''Quê hương tôi có con sông xanh biếc/Nước
gương trong soi tóc những hàng tre/Tâm hồn tôi là một buổi trưa hè/Tỏa nắng xuống
dòng sông lấp loáng/Chẳng biết nước có giữ ngày, giữ tháng/Giữ bao nhiêu kỷ niệm
giữa dòng trôi…’', những câu thơ đầy gan ruột với những kỷ niệm đẹp bên dòng
sông đã trở thành dòng cảm xúc xanh xuyên suốt bao thế hệ. Cảm ơn nhà thơ Tế
Hanh đã nói hộ tất cả những người sinh ra bên bến nước sông quê. Vâng, tôi cũng
thế. Quê tôi có dòng sông Ngàn Phố đẹp đến nao lòng...
Bên bờ Ngàn Phố. Ảnh: Đậu Bình
Sông Ngàn Phố nước biếc xanh muôn đời hiện
lên bóng cây, bóng lá, bóng những con người Hương Sơn biết khai thiên lập địa,
biết chinh phục thiên nhiên và gìn giữ con sông như gìn giữ một tình yêu vĩnh hằng,
luôn luôn khát vọng và tỏa sáng.
Cây có cành bầy chim làm tổ, sông có nguồn từ
nước chảy ra. Hiển hiện một dòng sông chở đầy ắp thơ và nhạc ấy bắt nguồn từ điệp
trùng dãy Trường Sơn bên kia biên giới Việt - Lào. Nguồn nước xanh phảng phất
mùi hương của những đóa chăm-pa, phảng phất hương ngô, hương lúa trên bạt ngàn
nương rẫy và kiều diễm như điệu lăm-vông hội về với Nước Sốt, Rào Mắc, Rào Bống,
Rào Qua... Sông Ngàn Phố đi qua bao núi, bao khe để trở về hợp lưu ngã ba Tam
Soa nơi con sông La dạt dào nắng gió.
Sông như mẹ suốt cuộc đời chắt chiu, nhẫn nại,
hy sinh thầm lặng. Sông như cha thông minh, can đảm, giàu nghị lực trước dâu bể
cuộc đời. Sông Ngàn Phố là biểu tượng của linh hồn người Hương Sơn. Gọi một
ngàn lần sông thương, gọi một ngàn lần sông nhớ. Sông Ngàn Phố không bao giờ cạn,
tình người Hương Sơn không bao giờ vơi. Sông Ngàn Phố không bao giờ nghẽn mạch
thì hành trình của người Hương Sơn luôn luôn về đích. Sông Ngàn Phố từ thăm thẳm
ngàn xưa cho tới hôm nay là nhân chứng trung thành của lịch sử. Không ai hiểu
niềm vui của quê nhà bằng chính dòng sông, không ai hiểu nỗi buồn của quê nhà bằng
chính dòng sông. Sông hóa thành mực để ghi vào cây, vào cỏ những kỳ tích của từng
thời đại.
Từ trong sâu thẳm của thời gian, những người
chung sống với nhau thuở chân đất, nón lá đã tạo nên tên làng, tên xã và sinh
thành nên huyện Hương Sơn bắt đầu từ năm Kỷ Sửu đời Lê Thánh Tông năm 1469. Đến
thời Lý Trần, đất Hương Sơn vẫn bốn bề núi dựng, rừng vẫn thâm u, buồn vắng
trong tiếng hổ gầm, vượn kêu. Lúc bấy giờ, miền hạ lưu sông Ngàn Phố lác đác có
một số cư dân ở dưới thuyền, trên bộ, hình thành hương Đỗ Gia. Họ làm nghề sơn
tràng, săn bắn, khai khẩn đất hoang gọi là dân trại. Hầu hết cuộc sống vô định,
may rủi nhờ trời, hầu hết sống theo bản năng. Những người lầm lũi đánh cá, bắt ốc,
cào hến… trên sông gọi là dân làng vạn.
