Thứ Tư, 27 tháng 7, 2016

Cho tiếng tơ xưa dìu dặt

Cho tiếng tơ xưa dìu dặt
Trên thực tế, sau khi được vinh danh là di sản, nhiều loại hình âm nhạc cổ truyền đã nhận được sự đầu tư của các cơ quan chức năng, song quá trình truyền dạy cổ nhạc hiện vẫn chưa thật sự được coi trọng mà chủ yếu là dưới hình thức tự phát. Nhiều học trò theo nghề cốt chỉ “găm” vài ba bài “tủ” để biểu diễn lấy sang. Nhiều người có tâm nhưng lại không đủ tài lực và các yếu tố năng khiếu. Bên cạnh đó, những khoá truyền dạy do các cơ quan quản lí văn hoá tổ chức thì dễ sa vào truyền dạy đồng loạt, không đủ thời gian để học viên thạo nghề, dẫn đến “tam sao thất bản” hoặc biểu diễn méo mó, lệch chuẩn… Vì vậy, để di sản thực sự được sống dậy trong đời sống âm nhạc hôm nay, còn nhiều điều cần quan tâm hơn nữa, đặc biệt là công tác truyền dạy của các nghệ nhân cao tuổi.
Những báu vật “sống” đang mất dần
Nhiều thế kỉ trước đây, nhạc cổ truyền phương Tây nói chung đều được lưu trữ dưới dạng văn bản - nghĩa là dưới hình thức bản nhạc. Trong khi đó, nhạc cổ truyền của Việt Nam phong phú và đa dạng hơn bởi chức năng sáng tạo ngẫu hứng của những nghệ sĩ và các bài bản của các loại hình nghệ thuật cổ thường được truyền dạy theo lối truyền khẩu, truyền ngón nghề là chính yếu. Trong quá khứ, những yếu tố trên sẽ tự mặc định đẳng cấp của nghệ nhân trong phạm vi toàn quốc, vùng miền hay chỉ giới hạn ở xóm làng... Với nét đặc thù này, các tác phẩm thường trở thành một phần của nghệ nhân, nằm trong trí nhớ, trí sáng tạo và khả năng biểu đạt, trình diễn của mỗi người.
Và có lẽ chính vì vậy mà danh hiệu “nghệ nhân” thường dùng để chỉ những người có tài nghệ cao, có uy tín được người trong giới nghề và cộng đồng công nhận. Ngoài ra, danh xưng “nghệ nhân” cũng được dành cho những người tuy không thật xuất chúng nhưng có tuổi đời, tuổi nghề cao, được mọi người kính trọng, thể hiện truyền thống “kính sỉ” trong văn hoá Việt. Mỗi một nghệ nhân sẽ mang trong mình một di sản quý báu của cổ nhạc trong số hàng trăm loại hình của 54 dân tộc như ca trù, hát xoan, nhã nhạc cung đình Huế, quan họ, cải lương... của người Kinh; hát then, đàn tính tẩu… của người Thái; múa khèn của người Hmông; hát sình ca của người Dao; hát múa dù kê của người Khmer; cồng chiêng, hát sử thi của các dân tộc thiểu số Tây Nguyên... Nếu nghệ nhân không biểu diễn thì công chúng cũng như giới chuyên môn sẽ khó lòng tiếp cận được những giá trị đó. Và nếu không có lớp nghệ sĩ trẻ kế cận để nghệ nhân truyền dạy thì những giá trị đó ắt sẽ mai một và sẽ bị chôn vùi vĩnh viễn theo cái chết của các nghệ nhân già…

Giáo sư Tô Ngọc Thanh cho biết, mỗi năm một lần, Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam tổ chức xét phong tặng danh hiệu Nghệ nhân dân gian cho các nghệ nhân trên cả nước và đã xuất hiện nhiều nghệ nhân trẻ tài năng, có cống hiến. Dẫu vậy, những nghệ nhân có tài, có tâm như đào nương ca trù - Nghệ sĩ ưu tú Kim Đức, nghệ nhân hát văn Đào Thị Sãi, nghệ nhân hát xẩm Hà Thị Cầu, nghệ nhân đàn nguyệt Kim Sinh, nghệ nhân hát xoan Nguyễn Thị Lịch, nghệ nhân cải lương - Nghệ sĩ nhân dân Viễn Châu… cùng hàng trăm nghệ nhân cổ nhạc trên cả nước đều đã bước qua tuổi tám mươi, đã ít nhiều chùng hơi đoản tiếng và trí nhớ không còn minh mẫn. Nếu không kịp thời ghi chép lại và tổ chức cho các nghệ nhân truyền dạy thì các cụ sớm muộn cũng khuất núi và mang theo kho âm nhạc quá khứ.
Nghệ nhân đàn tính Hoàng Thím của tỉnh Điện Biên cho rằng, đối với nghệ nhân dân gian thuộc các dân tộc thiểu số thì việc truyền dạy và lưu giữ lại càng khó hơn bởi chỉ những người thuộc dân tộc ấy mới có thể lĩnh hội được đầy đủ văn hoá, ngôn ngữ của dân tộc mình để tạo nên các công trình nghiên cứu hoặc học tập và biểu diễn cho chính đồng bào mình xem. Ngoài sự hỗ trợ của Nhà nước, chính các thế hệ nghệ sĩ trẻ người dân tộc thiểu số cần xác định được rằng, việc gìn giữ vốn cổ là trọng trách mà dân tộc và các thế hệ nghệ nhân già đã đặt lên vai mình.
Sức sống mới cho cổ nhạc
Trong các loại hình nghệ thuật này, có sức sống mạnh mẽ nhất có lẽ phải kể đến cải lương và cồng chiêng Tây Nguyên. Năm 2011, tôi có dịp đi công tác dài ngày tại các tỉnh miền Tây Nam Bộ vào đúng thời điểm các đoàn cải lương, các câu lạc bộ đờn ca tài tử vùng sông nước Cửu Long rộn ràng làm lễ giỗ tổ nghề và kỉ niệm 102 năm ngày soạn giả Cao Văn Lầu sáng tác câu vọng cổ đầu tiên có tên Dạ cổ hoài lang. Dọc các đường phố lớn hay những con hẻm nhỏ của thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang, tôi đều dễ dàng bắt gặp những nhóm nhạc đang say sưa với đờn cò, đờn nhị và cây ghita gỗ để đào kép ngả sáu câu rất ngọt.
 Những chiếc loa thùng cỡ vừa được mắc lên trên ngọn cây, cột điện phát ra tiếng nhạc đủ để bà con chòm xóm cùng nghe. Vậy là xôm tụ, là vui suốt một đêm dài. Người dân vùng sông nước Cửu Long vốn khoáng đạt như tiếng ghita gỗ, mà lại cũng dễ thủ thỉ sẻ chia như giọng đờn cò. Người ta hát trên gành thuyền còn nồng mùi cá, hát trên phần hiên hóng mát của những ngôi nhà cao cẳng, hát lúc ngồi chồm hổm câu con cá kèo trên đất phù sa… Chỉ cần khách mới ướm lời là chủ nhà đã sốt sắng thể hiện giọng ca… rất biển. Nhờ vậy mà tôi mới hiểu, nghệ thuật cải lương có sức sống bền bỉ đâu chỉ dựa vào những nghệ sĩ tên tuổi đêm đêm đứng dưới ánh đèn sân khấu. Sức sống ấy hẳn phải được ươm trồng và khởi sinh từ những đêm đờn ca lãng mạn thế này.
Đờn ca tài tử trên sông, một sinh hoạt văn hóa gắn liền 
với vùng đất Nam Bộ nhưng có sức sống bền bỉ.
Năm 2014, tôi đến với Tây Nguyên khoáng đạt, có cảm giác cả đất trời là một bản hòa ca. Dẫu chỉ giản đơn là một tiếng gió về qua nóc nhà rông, tiếng thác Đăm Ri ồn ào hay một tiếng tơrưng, một nhịp đàn đá, một bước voi đi uy lẫm giữa đại ngàn, thì đó chính là những thanh âm riêng có của đất trời Tây Nguyên hội tụ. Giữa không gian ngập tràn tiếng nhạc trời xao xuyến ấy, có một thứ mà nó như nói lên được tâm tư tình cảm của bà con, mỗi lần nghe văng vẳng đâu đó tiếng vọng ngân của nó giữa núi rừng là biết ngay nơi ấy, làng ấy xảy ra sự kiện gì… Nó không lẫn vào đâu được. Nó là nhịp chiêng xoang rộn ràng hơi thở cuộc sống, là tiếng cồng âm vang hồn đất mẹ, vía trời cha.
Đêm Tây Nguyên, chúng tôi ngồi dưới gốc đa cổ thụ xoà bóng xuống nhà rông của làng Đắk Wớt. Đội chiêng xoang nối thành vòng tròn lớn trên sân rộng.

Tiếng cồng chiêng rộn ràng, tiếng hò reo ngân vang khiến lòng người như trôi đi theo tiếng nhạc vui. Nhịp chiêng ấy hàm chứa sức mạnh là niềm tin tưởng giữa con người với đấng siêu nhiên, sự cộng cảm giữa cá nhân và cộng đồng, sự lây lan tâm lí tình cảm, để người ta thăng hoa, xích lại gần nhau... Trong vòng chiêng ấy là không gian thiêng của tín ngưỡng, nhưng lại là không gian vui vẻ, thân thiện, đoàn kết - không gian văn hóa của cộng đồng. Những người đàn ông của làng Đắk Wớt hôm qua còn còng lưng làm đất, chăm cây rừng, lúc này trong nhịp chiêng xoang họ là những diễn viên thực thụ. Người già nghe chiêng thì hồi tưởng lại quãng đời oanh liệt và vất vả của bản thân và cộng đồng làng mình, những người khác thì vui múa, vui hát cho thỏa chí của người miền rừng, còn trai gái nhờ tiếng chiêng, cần rượu mà thầm thì hẹn ước…
Vậy ra, không gian sống của cổ nhạc tùy thuộc rất lớn vào cộng đồng đã sản sinh ra nó và gìn giữ nó. Nếu chỉ nhìn vào sự tồn tại của các nhà hát, các đoàn nghệ thuật dân gian trên cả nước, người ta dễ có suy nghĩ là mọi thứ đã được lưu giữ và truyền dạy trong các đoàn nghệ thuật chuyên nghiệp thì còn lo gì mất mát, mà quên mất rằng, cổ nhạc vốn được sinh ra từ dân gian, tồn tại trong dân gian và từ dân gian mà phát triển nên muốn bảo tồn và phát huy các vốn cổ dân tộc thì không thể chỉ trông vào vài ba buổi biểu diễn theo định mức của các đoàn nghệ thuật chuyên nghiệp.
Tại các quận huyện, phường xã hiện nay đã xuất hiện nhiều câu lạc bộ văn nghệ dân gian phát triển khá mạnh và cần được chuyên nghiệp hoá hơn nữa. Nếu có thể thì cần có một mức ưu đãi nào đó để các nghệ nhân có tài, có khả năng truyền dạy đến thị phạm cho những nghệ sĩ không chuyên này để hoạt động của họ có chiều sâu, có bài bản và đúng lề lối hơn. Lịch sử đã cho thấy những bài học về sự biến mất hoàn toàn của nhiều thể loại cổ nhạc đã từng vang danh trong quá khứ. Hơn lúc nào hết, việc chăm sóc và tạo điều kiện để các “di sản sống” ấy tiếp tục cống hiến là vấn đề cần được lưu tâm và thực hiện sát sao, hiệu quả. Bởi chỉ có vậy, thì các giá trị văn hóa truyền thống mới thực sự được bảo tồn và lưu giữ đúng nguyên bản, góp phần cho di sản được lan tỏa mạnh mẽ hơn                         
 Phạm Văn Anh
Theo http://vannghequandoi.com.vn/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Thi sĩ Nguyễn Bính: Nặng những mối tình phân ly

Thi sĩ Nguyễn Bính: Nặng những mối tình phân ly Nguyễn Bính đã sống trọn một đời thơ mộng đẹp đẽ, với những vần thơ da diết, đượm đà, đầy ...