Đinh Cường, nghệ thuật là cứu rỗi,
Nhắc đến hoạ sĩ Ðinh Cường,
khách thưởng ngoạn nghệ thuật ở miền Nam Việt Nam trong thập niên sáu mươi, bảy
mươi, hầu như ai cũng biết đến ông. Phải nói khi ấy là thời hưng thịnh của
ngành mỹ thuật Việt Nam. Ðó cũng là thời kỳ rực rỡ cùng sự xuất hiện của Hội Hoạ
Sĩ Trẻ Việt Nam (1966) với một lực lượng hùng hậu những cây cọ mang đầy nhiệt
huyết trong việc khai phá và nỗ lực đi tìm cái mới. Họ chủ trương tạo ra những
cơ hội gặp gỡ nhau để trao đổi những kinh nghiệm hầu hình thành những đường lối
sáng tạo độc đáo trong bầu không khí sinh hoạt hội hoạ trong sạch và cởi mở.
Có thể nói lòng hăng hái
phát triển nghệ thuật khơi dậy sự thử thách nơi các hoạ sĩ trẻ thúc đẩy họ đi
vào những cuộc thử nghiệm các trường phái nghệ thuật khác nhau từ lập thể, dã
thú, biểu hiện, đến siêu thực, trừu tượng, vô hình dung, tân hiện thực... Họ là
những Trịnh Cung, Đinh Cường, Nguyên Khai, Nguyễn Trung, Hồ Thành Đức, Ðỗ Quang
Em, Nghiêu Ðề, Lê Tài Điển, Cù Nguyễn, Nguyễn Phước, Hồ Hữu Thủ, Mai Chửng,
Dương Văn Hùng, Nguyễn Lâm, Nguyễn Đồng, Hoàng Ngọc Biên, Ngy Cao Uyên, Rừng...
Ðinh Cường đảm nhiệm chức vụ
Ủy Viên Kiểm Soát trong Hội Đồng Quản Trị HHSTVN. Từ đó ông đã bước vào thế giới
tạo hình với một vũ trụ và tấm lòng đầy thơ. Ông đã không ngừng tìm kiếm, say
sưa sáng tạo và thử nghiệm nhiều thể loại, trường phái, và hoạt động cho đến
phút cuối đời. Với một lượng tranh đồ sộ tới cả ngàn bức tranh, những bài viết
về hội hoạ, những bài thơ về kỷ niệm cùng bạn hữu mà ông chia sẻ trong thi ca,
Ðinh Cường đã để lại cho người yêu mến ông vô số những tài sản tinh thần sâu sắc,
đẹp đẽ và đầy ý nghĩa.
Hoạ sĩ Ðinh Cường tên thật
là Đinh Văn Cường, sinh năm 1939, tại Thủ Dầu Một, Bình Dương. Mất ngày 7 tháng
1 năm 2016 tại Hoa Kỳ. Ông tốt nghiệp Trường Cao đẳng Mỹ thuật Huế năm 1963, đến
năm 1964 thì tốt nghiệp giáo khoa hội hoạ Trường Cao đẳng Mỹ thuật Gia Ðịnh.
Ông từng sống tại Huế, Ðà Lạt và Sài gòn trước khi định cư tại Hoa Kỳ. Tranh
ông được triển lãm trên nhiều thành phố tại quốc nội và nhiều quốc gia khác.
Thơ và bài viết của ông về hội hoạ đăng trên các tạp chí Văn Học Nghệ Thuật:
Hợp Lưu, Văn, Văn Học, Thế Kỷ 21, Da Màu, Tiền Vệ...
Là một người tài hoa, với một
bản năng sáng tạo mạnh mẽ, hoạ sĩ Ðinh Cường xuất sắc không những trong thế giới
tạo hình mà cả trong phê bình nghệ thuật. Trong lãnh vực thi ca, thơ ông cũng rất
sâu sắc và đầy thi vị.
Ông quen biết rộng và có nhiều
bạn. Trịnh Công Sơn, người bạn thiết của ông, đã hiểu ông tường tận và đã từng
nhận xét về ông như sau "Rong chơi là một thứ kinh vương giả trong
tâm hồn Ðinh Cường. Cứ lên đường, dù cao nguyên dù biển, là đã nghe thấy trong
Cường vang lên một tiếng reo vui mãn nguyện. Ði không chỉ là sứ mệnh của đôi
chân, mà đi, với Cường, là lòng ngưỡng vọng linh thiêng về một tiếng gọi." Trịnh
Công Sơn gọi ông là một lãng tử đam mê kỷ niệm.
Những vật thể phụ trong
tranh ông thường là chim và ngựa, tượng trưng cho thể động, tượng trưng cho niềm
khát khao được đi và đến. Ông yêu mến những nơi đã sống, lưu luyến nhiều chốn
đi qua, gìn giữ, ấp ôm kỷ niệm đẹp nào lưu lại, và thương quý, chung thuỷ với
tình thân bạn hữu. Đà Lạt, Huế, Paris bàng bạc những lưu dấu thơ mộng và đẹp đẽ
cũng như niềm vui, nỗi nhớ, phút thảm sầu, đều được ông sắp đặt, thể hiện lên
tranh. Phần lớn những chủ đề trong tranh ông xoay quanh âm nhạc, cảnh thiên
nhiên, đá, hoa, chim, ngựa, cũng như người, bạn bè, nhất là thiếu nữ. Tranh thiếu
nữ của ông thường có thêm hoa, chim, ngựa và khăn choàng. Những nơi ông sống và
đi qua thường lạnh nên thiếu nữ trong tranh ông có thêm khăn quàng hay đội khăn
giống thiếu nữ trong tranh Thái Tuấn.
Dạ Khúc chim
5/2006 (Bird’s evening song) Oil on canvas, 30"x40"
Bức tranh đánh mạnh vào cảm
xúc người xem qua bố cục xanh của đêm. Đêm cùng trăng tấu lên một hợp âm xanh
nhạt và thẫm với những cánh chim vần vũ một tiết điệu xanh buồn thảm. Vị trí
khác nhau của cánh chim mang màu sặc sỡ đậu trên cành, khiến tôi liên tưởng tới
những nốt nhạc trầm, bổng, cao, thấp của một tấu khúc đêm. Chim trong tranh rất
nhiều khiến tôi nhớ đến hai bức tranh "Nhiều mây chim bay không nổi" và "Người và chim" mà ông vẽ để tưởng nhớ Phạm Công Thiện. Có lẽ
những câu thơ trong bài "Ngày sanh của rắn" của Phạm Công Thiện đã ám
ảnh ông khôn nguôi, tôi đi đông chìm / trời âm u thung lũng khô / nhiều
mây chim bay không nổi. Người thiếu nữ gầy guộc, cầm hoa, trong áo dài và khăn
choàng đầu. Cô có khuôn mặt, sống mũi và thân hình đều dài của một hoạ sĩ Đinh
Cường chịu ảnh hưởng Modigliani như nhiều hoạ sĩ Việt Nam vào thập niên 60 -
70. Theo tôi, "Dạ khúc chim" không những đẹp mà còn sống động
phát nên những âm thanh kỳ ảo của một bài ca đêm.
Nói đến phần tranh chân
dung, xem hơn trăm bức chân dung ông vẽ cho những văn nghệ sĩ ông quen biết,
tôi càng hiểu thêm sợi giây tình bạn kết giao của ông dài đến mực nào. Có lẽ
Đinh Cường là một hoạ sĩ Việt Nam vẽ chân dung cho bạn bè nhiều nhất. Bùi Giáng
và Trịnh Công Sơn là người có nhiều tranh chân dung hơn cả. Tình bạn chiếm một
ngăn lớn trong trái tim và đời sống tinh thần của ông.
Chân dung Bùi Giáng và dê
Nỗi nhớ và thương Bùi Giáng
đã khiến ông vẽ nhiều chân dung nhà thơ qua các thời kỳ khác nhau. Bức vẽ theo
thể minh hoạ (illustration) này có lẽ không đẹp và thơ mộng bằng bức "Bùi Giáng và Dê tím
hoa cà", nhưng tôi nhắc nhở đến, vì nó thể hiện một loại tranh khác mà
Đinh Cường đã vẽ và có theo đuổi. Tôi rất thích tranh ông vẽ theo thể loại này,
với vài nét chấm phá đơn sơ nhưng vẫn hay, vì người hoạ sĩ nắm bắt được đặc điểm
và chiều sâu của điều hay vật thể mà họ muốn miêu tả.
Chỉ vài nét phác miêu tả, ai
cũng nhận ra được thi sĩ họ Bùi trong bức tranh này. Khuôn mặt Bùi Giáng bên
trên, nàng dê núi trắng đeo vòng hồng ngự trị bên dưới tạo cho chàng thi sĩ một
nét đẹp vừa hoang dại, vừa ngộ nghĩnh của các vị thần đầu người, mình thú trong
huyền thoại cổ Hy Lạp. Cái khéo tài tình của Đinh Cường khi vẽ chân dung bè bạn
là ông không chỉ lột được cái thần trên khuôn mặt, mà ông còn lột được khí chất
cũng như nét đặc thù sinh hoạt của họ trong cuộc sống thường nhật. Khoảng trống
hẹp màu hồng phớt phía trái bức tranh tiết lộ thêm đây là em dê trắng, vòng hồng
trong thơ, ... Này em Đen chiếc vòng vàng tươi lắm / Này em Vàng chiếc trắng
há mờ đâu / Này em Trắng chiếc hồng càng lóng lánh / Này đây em Hoa Cà hỡi! chiếc
nâu... ("Nỗi lòng Tô Vũ", thơ Bùi Giáng)
Ngoài việc vẽ chân dung cho
bạn bè, Đinh Cường cũng đã vẽ vài bức chân dung tự hoạ cho mình. Mỗi bức ông vẽ
theo một kiểu khác nhau theo từng thời kỳ và biến động của cuộc sống ông. Tôi
chọn ra bức dư ới đây vì, theo tôi, không những nó nổi bật mà nó còn thể hiện
được cá tính đặc thù của ông cũng như màu sắc và lối vẽ ông theo đuổi trong thời
gian đó (2009).
Chân dung tự hoạ
(Auto Potrait) Đinh Cường, 5/2009
Xem tranh Ðinh Cường mà bỏ
quên loạt tranh tôn giáo của ông, tôi nghĩ là một thiếu sót lớn. Ông có trên 20
bức tranh tôn giáo, phần lớn nói về Đạo Phật.
Ông từng tâm sự:
"Nghệ thuật là đời sống
riêng biệt, hiếm hoi. Tôi đã vẽ trong mọi hoàn cảnh, nơi chốn. Không biết để
làm gì? Có lúc gần như tuyệt vọng, đôi khi thấy mình được cứu rỗi. Và tôi lại
tiếp tục vẽ, tiếp tục suy nghiệm ... Xin đừng bắt tôi giải nghĩa tranh. Nó hiện
ra đó và tôi đã hụt hơi, mệt mỏi. Thế giới xa lạ được dựng lên từ một hồi ức
hay một bắt gặp vụt đến, rồi loang dần trên mỗi khoảng không đen... Xin hãy cảm,
nhớ đừng bao giờ tìm hiểu."
Tôi đồng ý với tác giả về những
lời ông bày tỏ. Tôi xem tranh ông với cảm nhận và nhận định của riêng tôi.
Khách thưởng ngoạn cũng vậy, họ nhìn tranh và thấy được gì, có nghệ thuật hay
không, xấu hay đẹp, kỳ quặc hoặc tuyệt vời, là tuỳ thuộc ở mắt kẻ nhìn. "Art,
like beauty, is in the eye of beholder". Nhất là tranh tôn giáo, sự
thụ nhận và cảm nhận về tôn giáo mỗi người mỗi khác nên sự chọn lựa của tôi để
giới thiệu với độc giả chỉ là một cảm nhận riêng tư.