Câu ca dao cũ ướt đầm nước mắt cứ theo cuộc sống
luân hồi của họ: Thứ nhất là vạn Đỗ Gia/ Thứ hai vạn Phố, thứ ba vạn Nầm. Dân
trại suốt ngày bám rừng, dân Làng Vạn cứ theo đường sông chèo thuyền thả lưới
lên tận cùng sơn cước. Nghề tung lưới thả chài, câu cá để đong gạo qua ngày khiến
bao người dân làng vạn nhìn thấy nước sông xanh, nhưng không thấy ánh hồng của
mặt trời rọi xuống tâm hồn mình. Họ tủi nhục khi mình không biết chữ, lúc trái
gió, trở trời không bàn tay “từ mẫu” chăm sóc. Thân phận của người dân Làng Vạn
đã khiến gió động lòng thở than, khiến sông nhiều lúc thắt lại những cơn Sóng gợn
tràng giang buồn điệp điệp.
Gạt lên tất cả nỗi buồn là hy vọng, còn dòng
sông, còn niềm vui bất tận! Mỗi bước đi của dòng sông đều lung linh tên làng,
tên xã, từ Sơn Kim, Sơn Tây thượng nguồn đến Sơn Tân, Sơn Long hạ nguồn. Với
chiều dài 69 km, sông Ngàn Phố đã gắn bó keo sơn cùng quốc lộ 8 - huyết mạch
giao thông quan trọng của Tổ quốc. Không hiểu núi và sông có nặng nợ gì không
mà sông luôn in hình bóng núi. Không hiểu cây có tận hưởng được sức sống của
sông mà sum suê trổ đầy lộc biếc, hoa thơm.
Từ thuở hồng hoang sinh ra con sông Ngàn Phố
đã thấy con hươu sao từ trong ngọn núi bước ra. Hươu sao uống nước sông Ngàn Phố
như uống giọt nước tiên của thần để đôi chân chạy rướn lên như gió, mắt đen ngơ
ngác nhìn ánh chiều tà. Dòng nước ấy như dòng sữa tăng nguồn sinh lực mãnh liệt
cho hươu sao đội trên đầu mình cặp nhung nõn nà. Rồi người thợ săn đưa hươu sao
về thuần hóa. Làng anh ở bên bờ sông Ngàn Phố, anh mặc sức trồng ngô, trồng
lúa, thả bầu, thả bí. Bao nhiêu nguồn thức ăn được tạo thành từ phù sa màu mỡ
và giọt mồ hôi cật lực anh dành tất cả để nuôi hươu. Nghề nuôi hươu bắt đầu từ
đấy. Xứ sở nuôi hươu được hình thành từ đấy. Nhắc đến dòng sông Ngàn Phố, người
lữ khách qua sông lại bồi hồi, xao xuyến:
Nhớ chiều sông lặng trăng lên
Đâu chỉ có người lữ khách nhớ, nỗi nhớ trở
thành sợi dây vô hình xâu chuỗi tất cả những người con xa xứ khao khát được một
lần về để úp mặt vào sông quê, để sông mở nước ôm tôi vào dạ. Để nhìn thấy mùa
xuân trên bến nước sông quê, vườn nhà ai đơm nồng hoa bưởi trắng. Trong mơ màng
gió xuân, hoa bưởi khe khẽ rơi trên bờ vai em mười bảy tuổi. Tóc em xanh như nước
sông Ngàn Phố, đôi mắt biếc của em như nước sông Ngàn Phố đã bùng cháy con tim
bao kỷ niệm ngọt ngào. Để nhìn thấy mùa hạ thấp thoáng bờ sông cháy rực màu hoa
phượng đỏ, tiếng ve sôi réo rắt như lay động cả vòm trời. Khi nắng chiều bắt đầu
dịu, bến sông quê nao nức tiếng cười của trẻ tung tăng bơi lội... Bóng những
đàn trâu, đàn bò ngâm mình trong sóng nước, nhú đôi sừng nhìn lên vời vợi trời
xanh.
Để nhìn thấy mùa thu trong lảng bảng màn
sương cả đất trời Hương Sơn như thu mình vào sông một màu xanh: bờ tre xanh,
soi bãi xanh, mây trời xanh, đồi núi xanh… Màu xanh đan quyện vào nhau sung mãn
và bất diệt. Đâu rồi những nương dâu bạt ngàn ở Sơn Mỹ, đâu rồi những đồng cải
la đà lích rích tiếng chim sâu trong trẻo ban mai ở Sơn Tân, đâu rồi những đồng
mía trổ cờ lau khi tháng mười hanh heo mật trèo lên ngọn ở Sơn Châu, Sơn Hà...
Tất cả những trang màu từ đôi bờ sông như ùa dậy neo đậu trong tâm hồn những đứa
con xa.
Nhắc tới sông là nhắc tới con đò, đò ngang
bao đời nay gắn cùng sông nước như cây gắn liền với đất. Đò ngang qua Sơn Diệm,
bến Lội, bến Choi. Mỗi bến nước, mỗi khúc sông đều hiện hữu chân dung của người
lái đò. Người lái đò thầm lặng, lênh đênh trên sông nước, ngày lại ngày chở
khách qua sông. Trong mưa bom chớp lòe lửa đạn, người lái đò vẫn bình tĩnh đến
lạ lùng. Đoàn quân đi qua, những bà mẹ tảo tần gánh chè, cau, trầu, chuối với
thân cò lặn lội đi qua, những học sinh cắp sách đến trường đi qua. Khi ký ức lắng
lại trong cuộc đời, khi biết Quê hương là chùm khế ngọt mới biết nhân cách người
lái đò vĩ đại. Điều nhân loại có thể cắt nghĩa được người lái đò gian truân và
khổ hạnh đến thế nhưng cả cuộc đời vẫn không rời đò, rời bến vì sông Ngàn Phố
đã trở thành người bạn đời tri kỷ nhất.
Sinh đâu ra mà ai cũng anh hùng
Dòng sông Ngàn Phố nuôi lớn bao anh hùng,
dũng sĩ, bao nhiêu người con tuyệt vời thông minh, giàu lòng hiếu nghĩa đã làm
rạng danh cho tên tuổi Hương Sơn. Những xóm, những làng dòng sông đi qua, bao
nhiêu cuộc đời, bao nhiêu thế hệ đối mặt với nhiều trận lũ kinh hoàng. Làng có
thể nghèo đi vì lũ nhưng nghị lực con người cao hơn đỉnh lũ. Sông Ngàn Phố bồi
đắp nhân nghĩa, bồi đắp ca dao ví giặm cho người làng bên sông từ thuở nằm nôi.
Bồi đắp tư chất trí tuệ của cha ông thuở trước. Gắn với dòng sông là tên những
làng ngàn đời văn vật: làng Thịnh Văn, làng Gôi Mỹ… Đi khắp chân trời, góc bể,
khó tìm ra những thục nữ có bàn tay vàng đan lát như người con gái Thịnh Văn.
Đi khắp chân trời, góc bể, khó tìm được những dòng họ giàu chữ như Đinh Nho,
Nguyễn Khắc, Tống Trần, Lê… thuộc xứ sở trên bến, dưới thuyền này. Học lấy chữ
để làm người, học lấy chữ để lập nghiệp, mang vinh quang về cho gia đình và có
ích cho xã hội. Đấy là lời di huấn của người xưa, đấy cũng là nỗi niềm canh
cánh của dòng sông vọng vào trong bữa ăn, giấc ngủ mỗi đứa trẻ sinh thành.
Những thi sĩ mộng mơ thường bảo, sông Ngàn Phố
dường như không có tuổi, ngàn xưa cho tới muôn sau, tóc xanh của sông không bao
giờ nhuốm bạc dẫu có bên lở, bên bồi. Nhưng xóm làng ven sông đi qua bao biến
thiên lịch sử đã đổi thay nhiều lắm. Làng bên sông không còn những mái tranh
nghèo leo lét ngọn đèn khuya. Không còn ánh trăng thanh rọi vào khung cửi mẹ ngồi
dệt lụa. Vắng dần những hội đu, hội vật ngày xuân nao nức tiếng trống làng. Khi
đường rải thảm bê tông đến từng lối ngõ, khi nhà nhà kín cổng cao tường, khi mạng
internet về làng đủ cho ta hiểu rằng, tất cả đang lôi cuốn theo cơn lốc thời đại.
Không ai cưỡng lại quy luật nhưng không ai có
quyền phủ định cái hay, cái đẹp văn hóa của những làng ven sông. Khi cội nguồn
văn hóa dân tộc được tôn tạo, nâng niu và gìn giữ, chắc sông Ngàn Phố sẽ đẹp
hơn nhiều.
Dẫu đá mòn nhưng sông không cạn, người yêu
sông là người biết yêu rừng. Có rừng mới có sông, có biển, có giọt nước ra đi
và giọt nước trở về để chiều nay trên bến nước này, ta lại gặp bóng hình em và
con tim rạo rực lời ca Một dòng sông xanh chảy mãi tới vô cùng...
Phan Thế Cải
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét