nhạo mình là một "người rừng" khi trốn chui trốn lủi trong núi sâu rừng thẳm, dấu gốc tích, lập vườn thuốc trong bài thơ Sơn Cư Mạn Hứng, Sống Trong Núi Cảm Hứng:
Nam khứ Tràng An thiên lý dư
Quần phong thâm xứ dã nhân cư
Sài môn trú tĩnh sơn vân bế
Dược phố xuân hàn lũng trúc sơ
Nam hướng kinh thành ngàn dậm dư
Người rừng sống giữa núi thâm u
Ngày yên cửa trúc mây ngàn phủ
Xuân lạnh dậu tre vườn thuốc thưa...
(Chú Thích: Tràng An là kinh đô xưa của Tầu. Nguyễn Du dùng chữ "Tràng An" như thói quen nhiều người tới tận bây giờ, để chỉ kinh đô nói chung, ở đây là Thăng Long, (Ca dao: Dù không thanh lịch cũng người Tràng An)Thi hào dùng nghĩa này trong nhiều bài khác như Giang Đình Cảm Xúc:
Cận nhật Tràng An đại dĩ phi 
Kinh đô nay đã thay hồn đổi da
Hoặc Ký Giang Bắc Huyền Hư Tử:
Tràng An khứ bất tức 
Hương tứ tại thiên nha 
Từ lìa kinh chẳng ngơi
Nhớ quê nơi chân trời...)
Trong khi rất lo lắng cho các anh chị em nơi quê nhà:
Cố hương đệ muội âm hao tuyệt
Bất kiến bình an nhất chỉ thư 
Anh em quê cũ bặt tin tức
Chẳng biết bình an chẳng được thư
Xưa nay các nhà nghiên cứu theo gia phả họ Nguyễn Tiên Điền, đều cho rằng sau trận Đống Đa 1789, Nguyễn Du không theo kịp vua Lê sang Tầu, đã về trú ẩn tại Quỳnh Côi quê vợ ngay. Nhưng học giả Đào Duy Anh trong cuốn Thơ Chữ Hán Nguyễn Du, trang 374, chú thich bài Sơn Cư Mạn Hứng như sau: "Không rõ lúc này Nguyễn Du ở đâu mà vừa xa Thăng Long vừa xa quê hương". Thực ra, bài thơ này còn cho biết Nguyễn Du đã lẩn trốn một mình trong vùng núi sâu phía nam, không về Quỳnh Côi, thuộc châu thổ sông Hồng gần biển, đất bồi phù sa bằng phẳng. Những bài viết cùng thời như U Cư I cho biết tâm lý căng thẳng, phải tập nuôi cái vụng dại (vờ vụng dại), giữ ý, e ngại người lạ, đề phòng bị lộ thân thế trong thời loạn lạc, không có vẻ là đang sống tại quê vợ:
Tha hương dưỡng chuyết sơ phòng tục
Loạn thế toàn sinh cửu uý nhân...
Xa quê, nuôi dại đề phòng tục,
Thời loạn sống còn e ngại người...
Bài Bất Mị viết về đời sống cô đơn nghèo khó với quá nhiều đau khổ. Giữa đêm vắng có tiếng chầy đập vải vẳng lên nơi thôn ổ, nặng huỳnh huỵch, hiện thực như tiếng chân của cái lạnh, từng bước từng bước tiến gần người thi sĩ đói rét:
Bất mị thính hàn canh
Hàn canh bất khẳng tận 
Quan san dẫn mộng trường 
Chiêm chử thôi hàn cận...
Mất ngủ nghe lạnh trống canh
Lạnh hoài chẳng hết trống canh chẳng tàn
Quan san dẫn mộng ngút ngàn
Tiếng chầy giục lạnh, lạnh càng gần thêm.
Nỗi niềm đau khổ như sâu bọ, ẩn nấp các góc sâu kín, đã ùa ra đầy đàn, bò lổm ngổm trong bếp nghèo hoang lạnh, nào giun, nào dế, nào ếch, nào nhái:
Phế táo tụ hà ma
Thâm đường xuất khâu dận 
Bếp vắng ếch nhái họp đêm
Góc sâu giun dế bò lên nhà ngoài...
Trong lòng còn nỗi đau sâu đậm tiếc nhớ nước non nhà Lê vừa mất, bài Thu Dạ II:
Thiên lý giang sơn tần trướng vọng
Tứ thời yên cảnh độc trầm ngâm 
Ngàn dậm giang sơn bao tưởng nhớ
Bốn mùa sương khói ngậm ngùi đau
Uất hận tràn đầy, thi nhân muốn học theo Khuất Nguyên "Hỏi trời cho ra nhẽ. Nhưng tội nghiệp thay, làm gì có ông trời nào mà hỏi! Nguyễn Du hiểu điều đó thật rõ ràng, chắc chắn như một khoa học gia hiện đại, đưa mắt nhìn thẳng lên trời dõng dạc hỏi:
Thiên cao hà xứ vấn? 
Trời cao thăm thẳm hỏi nơi chốn nào?
Luân lạc giang hồ:
Sau đó, Nguyễn Du bỏ núi sâu ra sống giang hồ sông nước, bãi bờ lau sậy, có khi dưới một mái tranh, có khi trên chiếc thuyền nan nhỏ bé manh động dễ ẩn nấp. Như Nguyễn Trãi xưa, từng có nhiều thơ, nói về những xúc động trong những đêm neo thuyền cửa biển. Nhưng Nguyễn Du không biết vô tình hay hữu ý, không hề cho biết về nơi chốn đang sống, y như muốn làm mờ nhạt đời sống này đi, đến nỗi làm người đọc và hậu thế chúng ta gần như không biết đến đời giang hồ này của ông! (vì an ninh chăng?). Tuy nhiên với những câu thơ nho nhỏ mô tả hoàn cảnh luân lạc đói lạnh, tâm sự u uất, thi tài Nguyễn Du đã làm người đọc xúc động sâu xa. Bài Mạn Hứng cho biết thi sĩ lưu lạc nơi bến sông, ven biển, mà nước ta sông thì nhiều và dài, còn bờ biển thì bao la, hàng ngàn dậm:
Lữ thực giang tân hựu hải tân... 
Bến sông, bãi biển mãi ăn nhờ...
Bài thơ Mạn Hứng cho biết thời gian này dài hơn ba năm:
Tam xuân tích bệnh bần vô dược
Ba mùa xuân bệnh thuốc chưa mua
Và hai chữ "giang hồ" chỉ thoáng qua trong bài Xuân Dạ:
Giang hồ bệnh đáo kinh thời cữu
Phong vũ xuân tuỳ nhất dạ thâm 
Giang hồ bệnh ám dây dưa mãi
Mưa gió theo xuân xuyên thấu đêm...
Sống giang hồ bên bến bờ sông nứơc dễ kiếm ăn, dễ tránh tai mắt Tây Sơn, dễ bắt liên lạc với anh em bạn hữu cũ. Đúng vậy, Nguyễn Du gập lại được Nguyễn Đại Lang, một người thân xưa, (Đại Lang là"anh" ( thi sĩ dùng vì lý do an ninh để dấu tên thật). Thi hào viết hai bài thơ đầy tình cảm những lần anh Nguyễn tới thăm, những lưu luyến khi anh từ giã trong Thanh Hiên Tiền Hậu Tập. Nhưng không ai biết đích xác Nguyễn Đại Lang là ai, và khi nào thi hào viết các bài thơ này.
Bài thứ nhất Lưu Biệt Nguyễn Đại Lang (Điều Còn Lại Sau Khi Anh Nguyễn Từ Biệt) phác hoạ vài nét chấm phá buổi gập lại Đại Lang nơi rừng liễu: Cùng nhau uống rượu. Chắc hai người phải thân thiết nhau lắm, nên vừa gập lại là tâm sự thâu canh không dứt. Hơn nữa còn thổ lộ thâm ý không chịu khuất phục Tây Sơn, đang trị vì, qua câu thơ chia gan sẻ ruột: "Thời loạn thân trai nhìn kiếm thẹn". Thi sĩ nhận trách nhiệm của một vị quan võ, hổ thẹn cho mình và cho cả quân đội triều Lê chưa đánh đã thua, để Thăng Long bay mất ngay trước mũi. Nhanh như một tiếng sét! Và nhà Lê mất nước:
Tây phong quy tụ liễu cao lâm 
Khuynh tận ly bôi thoại dạ thâm
Loạn thế nam nhi tu đối kiếm...
Rừng dương tay áo gió lùa bay
Chén biệt cạn đêm tâm sự đầy
Thời loạn thân trai nhìn kiếm thẹn
Tâm sự phù Lê vốn đã ăn sâu trong lòng thi sĩ, như kim trong bọc, dấu không nổi, tự nó chui ra trong thơ. Nhưng, để những "anh Nguyễn" ruột thịt của mình khỏi bị Tây Sơn coi là những kẻ chống đối, thi sĩ thêm hai ý "bằng hữu" và "Cao sơn lưu thuỷ" (điển về đôi bạn tri âm: Tử Kỳ hiểu tiếng đàn Bá Nha) quy Nguyễn Đại Lang vào loại "bạn":
Tha hương bằng hữu trọng phân tâm
Cao sơn lưu thuỷ vô nhân thức... 
Quê người bạn hữu xót chia tay
Non cao nước chảy không người hiểu
Vì vậy, trong bài thơ này, "anh Nguyễn" không là một người nhất định nào, chỉ tượng trưng cho một số thanh niên thời đó, như anh em bạn hữu Nguyễn Du, mang lý tưởng "cần vương" nhưng không còn tin tưởng ở nhà Lê, thờ Trịnh nhưng không còn phục Trịnh, muốn phản Tây Sơn nhưng kêu gọi không có người theo. Khi anh Nguyễn ra về, lời thơ sao mà tha thiết: Chỉ còn lại vầng trăng đêm chiếu rọi tấm lòng hai người phía "nam sông" :
Lưu thủ giang nam nhất phiến nguyệt
Dạ lai thường chiếu lưỡng nhân tâm 
Còn mảnh trăng khuya vòi vọi chiếu
Tấm lòng hai kẻ bến nam này
Bài thứ hai, Biệt Nguyễn Đại Lang, ngay từ cái tên, chữ "Biệt" đứng một mình đã có ý vĩnh biệt, "đi biệt", là chia ly không bao giờ gập lại. Toàn bài ý thơ sâu lắng, đậm đặc cảm xúc, trong đó thi sĩ đã thu góp, tinh giản tất cả những lần hai người gập nhau bàn luận, đúc kết vào ba lần đưa tiễn tiêu biểu, trong ba khổ thơ ngũ ngôn, diễn tả từ đầu tới cuối khung cảnh và tâm tình sâu lắng của hai người trong cuộc:
Khổ 1: Lần tiễn đưa thứ 1:
Ngã thả phù giang khứ
Tống quân quy cố khâu
Tôi qua sông lênh đênh
Tiễn anh về núi cũ...
Câu 1: Chỉ một câu thơ nhỏ này, đặc biệt với "thả" và "phù" tuyệt diệu (thả= buông thả, theo không cưỡng lại; phù giang khứ = phù giang và phù khứ), diễn tả hết hoàn cảnh, tâm trạng rất xúc động của tác giả, người giang hồ phiêu bạt trên sông không bến đỗ: Tôi buông theodòng sông lênh đênh mà đi, chuyến đi, hay đời tôi, lênh đênh vô định.
Câu 2: Tiễn anh về núi cũ. Núi cũ (cố khâu) hai chữ thật nặng tình, cho biết hai người có cùng ngọn núi thân yêu ngày xưa cũ.
Câu 3, 4: Lúc này Tây Sơn đã phá xong quân Thanh, đời sống dân chúng tạm yên, người có nơi trú ẩn, cá tung tăng bơi lội, hươu nai nhẩn nha đi lại trong núi sâu:
Càn khôn dư thảo ốc 
Phong vũ túc cô chu
Thu dạ ngư long trập
Thâm sơn mi lộc du
Đất trời còn mái tranh
Gió mưa ẩn thuyền lá
Đêm thu cá lặn bơi
Núi sâu nai thong thả
Chàng quan võ trẻ còn quá non nớt, thiếu hiểu biết về tình hình chính trị quân sự, nhất là về sức mạnh của Tây Sơn lúc bấy giờ, đã nức lòng hy vọng gập lại anh Nguyễn ở Trung Châu, giữa châu thổ sông Hồng (với điều kiện chiếm lại được Thăng Long!):
Hưu kỳ bất thậm viễn 
Tương kiến tại Trung Châu 
Ngày vui chẳng lâu nữa
Trung Châu ta gập ta.
Khổ 2: Lần đưa tiễn thứ 2:
Tống quân quy cố khâu
Ngã diệc phù giang hán...
Tiễn anh về núi cũ
Tôi, lãng tửnước mây...
Câu 1: Nhắc lại câu 2 của khổ 1, "tiễn anh về núi cũ" đậm tình thân thiết.
Câu 2: Còn tôi là kẻ lang thang, là khách giang hồ trên dòng sông vô định (hán=một người hảo hán). Ngầm ý muốn về núi cũ với anh, nhưng chưa thể được.
Thiên lý bất tương văn 
Nhất tâm vị thường gián 
Ngàn dậm không nghe tiếng
Một lòng không hề thay
Câu 3, 4: Tình cảm sâu xa giữa hai người viết rất dung dị mà xúc động, nhấn vào hai chữ "Nhất tâm"(= tình cảm không đổi, lý tưởng chung không lay chuyển).Vào giai đoạn thứ 2 này, nhà Tây Sơn sau những bận rộn về chiến thắng 1789, đã có thời gian tổ chức chính trị, nhân sự. Việc đàn áp những người chống đối trở nên mạnh mẽ hơn, hiệu quả hơn: "sài hổ kiêu" (hổ, sói gầm thét). Khiến họ phải chạy trốn, phiêudạt, tan tác như chim vỡ đàn hoảng sợ bay tứ tán:
Dạ hắc sài hổ kiêu 
Nguyệt minh hồng nhạn tán 
Đêm tối hổ gầm thét
Trăng sáng nhạn xé bầy*
Cho nên:
Lưỡng địa các tương vương 
Phù vân ưng bất đoạn
Hai nơi cùng mong nhớ
Đừng ngừng trôi, hỡi mây!
Tứ thơ mới mẻ lạ thường. Do quá thương nhớ, lo sợ anh Nguyễn gập nguy biến, thi sĩ thấy mây là nguồn lưu chuyển duy nhất có thể vọng nhìn gửi niềm thương nhớ. Nên hết lòng mong cầu một chuyện dĩ nhiên nhất trên đời: "Xin mây đừng ngừng trôi", để còn cảm tưởng anh đang yên ổn. Với cổ nhân, tình cảm giữa anh em bạn bè thường rất đằm thắm, sâu nặng hơn cả tình yêu.
Khổ 3: Sau mỗi lần tiễn đưa, anh Nguyễn đều về "núi cũ". Lần tiễn đưa quan trọng thứ 3 này viết gọn hơn: "quân quy" ("anh về" ), phải chăng là về quê hương? Lúc này chính là lúc tình thế nguy hiểm nhất: Tới giữa thời Tây Sơn của vua Quang Trung hưng thịnh, dân hai nước Việt và Tầu đều hãi sợ chiến tranh, chỉ còn một số cựu thần nhà Lê muốn tranh đấu chống lại để thoả lòng "rửa hận nam nhi". Nguyễn Du viết bài thơ này mấy năm sau sự kiện Nguyễn Quýnh bị giết, Tiên Điền bị tàn phá, đã biết việc cần vương phù Lê tới bước đường cùng, nổi dậy là vô ích. Cho nên thơ ông nói tới "thời loạn", "sống chết", "còn mất", chỉ có "nghĩa khí, tình thâm đọng lại, chia sẻ cho nhau":
Quân quy ngã diệc khứ
Các tại loạn ly trung
Sinh tử giao tình tại 
Tồn vong khổ tiết đồng 
Anh về, tôi cũng đi
Giữa cõi đời loạn ly
Sống chết tình ở lại
Được mất nghĩa cùng chia
Cảnh đưa tiễn sau cùng thật bi hùng, cô đọng, đơn sơ như cổ thi. Hơi thơ đi tới cái đơn giản tuyệt vời của mỹ cảm: "Tấm cửa liếp mở ra nguyên một đêm trăng đưa người nón rách ra đi trong gió thu":
Sài môn khai dạ nguyệt 
Tàn lạp tẩu thu phong 
Cửa mở ra trăng sáng.
Gió lộng nón rách đi
Hai câu kết buồn thăm thẳm: Anh xa rồi, chẳng còn thấy nhau nữa, cả bầu trời mịt mù u ám! Anh Nguyễn đã "một đi". Có bao giờ trở lại?
Thiên lý bất tương kiến 
Phù vân mê thái không 
Ngàn dậm, không thấy nữa
Bầu trời mờ mây che.
Anh Nguyễn là ai?
Tình thương giữa anh Nguyễn và thi nhân qủa là rất sâu xa thân thiết, thắt chặt trong hai bài thơ. Nhìn kỹ lại, Nguyễn Đại Lang có nhiều tính chất tương tự Nguyễn Quýnh, người anh thứ tư bạc mệnh của Nguyễn Du. Thực vậy:
Nguyễn Quýnh (1759-1791), có tên là Luyện, thọ ấm Mai Nhạc Bá, đỗ tú tài năm 1779, năm 1787 giữ chức quản trấn Tả Đội tại Sơn Tây, dưới trướng Nguyễn Điều. Tới 1791, hai năm sau khi nhà Lê sụp đổ, Nguyễn Quýnh 33 tuổi, cùng thổ hào Nghệ Tĩnh nổi dậy chống Tây Sơn. Bị hiệp trấn Nguyễn Quang Dũng vây ráp, phóng hoả đốt làng Tiên Điền, Nguyễn Quýnh bị bắt, không chịu hàng nên bị giết. Tiên Điền bị triệt hạ để trừng phạt. Ngày nay người dân Tiên Điền còn kể chuyện quân Tây Sơn lấy mỡ lợn tưới lên dinh cơ họ Nguyễn để đốt cho hết.
Nguyễn Du nhận thư báo tin quê, thi hào viết trong bài thơ Bát Muộn, với hai câu đầu chỉ thời gian. Đó là lúc nhà Lê đã mất, Thăng Long lụi tàn:
Thập tải trần ai ám ngọc trừ
Bách niên thành phủ bán hoang khư
Thềm ngọc mười năm ám bụi tàn
Trăm năm thành phủ nửa gò hoang
Thi sĩ nhận thư, khóc thương từ ngàn dậm: "Chinh chiến máu chảy ô uế vẩn đục cả trời đất. Quê hương binh lửa". Nghĩa là: "Nổi loạn tại quê hương Tiên Điền, chiến trận, đốt phá, máu, người chết". Hay rõ hơn: "Cuộc nổi dậy đã bị đập tan, tráng sĩ bị giết tại quê nhà". Tin thư được gửi thẳng tới Nguyễn Du, chứng tỏ việc Nguyễn Du liên lạc mật thiết với nhóm Nguyễn Quýnh là thật:
...Chỉ uế càn khôn huyết chiến dư ...
Tang tử binh điền thiên lý lệ 
Thân bằng đăng hạ sổ hàng thư 
Trời đất đục ngầu huyết chiến loang
Binh lửa quê hương ngàn dậm lệ
Dưới đèn thân thích mấy thư trang...
Câu thơ cuối tả nỗi lòng đau khổ nước mất nhà tan, không thể quên đi được:
Bách chủng u hoài vị nhất sư 
Trăm nỗi u buồn chưa thể tan.
Hai năm sau, 1793, Nguyễn Nể đang làm quan với Tây Sơn, có lẽ cảm thấy áy náy trong việc quê hương bị tàn phá, ông xuất tiền cho hai em cùng mẹ là Nguyễn Du và Nguyễn Ức về tu sửa Tiên Điền. Có cháu Nguyễn Hành ở Thanh Chương tới giúp. Xa quê nhà, lưu lạc mỗi người một nơi đã lâu, lần đầu tiên sau chiến tranh ba chú cháu trở về quê cũ, chắc vô cùng đau đớn khi thấy cảnh nhà cửa dinh cơ đổ nát, ngổn ngang bãi chiến trường năm trước, gồm cả vết tích nơi hành hình Nguyễn Quýnh. Công việc phải làm là kêu gọi dân phu, thợ, dọn dẹp toàn bộ gia trang, tu sửa từ đường, viết hoành phi câu đối thờ, xây lại nhà cửa sơ sài cho con cháu ở, sửa chữa lại Cầu Tiên, chùa Trường Ninh... và âm thầm đắp điếm lại mộ phần, (hoặc bốc mộ) cho Nguyễn Quýnh. (Vì Nguyễn Quýnh là một tội đồ bị Tây Sơn hành hình, làm gì có mồ mả, hoạ chăng chỉ được "vùi nông một nấm"). Từ những đổ nát, ba chú cháu xây dựng lại dinh cơ cổ xưa của dòng họ bao đời để lại. Thật ra có cố gắng mấy cũng chỉ là làm giả cái cũ mà thôi.
Xong việc, Nguyễn Du vào Phú Xuân thăm Nguyễn Nể, để cho anh rõ tình hình, rồi về thẳng Quỳnh Côi, cuối năm 1793. Thơ Nguyễn Nể: "Tiễn Tố Như Đệ Tự Phú Xuân Kinh Bắc Hoàn" ghi rõ việc này.Đường thiên lý từ Phú Xuân về lại nhà anh vợ theo hướng Nam Bắc, qua Thanh Hoá, rồi Ninh Bình, vắtngang đèo Tam Điệp, tức Ba Dội ... Khi tới đỉnh đèo, Nguyễn Du quay đầu lại sau, về hướng Nam, phía Tiên Điền, viết bài thơ nhỏ Tái Du Tam Điệp Sơn. Trong đó tình cảm đau xót nhớ tiếc quê cũ, người xưa của thi sĩ chưa hề nguôi ngoai. Chính vì ông đã nhìn tận mắt, động tận tay vào dinh cơ tan nát cũ, vào xương cốt người xưa... Nên thấu rõ là tất cả đã thật mất hết rồi, chỉ còn nỗi sầu cố hương:
Hành nhân hồi khán xứ 
Vô ná, cố hương sầu
Quay nhìn lại đất cũ.
Mất rồi, sầu ngất ngây.
Trong cuốn Thơ Chữ Hán Nguyễn Du, học giả Đào Duy Anh thường có ý giữ thứ tự các bài thơ y theo bản cũ. Ta thấy bài Biệt Nguyễn Đại Lang (trang 68) nằm ngay trước (nhiều phần có nghĩa là đã được viết trước) bài "Tái Du Tam Điệp Sơn", viết về cảm khái trên đường về. Hy vọng thứ tự đó đúng. Như vậy rất có thể Biệt Nguyễn Đại Lang được viết trong thời gian thi hào còn đang ở Tiên Điền tu sửa dinh cơ và xây mộ Nguyễn Quýnh. Ta cũng hiểu rằng: Đối với anh em Nguyễn Du lúc đó, việc đắp mộ anh chết thảm, như một đám tang mới, vô cùng cảm động, những xúc động trào dâng mãnh liệt. Điều này đẩy tâm trạng bi phẫn của thi sĩ lên cao độ: Nguyễn Quýnh là anh cùng cha khác mẹ của thi hào, rất thân thiết, vì mẹ của hai người cùng quê Kinh Bắc, và cả hai đều làm quan võ cho triều đình Lê Trịnh, cùnng với nhiều anh em con cháu trong gia đình. Hơn nữa cả hai sống chung một nhà từ nhỏ, nên có chung một mối hận, một nỗi mất mát, một nỗi lòng. Lại thêm anh Quýnh chết vì lý tưởng chung, bi thương, anh hùng như thế. Vì vậy sau khi lo xong mộ chí cho anh, sau khi ngụp lặn trong lòng quê hương tan nát từng mảnh vụn, làm sao một người thi sĩ tột bực bén nhậy, tâm hồn chất đầy lòng thương bao la, tình cảm thâm sâu như Nguyễn Du, có thể không viết bài điếu anh mình cho được? Phải chăng bài Biệt Nguyễn Đại Lang chính là Điếu Anh Nguyễn Quýnh, nên nhiều xúc cảm đến thế? (Trong cuốn Đọc Và Dịch Thơ Chữ Hán Của Nguyễn Du, PTN, tôi đã xếp bài Biệt Nguyễn Đại Lang vào những bài thi sĩ viết về gia đình, trong thời kỳ Hồng Lĩnh, như: Giang Đình Hữu Cảm, nhớ Cha; Ký Mộng, nhớ vợ đã mất; Ức Gia Huynh, nhớ anh Nguyễn Nể. Chắc là không đúng, xin được xửa lại).
Ngoài ra, giả thuyết Nguyễn Đại Lang là một người khác Nguyễn Quýnh, tình và lý không đứng vững: Vì nhân vật đó không nổi dậy, không bị giết ở Tiên Điền, thì việc gì phải dùng tên Đại Lang, không dùng tên thật? Và nếu trên đời có nhiều người khác được gọi là "Đại Lang" cũng chẳng sao cả (Như có biết bao anh Hai, anh Ba ... vậy). Trong khi đối với Nguyễn Quýnh, ngay từ ngày đầu tiên anh em gập được lại nhau giữa thời "Tây Sơn ly loạn", giữa nơi đất khách ẩn trốn, Nguyễn Du đã không thể gọi anh Quýnh bằng tên thật, vì phải che dấu tông tích cả hai anh em, ("Hai cậu chiêu con cố tể tướng triều Lê"âm mưu cần vương, phản Tây Sơn. Nếu một người bị lộ thì cả hai cùng bị lộ). Vì vậy dùng một cái tên vô thưởng vô phạt như "Đại Lang" tránh tên thật trong bài thơ thứ nhất, là điều dễ hiểu. Tới khi viết bài thơ thứ hai này để điếu anh, thi hào vẫn gọi anh là "Đại Lang" để kỷ niệm sâu sắc quãng đời cùng nhau chung sức, chung lý tưởng phù Lê (cho dù nhà Lê đã vữa nát). Như vậy, bên ngoài thi sĩ đã không tỏ lộ ra mình thuộc về tổ chức nổi dậy của Nguyễn Quýnh, là điều có thể bị Tây Sơn bắt hay giết dễ dàng, bất cứ lúc nào.
Vì những lý do trên, chúng tôi cho rằng Anh Nguyễn chính là Nguyễn Quýnh, bài Biệt Nguyễn Đại Lang chính là bài thơ Điếu anh Nguyễn Quýnh.
Nguyễn Hành có mặt cùng chú Du, chú Ức tu sửa Tiên Điền và xây mộ chú Quýnh, ông sống ở Thanh Chương, Hà Tĩnh, không tham dự cuộc nổi dậy, cũng có viết bài Viếng chú Nguyễn Quýnh, khi đi quamiếu thờ, như sau:
Đại đạo thành nhân mỗi bất đồng 
Lâm nguy khẳng khái nghĩa duy ông
Nhất thân độc nhiệm cương thường trọng
Vạn cổ do văn tráng liệt phong 
Cổ thỉ kim triều hà truật bức 
Hồi huy đương nhật thâm thung dung 
Thống tâm hối nại kinh từ miếu
Độc lạp lưu thành lệ mãn không .
Đạo lớn nên người thường chẳng đồng
Lúc nguy, nghĩa khí chỉ mình ông
Một mình gánh lấy cương thường nặng
Muôn thuở vang rền tiếng liệt trung
Nhìn lại chuyện xưa đau xót quá
Nhớ sao ngày trước rất ung dung
Đau lòng chẳng nỡ đi ngang miếu
Sáp nến chảy thành lệ ngập không
(Bài này chúng tôi chỉ tìm được bản phiên âm, không có bản chữ Hán, nên nhiều chữ không chắc đúng).
Văn bản mới: Cuộc đời tráng sĩ của Nguyễn Du
Tới đây chúng ta có thể đưa ra một phỏng đoán về cuộc đời Nguyễn Du trong những năm giang hồ gió bụi thích hợp với với tình tiết "Nguyễn Đại Lang" là anh thứ tư Nguyễn Quýnh, người nổi dậy Phù Lê vùng Nghệ Tĩnh năm 1791 đã bị Tây Sơn bắt, giết.
Sau trận Đống Đa năm 1789, giữa lúc giang hồ xa nhà, ẩn náu một mình sợ Tây Sơn truy đuổi, Nguyễn Du gập lại được anh Nguyễn Quýnh. Đó là gập được gia đình. Nguyễn Du chắc hẳn rất vui mừng, từ nay không còn cô độc nữa. Bài Lưu Biệt Nguyễn Đại Lang cho thấy sự thân mật đặc biệt giữa hai người: Có được người thân hoàn toàn tin cậy là điều cốt yếu trong thời loạn. Nhất là thấy anh đang kêu gọi nghĩa sĩ tụ họp chống Tây Sơn, đúng như lòng mong muốn của mình. Thi hào chắc là ủng hộ anh hết lòng. Từ đó, Nguyễn Quýnh thường hay đến bàn bạc mưu tính với em. Nguyễn Du thông minh học rộng, thư kiếm đều giỏi, có thể làm mưu sĩ ở ẩn hay phụ trách một chi nhánh nghĩa quân để che dấu lực lượng. Ta thấy Nguyễn Quýnh rất thương yêu Nguyễn Du, luôn luôn bảo vệ che chở em, chỉ tự mình xông pha qua bao nhiêu cạm bẫy, lưới giăng của Tây Sơn để tới gập em, mà không để Nguyễn Du về Tiên Điền dù rất mong muốn, do ngại em chưa đủ khôn ngoan kinh nghiệm.
Trong bài thơ Tiễn Nguyễn Sĩ Hữu Nam Quy, thi hào viết trong thời kỳ gió bụi, ngay sau bài vì Lưu Biệt Nguyễn Đại Lang. Câu thơ thứ 3, Nguyễn Du khen Nguyễn Sĩ Hữu về đứng chủ ở núi Hồng, trong khiNguyễn Quýnh cầm đầu cuộc nổi dậy, đóng quân tại quê mình là Hồng Sơn, Tiên Điền. Cho nên có thể Nguyễn Sĩ Hữu chính là Nguyễn Quýnh. (Chúng tôi chưa dám quả quyết). Câu sau, thi sĩ than cho mình chưa làm nên việc gì, mà lại chẳng về nhà:
Hồng Lĩnh hữu nhân lai tố chủ 
Bạc đầu vô lại bất hoàn gia
Hồng Lĩnh có người về đứng chủ
Bạc đầu vô lại chẳng về nhà
Học giả Đào Duy Anh giảng: "Nguyễn Du nói mình chưa thực hiện được hoài bão nên chưa có thể về quê Hồng Lĩnh, để cho Nguyễn Sĩ Hữu về trước", (Đào Duy Anh, sdd, tr 375, dòng 15 . Đúng vậy, Nguyễn Du lúc này còn trẻ, mới nổi tiếng về văn học, nhưng về chính trị quân sự hãy còn non nớt. Nguyễn Nể, nhớ Nguyễn Du thất lạc, viết bài Hoài Tố Như Đệ, cũng cho rằng thi sĩ tài cao nhưng chưa có nhiều trải nghiệm sống:
Tự hữu lăng vân chí
Hoàn vô thiệp thế tài
Chí cao mây xanh thắm
Chưa trải nghiệm đời sâu.
Năm 1791, nổ ra vụ Nguyễn Quýnh cùng thổ hào nổi dậy chống Tây Sơn thất bại, bị bắt, bị giết. Vì có nhiều liên lạc với anh Quýnh, an ninh của Nguyễn Du rất đáng lo ngại. Nguyễn Nể đang làm quan với Tây Sơn, tìm cách thu xếp cho em về lánh nạn tại Quỳnh Côi, nương nhờ anh vợ là Đoàn Nguyên Tuấn, bạn học cũ của ông, cùng theo Tây Sơn và đi sứ sang Tầu vừa qua. (Rất có thể lúc này mới là lúc Nguyễn Du lấy bà vợ đầu họ Đoàn).
Năm 1793, Nguyễn Nể trước khi rời Bắc Thành vào Phú Xuân theo lệnh vua Quang Toản, đã sửa soạn cho Nguyễn Du, Nguyễn Ức và cháu Nguyễn Hành về tu sửa lại dinh cơ Tiên Điền bị tàn phá. Bài thơ bất hủ Biệt Nguyễn Đại Lang được Nguyễn Du viết lúc này. Đó là một bài thơ trác tuyệt đầy tình cảm và nghĩa khí, giản dị mà bi hùng, đơn sơ mà sâu thăm thẳm xuyên suốt cuộc đời giang hồ phù Lê của cả hai anh em.
Sau đó thi hào vào Phú Xuân thăm anh Nể, rồi về Quỳnh Côi. Nguyễn Nể có thơ Tống Tố Như Đệ Tự Phú Xuân Kinh Bắc Hoàn, nói rõ việc này, có câu:
Quỳnh Hải yên hà ngâm nhãn khoát 
Quỳnh Hải khói mây em ngâm vịnh.
Năm sau 1794, vào ngày rầm tháng giêng ta, tại đây Nguyễn Du viết bài thơ nổi tiếng Quỳnh Hải Nguyên Tiêu bày tỏ tâm sự, hoàn cảnh thực của mình lúc đó:
Nơi núi Hồng nhà không còn, anh em chia lìa (Người chết người phân tán).
Già trắng tóc rồi, lòng đầy hận đau (chẳng làm gì được) mà thời gian cứ trôi mãi:
Hồng Lĩnh vô gia huynh đệ tản
Bạch đầu đa hận tuế thời thiên
Núi Hồng nhà mất anh em tản
Tóc trắng hận đau ngày cứ trôi
Tới 1795 vợ ông sinh được Nguyễn Tứ, con duy nhất, rồi bị bệnh mất.
Không còn lý do ở lại quê vợ, chẳng lẽ cứ làm người "Chây Khách" mãi. Nguyễn Du rời Quỳnh Côimang con ra đi. Đến khi dự tính ra đi theo chúa Nguyễn, thì việc bại lộ, ông bị quận công Thận trấn thủ Nghệ An bắt giam. 1796 Nguyễn Nể đi sứ Tầu lần thứ hai về kịp, tới xin bạn đồng liêu Nguyễn Thận, ông này tiếc tài thơ phú của Nguyên Du nên thả ra sau mười tuần tù giam (khoảng 100 ngày).
Việc chống đối Tây Sơn đã tỏ rõ, không cần che dấu nữa, thi hào viêt bài Mi Trung Mạn Hứng (Hứng Trong Tù) dùng điển Chung tử gẩy Nam âm, và Trang Tử thơ Việt ngâm, nói lên ý tưởng "không bao giờ quên nước cũ, triều Lê xưa".
Đã minh bạch, không còn sợ bị Tây Sơn truy đuổi nữa, thi hào về ở hẳn quê hương Hồng Lĩnh, chấm dứt những ngày gió bụi. Trong bài Tạp Thi I, lần duy nhất, người thi sĩ cựu thần nhà Lê, nhận mình là tráng sĩ, một tráng sĩ thua trận, trắng tay, đau khổ ngút trời:
Tráng sĩ bạch đầu bi hướng thiên 
Hùng tâm sinh kế lưỡng mang nhiên 
Bạc đầu tráng sĩ khổ trông trời
Việc nước việc nhà hỏng cả đôi.
Bởi vì trong suốt thời gian giang hồ, Nguyễn Du đã tham dự công cuộc cần vương phù Lê, với tấm lòng tráng sĩ. Đến lúc mọi việc tan vỡ cả mới nói ra đúng vai trò của mình, viết chữ tráng sĩ một lần trong thơ, rồi không bao giờ nhắc lại nữa. Nhưng nỗi hận nhà Lê mất vẫn khắc sâu trong lòng. Đọc bài Ninh Công Thành viết trong thời kỳ Hồng Lĩnh (1796, 1802),dưới triều Tây Sơn Quang Toản, ta thấy là tâm ông đã thanh thoát nhiều rồi, nhưng hận đau vẫn còn lại:
Thập niên vị tiết nam nhi hận 
Đãn kiếm trường ca đối bạch vân 
Mười năm chưa rửa hờn trai trẻ
Gõ kiếm ca dài mây trắng trông.
Sau này Nguyễn Hành viết bài Thướng Thúc Phụ Đông Các Học Sĩ (Kính dâng chú Đông Các học sĩ) cónói tới đời giang hồ chống Tây Sơn của thi hào:
Giang hồ, long miếu nhiêu song đạo (Giang hồ, đền miếu hai đường đủ).
Giang hồ (tham dự cần vương phù Lê) và long miếu (=triều vua= làm quan, cho nhà Nguyễn) là hai điều đều đủ (nhiêu=đầy đủ). Ta biết Nguyễn Du làm quan 18 năm đầy đủ, thì giang hồ chống đối cũng tương đương không kém.
Phụ Lục  
1/ LƯU BIỆT NGUYỄN ĐẠI LANG
西






Phiên âm:
Lưu Biệt Nguyễn Đại Lang
Tây phong quy tụ liễu cao lâm 
Khuynh tận ly bôi thoại dạ thâm
Loạn thế nam nhi tu đối kiếm 
Tha hương bằng hữu trọng phân khâm
Cao sơn lưu thủy vô nhân thức 
Hải giác thiên nhai hà xứ tầm?
Lưu thủ giang nam\nhất phiến nguyệt 
Dạ lai thường chiếu lưỡng nhân tâm 
Thơ dịch:
Dư Vị Chia Tay Anh Nguyễn
Rừng dương tay áo gió lùa bay
Chén biệt cạn đêm tâm sự đầy
Đời loạn thân trai nhìn kiếm thẹn
Quê người bầu bạn xót chia tay
Non cao nước chẩy không người hiểu
Nào biết đâu tìm chốn nước mây?
Còn mảnh trăng đêm vòi vọi chiếu
Tấm lòng đôi bạn bến nam này.
2/
(_)



 

宿
鹿
()




 

 

()




 

 

 太空
Phiên âm: 
Thơ dịch:
Biệt Nguyễn Đại Lang
Biệt Anh Nguyễn
I
Ngã thả phù giang khứ 
Tống quân quy cố khâu 
Càn khôn dư thảo ốc 
Phong vũ túc cô chu 
Thu dạ ngư long trập 
Thâm sơn mi lộc du 
Hưu kỳ bất thậm viễn 
Tương kiến tại trung châu*
I
Tôi theo sông lênh đênh
Tiễn anh về núi cũ
Đất trời còn mái tranh
Gió mưa ẩn thuyền lá
Đêm thu cá lặn bơi
Núi sâu nai thong thả
Trung châu ta gập ta
Ngày ấy không xa nữa
II 
Tống quân quy cố khâu 
Ngã diệc phù giang hán**
Thiên lý bất tương văn 
Nhất tâm vị thường gián 
Dạ hắc sài hổ kiêu 
Nguyệt minh hồng nhạn tán
Lưỡng địa các tương vương 
Phù vân ưng bất đoạn.
II
Tiễn anh về núi cũ
Tôi, lãng tử nước mây
Ngàn dậm không tin tức
Một lòng chưa hề thay
Đêm tối hổ gầm thét
Trăng sáng nhạn xẻ bầy
Hai nơi cùng mong nhớ
Đừng ngừng trôi, hỡi mây!
III 
Quân quy ngã diệc khứ
Các tại loạn ly trung 
Sinh tử giao tình tại 
Tồn vong khổ tiết đồng
Sài môn khai dạ nguyệt
Tàn lạp tẩu thu phong
Thiên lý bất tương kiến
Phù vân mê thái không
III
Anh về, tôi cũng đi
Giữa cõi đời loạn ly
Sống chết tình ở lại
Được mất nghĩa cùng chia
Mở cửa đêm trăng sáng
Gió thu nón rách đi
Ngàn dậm không thấy nữa
Bầu trời mờ mây che.
Phạm Thảo Nguyên
Trích đoạn bài Nguyễn Du cuộc đời trong thơ
Theo http://chimvie3.free.fr/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Thi sĩ Nguyễn Bính: Nặng những mối tình phân ly

Thi sĩ Nguyễn Bính: Nặng những mối tình phân ly Nguyễn Bính đã sống trọn một đời thơ mộng đẹp đẽ, với những vần thơ da diết, đượm đà, đầy ...