Bức Niệm (2) này
gây ấn tượng mạnh mẽ cho tôi.
Sau đây là những gì tôi cảm nhận.
Niệm Phật là một phép tu
trong Phật giáo, thuộc về Tịnh Ðộ Tông. Phép Niệm Phật này cũng tương tự như
Phép Toạ Thiền, Niệm Hơi Thở trong phái Thiền Tông. Khi toạ thiền, "thiền
giả phải thoát ra sự vướng mắc của tư tưởng, ảnh tượng, khái niệm, vì mục đích
của toạ thiền là tiến đến một tình trạng vô niệm, tỉnh giác, không dung chứa một
nội dung nào. Sau một giai đoạn kiên trì trong vô niệm, hành giả sẽ bỗng nhiên
trực ngộ thể tính của mình, đó là tính Không, cái "thể" của vạn vật." (theo Wikipedia).
Trung tâm bức hoạ là hai
nhân vật nam và nữ, chắp tay, quay mặt đi, mỗi người một phía. Chung quanh họ
là những sắc màu tượng trưng cho đất, nước, gió, lửa. Ðinh Cường rất khéo léo và
có chủ ý trong việc dùng màu. Những màu lạnh, xanh, nhu hoà, tượng trưng cho
tính âm, ông dành cho người nữ. Những màu nóng, đỏ, cam, vàng, tính dương, người
nam có nhiều. Con người của thất tình, lục dục có đủ, ông gom lại trong các sắc
màu. Sau khi toạ thiền tìm được thân an, tâm không loạn và chánh niệm, thì
trong phút an bình ấy cả hai nhân vật nam và nữ nhập làm một. Không có ngã,
không có giới tính, không tạp niệm, và chính giữa tranh là một đoá sen trắng
thơm ngát hương tinh khiết.
Sau cùng tôi xin chia sẻ
cùng bạn đọc một loại tranh trừu tượng mà Đinh Cường đặc biệt ưa thích vì ông vẽ
rất nhiều. Một số lớn các cựu hoạ sĩ thành danh Việt Nam như Nguyên Khai, Trịnh
Cung, Cao Bá Minh, cũng đi vào thử nghiệm thể loại tranh này.
Bức "Trăng và Đá Ðen"là một trong những sáng tác
mới nhất tháng
9, năm 2015 trước lúc ông mất,
nay thuộc bộ sưu tập của Dr. Ha Phan Ho.
Bức tranh hình chữ nhật với
nền màu đỏ nóng chủ đạo đã khiến hai vật thể "Mảnh trăng" màu trắng
và "Đá đen" nổi bật, đối xứng qua một lằn ranh mỏng mảnh màu đen, tựa
như hai phía của cuộc đời, con người và thiên nhiên, tĩnh và động. Không cần biết
ông vẽ gì. Chúng ta chỉ cần tưởng tượng ra một hoạ sĩ Ðinh Cường đang lang
thang giữa bờ biển của Great Salt Lake ở Utah là nơi ông tạo tác bức tranh này.
Cát nơi đây trắng trong như thuỷ tinh và bên trên là mảnh trăng treo lơ lửng phản
ảnh màu trắng của cát, của Mẹ Đất. Tình cờ ông nhặt được một hòn đá đen còn lấm
tấm bụi cát trắng và mang nó về nhà làm vật lưu niệm. Người ở tuổi già thích hồi
tưởng và, qua đó, tất cả ký ức đời ông sống lại. Những thăng trầm của cuộc sống,
được mất, đua chen, tất bật trong cuộc đời đã trôi qua, chỉ còn lại hòn đá đen
trơ gan cùng tuế nguyệt. Hòn đá lấm bụi cát đời ông giờ cũng nằm xuống bình
yên, thôi lao xao, bất động.
Tôi xin thắp một nén hương,
cầu nguyện cho hương hồn ông được an lạc ở cõi bình yên đời đời.
Trịnh Thanh Thủy
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét