Về với biển...
Rồi tất cả sẽ bay về với biển,
Sóng ngàn khơi đưa tiễn cuộc đi xa...
Giữ được gì trong những tháng ngày qua?
Long lanh lệ trên mi người ở lại?!
Chim bay đi, đi xa và xa mãi....
Luyến lưu chi cho một kiếp phù du?
Kỷ niệm buồn xin cất giữ thiên thu!
Mãi mãi đẹp trong biệt mù cõi nhớ!!
Nam Mai
Chim bay về biển
Một mai chim bỏ bay về biển
Ta đứng một mình ngó nhánh sông
Ta khóc nhìn theo giòng nước chảy
Nghe trăm ngọn sóng vỗ trong lòng
(Sương Mai)
Ta khóc nhìn theo giòng nước chảy
Nghe trăm ngọn sóng vỗ trong lòng
(Sương Mai)
Một cánh chim vừa bay ra biển, nhỏ dần rồi mất
hút giữa mênh mông. Tôi mơ hồ như hình ảnh của chính mình đang tìm về quê cũ.
Hình dung đến thành phố Nha trang xưa, nơi mà nếu không có biển sẽ không còn
lãng mạn để người ta nhắc nhớ, đắm say, cũng có thể làm nhẹ đi ít nhiều tiếc nuối
của nhưng người Nha trang xa xứ. Bờ biển cát từng chôn giấu những hang động
tuổi thơ và ôm ấp dấu tích của bao cuộc tình thơ mộng, nước biển đã cuốn trôi
đi, nhưng không thể xóa mất trong ký ức của nhiều cặp tình nhân mà bây giờ tóc
ai cũng bạc. Âm thanh những ngọn sóng rì rào đã dệt nên những bài thơ, những bản
tình ca từng làm khuấy động bao trái tim người, mà dư âm dường như vẫn còn vang
vọng mãi.
Nha trang đẹp đẽ, hiền hòa và thơ mộng đó bây giờ đã không còn nữa. Đã trở thành một Nha trang xa lạ, như thuộc về ai đó chứ không phải của mình. Đó là cảm nhận xót xa của đám bạn bè tôi, không chỉ người đã rời xa mà cả những người vẫn còn ở lại với Nhatrang, sống với Nhatrang gần trọn một đời.
Nha trang đẹp đẽ, hiền hòa và thơ mộng đó bây giờ đã không còn nữa. Đã trở thành một Nha trang xa lạ, như thuộc về ai đó chứ không phải của mình. Đó là cảm nhận xót xa của đám bạn bè tôi, không chỉ người đã rời xa mà cả những người vẫn còn ở lại với Nhatrang, sống với Nhatrang gần trọn một đời.
Nhà văn Nguyễn xuân Hoàng, một đồng môn huynh
trưởng cùng trường Võ Tánh, sau 15 năm trở lại Nhatrang, đã viết:
“Mười lăm năm sau ngày ra khỏi nước, tôi quay
trở về như một người xa lạ. Thành phố tôi đã ở thời tuổi nhỏ như nhỏ lại, những
con đường quen đã xa lạ, tiếng sóng biển vọng lại âm thanh đều đặn kỳ quái của
một vùng biển chết nào. Bãi cát không còn cái màu của thời tôi mới lớn và rừng
dương đã bi xóa khỏi bản đồ trái tim.
… tôi trở về nhìn lại biển xưa thấy không còn
lại chút dấu vết nào của những ngày trốn học, những buổi trưa hạnh phúc nằm
trên bãi cát, gối đầu lên hai cánh tay, đấp mặt bằng cành lá dừa, ngủ một giấc
chờ đến giờ tan học lủi thủi trở về” (trích trong “Nhà Từ Đường” tháng
5.2013)
Một chị bạn, hiện định cư ở thành phố
Seattle bên Mỹ. Năm 1954 là một cô bé 7 tuổi, di cư theo gia đình từ Hà nội vào
Sài gòn. Ông bố là quân nhân, được bổ nhậm ra một đơn vị ở Nhatrang. Cô rất vui
mừng được theo cha ra sống ở thành phố biển. Thi đậu vào lớp đệ thất trường
Võ Tánh. Nhưng chỉ mấy năm sau lại bịn rịn bỏ lại bạn bè, theo bước chân cha ra
tận Quảng Nam, rồi Huế. Sau này trở thành cô giáo trung học, lên cao nguyên sống
với phố núi và đám học trò Kinh – Thượng, giữa chiến tranh vây bủa, may mắn sống
còn trong lần di tản kinh hoàng trên con đường Tỉnh Lộ 7B. Vậy mà một thời tuổi
thơ ngắn ngủi ở Nha trang lại là mảng quá khứ đẹp đẽ nhất. Trong ký ức và cả
trong trái tim, chị đã dành ngăn lớn nhất cho Nha Trang. Sang Mỹ định cư khá
lâu, chị háo hức trở về thăm Nha trang, để rồi “chỉ thấy lòng buồn rười rượi,
bởi đang đi trên đất Nha trang mà cảm giác như mình là kẻ lạ, không tìm
thấy bóng dáng Nha trang của mình ngày trước”.
Hai người bạn học cùng lớp với tôi. Sinh ra ở
Huế, nhưng lớn lên và gần trọn một đời sống với Nhatrang. Trước 75 đều là thầy,
cô giáo trung học, giờ chỉ âm thầm nhìn đời từng ngày trôi đi vô vị, viết những
bài thơ buồn trước bao điều đổi thay ngao ngán. Họ ở lại với Nha trang cho đến
hôm nay, sau bao nhiêu lần tưởng chừng Nha trang đã hất hủi, đuổi xô, không còn
chỗ cho họ dung thân. Hai người bạn của tôi rất chí tình với bạn, sống chết với
quê, vậy mà đã bao lần than thở: “không ra đi như mi, tớ ở lại với Nhatrang
mà vẫn không tìm ra Nhatrang của bọn mình ngày trước! Không có gì đau hơn là sống
trên chính đất nước mình mà cứ mãi hoài vọng một quê hương!” Và họ chỉ còn
gặp lại Nhatrang trong ký ức, trong những bài thơ họ viết về một thời quá khứ,
nghe chừng đã rất xa xưa như trong tiền kiếp:
chiều quá chén nửa đêm tỉnh giấc
mảnh trăng khuya vòi või chờ ai
trong cỏ ướt dế buồn thao thức
giữa quê nhà sao mãi hoài hương.…
mảnh trăng khuya vòi või chờ ai
trong cỏ ướt dế buồn thao thức
giữa quê nhà sao mãi hoài hương.…
Từ buổi ấy đồng thu cỏ biếc
nghe âm u gió tạt mùa xa
người đứng giữa trời không – luyến tiếc
nghĩ ngợi gì tóc rủ sương pha.….
Bao năm tìm lại con đường
nẻo xanh ngần ngại nghe chừng rất xa
chiều thu xứ ấy mù sa
tình thu thuở ấy cũng là chiêm bao.
nghe âm u gió tạt mùa xa
người đứng giữa trời không – luyến tiếc
nghĩ ngợi gì tóc rủ sương pha.….
Bao năm tìm lại con đường
nẻo xanh ngần ngại nghe chừng rất xa
chiều thu xứ ấy mù sa
tình thu thuở ấy cũng là chiêm bao.
(đ.ư.v)
Đám học trò bọn tôi thưở ấy, giờ tóc ai cũng
bạc. Sau cuộc thăng trầm quá lớn, nhiều khi tưởng mình giờ là một người nào
khác. Dù còn sống ở quê nhà hay lưu lạc tha phương, ai cũng đã phải trải qua một
cuộc đổi đời bi thảm. Vết thương lớn, nhỏ trong lòng dường như vẫn chưa lành.
Lần trở lại Nha trang duy nhất để tìm bốc mộ
thân phụ bên ngoài một trại tù “cải tạo”, cách đây đúng mười năm, tôi đi một
mình trên những con đường xưa, nghe tiếng sóng vỗ xa xa mà trong lòng chỉ còn dội
lại những dư âm ngày cũ.
Tôi may mắn gặp lại vài ba người bạn học. Nhưng dường như tất cả đều nở nụ cười không trọn. Vui đó rồi buồn đó, bởi mỗi người một số kiếp long đong.
Tôi may mắn gặp lại vài ba người bạn học. Nhưng dường như tất cả đều nở nụ cười không trọn. Vui đó rồi buồn đó, bởi mỗi người một số kiếp long đong.
Một thằng bạn rất thân,cùng học ba năm cuối ở
trường Võ Tánh. To con, đẹp trai và học giỏi. Sau này cũng là bạn lính. Ở tù
hơn bảy năm nên bạn bè ai cũng nghĩ là nó đã đi diện HO và đang nổi trôi nơi
nào trên nước Mỹ, không ngờ tôi còn gặp lại nó ở Nhatrang. Mặc dù bây giờ nó
không được phép ở lại trong ngôi nhà và thành phố Nha trang xưa của nó.
Sau sáu tháng vào tù, căn nhà nhỏ của nó ở
Nha trang bị tịch thu, cô vợ “Bắc Kỳ nho nhỏ” mang ba đứa con (mà đứa lớn nhất
mới vừa năm tuổi) giao cho bà nội ở trên Thành, Diên Khánh, rồi sang sông…về
đâu đó, không bao giờ trở lại. Bà nội thì già, mấy đứa nhỏ bấu víu vào ông chú,
vừa tốt nghiệp kỹ sư Nông Lâm Súc, nhưng bởi có ông anh là “ngụy đang cải tạo”,
nên đi làm phụ hồ cho một ông thợ nề là bác họ. Trong lúc phụ hồ sửa sang một bệnh
viện, anh làm quen được một chị đầu bếp. Không biết tài ăn nói thế nào mà anh
làm cô động lòng trắc ẩn, thương cảm hoàn cảnh mấy đứa cháu dại không mẹ không
cha. Cô sẵn sàng làm mẹ nuôi. Với tất cả tiền bạc và tấm lòng, đã cưu mang ba đứa
bé không thua gì một người mẹ. Ba đứa nhỏ lớn lên cứ tưởng cô là mẹ. Cái tình mẫu
tử này sao mà hiếm hoi và bi tráng quá. Thì ra trong cái thời nhá nhem tình
nghĩa ấy vẫn có những tấm lòng còn hơn cả những chữ Từ Bi viết trong mấy ngôi
chùa.
Bảy năm sau, thằng bạn tôi được thả về, cúi
mình trước người con gái ân nhân để xin nói một lời tạ ơn. Cô nắm tay ngăn lại.
Đúng giây phút ấy, bốn mắt nhìn nhau và cùng rơi lệ. Họ ôm nhau, yêu nhau rồi lấy
nhau. Hôm gặp chị, tôi tò mò hỏi lý do nào chị lại yêu và lấy thằng bạn khốn
cùng của tôi trong lúc chị còn con gái. Chị bảo vì không thể rời xa ba đứa nhỏ
mà chị xem như con ruột của mình. Chính cái tình thương và sự gắn bó ấy mà chị
trở thành vợ của ba nó.
Còn tôi thì lại mơ màng suy ngẫm đến hai chữ duyên nợ của đất trời. Sau này chị làm đầu bếp cho một nhà hàng ở bờ biển Nha trang. Thằng bạn tôi và mấy đứa con vẫn sống trên Thành, vì với cái lý lịch đen, không thể xin được cái hộ khẩu trở về thành phố cũ. Còn chị vợ thì tiếc cái hộ khẩu ở thành phố, mà không muốn chuyển lên vùng quê Diên Khánh.
Còn tôi thì lại mơ màng suy ngẫm đến hai chữ duyên nợ của đất trời. Sau này chị làm đầu bếp cho một nhà hàng ở bờ biển Nha trang. Thằng bạn tôi và mấy đứa con vẫn sống trên Thành, vì với cái lý lịch đen, không thể xin được cái hộ khẩu trở về thành phố cũ. Còn chị vợ thì tiếc cái hộ khẩu ở thành phố, mà không muốn chuyển lên vùng quê Diên Khánh.
Cũng chính vì Nha trang đã tạo nên cái hộ khẩu
mỗi người mỗi nơi ấy, mà khi thằng bạn của tôi được gọi phỏng vấn xin đi theo
diện HO, bị phái đoàn Mỹ từ chối, trả lại hồ sơ và sỉ vả một trận, vì nghĩ chị
vợ tốt bụng này chỉ là vợ giả, trả tiền cho nó để được bỏ nước ra đi. Chuyện
tình ngay mà lý gian ấy cũng đã làm vợ chồng tốn kém và khốn khổ một thời. Sau
mấy lần khiếu nại, cái ân sủng cuối cùng là: chỉ có người cha và ba đứa con được
ra đi vào đợt cuối HO. Còn chị vợ sẽ vĩnh viễn không bao giờ được bước chân đến
Mỹ.
Bạn tôi quyết định ở lại với người vợ ân
tình, mà anh coi như ông trời đã sai xuống dương trần này để gánh vác cho mấy
cha con.
Bây giờ ba đứa con đã là người lớn. Thằng bạn
tôi ở nhà chăm sóc ngôi từ đường, nuôi mấy con heo và nấu cơm cho con cho vợ.
Chị ấy vẫn làm ở khách sạn dưới Nha Trang, tối lại chạy về Diên Khánh!
Hôm đứa con gái lớn lấy chồng, chị khuyên mãi
thằng bạn tôi mới báo tin cho bà mẹ ruột bạc tình, bây giờ đang lấy một ông chồng
người Thụy Sĩ. Bà ấy cũng vác bộ mặt đầy son phấn trở về. Nhưng đứa con gái chỉ
cho bà đến nhà hàng dự tiệc mà từ chối sự hiện diện của bà trong hôn lễ. Con bé
bảo rằng, bà chỉ là một cái máy đẻ ra tôi, nhưng mẹ tôi chính là vợ của ba tôi
bây giờ.
Tôi rót một ly rượu mừng cho cả cái vô phúc lẫn
cái diễm phúc của thằng bạn cũ, nhưng rót đến hai ly để mời vợ nó. Một ly mừng
và một ly để nói hộ giùm tôi lòng biết ơn và ngưỡng mộ.
Tôi quay sang bảo thằng bạn: – Dường như
chính phủ Mỹ vừa cho mở lại diện HO, mày thử nộp đơn lại xem sao.
Nó xua tay:
– Tao chẳng cần đi đâu nữa, vì ở đâu có bà vợ
tao đây là ở đó có thiên đường.
Tôi đùa:
– Mày nói còn hay hơn mấy ông linh mục
trong nhà thờ.
Tôi choàng tay ôm vợ chồng nó mà nước mắt
trào ra. Tôi nghĩ, nó vẫn còn tác phong của một thằng lính. Khi chia tay, nó ôm
vai tôi buồn bã:
-Mày thấy không, cái thành phố Nha trang mà
tao sống cả một thời đẹp đẽ, giờ cũng phụ bạc tao, gây cho gia đình tao bao khốn
khó! Từ ngày thuộc về bọn CS, Nhatrang với tao là một vùng đất xấu, lạ lẫm. Mày
còn nhớ tác phẩm tiếng Pháp“Le domaine maudit” của ông thầy Cung Giũ Nguyên?
Tôi thực sự chưa hiểu, chỉ thấy mơ hồ có một
điều gì đó không ổn trong cách suy tư của nó. Nhưng tôi cảm được nỗi đau của
nó.
Một cô bạn học từ những năm đệ ngũ, đệ tứ bên
trường Văn Hóa. Một lần sang Mỹ thăm cô con gái là sư cô ở một ngôi chùa vùng
Los Angeles, bất ngờ đọc được bài viết của tôi trong Đặc San Liên trường Võ
Tánh & Nữ Trung Học Nha Trang, trong đó tôi có nhắc đến tên nàng, rồi lần
mò tìm ra tông tích của tôi. Ngày xưa là một cô bé khá xinh và học giỏi. Sau
này có thời làm phóng viên chiến trường. Ông chồng gốc Võ Bị Đà Lạt, chết một
tháng trước ngày có chuyến bay theo diện HO, nên nàng và hai cô con gái không
được đến Mỹ. Dắt con lưu lạc khắp nơi, với một số vốn liếng của mẹ cha để lại.
Nàng bảo nhiều lúc nhớ Nhatrang lắm, thử quay về, nhưng rồi thấy lạc lõng, mọi
thứ chỉ mới đây thôi mà sao giờ trở thành xa lạ quá. Cuối cùng, mẹ con
quyết định mua một căn nhà bên cạnh Quan Âm Tự ở Sài Gòn xa lạ. Cô con gái út vừa
học đại học vừa tu học trong chùa. Còn nàng thì tu tại gia và cũng là một nhà
thơ. Hôm ngồi trên máy bay trở lại Bắc Âu, tôi đọc hết hai tập thơ của nàng ký
tặng lúc chia tay. Có nhiều bài tiếc nhớ Nhatrang xưa. Nha trang của nàng và của
đám bọn tôi. Nàng làm thơ Đường thật hay và cảm động. Tôi nghĩ, nếu Đức Phật mà
đọc được thơ của nàng chắc cũng phải rơi nước mắt xuống tòa sen.
Một thằng bạn khác cùng học trường Võ Tánh.
Sau này gặp nhau trong cùng một đơn vị lính. Đánh giặc rất lì, nhưng luôn bị
“đì” bởi bản tính ngang tàng không nể mặt cả cấp chỉ huy. Trong khi đang ở tù
ngoài Bắc, chị vợ ở nhà chán chường cuộc sống, lội xuống biển Nha trang tự vẫn,
để lại một thằng con trai năm tuồi. Nơi người ta tìm ra thi thể của chị, chính
là bờ cát dấu tích yêu đương hẹn hò, thưở hai người mới quen nhau.
Ra tù, không thể sống trên thành phố quê
hương một thời đẹp đẽ giờ chỉ còn là mảnh đất thê lương tang tóc, mỗi ngày phải
ám ảnh bởi cái chết đau đớn của người vợ trẻ đẹp dấu yêu, nó dắt mẹ già và đứa
con thơ vượt biển. Sang Mỹ, nhờ mẹ chăm sóc cho đứa con, nó vừa đi làm vừa đi học.
Được bạn bè khen, nó bảo:“chẳng phải tao siêng năng chăm chỉ gì đâu, nhưng vì
không muốn còn có chút thì giờ rảnh rang nào để nghĩ ngợi mông lung, hồi tưởng
về một quá khứ đau lòng”. Nó chưa bao giở về lại Nhatrang. Bạn bè ai cũng
phục khi nó lấy được bằng Cao học Tâm Lý (Master of Psychology) và có công việc
làm lương cao, ổn định. Trong đám bạn bè bất hạnh, nó là đứa thành công nhất. Bỗng
một ngày được tin nó chết. Chết đau đớn. Thuê phòng trong một khách sạn ở gần
nhà, rồi đến đó dùng súng bắn vào đầu mình tự sát, để lại mấy lá thư. Tôi nhận
được lá thư nó viết cho tôi, được cảnh sát giao lại, nét chữ đẹp đẽ ngay ngắn,
chứng tỏ nó rất bình tĩnh trước khi tự kết liễu đời mình.
“Xin lỗi mày, tao đi trước mà không kịp chia
tay với mày. Bọn mình rồi sẽ như những con chim đã đến lúc phải bay về với biển.
Mày đừng nghĩ là tao buồn. Tao vui lắm đó. Thôi thì tao đi trước để dọn chỗ cho
bọn mày, đám bạn bè thân thiết nhất của tao. Chỉ có một điều tao tiếc và ân hận
là đã không được chết ở chiến trường như bọn thằng Lâm, thằng Bê, thằng Pho,
anh Tài, Đức”.
Đọc xong thấy lòng đau đớn như có nhiều vết
chém, vậy mà không biết vì sao tôi không khóc được.
Những người tiễn đưa nó hôm ấy, hầu hết là bạn
bè cùng đơn vị xưa, và một số bạn học cùng trường Võ Tánh Nha trang.
Năm ngoái, một chị bạn cùng trường Võ Tánh,
cùng học Ban C sau tôi một năm, định cư ở Canada, cũng đã ra đi, sau hơn hai
năm chống chọi với căn bệnh ung thư. Tôi và có lẽ hầu hết bạn bè Võ Tánh rất mến
phục cô bạn có tấm lòng và rất khí khái này từ những năm 1962-1963. Mọi người
đã ưu ái tặng chị biệt danh “Nữ hoàng xuống đường”. Luôn sống hết lòng với bạn
bè và quê hương đất nước. Quyết liệt, kiên cường trước những bất công, bạo lực.
Những ngày lâm bệnh, sớm ngộ Đạo Đất Trời, chị buông bỏ tha thứ hết những hờn
giận ân oán riêng tư. Một thời gian trước khi mất, chị vẫn liên lạc trao
đổi với tôi về những kỷ niệm Nha Trang, về tình hình chính trị ở quê nhà với
nhiều hy vọng, và tiếc là không thể sống lâu hơn để chứng kiến ngày chế độ
Công sản man rợ độc tài cáo chung trên quê hương. Chị ra đi, để lại bao thương
tiếc cho gia đình, người thân và tất cả bạn bè. Chị mong muốn và dặn dò, sau
khi chị mất xin gia đình hỏa thiêu và mang tro cốt của chị rải ở ngoài khơi
Thái Bình Dương để hương linh của chị theo biển trôi về quê nhà, bên kia bờ đại
dương, ở đó có bãi biển Nha trang thơ mộng, nơi chị sống cả một thời tuổi thơ
và lớn lên với những vui buồn, vinh nhục.Tôi hình dung đây không phải là cánh hải
âu mà là một cánh đại bàng hùng vĩ, đẹp đẽ vừa bay về với biển.
Cuối tháng 2/2013, trước khi trở về lại Bắc
Âu, tôi bất ngờ nhận được hung tin: hiền thê của một anh bạn qua đời vì một chứng
ung thư khó chữa. Chị là cựu nữ sinh Nữ Trung Học Nha Trang, và sau này là một
người đàn bà tuyệt vời. Gia đình anh chị là một đại gia đình quân đội. Các con
của chị đều là sĩ quan trong quân đội Hoa Kỳ, một cô con gái tốt nghiệp từ quân
trường nổi tiếng West Point. Sau này đều trở thành những bác sĩ, luật sư. Phu
quân của chị là một người bạn, người đàn anh của tôi ở trường Võ Tánh cũng như
trong quân đội ngày trước. Con nhà giàu, đẹp trai và tính tình hào hoa vui
tính. Là môt sĩ quan trẻ đầy phong độ khi tốt nghiệp từ trường Võ Bị Đà Lạt, đối
tượng của nhiều cô con gái Nha trang thuở ấy. Ngày anh quyết định làm đám cưới
với chị, chắc chắn có nhiều cô tốn khá nhiều nước mắt. Cuộc tình đẹp. Một gia
đình thành công, hạnh phúc. Chị luôn bặt thiệp vui vẻ, hết lòng với bạn bè, đồng
môn, đồng đội cũ của chồng. Nụ cười lúc nào cũng nở trên môi. Ai cũng quí mến
chị. Vậy mà đùng một cái, chị ra đi, đột ngột chẳng ai ngờ.
Hôm dự dám tang chị, rất nhiều bạn bè cùng khóa Võ Bị với anh và đồng môn thân quen thời Võ Tánh & Nữ Trung Học Nha trang, từ mọi nơi về tiễn biệt. Trong nhà nguyện không còn chỗ đứng. Anh chồng ốm nhom, tiều tụy. Khi nói lời chia buồn, tôi ôm đôi vai gầy gò mà thấy thương anh, tội nghiệp. Khuôn mặt hốc hác, đôi mắt quầng thâm. Tôi nghĩ là anh đã khóc thầm nhiều lắm, ở cái tuổi đã trải qua bao thăng trầm mất mát, tưởng như không còn nước mắt.
Khi nhìn quan tài chị được đưa vào lò thiêu. Cửa lò đóng lại. Tôi tưởng tượng, lại thêm một cánh chim đẹp đẽ nữa vừa bay về với biển.
Hôm dự dám tang chị, rất nhiều bạn bè cùng khóa Võ Bị với anh và đồng môn thân quen thời Võ Tánh & Nữ Trung Học Nha trang, từ mọi nơi về tiễn biệt. Trong nhà nguyện không còn chỗ đứng. Anh chồng ốm nhom, tiều tụy. Khi nói lời chia buồn, tôi ôm đôi vai gầy gò mà thấy thương anh, tội nghiệp. Khuôn mặt hốc hác, đôi mắt quầng thâm. Tôi nghĩ là anh đã khóc thầm nhiều lắm, ở cái tuổi đã trải qua bao thăng trầm mất mát, tưởng như không còn nước mắt.
Khi nhìn quan tài chị được đưa vào lò thiêu. Cửa lò đóng lại. Tôi tưởng tượng, lại thêm một cánh chim đẹp đẽ nữa vừa bay về với biển.
Tôi nghĩ rồi sẽ có môt ngày, thế hệ bọn tôi,
những cô cậu học trò rời trường Võ Tánh vào những năm đầu thập niên 60, bây giờ
đều đã trên tuổi 70, sẽ lần lượt ra đi. Tất cả cuối cùng rồi cũng là những cánh
chim bay về với biển.
Bỗng lòng tôi chợt thoáng lên một chút băn khoăn. Những cánh chim di xứ ấy sẽ bay trở về đâu, khi Nha Trang ngày xưa của họ đã thực sự không còn. Thành phố đã cho họ một thời tuổi thơ đẹp đẽ hoa mộng, nhưng cũng đã để lại trong lòng họ quá nhiều đớn đau, mất mát sau cuộc đổi đời. Những hang động tuổi thơ và dấu tích của những cuộc tình ngày xưa, tất cả giờ chỉ còn là cổ tích. Tôi nhớ lời thằng bạn còn ở lại Nha Trang, nhớ tới thầy tôi, nhà văn Cung Giũ Nguyên và tác phẩm Le Domaine Maudit viết từ năm 1961, như là một tiên tri của Thầy.
Bỗng lòng tôi chợt thoáng lên một chút băn khoăn. Những cánh chim di xứ ấy sẽ bay trở về đâu, khi Nha Trang ngày xưa của họ đã thực sự không còn. Thành phố đã cho họ một thời tuổi thơ đẹp đẽ hoa mộng, nhưng cũng đã để lại trong lòng họ quá nhiều đớn đau, mất mát sau cuộc đổi đời. Những hang động tuổi thơ và dấu tích của những cuộc tình ngày xưa, tất cả giờ chỉ còn là cổ tích. Tôi nhớ lời thằng bạn còn ở lại Nha Trang, nhớ tới thầy tôi, nhà văn Cung Giũ Nguyên và tác phẩm Le Domaine Maudit viết từ năm 1961, như là một tiên tri của Thầy.
Phạm Tín An Ninh
Âm thầm,
Tấm tình anh, âm thầm nhưng sâu lắng,
Giúp cho em vượt khó những ngày qua...
Thư của anh, sâu đậm lại thiết tha,
Trong sâu thẳm chợt thấy lòng rung động!
Em cố vẽ cho mình một hình bóng,
Ngỡ như xa mà đâu biết thật gần...?!
Lòng u buồn rồi cảm thấy bâng khuâng,
Người đâu nhỉ sao ân cần thân thiết!?
Chuyện cổ tích muôn đời xa biền biệt,
Cánh chim câu đem đến những niềm tin....
Hoàng tử với chim là tất cả chân tình,
Đem hạnh phúc cho bồ câu cánh cụt!!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét