Hà Nội đang trong những ngày
hè, nhưng do ảnh hưởng của không khí lạnh nén rãnh áp thấp nhiệt đới nên khoảng
4 giờ sáng trời bắt đầu rỉ rả mưa rồi mỗi lúc cơn mưa một nặng hạt hơn. Nằm
trong khách sạn nghe mưa rơi, tôi nghĩ thầm:
– Vậy là chương trình đi Lạng Sơn phải hủy rồi!
Công việc ở Hà Nội chỉ trong
buổi sáng nữa là xong, trưa có thể lên đường đi đến Lạng Sơn như dự định từ trước,
nhưng mưa lớn và dai dẳng trên toàn miền Bắc thế này, lại thêm lần đầu tiên đến
một nơi xa lạ, chỉ có mỗi một người quen duy nhất nên cũng hơi ngại ngần.
Hơn 7h 30 sáng, cơn mưa
không có dấu hiệu gì sẽ dứt, tôi gọi điện thoại cho anh bạn trên đó nói lời xin
lỗi vì không thể lên như dự định ban đầu và đề nghị anh cho địa chỉ chính xác để
gửi qua Bưu điện hộp các loại sản phẩm mẫu của một doanh nghiệp Thái Lan gửi
cho anh mà tôi mang theo.
Nhưng anh rất nhiệt tình và
thân thiết nói qua điện thoại:
– Không! Có thể với Hà Nội anh đã đến và đi nhiều rồi, nhưng Lạng Sơn thì chưa.
Anh nên
đến một lần cho biết đất và
người Lạng Sơn thế nào, sẵn dịp tôi có ở nhà, chứ lần khác chưa chắc gì đã có
vì tôi cũng hay đi xa. Chiều mai xe sẽ đưa anh đến sân bay Nội Bài trước giờ
lên máy bay, anh yên tâm đi! Tôi đã thu xếp xe đến đón anh, chốc nữa họ sẽ gọi
cho anh hỏi địa chỉ để đón. Anh không được từ chối.
Trước tấm lòng, sự nhiệt
tình của anh cộng thêm tí tò mò muốn biết thêm một vùng nữa trong những địa
danh có từ “xứ”: xứ Thanh (Thanh Hóa), xứ Nghệ (Nghệ An), xứ Huế (vùng Quảng Trị,
Thừa Thiên – Huế), xứ nẫu (vùng Bình Định, Phú Yên), xứ Quảng (vùng Quảng Nam,
Đà Nẵng), xứ Lạng (Lạng Sơn) và bài ca dao được học thuở nhỏ chợt đến trong đầu:
“Đồng Đăng có phố Kỳ Lừa
Có nàng Tô Thị, có chùa Tam
Thanh
Ai lên xứ Lạng cùng anh
Bõ công bác mẹ sinh thành ra
em
Tay cầm bầu rượu nắm nem
Mãi vui quên hết lời em dặn
dò”
như thế nào nên tôi nhận lời.
Từ Hà Nội muốn đi Lạng Sơn
phải qua 2 tỉnh: Bắc Ninh (vùng Kinh Bắc xưa), quê hương của dân ca quan họ,
tranh Đông Hồ, với những làng nghề cổ như rèn (làng Vát), đúc đồng (làng Bưởi),
tre hun (tre đen) huyện Gia Bình v.v… và Bắc Giang với rượu làng Vân, hát then
– đàn tính (huyện Lạng Giang), cam Bố Hạ (huyện Yên Thế) nổi tiếng ngọt, ngon tự
ngàn xưa … cũng là nơi có tên những thị trấn rất ngộ nghĩnh như Chũ (huyện
Lục Ngạn), Neo (huyện Yên Dũng), Vôi, Kép (huyện Lạng
Giang), Nếnh (huyện Việt Yên) …
Quá trưa một chút, chiếc
Innova 7 chỗ đón tôi ở khách sạn, chạy vòng qua Cầu Giấy về hướng trường Đại học
Sư phạm 1 Hà Nội rồi nhanh chóng hòa vào dòng xe trên quốc lộ 1A đi vào tỉnh Bắc
Ninh hướng về Lạng Sơn. Hai bên đường là cánh đồng lúa đang mùa chín tới nên đượm
một màu vàng tươm, xa xa là những đồi núi trập trùng chạy dài theo đường chân
trời, dăm ba con trâu, bò bình thản gặm cỏ mặc cho vài chú cò trắng ngạo nghễ
chao qua lượn lại trước mũi hay đậu trên lưng.
Xe vào đến địa phận tỉnh Bắc
Giang, những ngọn núi thấp, thân phủ màu xanh lá nối lên nhau làm cho ánh nắng
chiều cũng trở nên dịu nhẹ, người chủ – lái xe đưa tay chỉ về phía trái giới
thiệu với tôi như một hướng dẫn viên du lịch chuyên nghiệp rất rành về địa lý:
– Đó là dãy núi Bắc Sơn, dân gian gọi là cánh cung Bắc Sơn, nó là dãy núi đá vôi
chạy theo hướng đông bắc – tây nam, dọc
hữu ngạn sông Thương từ huyện Bắc Sơn, Văn Quan ở phía bắc, qua Hữu Lũng, Chi
Lăng, rồi lại chạy qua Yên Thế, xuống phía bắc thị trấn Kép; nó nối từ Bắc Ninh
đến Lạng Sơn, dài gần 60 cây số, cao khoảng 400 – 500 mét, rộng độ chừng bốn mấy,
năm mươi km.
Những năm học phổ thông,
chúng tôi được thầy giáo dạy môn giờ Sử – Địa cho thuyết trình về các triều đại,
địa dư các tỉnh, lại thêm thói quen hay tìm hiểu các địa danh trong nước; lục lọi
trong trí nhớ, tôi góp vào câu chuyện mà không biết cái trí nhớ của người gần
60 có “phản bội” mình không:
Bắc Giang, Hải Phòng theo hướng
đông bắc – tây nam ranh giới của Quảng Ninh – Lạng Sơn, sau đó vòng sang hướng
nam Quảng Ninh thì chếch qua Hải Dương và Bắc Giang, lưng quay đông nam, mặt
nhìn ra biển Đông nên gọi là cung Đông Triều!
Từ trên xuống dưới ở mỗi ngọn
núi, người dân chỉ trồng một loại cây duy nhất: mãng cầu (na), lái xe cho biết
na (mãng cầu) ở đây đã thành thương hiệu nổi tiếng, nó giống như mãng cầu gai
trong Nam nhưng ngọt hơn, to hơn, hạt nhỏ, dày cùi và thơm ngát, có lẽ do được
trồng trên đá vôi, và mỗi năm chỉ cho trái một mùa. Vào mùa thu hoạch người dân
lên đỉnh núi hái quả bỏ vào sọt rồi cột sọt trái vào dây cáp cho chạy xuống đất.
Rừng mãng cầu và dây cáp thu
hoạch
Ải Chi Lăng đây rồi! Chiếc
xe dừng trước tường đá có khắc ba từ “Ải Chi Lăng”, trong tôi chợt nhớ đến bài
thơ chữ Hán của vị tể tướng nhà Trần vào thế kỷ 14 là Phạm Sư Mạnh đã cảm tác
khi dừng chân trước ải trên bước đường tuần thú xứ Lạng có tên là “Chi Lăng động”
được người xưa diễn nôm và dịch thơ như sau:
Thiên lý tuần biên ẩn cổ bề
Phiên thành man trái nhất ê
kê
Giản nam giản bắc hồng kỳ
chuyển
Quân hậu quân tiền thanh hủy
đề
Lâu lại cốc thâm ư tỉnh để
Chi Lăng quan hiểm dữ thiên
tề
Lâu phong bạt mã cao hồi thủ
Cấn khuyết thiều nghiêu vân
khí tê.
Dịch thơ: Nổi trống tuần
biên bước dặm ngàn,
Xem tày trùng nhỏ khóm Phiên, Man.
Quạt cờ đồng đội chê đầu núi,
Gầm thét ba quân kéo một đoàn.
Lâu Lại hang sâu
đò khó tới,
Chi Lăng cửa hiểm vượt khôn toan.
Ngựa dong trước gió nghiêng đầu ngắm,
Trong “Bình Ngô đại cáo” của
Nguyễn Trãi, Chi Lăng cũng được ông đề cập đến một cách kiêu hùng: “…Ngày
mười tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế. Ngày hai mươi, trận Mã Yên, Liễu
Thăng cụt đầu …” (Ngô Tất Tố dịch), rồi đến đại thi hào đất Việt – Nguyễn Du –
trên đường đi sứ sang nhà Thanh, khi qua Chi Lăng đã có bài “Quỷ Môn đạo
trung”, bài thơ vịnh về Quỷ Môn Quan, tuy chỉ là vịnh cảnh trên đường nhưng
cũng nhắc lại “hiểm địa” Chi Lăng đối với quân Tàu “… Chính khách nam quy
dục đoạn hồn…” (Lữ khách về Nam sợ mất hồn – Thảo Nguyên dịch) và từ những
năm 1940, nhạc sĩ Lưu Hữu Phước đã sáng tác những bài sử ca hào hùng như: Non
song gấm vóc, Bạch Đằng giang, Hội nghị Diên Hồng, Ải Chi Lăng … mà trong những
lần “hội diễn văn nghệ” của học sinh quê tôi thường biểu diễn, tôi chỉ còn nhớ
lõm bõm vài đoạn:
“Chi Lăng, Chi Lăng
Tiếng ai hò reo vang trời
Chi Lăng, Chi Lăng
Bóng ai tranh hùng muôn đời.
… Vì nước tuốt gươm đột xông
Làm cho rõ giống Tiên Rồng
Hồi nhớ tới vó câu khập khễnh
lướt qua làn khói giáp chiến.
Hồi nhớ tới bóng cờ xí phất
tung hùng vĩ quyết tiến!
Vì nước tuốt gươm xông pha.
Lòng trung, cứu dân lầm than
Đồng hát khúc anh hùng ca
Bền gan kết tâm cường tráng
Khuất Nam, bình Bắc, oai
hùng luôn tiến
Trống chiêng vang rền …”
Ải Chi Lăng là một ải hình bầu
dục, được hình thành từ một thung lũng hẹp ép giữa hai dãy núi có địa thế hiểm
trở, phía đông là núi đất Bảo Đài, Thái Hòa cùng những vạt đầm lầy, những ngọn
núi nhỏ tựa vào nhau thành hào, thành lũy và phía tây là núi Cai Kinh dựng đứng,
dài độ chừng 20 cây số chạy từ Quán Thanh huyện Chi Lăng đến huyện Hữu Lũng;
con sông Thương chạy ngoằn ngoèo dọc theo thung lũng này tạo nên một con suối
có tên rất thơ mộng “suối Hoa Đào”.
Nơi hai vòng cung núi phía
đông và phía tây kép lại xem như đóng khóa hai đầu của thung lũng là Ngõ Thề
phía nam và Ải Quỷ phía bắc. Gọi là Ngõ Thề vì theo truyền thuyết nơi đây diễn
ra lễ tuyên thệ thề giết giặc bảo vệ non song, cuối Ngõ Thề là núi giống cái
yên ngựa, gọi là núi Mã Yên; còn Ải Qủy là do nơi đây ngày xưa bọn giặc phương
Bắc tràn sang nước ta thường qua cửa này, và cửa này cũng đã gây nên bao nỗi
kinh hoàng cho bọn giặc xâm lược, trong sách của Lê Quí Đôn có ghi: thời nhà Tấn
(265 – 420) quân xâm lăng qua ải này bị giết nhiều đến nỗi đã để lại câu thơ đầy
hãi hùng “Quỷ Môn quan, Quỷ Môn quan, thập nhân khứ, nhất nhân hoàn” (Quỷ
Môn quan, Quỷ Môn quan, mười người đi, chỉ một người trở về)
Tại Ải Chi Lăng có thành Chi
Lăng do quân Minh đắp trong thời gian xâm lược Việt Nam, hiện tại chỉ là phế
tích với cái nền và ở phía nam thành còn phiến đá khắc mấy từ Hoàng tráng
nhị thập đội (nơi đồn trú của đội quân Hoàng tráng thứ 20) mà thôi!
Trong suốt quá trình xâm lược
của kẻ thù phương Bắc từ Tống, Nguyên đến Minh, Lạng Sơn nói chung, Ải Chi Lăng
nói riêng luôn là vị trí chiến lược và là hướng tấn công chính, bởi nếu chiếm
được có nghĩa là chiếm được cửa ngõ vào châu thổ sông Hồng khi theo đường cái
quan (quốc lộ 1) chỉ cách kinh đô Đại Việt (Thăng Long – Hà Nội) 150 km. Nhưng Ải
Chi Lăng với chiến lũy hình thang cùng các đầm lầy, sông suối, núi non hiểm trở
luôn là tường thành kiên cố của kinh đô xưa ngăn chặn bước viễn chinh xâm lược
của các triều đại phong kiến Trung Quốc. Như năm 981 Lê Hoàn đã giết chết bọn
tướng cầm đầu quân Tống sang xâm lược nước ta, năm 1077 Lý Thường Kiệt cùng phò
mã Thân Cảnh Phúc với chiến tuyến Quyết Lý và Giáp Khẩu dựng tại Chi Lăng đánh
tan quân Tống xâm lược lần thứ hai. Năm 1285 quân Nguyên Mông bị quân nhà Trần
dưới sự chỉ huy tài ba của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn đã đánh cho tan tác,
tướng giặc là Nghệ Nhuận bị giết tại chỗ. Năm 1427, Liễu Thăng chỉ huy gần 10 vạn
quân kéo sang dẹp khởi nghĩa Lam Sơn của Lê Lợi, bị phục kích tại núi Mã Yên,
Liễu Thăng bị chém chết, đoàn quân bị vây đánh, tiêu diệt và bắt sống gần như
toàn bộ ở Xương Giang.
Người lái xe say sưa giới
thiệu Ải Chi Lăng với tôi cùng những chiến tích chống xâm lược lẫy lừng của Chi
Lăng, Lạng Sơn chẳng khác một sử gia. Anh nói thêm, nếu muốn đi dọc theo Ải Chi
Lăng phải theo quốc lộ 1 cũ đến đèo Sài Hồ ranh giới giữa hai huyện Chi Lăng và
Cao Lộc, khá hiểm trở.
Quá tường đá “Ải Chi Lăng”
hướng về thành phố Lạng Sơn một chút (cũng thuộc xã Quán Thanh) là “Núi mặt quỷ” (hình
chụp bên dưới), trên vách núi có các hốc đá nhìn từ xa giống một đầu lâu, có
tóc (những dây leo màu xanh phủ trên), hai hốc mắt, mũi, miệng. Khu vực núi
hình mặt quỷ không một cây, cỏ nào mọc tạo nên nét màu đỏ. Người dân ở đây cho
biết núi này đã có từ lâu đời và không hiểu sao vùng mặt không cây, cỏ nào mọc
chứ chẳng phải do con người cắt tỉa vì không ai dám leo lên chỗ “mặt quỷ”, làm
như thế là không tôn trọng “đấng tạo hóa”, sẽ bị trừng phạt; chếch núi “mặt quỷ”
là ngọn “núi quỷ” (hình dưới) độc lập có hình dáng 3 người, người sau
tựa tay vào vai người trước. Mỗi khi gió thổi qua hai ngọn núi này tạo nên âm
thanh như tiếng ma kêu quỷ khóc, dân sống quanh đây đã quen nên không sợ hãi gì
mà họ bảo “mặt quỷ” tuy tượng trưng cho cái ác, nhưng “mặt quỷ” và “núi quỷ” thật
hiền hòa với dân làng.
Những sự kiện oai hùng của
thời xưa thật xưa qua lời kể của người lái xe cùng những hình ảnh núi đồi thực
tại như từng trang sử sống động, hào hùng của đất nước, của tiền nhân hiện ra trước
mắt tôi. Trải dài trên quê hương Việt Nam không chỉ có biển, núi, sông xinh đẹp,
hùng vĩ mà mỗi một địa danh cũng gắn liền với những trận thư hùng oanh liệt, từng
tất đất đã thấm đẫm biết bao máu, thịt của nhiều thế hệ con dân Việt Nam từ
ngày lập quốc đến nay! Hệ thống lại lịch sử Việt Nam từ buổi ban sơ, Việt Nam
và Trung Quốc chưa hề có mối bang giao hữu nghị thực sự mà chỉ có những cuộc
xâm lược mở rộng cương thổ của một nước lớn và sự chống trả, chiến đấu bảo vệ
quê hương của người bị xâm lăng.
– Chúng ta đến thành phố Lạng Sơn rồi! Giọng của người lái xe vang lên, đưa tôi
trở về thực tại, thoát ra niềm ưu tư bất chợt của mình. Cổng chào vào
thành phố Lạng Sơn hiện ra trước mắt tôi.
Vạt nắng chiều đang tắt dần
sau dãy núi đá vôi của cung Bắc Sơn. Chỉ mới hơn 5 giờ chiều, sau khi nhận
phòng ở khách sạn người bạn đặt sẵn, tắm rửa xong, trong lúc chờ anh bạn đến,
tôi thả bộ ra chợ Kỳ Lừa chỉ cách khách sạn mình ở độ vài chục bước chân.
Và đây, chợ Kỳ Lừa ngày trước,
nay là “Chợ đêm Kỳ Lừa”, chợ thuộc phường Hoàng Văn Thụ, mặt trước là đường Trần
Đăng Ninh, ngó qua hồ Phai Loạn.
Theo lời người bạn, chợ đã
có từ hơn trăm năm trước, là nơi mua bán các loại sản vật, hàng hóa phong phú,
đa dạng như các loại thổ cẩm, trang phục, các món ăm của dân trong vùng và các
địa phương khác đưa đến. Chợ được xếp vào một trong “trấn doanh bát cảnh” của Lạng
Sơn. Ngày trước chợ họp sáu phiên mỗi tháng vào các ngày mùng 2, 12, 22, mùng
7, 17 và 27 âm lịch; mỗi năm Hội chợ Kỳ Lừa kéo dài từ 22 đến 27 tháng giêng.
Trong mỗi phiên chợ diễn ra những hoạt động văn hóa dân gian của các dân tộc rất
sống động như hát sli, hát lượn; người đến chợ không chỉ để mua bán mà còn giao
lưu, hát giao duyên, kết bạn … Nay thì không còn những phiên chợ, sinh hoạt văn
hóa đó nữa mà trở thành chợ đêm, hoạt động mua bán thường xuyên và diễn ra từ 6
giờ sáng đến 11 giờ đêm để phục vụ khách du lịch, chủ yếu là các loại hàng hóa
của Trung Quốc, trước đây việc mua bán rất sầm uất, nhưng kể từ khi Trung Quốc
có những hoạt động quấy phá trên biển Đông, đặc biệt là những thông tin về hàng
Trung Quốc có chứa nhiều độc tố thì việc mua bán giảm sút hẳn, tôi tận mắt nhìn
thấy khá nhiều gian hàng che bạt phủ kín.
Người bạn giải thích cho tôi
nghe tại sao gọi là Kỳ Lừa: ngày xưa, khu vực này có một con lừa rất kỳ lạ.
Hàng ngày, khi được chủ thả đi ăn, nó tự bơi qua sông Kỳ Cùng và sang núi Kỳ Cấp
ăn cỏ non, đến tối lại tự bơi qua sông tìm về chuồng, người ta kháo nhau đó là
con lừa của Mạc Đĩnh Chi, rủ nhau đến xem con lừa rất đông và cái tên Kỳ Lừa
(con lừa kỳ lạ) ra đời từ đó. Còn ý kiến khác thì cho rằng xưa kia nơi này có
những đồi cỏ thấp dùng làm bãi chăn thả lừa, ngựa nên gọi là Khưu Lư và người
ta đã đọc chệch thành Kỳ Lừa. Cho đến nay vẫn chưa ngã ngũ về sự hai luồng ý kiến
này. Tuy là người sinh ra và lớn lên ở Xứ Lạng nhưng cũng không rõ lắm, tùy anh
tin ở ý tương truyền nào cũng được.
Lạng Sơn là một trong những
tỉnh Đông Bắc của Việt Nam được vua Minh Mạng thành lập năm 1831 cùng 12 tỉnh
khác của Bắc Kỳ, thành phố Lạng Sơn nằm giữa một lòng chảo lớn, cư dân thành phố
gồm có: Nùng, Tày, Kinh, Dao, Hoa, Sán Chay, H’Mông; trong đó người Nùng chiếm
tỷ lệ cao nhất, rồi đến người Tày, thứ ba là người Kinh. Từ xưa, Lạng Sơn là
trung tâm của vùng đất biên giới, nằm trên trục giao thông có từ rất lâu, nối
liền từ giữa kinh thành Thăng Long (Hà Nội) và biên ải, cũng là đường giao lưu
giữa các triều đại phong kiến của hai nước Việt Nam – Trung Hoa. Theo nhiều sử
liệu, thời nhà Hán, Đường (Trung Quốc) đô hộ nước ta, Lạng Sơn thuộc quận Giao
Chỉ, là một trong 9 quận của Việt Nam lúc bấy giờ. Đến triều đại nhà Lý (thế kỷ
11), Lạng Sơn được gọi là châu Lạng, do phò mã Thân Thừa Quý cai trị. Đời nhà
Trần (thế kỷ 13), Lạng Sơn được gọi là Lạng Châu lộ, năm Quang Thái thứ 10 đổi
thành trấn Lạng Sơn và đặt lỵ sở ở Mai Pha. Thời nhà Lê (thế kỷ 15), Lạng Sơn
được bố trí nhiều cơ quan gọi là vệ, cục, ty, củng cố quân sự để chống lại sự
xâm lược của nhà Minh. Đến triều Nguyễn, triều đình cử Ngô Thì Sỹ trấn thủ và
tu bổ lại Đoàn Thành Lạng Sơn được xây dựng từ thời nhà Trần. Năm 1925 của thế
kỷ 20, thị xã Lạng Sơn được thành lập và là tỉnh lỵ của tỉnh Lạng Sơn, chia làm
hai khu vực tự nhiên, lấy sống Kỳ Cùng làm ranh, phía bờ nam gọi là “bên tỉnh”
tập trung các cơ quan hành chính của bộ máy, phía bờ bắc gọi là “bên Kỳ Lừa” là
nơi phố chợ với các hoạt động sản xuất, buôn bán của người dân. Trong chiến
tranh biên giới với Trung Quốc năm 1979, quân Trung Quốc tràn xuống đến bên Kỳ
Lừa gây ra nhiều thiệt hại. (*)
Góc nhỏ thành phố Lạng Sơn với
hồ Phai Loạn trong buổi chiều tà.
Sông Kỳ Cùng chảy qua trung
tâm thành phố, sông thuộc lưu vực Tây Giang (Trung Quốc), sông này dài hơn
240 km, bắt nguồn từ vùng núi Bắc Xa (cao hơn 1.100m) thuộc huyện Đình Lập chảy
theo hướng đông nam – tây bắc về Quảng Tây – Trung Quốc. Cách thành phố Lạng
Sơn khoảng hơn 20 km, dòng chảy đổi chiều theo hướng nam – bắc tới thị trấn Văn
Lang rồi lại đổi hướng dòng chảy thành đông nam – tây bắc trước khi rẻ sang hướng
đông ở gần thị trấn Thất Khê, để rồi cũng tại thị trấn Thất Khê dòng chảy theo
đường vòng cung, đoạn đầu là hướng tây tây bắc – đông đông nam đến Bi Nhi; từ
đây vượt biên giới sang Trung Quốc và đổi hướng dần thành tây tây nam – đông
đông bắc nên người ta gọi là sông chảy ngược (**). Trên sông Kỳ Cùng có cầu
Kỳ Lừa.
Sông Kỳ Cùng và cầu Kỳ Lừa
Những đám mây màu trắng đục
là là thật thấp hòa cùng màn sương mù mỏng làm cho cảnh vật ở thành phố Lạng
Sơn còn đang chìm trong giấc ngủ trở nên huyền ảo, lung linh hơn, – có thể nào
trong cái lung linh, huyền ảo này, ta sẽ gặp những nàng sơn nữ của nhạc sĩ Trần
Hoàn! – tôi thầm nghĩ. Đường phố im vắng, yên tĩnh đến diệu kỳ. Ngày mới đã bắt
đầu, nhưng hình như tất cả vẫn còn đang ngủ nướng, lang thang trên những con phố
nhỏ của thành phố, thoảng qua những làn gió nhẹ làm cho mình tưởng như mùa thu
đang tới, tôi ngửi thấy mùi hương hoa hồi đằm thắm, mùi hoa ngọc lan tinh khiết,
mùi hoa sữa hăng nồng, hương núi rừng sâu thẳm đẩm ướt sương đêm. Tất cả, tất cả,
mùi núi rừng, mùi sương đêm, mùi hoa tạo nên nét đặc trưng riêng biệt khác với
mùi dẽo đặt bazan của Gia Lai, mùi nhựa thông của Lâm Đồng – Đà Lạt, mùi dã quỳ
của Đắk Lăk, mùi hoa ban của núi rừng Tây Bắc … và gợi nhớ trong tôi những
tháng ngày sống và làm việc ở một huyện nghèo của tỉnh Gia Lai – Kon Tum sau
1975; cũng những mùi hương không phố thị nào có được ấy, cũng những con người
sơn dã nơi ấy đã khiến tôi thấy gần gũi với thiên nhiên, với đất trời và cả với
những con người thường xuyên khét nắng. Cảm giác thanh bình tràn ngập trong
tôi. Khí hậu của vùng biên cương cận nhiệt đới ẩm buổi sáng tinh mơ sao mà tuyệt
diệu quá! Ở những con phố tôi đã đi qua như: Trần Đăng Ninh, Kỳ Lừa, Bắc Sơn,
Bà Triệu, v.v… chỉ độ dăm ba quán ăn nhỏ mở cửa chuẩn bị bán hàng làm xáo động
một không gian nhỏ nhoi; còn lại thật bình yên, không ồn ào, náo nhiệt, không kẹt
xe, tắc đường, không khói bụi mịt mù, không tiếng còi xe inh ỏi như Sài Gòn, Hà
Nội hay những thành phố khác mà tôi đã đi qua. Sau khi ăn sáng xong, người bạn
đưa tôi đến động Tam Thanh.
Nàng Tô Thị của Lạng Sơn là
một nhân vật trong truyện cổ tích Việt Nam có tên là Hòn vọng phu, nằm trong quần
thể di tích động Tam Thanh (chùa Tam Thanh, tường thành nhà Mạc, hòn vọng phu)
thuộc phường Tam Thanh, thành phố Lạng Sơn, trên đỉnh núi (gọi là núi Nhị
Thanh) có một khối đá tự nhiên hình một người phụ nữ cõng con hướng nhìn về
phương xa. Năm 1991, tượng bị hiện tượng phong hóa đặc trưng ở những miền núi
đá vôi do nước chảy xói mòn làm rơi xuống (khoa học địa lý gọi là hiện tượng
“karst” (tiếng Đức) và giải thích rằng sự xói mòn này không phải do lực cơ học
mà do dioxide carbon (CO2) trong không khí hòa tan vào nước cùng với các ion
dương của hydro (H+) tạo thành acid carbonic), người dân đã lấy đem nung vôi
(lúc ban đầu người ta nghi là bị phá hoại và đã bắt giữ 2 người dân). Sau này,
địa phương đã làm lại tượng bằng ciment đặt vào vị trí cũ.
Việt Nam có rất nhiều Hòn vọng
phu được trải dài từ Bắc đến Trung. Ở Lạng Sơn có nàng Tô Thị; Thanh Hóa có núi
vọng phu ở núi Nhồi xã Đông Hưng, huyện Đông Sơn; ở Nghệ An có hòn vọng phu ở
Quế Phong bên bờ Khe Giai cạnh giòng Nậm Giai; Quảng Trị có đá vọng phu ở huyện
Vũ Xương; Quảng Nam có đá Bà Rầu, Bình Định có núi vọng phu trên dãy núi Bà ở
Chánh Oai, xã Cát Hải, huyện Phù Cát; ở Phú Yên có núi Đá Bia (trên dãy núi đèo
Cả); Khánh Hòa có núi Mẫu Tử ở xã Ninh Tòng, huyện Ninh Hòa; ở Tây Ninh có núi
Bà Đen; còn ở Đăk Lăk có núi Mẹ bồng con trên đỉnh núi M’Drăk huyện M’Drăk.
Nhìn chung, có thể nói sự tích các nàng Tô Thị, Hòn vọng phu ở Việt Nam đều
có cốt truyện na ná nhau, đó là: người phụ nữ ôm (bồng hay cõng) con khắc khoải
chờ chồng đi chinh chiến, hoặc buôn bán ở phương xa hay đánh bắt tôm, cá ngoài
biển khơi nhiều năm dài đến độ hóa thành đá; mà người chồng đó là anh trai của
mình, ngày còn bé anh em chơi đùa cùng nhau, người anh lỡ tay làm em gái mình bị
thương tích trên đầu, sợ hãi bỏ đi, anh em lưu lạc và rồi tình cờ gặp nhau,
thương yêu nhau, thành vợ thành chồng. Trong một lần giúp vợ gội đầu hay bắt
chí phát hiện ra vết sẹo ngày xưa, hỏi ngọn ngành và biết đó là em gái mình, nhận
biết sự loạn hôn của mình và em gái, người chồng (anh) ân hận, đã lặng lẽ ra đi
biền biệc để vợ phải chờ mong trong nhiều năm tháng, hàng ngày bồng bế con lên
núi dõi mắt nhìn xa đợi chồng rồi hóa thành đá. Và một đặc điểm chung nữa là
các hòn vọng phu của Việt Nam là nhìn về hướng biển Đông hay nhìn về phương Bắc
xa xăm; theo tôi, đó là nơi người chồng (anh) ra đi tìm sự sống cho gia đình
(mua bán hay đánh bắt cá, tôm) hoặc tòng chinh chống quân xâm lược, bảo vệ biên
cương của Tổ quốc. Và, tuy sự tích của những “hòn vọng phu” ấy gần giống nhau,
nhưng là những hình tượng đẹp, ca ngợi sự thủy chung, nhân hậu và cũng rất nhân
văn của người phụ nữ Việt Nam; những “vọng phu” này đã đi vào thơ ca, âm nhạc bằng
những tuyệt tác vượt thời gian, không gian như: ba nhạc phẩm Hòn vọng phu 1, 2,
3 của Lê Thương; những bài thơ “Vọng phu thạch” trong tập “Thanh Hiên thi tập”
của Nguyễn Du (nói về nàng Tô Thị, Lạng Sơn), “Vọng phu thạch” của Phan Chu
Trinh viết năm 1905 về hòn vọng phu ở Bình Định, hay “Núi vọng phu” của Hồ Dzếnh
dưới đây:
Nghe nói ngày xưa biển ở đây
Biển đi để lại núi non này
Mưa nguồn chớp bể chia hai
ngả
Hòn vọng phu thương vọng hải
đài
Thuở nhỏ tôi thường hay hòi
mẹ
Vì sao đỉnh núi mọc hình người
Đợi chồng lâu quá nên thành
đá
Hòn vọng phu kia đứng với đời
Tôi lớn dần lên đá vẫn chờ
Khi xa heo hút giữa sương mờ
Khi gần sừng sững chiều biên
giới
Như bức phù điêu nét chửa
khô
Không chỉ quê tôi núi đợi chồng
Còn nhiều nới khác cảnh chờ
mong
Bắc Nam đâu cũng niềm son sắt
Tạc giữa trời cao dáng thủy
chung
Ôi nhớ rêu phong hồn cẩm thạch
Mối tình vời vợi giữa không
gian
Bốn nghìn năm ấy bao sương
gió
Mà vẫn đinh ninh thiếp đợi
chàng
Nhà thơ Chế Lan Viên cũng có
thơ về Vọng phu như sau:
Đầu nước đá ôm con, cuối nước
đá đợi chồng
Đâu chẳng song Thương đâu chẳng
Kỳ Cùng
Là tượng đá của những thời
binh lửa
Nàng Vọng phu đầu sông hơn
gì nàng Tô Thị cuối sông
Một mình với mây, một mình với
gió
Mùa đông một mình mùa xuân
hay hạ một mình …
Người ra đi chắc gì quay lại
nữa,
Trên đầu non lòng đá vẫn
kiên trinh.
Chỉ có cánh chim khuya bay
qua vai đá của nàng
Hàng vạn vành trăng hết tròn
lại khuyết
Sóng gợi nhớ sóng xui quên nối
tiếp
Mỗi một phút đợi chờ sâu một
bể thời gian
Không hóa thạch kẻ ra đi,
hóa thạch kẻ đợi chờ
Xói mòn những non cao, không
xói mòn lòng chung thủy
Đá đứng đấy giữa mưa nguồn
và chớp bể
Đợi một bóng hình trở lại giữa
đơn cô.
(Chế Lan Viên toàn tập, Nxb
Văn học, 2002)
Hay những câu thơ mượt mà, đầy
hoài niệm của Du Tử Lê trong bài “Em về thăm thẳm núi non”:
Em về trong bão giông tôi
Que diêm Đông Hải, dáng ngồi
vọng phu
Lệ còn trên gối, tôi thu
Bàn tay ngón út giam tù
tháng năm
Hoặc là “giọt lệ còn rưng
rưng …” huyền ảo, hư vô chứ không chỉ đơn thuần là hình ảnh người thiếu phụ hóa
đá, thành hình tượng vô giác, vô tri trong “Sự tích hoa đá” của Lâm Thị Mỹ Dạ:
Ta thành hoa vọng phu
Để tang chàng hiệp sĩ
Thắm đỏ mà cho ai
Thôi đành thôi, tái nhợt…
Người gọi ta hóa đá
Lòng ta đâu lạnh lùng
Hãy ngắm nhìn cho kỹ
Giọt lệ còn rưng rưng …
v.v… và v.v…
Và, gần đây nhất có trường
thi “Hòn vọng phu” của Vũ Thanh (Võ Thanh Quang), bạn cùng trường, cùng khóa với
2466 câu thơ lục bát đã nhân hóa truyền thuyết hòn vọng phu của Bình Định:
… Đêm nay trời đổ cơn mưa
Mưa như suối lệ tiễn đưa
linh hồn
Ngàn khơi con sóng nộ cuồng
Như hờn, như oán, như thương
tiếc người
Chớp giăng, sấm động núi đồi
Đứa con thơ đã chết rồi trên
tay
Bao nhiêu kỳ vọng bấy nay
Bao nhiêu thương nhớ đắng
cay tủi hờn
Hòa vào giá lạnh xác con
Thành niềm tuyệt hận ứ dồn về
tim
Nàng gào to giữa đêm đen
Cả nguồn tinh lực thoát trên
đỉnh đầu
Như hào quang tỏa muôn màu
Đất trời giao hội bắt cầu vồng
lên
Xác thân hóa thạch muôn niên
đứng chờ …
Thành nhà Mạc là một phần
trong quần thể di tích ở phường Tam Thanh, gần với tượng nàng Tô Thị, dấu tích
còn lại là hai đoạn trường thành bằng đá trong hẻm núi, khoảng hơn trăm bậc cấp,
khá rộng cho người đi, đứng trên đỉnh trường thành có thể nhìn bao quát cả vùng
Lạng Sơn, núi non trùng điệp, mây bay lãng đãng trên nền trời xanh. Đẹp, bình
yên và tâm hồn trở nên thư thái hơn. Đây là dãy trường thành quân sự nối từ Ải
bắc xuống phía nam do Mạc Kính Cung xây dựng vào thế kỷ XVI làm căn cứ chống lại
Lê – Trịnh và cũng là nơi để quan sát, phòng ngự và chống lại quân xâm lược
Trung Hoa.
Chùa Tam Thanh nằm trong động
núi đá nên cón có tên gọi khác là Động Tam Thanh, được xây dựng từ thời nhà Lê,
chùa được xây trên một khu đất ở phía bên kia đường gần phía trước của động.
Người dân ở đây cho biết; thời Pháp thuộc, gần sát chân núi phía đông có một hồ
bơi lớn do người Pháp xây bằng gạch men đem từ “mẫu quốc” qua, dành cho các
quan chức Pháp và những người Việt có thế lực làm nơi giải trí. Nước của hồ là
nguồn nước từ sườn núi chảy thằng vào nên hồ bơi lúc nào nước cũng trong xanh,
mát rượi.
Trái núi ở phía Nam là Tam
Thanh, có một hang rất rộng và sâu, cửa hang mở rộng ngay tại chân núi, trông
như miệng con cá voi khổng lồ đang há ra. Hang này mới chính là Động Tam Thanh,
vì đứng trước cửa hang hô một tiếng to và dài, ta sẽ nghe được tiếng đó vọng lại
3 lần tiếp theo nhau. Động Tam Thanh nằm trong dãy núi có hình đàn voi phủ phục
trên mặt cỏ. Đi sâu vào trong hang, ta có thể xem các thạch nhũ từ nóc hang
thòng xuống, có nhiều cột dài đến mặt nền hang, trông như cột chống đỡ, phản
chiếu ánh ngũ sắc long lanh như kim cương rất đẹp. Trong lòng núi này có con suối
ngầm chảy ra cửa hang và đổ vào sông Kỳ Cùng. Người ta có thể đốt đuốc men dọc
theo dòng suối trong lòng núi, suốt từ cửa hang bên này sang tận sườn núi bên
kia để qua núi Nhị Thanh (nơi có nàng Tô Thị). Có đoạn đi lài lài sâu xuống
lòng đất, gọi là lối xuống Âm phủ. Đoạn sau cùng dẫn ngược lên cao ra triền
núi, gọi là thang lên Trời.
Khoảng khu trung tâm của động,
có hồ Âm Ty nước không bao giờ cạn. Hồ chỉ rộng độ mấy năm ba chục mét vuông
nhưng cảnh quan tuyệt đẹp, có nguồn nước chảy suốt ngày đêm và ngày nay nhờ kỹ
thuật chiếu sáng hiện đại làm cho màu sắc của hang động thêm lung linh, huyền ảo.***
Trong chùa Tam Thanh có một
tượng phật A Di Đà được tạc nổi vào vách đá từ thế kỷ 15, tư thế tượng đứng
trong hình chiếc lá bồ đề mặc áo cà sa buông xuống tận gót, hai tay chỉ xuống đất.
Hàng năm chùa tổ chức lễ hội vào ngày rằm tháng giêng, thời điểm tôi đến đây
không phải là mùa lễ hội và chỉ mới hơn 8 giờ sáng nên cảnh chùa còn vắng vẻ.
Ngoài phong cảnh tuyệt vời,
chùa Tam Thanh còn lưu giữ được những văn bia của các văn nhân đất Việt thuộc
loại quí hiếm như: bia Ma Nhai là tấm bia cổ nhất (tạc vào năm 1677, triều nhà
Lê) ghi lại một cách chi tiết quá trình xây dựng, tôn tạo chùa; bia khắc bài
thơ vịnh cảnh sơn thủy hữu tình của động Tam Thanh của Ngô Thì Sĩ (khắc vào năm
1777); bia tạc bài thơ “Vọng phu thạch” được Nguyễn Du cảm tác vào năm 1803 khi
ông được cử đi đón sứ nhà Thanh sang sắc phong cho vua Gia Long, bài thơ như
sau:
Thạch da? Nhân da? Bỉ hà
nhân?
Độc lập sơn đầu thiên bách
xuân
Vạn kiếp diểu vô vân vũ mộng
Nhất trinh lưu đắc cổ kim
thân
Lệ ngân bất tuyệt tam thu vũ
Đài triện trường minh nhất
đoạn văn
Tứ vọng liên sơn diếu vô tế
Độc giao nhi nữ thiện di
luân
Bài thơ được Nguyễn Thạch
Giang dịch thành:
ĐÁ VỌNG PHU
Là người? Là đá? Hỏi là ai?
Đầu núi bao năm đứng giữa trời.
Bặt mộng mây mưa trong một
kiếp,
Giữ lòng tring bạch trọn
muôn đời.
Lớp rêu đoạn sách còn ghi
mãi,
Dòng lệ mưa thu cứ chảy
hoài.
Bốn phía mênh mông nhìn dãy
núi,
Luân thường riêng để má hồng
soi!
Còn đây, phải chăng là “trụ
đồng” của Mã Viện trong huyền thoại “Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt” (trụ đồng
ngã, đất Giao Chỉ không còn) khi Mã Viện là một viên tướng được nhà Đông
Hán cử sang cai trị nước ta? Không phải, đây chỉ là một trong hai trụ đèn dựng
bên quốc lộ 1A thuộc địa phận cuối Lạng Sơn, đầu Bắc Giang, thấy ngồ ngộ nên
tôi chụp hình cho vui.
Hai mươi tám tiếng đồng hồ để
đến và đi khỏi Lạng Sơn, quỹ thời gian quá ngắn ngủi để có thể tìm đến những
chùa Tiên, giếng Tiên, ải Nam Quan, hang Gió, Mẫu Sơn v.v… nên chỉ ghi lại những
cảm nhận của mình về những nơi mình đã đến, chiêm ngưỡng và tình cảm mộc mạc,
chân tình của cư dân xứ Lạng và tự hẹn sẽ đến với chùa Tiên, giếng Tiên, Nam
Quan … vào dịp khác.
Vậy là tôi đã chính thức từ
giã Lạng Sơn khi bóng mặt trời đang dần khuất trên nền trời Bắc Ninh.
Chú thích:
*: Tóm lược
theo “Cổng thông tin điện tử tỉnh Lạng Sơn (www.langson.gov.vn)
**: Tóm lược theo “Cổng
thông tin điện tử tỉnh Lạng Sơn (www.langson.gov.vn)
***: Theo lời kể của người bản
xứ và tham khảo các tài liệu khác trên mạng internet.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét